Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh của quân và dân nhà trần trong chiến thắng chống quân nguyên mông lần 3 năm 1288

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.54 KB, 65 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

PHẠM VĂN SÁNG

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “LẤY ÍT ĐỊCH
NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH”
CỦAQUÂN VÀ DÂN NHÀ TRẦN
TRONG CHIẾN THẮNG NGUYÊN MÔNG LẦN 3 NĂM 1288

KHÓA LUẬN TỐT NGHỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI – 2017


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

PHẠM VĂN SÁNG

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “LẤY ÍT ĐỊCH
NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH”
CỦAQUÂN VÀ DÂN NHÀ TRẦN
TRONG CHIẾN THẮNG NGUYÊN MÔNG LẦN 3 NĂM 1288
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

Thƣợng tá. Phạm Văn Dƣ


HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Thƣợng tá. Thạc sĩ
Phạm Văn Dƣ đã tận tình dạy dỗ, hƣớng dẫn và động viên tôi trong quá trình
thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong trung tâm giáo dục
Quốc phòng Hà Nội 2, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ tôi
trƣởng thành trong suốt thời gian học tập tại trung tâm, đã tạo điều kiện và
đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè tôi đã luôn
tạo mọi điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quãng thời gian học tập
và quá trình thực hiện đề tài.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

Phạm Văn Sáng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi.
Những kết quả thu đƣợc hoàn toàn chân thực và chƣa có đề tài nào
nghiên cứu.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên


Phạm Văn Sáng


DANH MỤC VIẾT TẮT

CHỮ VIÊT ĐẦY ĐỦ

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Nghệ thuật quân sự

NTQS

Quốc phòng và an ninh

QP - AN

Quốc phòng toàn dân

QPTD

An ninh nhân dân

ANND


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT “LẤY ÍT
ĐỊCH NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH” TRONG LỊCH SỬ ĐÁNH

GIẶC GIỮ NƢỚC CỦA DÂN TỘC ............................................................. 5
1.1. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh” ................................................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” ........ 5
1.1.2. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” trong lịch sử đánh
giặc của dân tộc ta ............................................................................................ 7
1.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của quân
và dân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm 1288..................... 8
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội và truyền thống sử dụng nghệ thuật “lấy ít
địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của dân tộc ta.............................................. 8
1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông năm
1288 ................................................................................................................... 9
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 16
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU, LẤY YẾU
CHỐNG MẠNH” CỦA QUÂN VÀ DÂN NHÀ TRẦN TRONG CHIẾN
THẮNG NGUYÊN - MÔNG LẦN 3 NĂM 1288 ....................................... 17
2.1. Đánh giá tình hình, xây dựng kế hoạch chiến đấu với kẻ thù .................. 17
2.1.1. Đặc điểm tình hình, bối cảnh trong nước ............................................. 17
2.1.2. Tình hình địch ....................................................................................... 19
2.1.3. Tình hình ta ........................................................................................... 20
2.2. Tổ chức xây dựng lực lƣợng của quân và dân nhà Trần .......................... 21
2.2.1. Chủ trương xây dựng lực lượng của quân nhà Trần ............................ 21
2.2.2. Bố trí lực lượng của nhà Trần .............................................................. 24


2.3. Xây dựng phƣơng thức tác chiến chống kẻ thù xâm lƣợc ....................... 25
2.3.1. Các phương thức tác chiến của quân và dân nhà Trần và diễn biến
chính các trận giao tranh ................................................................................ 25
2.3.2. Trận đánh lớn của quân và dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng ......... 27
2.4. Nét đặc sắc trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần 3 năm

1288 ................................................................................................................. 30
2.4.1. Đánh giá đúng kẻ thù, khai thác điểm yếu của địch ............................. 31
2.4.2. Tài thao lược của các tướng nhà Trần ................................................. 32
2.4.3. Nghệ thuật lợi dụng địa hình địa vật để đánh giặc............................... 33
2.5. Những bài học kinh nghiệm ..................................................................... 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 37
CHƢƠNG 3. VẬN DỤNG TRUYỀN THỐNG “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU,
LẤY YẾU CHỐNG MẠNH” TRONG NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC
......................................................................................................................... 38
3.1. Một số nội dung về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay .......... 38
3.1.1. Đặc điểm, đối tượng của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới ................................................................................................................... 38
3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
......................................................................................................................... 40
3.2. Sự vận dụng truyền thống nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh” của Đảng ta trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.................................... 44
3.2.1. Trong chống Pháp và chống Mỹ ........................................................... 44
3.2.2. Vận dụng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.............................. 47
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã đặt ra cho dân tộc ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá
trình dựng nƣớc và giữ nƣớc. Nhƣng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cƣờng, với truyền thống đoàn kết vƣơn lên trong đấu tranh và xây dựng, nhân
dân ta đã vƣợt qua tất cả mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững

chắc nền độc lập dân tộc. Qúa trình chống kẻ thù xâm lƣợc, đều đã bảo vệ Tổ
quốc mỗi thời đại lịch sử có khác nhau, song dù dài, dù ngắn, nhân dân ta
đánh bại kẻ thù xâm lƣợc, giải phóng đƣợc dân tộc. Trong suốt chiều dài phải
liên tục chống kẻ thù xâm lƣợc, dân tộc ta luôn ở trong tình thế chiến đấu
không cân sức, nhất là ở thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh. So
với lực lƣợng đối kháng chúng ta còn thua kém trên nhiều phƣơng diện, ngoại
trừ tinh thần yêu nƣớc, tinh thần đoàn kết và ý chí độc lập tự do của nhân dân.
Chính trong cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy mà dân tộc ta đã hình
thành nên rất nhiều loại hình nghệ thuật đánh giặc đặc sắc nhƣ nghệ thuật
chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít
địch nhiều, lấy chất lƣợng cao thắng số lƣợng đông.... Chính sự độc đáo đó
của nghệ thuật đánh giặc đã góp phần làm nên những chiến công hiển hách
vang dội của lịch sử dân tộc, làm cho quân thù luôn bị động, bất ngờ từ mạnh
thành yếu và cuối cùng đi đến thất bại nặng nề.
Thế kỷ thứ XIII, trong vòng 30 năm (1258 - 1288), quân và dân ta dƣới
sự lãnh đạo của vƣơng triều Trần đã ba lần chiến thắng vẻ vang quân xâm
lƣợc Nguyên - Mông. Đây là một trong những giai đoạn lịch sử hào hùng và
oanh liệt nhất của quá trình đấu tranh giữ nƣớc và cứu nƣớc của dân tộc ta. Từ
kinh nghiệm của dân tộc ta hơn một ngàn năm đấu tranh giữ nƣớc đó, những
nhà lãnh đạo đất nƣớc ta thời Trần đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cƣờng, kiên
cƣờng, bất khuất, ý chí cấu kết cộng đồng và trí thông minh sáng tạo trong

1


cách đánh giặc; biết đánh giá đúng địch, ta... từ đó có những quyết sách đúng
đắn trong phát huy thế mạnh của quân và ta; từng bƣớc kìm hãm thế mạnh và
khai thác điểm yếu của kẻ thù để có thể giành thắng lợi trong các cuộc chiến.
Từ thực tiễn ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông cho thấy,
nhận thức sâu sắc âm mƣu, thủ đoạn cũng nhƣ thế mạnh của kẻ thù... quân và

dân nhà Trần đã biết kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống nghệ
thuật đánh giặc của dân tộc ta trong lịch sử; đồng thời, vận dụng linh hoạt,
sáng tạo các nghệ thuật đó để hình thành nên nhiều nghệ thuật quân sự đặc
sắc đảm bảo phù hợp với tình hình đất nƣớc, thực tiễn sức mạnh của quân và
dân ta, cũng nhƣ khắc chế đƣợc sức mạnh của kẻ thù.
Trong các loại hình nghệ thuật đánh giặc, nghệ thuật “Lấy ít địch nhiều,
lấy yếu chống mạnh” đƣợc coi là nghệ thuật tiêu biểu, đƣợc quân và dân nhà
Trần sử dụng nhiều nhất trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại của triều đại; nó
đƣợc thể hiện rõ nét trong nhiều trận đánh khác nhau, mà nổi bật nhất là trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông năm 1288. Chính việc sử dụng
nghệ thuật đánh giặc này đã trực tiếp làm nên thắng lợi của quân và dân nhà
Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên -Mông lần 3, cũng góp phần to
lớn để dân tộc ta luôn giành chiến thắng trƣớc các cuộc xâm lăng của quân
xâm lƣợc để giữ vững nền độc lập nƣớc nhà.
Trong giai đoạn hiện nay, trƣớc yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trƣớc thực tiễn, đặc điểm, tình hình của đất
nƣớc... đã và đang đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu những giá trị của
nghệ thuật quân sự cha ông ta trong quá khứ nói chung, nghệ thuật quân sự
“lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của quân và dân nhà Trần năm 1288
nói riêng, từ đó tìm ra những kinh nghiệm hay, có giá trị sâu sắc để vận dụng
phù hợp trong bối cảnh mới để quân và dân ta có thể dành chiến thắng trƣớc
mọi kẻ thù khi có chiến tranh xảy ra... Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi đã

2


chọn “Nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh của quân và dân nhà
Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm 1288” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài

- Nghiên cứu nghệ thuật đánh giặc “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
của dân quân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông năm lần 3 năm
1288, và những bài học kinh nghiệm mà Đảng ta đã vận dụng trong việc xây
dựng và phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
- Khát quát nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự “lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh” trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm 1288.
- Nghiên cứu sự vận dụng nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
của Đảng ta trong xây dựng nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.
- Nghệ thuật đánh giặc “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” và dân và
quân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần 3 năm 1288 và sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phƣơng pháp :
+ Phƣơng pháp logic lịch sử:
+ Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu:
6. Ý nghĩa và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa khoa học.

3


- Khẳng định truyền thống đánh giặc giữ nƣớc độc đáo của dân tộc ta và ý chí
quật cƣờng của dân tộc nhỏ bé đứng lên chống quân xâm lƣợc lớn hơn nhiều
lần.
- Xây dựng niềm tin tuyệt đối vào Đảng vào nghệ thuật quân sự trong giai

đoạn phát triển hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
- Trong giai đoạn hiện nay, trƣớc yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc cần phải nghiên cứu, vận dụng những giá trị của nghệ thuật quân sự
“lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc.
- Góp phần xây dựng và phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam dƣới sự
lãnh đạo của Đảng, giáo dục và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc ta.

4


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT “LẤY ÍT ĐỊCH
NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH” TRONG LỊCH SỬ ĐÁNH GIẶC
GIỮ NƢỚC CỦA DÂN TỘC
1.1. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh”
1.1.1. Khái niệm về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
Nghệ thuật quân sự có vị trí hết sức quan trọng trong chỉ đạo chiến
tranh. Nó là một trong những nhân tố quyết định thành bại của chiến tranh.
Theo từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: “Nghệ thuật quân sự là lý luận và
thực tiễn chuẩn bị, tổ chức và tiến hành đấu tranh vũ trang. Nó nghiên cứu các
quy luật của chiến tranh và đấu tranh vũ trang, xác định những nguyên tắc và
phƣơng pháp tiến hành các hoạt động quân sự trong chiến tranh. Nghệ thuật
quân sự đƣợc hình thành từ ba bộ phận: Chiến lƣợc quân sự, nghệ thuật chiến
dịch và chiến thuật quân sự. Ba bộ phận nghệ thuật quân sự là một thể thống
nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, trong đó chiến lƣợc quân sự đóng vai trò
chủ đạo”. [6]
Nhƣ vậy, nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” đƣợc coi
là một trong những loại hình, một bộ phận cấu thành nên nghệ thuật quân sự

Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, quân và dân
ta đã sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật quân sự khác nhau, trong đó nghệ
thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” là loại hình đƣợc sử dụng nhiều
nhất.
Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” là dựa trên mối
quan hệ giữa thế và lực, tạo thế có lợi, kết hợp “Mƣu - Thời - Thế - Lực”. Đây
là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân tộc
ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lƣợc có quân số, vũ khí, trang bị lớn

5


hơn nhiều lần. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” chính là
sản phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là mạnh đƣợc,
yếu thua, nhƣng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã xác
định đúng đắn về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức mạnh tổng hợp của
nhiều yếu tố, chứ không thuần túy là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ khí
của mỗi bên tham chiến.
Theo tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh luôn kế thừa và phát huy truyền
thống của dân tộc ta: “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”. Biết đánh bằng
mọi lực lƣợng, mọi quy mô, bằng mọi vũ khí có trong tay. Theo Ngƣời, đó là
nghệ thuật tạo thời, lập thế, tranh thời, biết đánh địch bằng mƣu, thắng địch
bằng thế. Trong tƣ tƣởng quân sự Hồ Chí Minh, tạo lực phải đi đôi với lập
thế, bởi thế và lực có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ có lực thôi thì chƣa đủ,
mà còn phải có thế mới phát huy đƣợc tác dụng của lực. Trong chiến tranh
cũng vậy, chỉ có lực mà không có thế, thì cũng không thể đánh thắng đƣợc
quân địch. Thế trong nghệ thuật quân sự là tình thế, thế nƣớc, thế trận chiến
tranh, thế bố trí lực lƣợng gắn với địa hình và điều kiện địa lý nhất định. Nhƣ
vậy, muốn đánh thắng địch phải có thế và đƣợc thế tốt thì một lực lƣợng quân
sự dù nhỏ hơn, vũ khí, kỹ thuật ít và kém hiện đại nhƣng vẫn có thể biến

thành nhiều, nhỏ biến thành lớn và nhất định thắng lợi.
Từ cách tiếp cận trên, có thể khẳng định là: Nghệ thuật “lấy ít địch
nhiều, lấy yếu chống mạnh” là một trong những hình thức cơ bản của Nghệ
thuật quân sự thể hiện sự thuần thục, mưu trí, sáng tạo trong tổ chức, sử dụng
lực lượng, vận dụng tốt thế và lực đã được tạo dựng từ trước để đánh địch
theo cách đánh của ta, giành thắng lợi.

6


1.1.2. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” trong lịch sử
đánh giặc của dân tộc ta
Đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta,
khi dân tộc ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lƣợc có quân số, vũ khí,
trang bị lớn hơn nhiều lần. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh” chính là sản phẩm của “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là
“mạnh đƣợc, yếu thua” nhƣng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha
ông ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức mạnh
tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không thuần túy là sự so sánh hơn kém về “vũ
khí, quân số” của mỗi bên tham chiến. Kết quả một số cuộc chiến tranh cho
thấy.
Để chống lại 30 vạn quân xâm lƣợc Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ
có 10 vạn quân, dƣới sự lãnh đạo của Lý Thƣờng Kiệt quân và dân nhà Lý đã
tận dụng đƣợc ƣu thế địa hình và các yếu tố khác để tạo ra sức mạnh hơn địch
và đánh thắng địch.
Thời Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên - Mông, lần
thứ 2 là 60 vạn, lần 3 khoảng 50 vạn. Nhà Trần đã kết hợp giữa “Lấy ít địch
nhiều, lấy yếu chống mạnh” và đã “lấy đoản binh để chế trƣờng trận” hạn chế
sức mạnh của giặc để đánh thắng giặc.
Cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn, quân số lúc cao nhất có khoảng 10 vạn,

nhƣng đã đánh thắng 80 vạn quân Minh xâm lƣợc. Vì Lê Lợi và Nguyễn Trãi
đã vận dụng “tránh thế ban mai, đánh lúc chiều tà” và vận dụng cách đánh
“vây thành diệt viện” kết hợp với nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh”.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lƣợc, nhà Tây
Sơn có khoảng 10 vạn quân, nhƣng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lƣợc và

7


quân bán nƣớc Lê Chiêu Thống vì Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo,
thần tốc, bất ngờ. [3. Tr 83]
1.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của
quân và dân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm 1288
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội và truyền thống sử dụng nghệ thuật “lấy ít
địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của dân tộc ta
1.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Nƣớc Đại Việt thời Trần là một quốc gia độc lập, tự chủ. So với thời
Lý, lãnh thổ Đại Việt không mấy thay đổi. Về đại thể, Đại Việt bao gồm vùng
lãnh thổ Bắc Bộ và một phần Trung Bộ ngày nay với trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa là kinh thành Thăng Long vốn đã nổi tiếng từ hai thế kỷ trƣớc.
Phía bắc giáp với Trung Quốc ở vùng Lƣỡng Quảng (Quảng Đông và
Quảng Tây) bấy giờ thuộc nhà Tống và nhà Nguyên đồng thời giáp với vƣơng
quốc Đại Lý (tức Nam Chiếu) ở vùng Vân Nam. Phía đông là biển rộng bao la
và các hải đảo. Phía tây giáp với lãnh thổ các bộ tộc Lão Qua (Lào). Phía nam
giáp với vƣơng quốc Chăm Pa (Chiêm Thành). Nhƣ vậy, Đại Việt có vị trí địa
lý quan trọng, nằm trên đƣờng giao lƣu từ bắc xuống nam, từ đông sang tây,
từ đất liền sang biển cả...
Một đất nƣớc giàu đẹp lại nằm ở vị trí địa lý quan trọng thì không thể
trách khỏi con mắt nhòm ngó đầy tham vọng của những thế lực bành trƣớng

xâm lƣợc ở sát nách qua thế kỷ này đến thế kỷ khác.
1.2.1.2. Đặc điểm xã hội
Xã hội Đại Việt là một xã hội đã phân tầng đẳng cấp trên quy mô quốc
gia với 2 đẳng cấp chính: vua quan và thứ dân (bách tính) dƣới thứ dân là tầng
lớp nô tỳ. Tuy nhiên, sự phân hóa xã hội chƣa sâu sắc, giữa hai đẳng cấp này
vẫn có những mối quan hệ gần gũi. Cộng đồng làng xã còn tƣơng đối thuần
nhất, lúc này sự phân loại các hạng dân chủ yếu theo lứa tuổi (tiểu hoàng

8


nam, đại hoàng nam, lão, long lão). Tục trọng lão, trọng xỉ (thiên trƣớc) còn
rất đậm trong làng xã.
Nhà Vua đứng đầu nhà nƣớc và là biểu tƣợng của quốc gia, trên danh
nghĩa, có uy quyền tối thƣợng và toàn năng. Khi vua còn trẻ, quyền hành thực
tế nằm trong tay Thái Thƣợng Hoàng.
Quý tộc quan liêu là chỗ dựa của nhà vua và triều đình trong các cuộc
kháng chiến chống Nguyên - Mông cũng nhƣ trong công cuộc trị nƣớc.
Tăng ni, tăng quan thời Trần đã giữ một vị trí quan trọng trong xã hội
(nhƣ các sƣ Pháp Loa Huyền Quang). Nhà chùa có ruộng đất riêng và nô tỳ
riêng.
Đẳng cấp thứ dân bao gồm chủ yếu bộ phận nông dân tự do - tự canh
trong các làng xã, đa số cày ruộng công và một số ít có ruộng tƣ, có nghĩa vụ
nộp tô thuế, lao dịch và binh dịch cho Nhà Nƣớc. Trong làng xã, có thể đã có
một số ít tá điền.
Nô tì (nô: nam, tì: nữ) tuy không hẳn là một đẳng cấp riêng biệt nhƣng
là một tầng lớp xã hội ở thời Trần khá đông đảo. Nô tì có nhiều nguồn gốc có
thể là nông dân bị bần cùng hóa (năm 1290 đói kém, một ngƣời bán làm nô
giá 1 quan tiền, tƣơng đƣơng 1 thăng (2 lít gạo), hoặc bị gán nợ (nhƣ Hà Ô
Lôi, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc các phạm nhân mắc tội đồ tù binh

(ChamPa và Nguyên), ngƣời nƣớc ngoài bị bắt cóc. Có nhiều loại nô: quan nô
(của Nhà Nƣớc) làm việc trong các đồn điền, trại lính, gia nô (của các nhà
quyền quý) làm việc trong gia đình và điền trang, tam bảo nô phục vụ trong
các chùa chiền. Nô tỳ có địa vị thấp kém nhất trong xã hội, nhƣng một số sau
đó đã trở thành những ngƣời tự do có địa vị trong xã hội.
1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông
năm 1288

9


1.2.2.1. Khái quát về quân Nguyên - Mông trong cuộc xâm lược nước ta lần 3
(1285 - 1288)
Bấy giờ là thế kỷ XIII, sau khi tiến hành các cuộc chiến tranh chinh
phục các bộ lạc trên lãnh địa Mông Cổ, Thiết Mộc Chân đƣợc tôn làm “hãn”
đứng đầu các bộ lạc. Năm 1206, Thiết Mộc Chân triệu tập đại hội quý tộc,
trƣớc đại hội các lãnh chúa, thủ lĩnh bộ lạc để tổ chức chính quyền trên toàn
lãnh thổ đã chiếm đóng. Thiết Mộc Chân (44 tuổi) đƣợc suy tôn làm đại hãn
(tức là hãn lớn mạnh nhất, gọi là Thành Cát Tƣ Hãn). Từ đây một nhà nƣớc
phong kiến quân sự độc tài tập quyền ra đời đặt tên là nƣớc Mông Cổ.
Ngay từ đầu Nhà nƣớc Mông Cổ đã là một nhà nƣớc đế quốc, lấy quân
đội mạnh làm chỗ dựa và dùng xâm lƣợc vũ trang làm cơ sở tồn tại và phát
triển. Quân đội của họ là quân đội phong kiến, trong đó gồm các quý tộc cao
cấp, các thủ lĩnh quân sự và các tƣớng lĩnh chỉ huy trung thành với đại hãn.
Quân đội Mông Cổ rất thiện chiến, thêm vào đó với năng lực về mặt quân sự
thiên tài, Thành Cát Tƣ Hãn đã sáng tạo ra cách dụng binh thích hợp với điều
kiện bản thân và hoàn cảnh khách quan trên chiến trƣờng. Những tƣớng lĩnh
Mông Cổ cũng rất tài giỏi chỉ huy. Quân Mông Cổ đặc biệt biết lợi dụng điều
kiện hành động nhanh chóng mẫn tiệp của kỵ binh.
Từ những thảo nguyên mênh mông vùng Trung Á, từng đoàn kỵ binh

của đế quốc Mông Cổ cuốn theo cát bụi và máu lửa, ào ạt kéo sang phƣơng
Tây, phƣơng Đông rồi phƣơng Nam, gieo chết chóc và tàn hại khắp Châu Á,
Châu Âu. Hàng trăm thành thị lớn và kinh đô của nhiều nƣớc bị phá hủy,
hàng ngàn làng mạc bị đốt phá và san bằng, mấy triệu ngƣời bị giết hại. Trong
vòng mấy chục năm đầu thế kỷ XIII, vua chúa Mông Cổ đã thành lập một đế
quốc rộng lớn từ bờ Thái Bình Dƣơng đến bờ Bắc Hải. Nửa thế giới kinh
hoàng, lo sợ ngập chìm trong đau thƣơng. Vào giữa thế kỷ thứ XIII, quân

10


Mông Cổ đã dần dần đánh bại nhà Tống, chiếm đƣợc toàn bộ lãnh thổ Trung
Quốc, Hốt Tất Liệt lên làm vua đổi quốc hiệu là Nguyên.
Sự hợp nhất giữa thế lực ngƣời Thát Mông Cổ với thế lực Đại Hán ở
Trung Quốc đã biến triều Nguyên do ngƣời Mông Cổ lập ra thành một triều
đại chính thống ở Trung Quốc. Tình hình đó càng làm tăng thêm sức mạnh
của đế chế Nguyên: kết hợp hai tính cách tiêu biểu của hai thế lực, giữa tƣ
tƣởng cuồng chiến xâm lƣợc hết sức tàn bạo của ngƣời Mông Cổ với tƣ tƣởng
Đại Hán bình thiên hạ ở Trung Hoa. Đó thực sự là một nguy cơ lớn đối với
các dân tộc láng giềng trƣớc âm mƣu bành trƣớng thiên hạ của đế chế
Nguyên.
Quân đội Nguyên - Mông là đội quân hùng mạnh với quân số đông,
thiện chiến, từng giành chiến thắng trong các cuộc xâm lƣợc. Với thể chất
cƣờng tráng, tinh thần chiến đấu cao, kĩ năng bắn cung và đánh trên ngựa giỏi
kết hợp với tiền đề về kinh tế, tiềm lực quân sự (vũ khí, phƣơng tiện, lƣơng
thực). Tất cả những yếu tố nêu trên đã hình thành nên điểm mạnh của quân
đội Nguyên - Mông.
Với tiền đề lớn mạnh nhƣ vậy nhƣng đội quân Nguyên - Mông không
thể tránh đƣợc những điểm yếu mà từ đó quân và dân nhà Trần đã dựa vào để
đánh thắng quân xâm lƣợc. Cuộc chiến tranh xâm lƣợc của quân Nguyên Mông mang bản chất là một cuộc chiến tranh phi nghĩa gây ra đau thƣơng tổn

thất, không mang lại lợi ích cho nhân dân, không đƣợc sự ủng hộ của lòng
dân. Việc đi xâm lƣợc của quân đội Nguyên - Mông vấp phải sự phản đối
mạnh mẽ của nhân dân ƣa chuộng hòa bình trên thế giới. Mặt khác đại đa số
quân lính là ngƣời Trung Hoa bị chinh phục, tinh thần chiến đấu không có,
gặp khó khăn là chán nản.
Khi sang xâm lƣợc Đại Việt, quân đội Nguyên - Mông áp dụng kế sách
“đánh nhanh thắng nhanh” nhƣng lại vấp phải vô vàn khó khăn trong quá

11


trình di chuyển. Đất nƣớc ta có nhiều núi, rừng; nhiều sông, ngòi; nhiều ao,
hồ cản trở bƣớc tiến của kỵ binh khiến cho sức khỏe giảm sút, nhuệ khí hao
hụt. Đặc biệt, đối với quân Nguyên - Mông lƣơng thực là điểm yếu lớn nhất
của họ. Quân giặc chinh chiến xa, công tác bảo đảm hậu cần khó khăn, nếu
chiến tranh kéo dài thì địch càng khó khăn gấp bội, sức mạnh chiến đấu suy
giảm. Trong ba lần tiến đánh Đại Việt đội quân Nguyên - Mông đều bị Trần
Hƣng Đạo đánh vào điểm yếu lƣơng thực và cuối cùng phải chịu thất bại.
Nƣớc ta trong mùa hè có khí hậu nóng ẩm, một loại khí hậu mà ngƣời
Mông Cổ không ƣa. Vào những lúc giao mùa thời tiết thay đổi, quân Nguyên
- Mông không chịu nổi thời tiết này. Mặt khác, kị binh của quân Nguyên Mông có khả năng cơ động cao sức đột kích mạnh mẽ, quen tung hoành ào ạt
trên những chiến trƣờng bằng phẳng nhanh chóng đè bẹp đối phƣơng nhƣng
gặp phải khó khăn với địa hình Đại Việt. Đất nƣớc ta có nhiều núi rừng, sông
ngòi; nhiều ao hồ là khó khăn cản trở kị binh. Những đồng ruộng của ta cũng
không mấy tốt cho kị binh khi mùa mƣa đến. Những rừng già um tùm, xen
trong các núi cao là các điểm cho quân ta dễ mai phục đánh bất ngờ. Với các
yếu tố về địa chất thì địa hình này không thuận lợi cho kị binh Mông Cổ.
Mặt khác, thủy chiến vốn là sở trƣờng của dân quân Đại Việt, đồng thời
lại là chỗ yếu của quân Nguyên. Thủy binh giặc phần lớn là quân tân phụ
(quân miền Nam của nhà Nam Tống cũ) vùng Quảng Đông, Hải Nam, tinh

thần chiến đấu kém. Tuy đƣợc chuẩn bị công phu, thuyền vững chắc, vũ khí
đầy đủ song thủy binh địch đã chịu nhiều thất bại, lại không thiện chiến bằng
kỵ binh và bộ binh. Kỵ binh và bộ binh cƣỡi ngựa - bắn cung đều tài giỏi
nhƣng không quen tác chiến trên sông biển.
1.2.2.2. Khái quát về quân và dân nhà Trần trong cuộc chiến chống quân
Nguyên - Mông lần 3

12


Triều Trần là một triều đại lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thời
Trần đƣợc xem là một giai đoạn lịch sử oanh liệt nhất thời trung đại, giai đoạn
mà dân tộc ta đã vƣơn lên mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, viết lên trang lịch sử chói lọi trong sự nghiệp đánh giặc giữ nƣớc.
Theo quy luật tất yếu của lịch sử, đầu thế kỷ XIII vƣơng triều Lý suy
yếu, đất nƣớc lâm vào cảnh hoạn lạc bởi những cuộc chiến tranh đẫm máu
giữa các phe phái phong kiến. Kinh thành Thăng Long nhiều lần chìm trong
biển lửa nội chiến và bị tàn phá nặng nề. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Trong số các phe phái phong kiến lúc bấy giờ, thế lực họ Trần ở Hải ấp dần
dần phát triển và trở thành lực lƣợng mạnh nhất mà ngƣời đại diện là Điện
tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ và Thái Uý Trần Tự Khánh đã khống chế đƣợc
chính quyền trung ƣơng và chiến thắng các tập đoàn phong kiến khác, thống
nhất đất nƣớc.
Đầu năm 1226, với sự kiện Lý Chiêu Hoàng nhƣờng ngôi cho Trần
Cảnh, triều Lý rời khỏi vũ đài chính trị; một vƣơng triều mới thay thế - triều
Trần (1226 -1400). Với sự thiết lập của triều Trần, nƣớc Đại Việt trải qua giai
đoạn phát triển mới. Về khách quan, điều đó phù hợp với nguyện vọng hòa
bình, thống nhất của nhân dân và yêu cầu phát triển của lịch sử. Triều Trần trẻ
trung thay thế triều Lý - một triều đại đã già cỗi đã mất hết sinh khí để lãnh
đạo đất nƣớc trong một bối cảnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Dƣới sự lãnh

đạo của triều Trần, nƣớc Đại Việt vƣơn lên mạnh mẽ, đạt đƣợc những thành
tựu đáng tự hào trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và trên cả lĩnh
vực quân sự.
Sự phát triển về mọi mặt của đất nƣớc là nền tảng của quốc phòng, có
quan hệ lớn đối với các hoạt động quân sự cũng nhƣ thành quả của sự nghiệp
giữ nƣớc chống giặc ngoại xâm lúc đó. Trong bối cảnh triều đình nhà Nguyên
đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lƣợc sau thất bại thảm hại

13


của cuộc xâm lƣợc thứ 2 năm 1285, thì triều đình nhà Trần và quân dân nƣớc
ta cũng đang nhộn nhịp chuẩn bị kháng chiến.
Sau chiến thắng oanh liệt năm 1285, quét sạch quân xâm lƣợc ra khỏi
bờ cõi, triều Trần muốn tỏ thái độ nhân nhƣợng để cho nhà Nguyên đỡ mất
thể diện mong tránh đƣợc nội chiến báo thù. Nhƣng bản chất xâm lƣợc, thái
độ nƣớc lớn của nhà Nguyên không thay đổi. Trƣớc thái độ khiêu khích của
kẻ thù, triều đình nhà Trần cũng nhƣ quân đội và nhân dân cả nƣớc hết sức
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Khi đƣợc tin vua Nguyên lại chuẩn bị xâm
lƣợc thì cả nƣớc chuyển sang trạng thái sẵn sàng đánh địch.
Việc chuẩn bị kháng chiến rất khẩn trƣơng của toàn dân trên cơ sở lãnh
đạo của triều đình và truyền thống yêu nƣớc, chủ nghĩa anh hùng và tinh thần
đoàn kết nhất trí đã đƣợc thử thách trong cuộc kháng chiến thứ hai. Với kinh
nghiệm phong phú của hai cuộc kháng chiến thắng lợi, triều đình và quân dân
ta bƣớc vào cuộc kháng chiến thứ ba này với tƣ thế chủ động đàng hoàng và
lòng tin cao độ. Tháng 6 năm Trùng Hƣng thứ hai (26/3 - 22/7/1286) Trần
Nhân Tông ra lệnh cho tất cả vƣơng hầu, tôn thất mộ thêm binh lính, chấn
chỉnh lực lƣợng; quân dân gấp rút chế tạo tu sửa khí giới, chiến thuyền. Hƣng
Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn lại đƣợc cử làm Quốc công tiết chế, đôn đốc
việc chuẩn bị kháng chiến của triều đình, vƣơng hầu và chủ tƣớng. Các tƣớng

đƣợc phân công trấn giữ các hƣớng địch có thể tấn công.
Nhân Huệ Vƣơng Trần Khánh Dƣ đƣợc làm phó tƣớng đóng quân ở
Vân Đồn, trấn giữ vùng biển Đông Bắc. Chiêu Văn Vƣơng Trần Nhật Duật
đƣợc điều lên vùng Bạch Hạc, chuẩn bị chặn đánh quân địch từ Vân Nam
xuống. Nhiều tƣớng khác đƣợc giao nhiệm vụ đem quân chặn đánh địch và
bám trụ hoạt động ở các vùng hiểm yếu trên các nẻo đƣờng tiến quân của địch
từ Lạng Sơn về Thăng Long. Theo trinh thám biết quân Nguyên tăng cƣờng

14


thủy binh, nhà Trần đã chú trọng tăng cƣờng phòng thủ biển. Tất cả chuẩn bị
cho một cuộc đấu tranh đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi Đại Việt.
Khi quân Nguyên chuẩn bị tiến công, Trần Quốc Tuấn nhận định “năm
nay thế giặc dễ đánh”. Với tinh thần “Sát Thát”, có quyết tâm cao tiêu diệt
địch, quân sĩ ta đã ra sức luyện tập để có khả năng chiến đấu cao. Tinh thần
hết sức khẩn trƣơng nhƣng dƣới sự lãnh đạo của Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc
Tuấn, quân dân ta bƣớc vào cuộc kháng chiến thứ 3 với một khí thế đầy quyết
tâm, tin tƣởng. Tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa quân đội và nhân dân trong
việc chuẩn bị chiến trƣờng, bố trí trận địa và hợp đồng tác chiến.
Qua kinh nghiệm dày dặn, phong phú của 2 cuộc kháng chiến trƣớc,
Trần Quốc Tuấn đã đề ra kế hoạch đánh giặc rất chủ động, tài giỏi. Theo tiếng
gọi của Trần Quốc Tuấn nhân dân các vùng sông Bạch Đằng phối hợp với
quân Trần khẩn trƣơng đi vào một cuộc chiến đấu gian khổ và quyết liệt.
Thóc gạo đƣợc chuẩn bị, sẵn sàng cung cấp cho quân đội, vũ khí đƣợc chế tạo
thêm để trang bị cho dân binh, thuyền bè đƣợc tu sửa để sử dụng trên chiến
trƣờng sông nƣớc. Những đội dân chúng vũ trang ở vùng sông Bạch Đằng và
các nơi khác, giàu lòng yêu nƣớc, sẵn sàng chiến đấu giữ nƣớc, giữ làng.
Nhiều ngƣời có gia đình bị giặc tàn phá giết hại trong những cuộc càn quét
trƣớc đó không lâu, nợ nƣớc và thù nhà chồng chất càng làm tăng thêm sức

mạnh và quyết tâm của họ. Sự kết hợp chặt chẽ giữa quân đội và nhân dân
trong trận quyết chiến Bạch Đằng là sự thực hiện thành công phƣơng châm
chỉ đạo chiến tranh của Trần Quốc Tuấn: “Cả nƣớc chung sức”. Sự kết hợp đó
đã phát huy cao độ sức mạnh tinh thần và vật chất của quân và dân ta, là hình
ảnh tuyệt đẹp của chiến tranh nhân dân trong lịch sử đất nƣớc.
Dựa vào những nguyên nhân và điều kiện đã nêu trên, có thể khẳng
định quân và dân nhà Trần sử dụng nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh” trong kháng chiến đấu chống quân Nguyên - Mông xâm lƣợc
lần 3 năm 1288 là hoàn toàn đúng đắn mang tính tất yếu khách quan lịch sử.

15


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Nghệ thuật quân sự là nghệ thuật chỉ đạo vũ trang hay nghệ thuật tiến
hành chiến tranh, gồm 3 bộ phận là chiến lƣợc quân sự, nghệ thuật chiến dịch
và chiến thuật quân sự. Nghệ thuật quân sự bao hàm cách đánh, hay nói cách
khác cách đánh là một bộ phận cơ bản của nghệ thuật quân sự. Nếu nghệ thuật
quân sự xem xét tổng thể việc tạo ra và sử dụng mƣu trí, sáng tạo giữa thế và
lực nhằm đạt đƣợc mục tiêu của đấu tranh vũ trang, thì cách đánh đƣợc hiểu
là cách thức sử dụng và vận động các thế và lực đã đƣợc tạo dựng hoặc có sẵn
hoặc phát sinh trong từng chiến dịch, từng trận đánh với không gian, thời gian
cụ thể.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc, ông cha ta luôn phải
chống lại kẻ thù xâm lƣợc mạnh hơn nhiều lần về kinh tế, quân sự. Song với
tinh thần yêu nƣớc, ý chí kiên cƣờng, với cách đánh mƣu trí sáng tạo, ông cha
ta đã đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lƣợc, viết nên những trang sử hào hùng của
dân tộc.
Dƣới thời Trần, công cuộc xây dựng đất nƣớc đƣợc đẩy mạnh trên quy
mô lớn. Kinh tế phát triển mạnh mẽ, quốc gia thống nhất, đƣợc củng cố, văn

hóa dân tộc bƣớc vào một giai đoạn rực rỡ. Sự lớn mạnh về mọi mặt của đất
nƣớc cho phép nhà Trần đối phó với âm mƣu xâm lƣợc của Nguyên - Mông
một cách kiên quyết chủ động, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và ý chí tự
lập, tự cƣờng mạnh mẽ của cả dân tộc. Trên cơ sở đó, những nghệ thuật quân
sự đặc sắc của cha ông ta đã đƣợc hình thành.
Chƣơng 1 đã làm rõ cơ sở hình thành nghệ thuật “Lấy ít địch nhiều, lấy
yếu chống mạnh” của quân và dân Nhà Trần, biết vận dụng và phát huy
những kinh nghiệm và truyền thống quí báu của dân tộc trong việc chuẩn bị
và thực hành chiến tranh chống giặc ngoại xâm. Đó là xuất phát điểm quan
trọng để phát triển nghệ thuật “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” đƣợc
trình bày ở Chƣơng 2.

16


CHƢƠNG 2
NGHỆ THUẬT “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH”
CỦA QUÂN VÀ DÂN NHÀ TRẦN TRONG CHIẾN THẮNG NGUYÊN
- MÔNG LẦN 3 NĂM 1288
2.1. Đánh giá tình hình, xây dựng kế hoạch chiến đấu với kẻ thù
2.1.1. Đặc điểm tình hình, bối cảnh trong nước
Sau hồi binh lửa, quân Nguyên bại trận trong lần xâm lƣợc thứ hai
(1285), thây phơi đầy nội đã đành, quân dân Đại Việt là bên chiến thắng cũng
không tránh khỏi nhiều tang thƣơng, giặc đi đến đâu là xóm làng xơ xác tới đó.
Quân dân ta vừa thắng trận, vết thƣơng chiến tranh chƣa kịp lành đã phải chuẩn
bị bƣớc vào một cuộc chiến tranh vệ quốc mới trƣớc đế chế hùng mạnh nhất
thế giới thời bấy giờ.
Giữa năm 1285, quan quân rƣớc vua Trần Nhân Tông và Thƣợng
hoàng Trần Thánh Tông về lại kinh thành Thăng Long, trăm họ trở về quê
nhà sau những ngày tránh giặc và chiến đấu bên cạnh quân đội triều đình. Một

trong những việc quan trọng đầu tiên mà vua Trần thực hiện là xét thƣởng
công trạng cho những ngƣời có công lao trong cuộc chiến, xử tội những kẻ
hèn nhát hàng giặc. Vua thƣơng trăm họ vừa chịu khổ chiến tranh, xuống
chiếu đại xá cho cả nƣớc.
Cuối năm 1285, vua Trần Nhân Tông lại chiếu cho cả nƣớc định lại hộ
khẩu, muốn qua đó thống kê lại sổ sách về thuế má, dân đinh. Triều thần sợ
việc này sẽ gây ra nhũng nhiễu cho dân, đồng loạt can vua: “Dân đƣơng lao
khổ, mà định số nhân khẩu, không phải là việc cấp”.
Vua đáp lời: “ Chỉ có thể định hộ khẩu vào lúc này. Chẳng nên qua đó
mà xem xét sự hao hụt, điêu tàn của dân ta hay sao?”.
Triều thần nghe vua nói thế đều khen là phải, khắp nơi trong nƣớc nhộn
nhịp việc định lại nhân khẩu. Về việc này, sử gia các đời có nhiều ý kiến trái

17


×