Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

BAI THU HOACH HOC TAP NGHI QUYET TRUNG UONG 5 KHOA XII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.65 KB, 15 trang )

ĐẢNG BỘ SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
CHI BỘ CTY TNHH MTV QLKTCT
THỦY LỢI TRÀ VINH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trà Vinh, ngày 30 tháng 8 năm 2017

BÀI THU HOẠCH
Qua học tập, quán triệt Nghị Quyết Trung ương 5 khóa XII
--------------- Họ và tên: Nguyễn Quốc Khải, Năm sinh: 15/11/1983.
- Hiện sinh hoạt tại chi bộ: Công ty TNHH MTV QLKTCT Thủy lợi Trà
Vinh
- Chức vụ: (Đảng, chính quyền): Cán bộ kỹ thuật và công đoàn viên.
Qua học tập, quán triệt Nghị Quyết số 10-NQ/TW, ngày 03/6/2017 “về phát
triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017 “về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 12NQ/TW, ngày 03/6/2017 “ về tiếp tục tái cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước’, bản thân có những nhận thức như sau:
1. Nhận thức của cá nhân về các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải
pháp được nêu trong nghị quyết? Có những điểm mới? Những vấn đề thấy
tâm đắc nhất?
a. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Nhận thức, quan điểm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội, nước ta phải phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một
hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường,
vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII của Đảng xác định phát triển nền kinh tế thị trường


định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề cốt lõi
về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó
khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng
thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước”. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà


mang đầy đủ các đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường, như: tự do kinh doanh
và cạnh tranh; mở cửa và hướng tới tự do hóa; đa dạng hóa các hình thức sở hữu;
lấy quy luật giá trị và quan hệ cung cầu để xác định giá cả; coi cạnh tranh là động
lực phát triển...
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
quá trình hoàn thiện, đổi mới và sáng tạo không ngừng trong nhận thức, tư duy lý
luận và thực tiễn của Đảng. Qua hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có bước phát triển trên các vấn đề chủ
yếu như xác định rõ hơn bản chất và phương hướng, phương thức phát triển kinh tế
thị trường, xác định lộ trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Kể từ khi đổi mới, Đảng chú trọng nghiên cứu lý luận, đổi mới nhận thức, có
nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Văn kiện các Đại hội Đảng X, XI, XII đều
luôn coi vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước.
Nghị quyết xác định, mục tiêu chung của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với những nguyên tắc cơ
bản của kinh tế thị trường, nhằm: thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả,

bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa; thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Các quan điểm chủ đạo cũng đã được khẳng định như: Nhận thức đầy đủ,
tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường,
thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận
cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường;
giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã
hội; nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về các chủ trương và giải pháp
Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta;
Hoàn thiện thể chế về sở hữu, thể chế về phân phối, phát triển các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất, kinh doanh;
Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng
bộ các loại thị trường;
Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường;


Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội.Đại hội XII xác định mục tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn
thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế;
bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và

thị trường”;
Nhấn mạnh tính hiện đại và hội nhập của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định nhận thức của Đảng về việc tuân thủ các chuẩn
mực chung của thế giới để phát triển và quan trọng hơn là sự tuân thủ các cam kết
quốc tế đã ký, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế bên trong, đáp ứng các tiêu chí để
được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thuộc tính mới này đặt ra cho
chúng ta yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển; đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Tóm lại, cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng có chủ trương nhất quán về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế
cho nền kinh tế này. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gồm
hệ thống các bộ quy tắc kinh tế thị trường, được các chủ thể kinh tế thị trường khác
nhau (gồm nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội, người dân…) vận hành với các cơ
chế, cách thức được xác định rõ theo hướng vừa bảo đảm phát triển đồng bộ các
yếu tố thị trường, vừa bảo đảm công bằng xã hội và phát huy vai trò tích cực trong
hỗ trợ phát triển của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
* Nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
các nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay
- Về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Quá trình nghiên cứu lý luận và tổng kết 30 năm đổi mới kinh tế Việt Nam
của Đảng, của giới nghiên cứu khoa học xã hội ở nhiều chuyên ngành với những
cách tiếp cận khác nhau về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam thời
gian qua đã đưa lại nhiều nhận thức quan trọng về mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể tóm tắt những điểm chính yếu như sau:
Trước hết, kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, có thể tồn
tại và thích ứng với nhiều hình thái xã hội khác nhau. Một quốc gia dựa trên nền
tảng thị trường để phát triển kinh tế có thể chưa chắc thành công, song một quốc
gia không có nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ không thể phát triển trong dài
hạn.

Kinh tế thị trường ở bất kỳ quốc gia nào cũng bao gồm các yếu tố phổ quát
như: (1) Tính độc lập của các chủ thể kinh tế; (2) Hệ thống đồng bộ các thị trường
và thể chế tương ứng; (3) Hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung
- cầu quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường; (4) Cơ chế căn bản vận
hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do; (5) Nhà nước tham gia vào các


quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một
yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế.
Trong lịch sử, kinh tế thị trường không phát triển theo một mô hình duy nhất
mà được thực hiện dưới nhiều mô hình khác nhau: kinh tế thị trường tự do, kinh tế
thị trường xã hội, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… Kinh tế thị trường không
phát triển theo một phương án duy nhất, cũng không theo một mô hình đơn nhất.
Tương ứng với mỗi mô hình kinh tế thị trường nói trên là một hệ thống thể chế,
hay nói cách khác, mô hình kinh tế thị trường nào thì có thể chế kinh tế ấy tương
thích. Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển kinh tế thị
trường mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh phát triển cụ
thể của từng quốc gia - dân tộc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là một dạng thức của kinh tế thị trường trên thế giới.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển, phân phối và cơ chế quản lý kinh
tế, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế của thị trường, đồng thời khắc phục và hạn chế
tới mức thấp nhất những khuyết tật của nó phục vụ lợi ích cho mọi người dân,
hướng đến các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
- Về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quan hệ giữa
nhà nước và thị trường
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một
vấn đề lý luận và thực tiễn khá mới mẻ và phức tạp, đã trải qua một quá trình nhận
thức, phát triển cả về lý luận và thực tiễn từ thấp đến cao, từ chưa đầy đủ đến đầy

đủ hơn, sâu sắc và hoàn thiện hơn. Cho đến nay, từ các văn kiện, nghị quyết của
Đảng đến chính sách của Nhà nước, các ngành, các cấp và toàn thể xã hội hầu như
đều thống nhất quan niệm: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam được cấu thành bởi hệ thống các bộ phận khác nhau mà mỗi bộ phận
cũng là một hệ thống phức tạp gồm nhiều yếu tố. Các bộ phận cơ bản của thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm: (1) Các luật lệ,
quy tắc điều hành nền kinh tế; (2) Các chủ thể tham gia vào hoạt động trong nền
kinh tế; (3) Cơ chế thực thi các luật, quy tắc và điều chỉnh các mối quan hệ giữa
các chủ thể; (4) Hệ thống thị trường.
Các luật lệ, quy tắc điều chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta bao gồm khung khổ pháp lý do nhà nước ban hành và các quy
tắc, chuẩn mực xã hội khác như những quy định của các hiệp hội, các tổ chức xã
hội nghề nghiệp… Trong hệ thống quy tắc và chuẩn mực đó thì thể chế do Nhà
nước ban hành đóng vai trò quyết định đến các hành vi kinh tế của các chủ thể
trong nền kinh tế thị trường, trong khi những quy tắc, chuẩn mực xã hội khác cũng
đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của các chủ thể kinh tế.
Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao
gồm các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, cộng đồng dân cư và người dân. Gần đây


một số tài liệu xếp các tổ chức nghề nghiệp và hiệp hội vào nhóm các tổ chức xã
hội dân sự. Cả ba nhóm chủ thể này đều có vai trò quan trọng trong quá trình vận
hành, tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong đó doanh nghiệp là trung tâm, nhà nước thực hiện chức năng kiến tạo phát
triển, đề ra luật và các quy định, chuẩn mực buộc các chủ thể khác phải thực hiện
đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Các tổ chức xã hội dân sự và người
dân có vai trò giám sát và phản biện cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp.
Cơ chế thực thi các quy tắc, chuẩn mực và điều chỉnh các quan hệ giữa các
chủ thể của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm các cơ

chế vận hành của kinh tế thị trường và cơ chế quản lý của nhà nước, như: cơ chế
cạnh tranh thị trường, cơ chế phân cấp, cơ chế phối hợp và tham gia, cơ chế theo
dõi và đánh giá, giải trình... Hệ thống thị trường bao gồm thị trường hàng hóa dịch
vụ cuối cùng, thị trường yếu tố sản xuất (như thị trường vốn, lao động, khoa học
công nghệ, bất động sản…). Các loại thị trường là nơi diễn ra tương tác giữa các
chủ thể kinh tế.
Hầu hết các nghiên cứu về thể chế kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đều đề cập đến quan hệ giữa nhà
nước với thị trường và cách thức giải quyết quan hệ nhà nước - thị trường. Nhìn
nhận dưới góc độ thể chế kinh tế, nhà nước là một chủ thể trong số rất nhiều chủ
thể tham gia thị trường. Đương nhiên, đây là một chủ thể quan trọng và đặc biệt vì
chủ thể này có quyền đề ra “luật chơi” và giám sát việc thực hiện “luật chơi” đó
của các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong thể chế kinh tế thị trường ở những
nước phát triển, các nguyên tắc, quy tắc thị trường được thừa nhận và được luật
hóa, được các chủ thể tham gia thị trường, kể cả nhà nước tuân thủ nghiêm minh.
Một số nghiên cứu ở Việt Nam cũng làm rõ vai trò của nhà nước trong quá trình
hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi thể chế kinh
tế với tư cách vừa là một sản phẩm, vừa là công cụ sắc bén để Nhà nước thực hiện
hiệu quả vai trò của mình trong quá trình chuyển nền kinh tế đất nước sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhiều nghiên cứu đồng thuận ở quan điểm cho rằng, nhà nước có hai nhóm
chức năng chính là sửa chữa thất bại của thị trường và cải thiện công bằng. Nhà
nước “không được giao” chức năng, hay nói cách khác là không nên tham gia vào
hoạt động kinh tế, kinh doanh thuần tuý nếu không có những thất bại của thị
trường, vì đây là việc của thị trường. Tuy nhiên, quy mô của nhà nước như thế nào
lại là vấn đề còn nhiều luận giải và chưa thống nhất. Để sửa chữa thất bại của thị
trường, có ý kiến cho rằng cần có một chính phủ lớn, trong khi ý kiến khác lại cho
rằng chỉ cần một chính phủ ở quy mô vừa phải. Trên thực tế, ở bất kỳ quốc gia nào,
nhà nước cũng đều tham gia vào hoạt động kinh tế, nước nào cũng có doanh
nghiệp nhà nước. Nhà nước luôn sử dụng một tỷ lệ nguồn lực xã hội lớn vào các

khoản chi tiêu cho sửa chữa thất bại thị trường và bảo đảm công bằng xã hội. Về
vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, trong các mô hình thể chế kinh tế
thị trường khác nhau, sự khác nhau không chỉ ở quy mô của nhà nước, mà quan


trọng hơn là mục tiêu, công cụ và cách thức can thiệp của nhà nước, cách thức thực
hiện vai trò của nhà nước. Tuy vậy, dù nhà nước can thiệp như thế nào thì cũng
phải phù hợp với yêu cầu và quy luật của thị trường.
Về các nội dung và nguyên tắc cơ bản cần thực hiện để xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các
nghiên cứu cũng đi đến một nhận thức chung là cần hoàn thiện thể chế trên tất cả
các yếu tố cấu thành, trong đó tôn trọng và vận dụng đầy đủ các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam,
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận
cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường, giữa
thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường. Cần
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ và phát triển
Thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng, chính sách của nhà nước và
nhận thức chung được thể hiện trong các nghiên cứu về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy, đặc trưng, bản chất, cơ chế vận hành, các
bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị trường mà Việt Nam cần tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện đã được thống nhất cơ bản. Tuy nhiên, nhìn nhận sâu hơn có thể
thấy nổi lên một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ:
Một là, về tổng thể, lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chưa được định hình một cách có hệ thống, các đặc trưng của kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ và có được sự nhất
trí cao, đặc biệt là tính định hướng xã hội chủ nghĩa của mô hình thể chế này mặc
dù đã có một số nhận thức chung cơ bản. Cần tiếp tục cụ thể hóa những nội dung
phản ánh định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế đất nước nói chung,
và trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói
riêng để đưa công tác lý luận theo kịp và ngang tầm với sự phát triển của thực tiễn.
Hai là, cần làm rõ hơn những công cụ để bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa đối với thể chế kinh tế thị trường. Cho đến nay, nhận thức về công cụ định
hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là chính sách, pháp luật để tái phân phối kết quả
tăng trưởng, sử dụng nguồn lực nhà nước để thực hiện các mục tiêu xã hội… Bên
cạnh đó là quan niệm cho rằng, doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để định
hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Vậy có thể dùng
những công cụ gì để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị
trường? Doanh nghiệp nhà nước có phải là/nên là công cụ bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa không?
Ba là, trong các chủ trương, chính sách hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng luôn quán triệt quan điểm kinh tế nhà nước là


chủ đạo. Vậy cần hiểu như thế nào là vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước? phải
chăng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước chính là khả năng duy trì định hướng
phát triển đã lựa chọn? Kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo bằng cách nào,
thông qua công cụ gì là phù hợp để không chèn lấn và làm giảm không gian kinh tế
của khu vực tư nhân./.
Về các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện đến năm 2020 để tiếp tục hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường, các văn kiện Đại hội Đảng, nghị quyết Trung ương đều
thống nhất với các nội dung cơ bản như: (1) Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về
sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; (3) Phát triển
đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; (4) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu

quả hội nhập kinh tế quốc tế; (5) Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
b. Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước
- Quan điểm:
Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công
cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô,
kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho
ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh phù hợp
hơn với cơ chế thị trường. Hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà
nước đã có bước đổi mới theo hướng phù hợp hơn với sự thay đổi về cơ cấu sở hữu
trong doanh nghiệp nhà nước và cơ chế thị trường.
- Mục tiêu:
Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền
tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, nhằm huy động, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh
nghiệp để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt và là một lực lượng vật
chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các
dự án, công trình đầu tư của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
Phấn đấu đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; nâng
cao một bước quan trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm, năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.
Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt
động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh

vực then chốt của nền kinh tế.


- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:
Căn cứ vào chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, tiến hành rà soát,
xác định rõ số lượng và phạm vi ngành, lĩnh vực cần có doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp có vốn nhà nước để xây dựng kế hoạch 5 năm và hằng năm cơ cấu
lại doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước theo nguyên tắc: Tập
trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc
phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác không đầu tư; giảm tỉ lệ sở hữu nhà nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị
một cách thực chất và thu hút nhà đầu tư có năng lực thực sự; tối đa hoá giá trị bán
vốn nhà nước theo cơ chế thị trường.
Hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý của các tài sản trước khi tiến hành sắp xếp,
cổ phần hoá hay thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm cơ chế
cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Sử dụng có hiệu quả chính sách thuế, phí
gắn với nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch đất đai một cách ổn định. Tăng
cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm nhà đầu tư thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
tài chính với Nhà nước trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sau cổ phần
hoá.
Giải quyết tốt việc sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ; đào tạo, chuyển đổi nghề
và xử lý lao động dôi dư. Bảo đảm đầy đủ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của
người lao động, đặc biệt là lao động dôi dư để ổn định cuộc sống và bảo đảm an
sinh xã hội cho người lao động. Phát huy vai trò và trách nhiệm của người lao động
là cổ đông trong việc tham gia quản lý, giám sát doanh nghiệp, đồng thời có cơ chế
phù hợp bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ.
Triển khai đồng bộ các giải pháp và có cơ chế, chính sách phù hợp để lành
mạnh hoá tình hình tài chính, xử lý dứt điểm tồn đọng tài chính, nợ không có khả
năng thanh toán và các tài sản không sinh lời của doanh nghiệp nhà nước.

Đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, kiên
quyết khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước trên cơ sở nhiệm vụ được giao, ngành, nghề kinh doanh chính, khai thác tối
đa tiềm năng, thế mạnh; triệt để tiết kiệm chi phí; nâng cao chất lượng hàng hoá,
dịch vụ, uy tín và thương hiệu trên thị trường.
Tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước về đổi
mới sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật
sản xuất hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường, coi đây
là yếu tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp nhà nước.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận
hành theo cơ chế thị trường.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị và nâng cao
năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước.


Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước. Hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước.
c. Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Quan điểm:
- Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu
khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là một phương sách
quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực phát triển.
- Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền
kinh tế độc lập, tự chủ. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân
phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy

mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP.
- Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho
đất nước của kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát,
kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất
là phòng, chống mọi biểu hiện của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", quan hệ "lợi ích
nhóm", thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
- Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức
hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các
tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà
nước, có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
- Khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn, mua cổ phần của các
doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn. Thúc đẩy phát
triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo
mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận,
chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại,
nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
- Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự
lực, tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất
nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp. Phát triển
đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp
luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng
văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân.
- Mục tiêu:



Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Nhiệm vụ và giải pháp:
- Thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương,
chính sách về phát triển kinh tế tư nhân
- Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư
nhân
- Thể chế hóa đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh
doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân
theo quy định của pháp luật.
- Hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
.2.Việc thực hiện nhiệm vụ trên ba lĩnh vực ở địa phương, đơn vị mình
đã đạt được những kết quả gì? Những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân?
* Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Những kết quả đạt được:
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng
đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành,
có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc
tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế
độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các
quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hoá tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan
tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không

ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn,
gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Hầu hết các loại giá hàng hoá, dịch vụ
được xác lập theo cơ chế thị trường. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện
và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị
trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và nhận
được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương thức lãnh đạo của Đảng,


hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Những hạn chế, yếu kém:
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng
chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, đặc biệt là do: Nhận thức về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng
nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành,
nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm. Vai trò,
chức năng, phương thức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị chậm
đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập
quốc tế. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham
nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả
trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
* Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà

nước
- Những kết quả đạt được:
Thời gian qua, mặc dù còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục, nhưng
nhìn tổng thể, doanh nghiệp nhà nước, bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối, đã nỗ lực vươn
lên trong sản xuất, kinh doanh, không ngừng đổi mới, đạt được nhiều kết quả.
Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công cụ
quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách, đóng góp lớn trong
xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế; là nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã
hội.Thời gian tới, cần tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cơ cấu lại, đổi mới, nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy
được vai trò, vị trí then chốt trong khu vực kinh tế nhà nước, là một lực lượng vật
chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
- Những hạn chế, yếu kém:
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà
nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế.Hiệu quả sản
xuất kinh doanh và đóng góp của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa
tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; nợ nần, thua lỗ, thất thoát lớn. Cơ chế
quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, kém hiệu quả, chưa phù hợp
với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế.
Việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng về doanh
nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, bất cập. Chủ quan, nóng vội trong thực hiện


chủ trương thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động đa ngành.
Kỷ cương, kỷ luật không nghiêm.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ trong các doanh

nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế. Một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý doanh
nghiệp nhà nước yếu kém về năng lực quản lý, điều hành, sa sút về tinh thần trách
nhiệm, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, tham nhũng,
lãng phí.
Hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán của các
cơ quan quản lý nhà nước không cao. Tình trạng thực hiện chưa nghiêm túc chủ
trương của Đảng, vi phạm pháp luật, rủi ro, yếu kém, thua lỗ trong doanh nghiệp
nhà nước không được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
*Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Những kết quả đạt được:
Vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng, ngày càng tích
cực hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách từng bước được hoàn thiện. Quyền
tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và tổ chức được thể chế hóa và được
pháp luật bảo vệ. Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân được
đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Cải cách hành chính, nhất là cải cách
thủ tục hành chính được đẩy mạnh; môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước được
cải thiện, thông thoáng, thuận lợi hơn. Dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ngày
càng được phát huy.
Góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu
ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã
hội.
Đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, có khát vọng vươn lên làm giàu
chính đáng, không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị doanh nghiệp.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh
nhân dần được nâng lên.
Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và phát
triển đảng trong khu vực kinh tế tư nhân được các cấp ủy đảng quan tâm đổi mới,
hoàn thiện; đảng viên được làm kinh tế tư nhân và chủ doanh nghiệp của tư nhân

được thí điểm kết nạp vào Đảng.
- Những hạn chế, yếu kém:
Vẫn còn một số vấn đề về phát triển kinh tế tư nhân cần tiếp tục được cụ thể
hóa, làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn. Thể chế về phát triển doanh nghiệp,
doanh nhân còn nhiều bất cập. Công tác phổ biến, quán triệt và tuyên truyền chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân
chưa được thực hiện thường xuyên, đầy đủ, sâu rộng.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư


nhân hiệu quả chưa cao, chưa nghiêm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân, nhất là hạ tầng giao thông và nguồn nhân
lực.
Vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với sự phát triển của khu vực kinh
tế tư nhân còn bất cập; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các hiệp hội ngành nghề chưa thực sự hiệu
quả, chậm đổi mới theo yêu cầu thực tiễn; chưa làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, người lao động và người sử
dụng lao động.
Xuất phát điểm phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân còn thấp.
Đội ngũ doanh nhân mới hình thành và đang trong quá trình phát triển, hạn chế về
năng lực quản trị kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân.
3. Với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và vai trò, vị trí công
tác của mình, bản thân có đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp để cụ thể hóa và
tập trung thực hiện trong điều kiện của địa phương, cơ quan, đơn vị để góp
phần đưa các nghị quyết của trung ương, kế hoạch, chương trình hành động
của cấp trên và cấp mình đạt hiệu quả nhất.
* Nhiệm vụ chủ yếu:
Tập trung đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi phục vụ

nông nghiệp, nông thôn đi trước một bước để tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã
hội trong tương lai. Tập trung đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tập trung phát
triển mạnh nông nghiệp theo hướng công nghệ cao. Phát triển nông nghiệp đa dạng
cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản. Phát triển đa dạng các ngành dịch
vụ cả ở khu vực nông thôn. Xây dựng nông thôn mới từng bước đồng bộ, gắn với
xây dựng nếp sống văn minh. Đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc
theo hướng bền vững; gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
giảm sự chênh lệch khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong
huyện.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công
nghệ trong mọi lĩnh vực. Xây dựng đời sống văn hóa, môi trường văn hóa lành
mạnh, phát triển toàn diện. Nâng cao chất lượng công tác phòng bệnh và chữa
bệnh; nâng tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế. Đẩy mạnh thông tin, truyền
thông, phát thanh, truyền hình. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, giải quyết việc
làm, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống nhân dân. Quản lý, bảo vệ, khai
thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững tài nguyên; thực hiện tốt
công tác bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu.
Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội. Xây dựng
lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc; tích cực đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn các loại tội phạm, tai nạn,
tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các


cơ quan tư pháp. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu
nại, tố cáo.
Xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả,
chính quyền của dân, do dân, vì dân; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
đủ trình độ, năng lực, tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ

mới.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, tạo đồng thuận xã hội thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của
huyện.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác tư tưởng; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong
nội bộ; đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; coi trọng công
tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường và nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh trong thời kỳ mới.
* Các giải pháp chủ yếu:
Tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Triển
khai quyết liệt việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Tăng cường chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
Tập trung lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh.
Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Xây dựng
bộ máy hành chính nhà nước thật sự tinh gọn, năng động, chuyên nghiệp, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Triển khai thực hiện chủ trương tinh giản biên chế công
chức, viên chức nhà nước một cách quyết liệt và thực chất.
Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Mạnh
dạn, sáng tạo, quyết liệt trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách địa phương
cho sát với yêu cầu của thực tiễn, tạo môi trường thông thoáng thuận lợi cho đầu
tư, kinh doanh, phát triển sản xuất.
Tăng cường xây dựng và quản lý các quy hoạch, nhất là các quy hoạch chủ
lực, quy hoạch quan trọng về kinh tế - xã hội; trên cơ sở quy hoạch, lựa chọn các

lĩnh vực, địa bàn, dự án để tập trung đầu tư, tạo sự đột phá đi lên.
Khuyến khích phát triển đa dạng các thành phần kinh tế. Phát triển đồng bộ
các loại thị trường theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, trọng tâm là thị trường hàng
hoá, dịch vụ, thị trường lao động, tài chính, bảo hiểm, bất động sản, khoa học công
nghệ.


Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ trên các lĩnh vực. Có cơ chế khuyến khích các tổ chức và cá nhân có
những sáng kiến cải tiến kỹ thuật, có các đề tài, dự án mang tính nghiên cứu, ứng
dụng khoa học, công nghệ mới.
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó biến
đổi khí hậu.
Chú trọng công tác đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng và
thực hiện cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao.
Thực hiện tốt công tác bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết tốt các vấn đề
xã hội bức xúc. Thực thi nghiêm các chính sách, chế độ đối với người có công,
người nghèo, đồng bào dân tộc. Thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo.
Chú trọng đẩy mạnh công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội; củng cố vững chắc công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Làm tốt công tác tiếp công dân, giải
quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo.
Đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân. Tăng cường vai trò của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
tham gia vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thông qua mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày
càng vững chắc.
Nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại; chú trọng quảng bá, xây
dựng hình ảnh nhằm nâng cao vị thế địa phương.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thi đua, khen thưởng. Tăng cường
vận động các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội tham
gia tích cực vào các phong trào thi đua yêu nước, thi đua sản xuất kinh doanh, thi
đua xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa... phấn đấu thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của huyện./.
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

Nguyễn Quốc Khải



×