Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Luận văn khảo sát địa danh đường phố ở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 155 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

KHẢO SÁT ĐỊA DANH
ĐƯỜNG PHỐ Ở HÀ NỘI
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT THANH

HÀ NỘI – 2009

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. lí do chọn đề tài
Có nhiều cách để tiếp cận một không gian văn hoá, trong đó tìm hiểu
những nét đặc trưng mà địa danh để lại trên mình nó là một trong những
con đường như thế.
Địa danh là một trong những chứng cứ quan trọng để tìm hiểu và
nhận diện đặc trưng của một không gian văn hoá trên các mặt địa lí, lịch sử,
tộc người, ngôn ngữ, văn hoá….. Nhờ địa danh người ta có được hiểu biết
về sự giao tiếp và bảo lưu văn hoá, về quá trình lịch sử, văn hoá của một địa
bàn, một dân tộc; những vấn đề về lãnh thổ, lãnh hải, vấn đề chủ quyền và
biên giới quốc gia.


Nghiên cứu địa danh không những chỉ ra được những đặc điểm về
ngôn ngữ đặt tên của một vùng phương ngữ mà còn góp phần làm sáng tỏ
mối quan hệ giữa các địa danh với những lĩnh vực khác, đặc biệt là văn hoá.
Hà Nội là thủ đô đã gần một nghìn năm tuổi, với bề dày đáng tự hào
về lịch sử, văn hoá. Địa danh chính là tấm bia ghi lại những thăng trầm đó.
Trong đó, địa danh đường phố ở Hà Nội đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Địa danh đường phố là nhóm địa danh đặc trưng, tiêu biểu
trong hệ thống địa danh ở Hà Nội. Nghiên cứu địa danh đường phố sẽ góp
phần tìm ra nét chung của hệ thống địa danh ở Hà Nội cũng như nét riêng
biệt và đặc sắc của một đô thị cổ, cùng những bước đi liền mạch với vai trò
trung tâm trong suốt quá trình phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có nhiều chuyên luận nghiên cứu khoa học và sâu sắc về địa danh đường
2


phố ở Hà Nội, từ góc độ ngôn ngữ - văn hoá, nhằm khai thác và lí giải nhiều
vấn đề của quá khứ, cũng như hiện tại, trên nhiều phương diện như ngôn
ngữ, địa lí, lịch sử, dân tộc, văn hoá…
Để góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu về Thủ đô, đóng góp
cho những nghiên cứu về vùng đất ngàn năm văn hiến, thiết thực hướng tới
kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, chúng tôi đã chọn đề tài “Khảo sát
địa danh đường phố ở Hà Nội” để nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là toàn bộ hệ thống địa danh
đường phố ở Hà Nội, bao gồm tên gọi các đường, phố ở Hà Nội. Chúng tôi
sẽ đề cập chi tiết hơn về vấn đề này trong chương 1.
Đề tài chủ yếu sưu tầm, khảo sát địa danh đường, phố trên phạm vi
hành chính của thành phố Hà Nội, bao gồm địa bàn các quận, huyện hiện
nay, tính đến trước ngày 1/08/08. Tư liệu khảo cứu chủ yếu là ở diện đồng
đại. Theo số liệu của tổng cục thống kê, hiện nay trên địa bàn thành phố Hà

Nội, tính đến trước ngày 01/08/08, có tổng số 752 địa danh đường phố,
bao gồm 458 địa danh phố, 121 địa danh đường và 173 địa danh ngõ. Khi
khảo sát thực tế, một số địa danh có hiện tượng trùng, do đó con số thực tế
địa danh nghiên cứu là 697 địa danh. Chúng tôi dựa vào hệ thống những
địa danh này làm cơ sở để khai thác phần lớn nội dung của luận văn.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng dựa trên
các tài liệu về lịch sử để dựng lại một bức tranh toàn cảnh về địa danh
đường phố trong lịch sử.
3. Mục đích, { nghĩa nghiên cứu
3


Dựa vào kết quả khảo sát, thu thập tài liệu, tư liệu qua điều tra điền
dã, trên cơ sở tham khảo các tài liệu liên quan, trong luận văn này, chúng
tôi nêu một vài { kiến bước đầu có tính thử nghiệm về việc tìm hiểu địa
danh dưới góc độ văn hoá. Thông qua việc khảo sát phân loại quá trình hình
thành và biến đổi địa danh đường phố, những giá trị của địa danh đường
phố dưới góc độ văn hoá, luận văn mong muốn đưa ra một số nhận xét về
giá trị của địa danh đường phố ở Hà Nội như một yếu tố mang trong mình
nhiều giá trị văn hoá qu{ báu, như một chất liệu góp phần làm sáng tỏ thêm
về văn hoá Thăng Long – Hà Nội, đặc biệt là vấn đề địa chí văn hoá.
Nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà Nội cũng là dịp cho phép người
viết áp dụng thao tác nghiên cứu liên ngành như ngôn ngữ, văn học, lịch sử,
địa lí, dân tộc học, khảo cổ học, phong tục tập quán... để nhìn nhận và lí giải
vấn đề của một không gian văn hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp một số
phương pháp nghiên cứu sau:
Thứ nhất là các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học. Chúng
tôi sử dụng các kiến thức và phương pháp phân tích từ vựng, ngữ âm,

phương pháp khảo sát của phương ngữ học với hai bình diện tiếp cận là
đồng đại và lịch đại.
Thứ hai là những thao tác trong nghiên cứu khu vực học. Chúng tôi
nhìn nhận ngôn ngữ trong địa danh là vấn đề ngôn ngữ dưới góc độ khu
vực học, trọng tâm là xem xét ngôn ngữ như một đặc trưng của không gian
văn hóa. Đồng thời những tri thức của khoa học địa l{, lịch sử, văn hóa, dân
4


tộc học, xã hội học, phong tục tập quán…cũng được sử dụng để phục vụ
cho thao tác nghiên cứu liên ngành.
Ngoài ra những phương pháp nghiên cứu như thống kê, miêu tả, so
sánh, đối chiếu, phương pháp bản đồ…cũng được chúng tôi sử dụng để
nghiên cứu một đề tài liên quan nhiều đến địa chí dân gian.
Để hiểu rõ, hiểu sâu từng địa danh, từng lớp địa danh, qua đó thấy
được những lớp văn hoá biểu hiện ở đó, chúng tôi nhận thấy cần khảo sát
cả từ góc độ đồng đại lẫn lịch đại. Theo góc nhìn đồng đại, có thể nhìn thấy
hiện trạng biểu hiện của các loại địa danh trong một vùng, một khu vực.
Theo hướng lịch đại, lại có thể thấy được quá trình đổi thay, biến đổi qua
các thời kz của các địa danh mà mỗi lần biến đổi đó đều gắn với những sự
kiện, những biến cố của lịch sử, văn hoá trong một không gian cụ thể. Khi
nghiên cứu, chúng tôi chú trọng tới cả hai bình diện này, và sử dụng nó tuz
vào mục đích của nội dung khai thác.
5. Tư liệu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu địa danh đòi hỏi phải thu thập rất nhiều tài liệu từ nhiều
nguồn khác nhau. Để có được những thống kê và đánh giá khoa học, đầy
đủ, chúng tôi thu thập tài liệu từ những nguồn sau:
- Các văn bản của chính quyền các cấp trong quá khứ
Các tư liệu này có thể cho biết tình trạng địa danh của Hà Nội trong
những giai đoạn nhất định. Một số đã được in trong các niên giám, một số

đã được các nhà nghiên cứu sưu tập và công bố dưới dạng tác phẩm. Đây là
những tư liệu gốc, chính xác, hết sức cần thiết cho việc nghiên cứu địa
danh.
5


- Các số liệu, danh sách địa danh ở các cơ quan Nhà nước hiện nay
Chúng tôi sưu tập tài liệu này ở những nguồn sau: UBND Thành phố Hà Nội,
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch, sở Giao thông công chính, Cục Quản l{ di
sản văn hoá Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Thư viện Quốc gia, Thư
viện Hà Nội, thư viện Khoa học – xã hội…
- Tư liệu trên sách báo
Tư liệu trên sách báo bao gồm : Sách, báo, tạp chí, các công trình nghiên
cứu về ngôn ngữ, lịch sử, văn hoá, dân tộc học, xã hội học, địa danh học…và
đặc biệt là văn hoá dân gian có liên quan đến vấn đề địa danh.
Đây là những tài liệu rất quan trọng đối với đề tài, cho phép bổ sung
những địa danh có thể còn khuyết thiếu trong những tài liệu hành chính,
đa phần là những tên gọi trong dân gian, hoặc những tên gọi gắn liền với
những điển tích. Đây cũng là tư liệu quan trọng để góp phần giải nghĩa tên
gọi, đánh giá những đặc trưng về mặt văn hoá của địa danh.
- Tư liệu từ điển về ngôn ngữ, từ điển về địa danh, sách địa phương chí…
Địa danh là một lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học, do đó những
từ điển về ngôn ngữ cho phép nghiên cứu địa danh trên cả hai góc độ ngữ
và nghĩa, nhất là nguồn gốc ngữ nguyên, nó góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn
đề về yếu tố tộc người, diện mạo văn hoá….
- Tư liệu bản đồ
Các bản đồ về địa hình, hành chính, kinh tế, quân sự, văn hoá, kiến
trúc…cho phép xác định vị trí các địa danh, sự ra đời và mất đi của chúng,
cũng như cho phép hình dung được những không gian mang tính văn hoá,
6



nhất là với những khu vực tương đối đặc biệt như hiện tượng xuất hiện một
số địa danh có những yếu tố tên gọi giống nhau trong một không gian gần
nhau, các mối liên hệ giữa các loại địa danh khác nhau, nhưng trên một
phạm vi địa lí gần nhau. Nó giúp ích rất nhiều trong việc có được những
hình dung cũng như suy luận về các địa danh. Ở đây chúng tôi chú { một số
bản đồ chính:
+ Bản đồ cổ của huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương
+ Bản đồ Hà Nội năm 1831
+ Bản đồ Đồng Khánh địa dư chí lục
+ Bản đồ thời kz sau cách mạng: Bản đồ Hà Nội năm 1946, bản đồ Hà
Nội các năm 1953 – 1954, bản đồ Hà Nội 1955
+ Bản đồ Hà Nội trước 01/08/088
- Tư liệu điền dã
Đây là loại tư liệu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên các tài liệu
văn bản, giải đáp những băn khoăn, thậm chí chưa chính xác về những địa
danh trên văn bản, đồng thời mở ra cho người nghiên cứu nhiều hướng
nghiên cứu mới. Những tài liệu điền dã mà người viết chú trọng là hệ thống
tài liệu văn hoá dân gian, đặc biệt là văn học dân gian, như thần thoại,
truyền thuyết, thần tích, ca dao, tục ngữ….có liên quan đến các địa danh.
Những tư liệu này phần lớn nằm trong hương ước, gia phả, hay thần tích
của các làng. Nhiều tư liệu qu{ báu cũng có được nhờ ghi chép từ các lời kể
của những người lớn tuổi.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7


6.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Luân văn mong muốn xây dựng một bức tranh toàn cảnh về địa danh

đường phố ở Hà Nội một cách khái quát (trong quá khứ), và chi tiết (trong
hiện tại). Thông qua những lí luận, đánh giá, thấy được những đóng góp
quan trọng của địa danh trên nhiều lĩnh vực, nhất là những đóng góp trong
lĩnh vực ngôn ngữ học.
Luận văn cũng góp phần bước đầu khẳng định vai trò của địa danh
như một phương tiện quan trọng để nghiên cứu văn hoá và các khoa học
khác, đồng thời, bản thân nó cũng là một sản phẩm đặc sắc của văn hoá.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Thông qua những đóng góp về mặt { nghĩa khoa học, luận văn góp
phần vào công tác danh hóa các địa danh đường phố, đặc biệt trong vấn đề
đặt, đổi tên đường phố ở Hà Nội.
Với đề tài nghiên cứu địa danh đường phố, luận văn đóng góp vào
tiến trình nghiên cứu toàn bộ địa danh Hà Nội, góp phần lưu giữ những giá
trị qu{ giá của Thủ đô nhân kỉ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm:
Chương 1. Lí thuyết về địa danh và nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà
Nội
Chương 2. Phương thức định danh và cấu tạo địa danh đường phố ở Hà Nội
Chương 3. Quá trình hình thành và biến đổi của địa danh đường phố ở Hà
Nội

8


Chương 4. Góp phần khẳng định đặc trưng văn hoá của địa danh đường
phố ở Hà Nội

Chương 1.
LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH Ở HÀ NỘI

1.1.

Một số vấn đề lí thuyết về nghiên cứu địa danh

1.1.1. Cơ sở l{ luận và lược sử nghiên cứu địa danh
Khi nghiên cứu vốn từ vựng của một ngôn ngữ, tuz theo mục đích có
thể phân ra các hệ thống khác nhau như địa danh, nhân danh…Hệ thống
này gọi là hệ thống tên riêng nằm trong hệ thống từ vựng của một ngôn
ngữ. Trong ngôn ngữ học, ngành địa danh học (toponymic) và nhân danh
học (Athronnymic) thuộc bộ môn khoa học có tên là Danh xưng học.
Địa danh có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp “Topos” (vị trí) và “omoma”/
“onyma” (tên gọi). Theo A.V. Superanskaja “Địa danh là những từ ngữ chỉ
tên riêng của các đối tượng địa l{ có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” {97,
tr.21}.
Ở Việt Nam, theo Hán Việt từ điển của Phan Văn Các thì “Địa danh là
tên gọi các miền đất” {7, tr.71}. Từ điển Tiếng Việt cũng giải thích rất đơn
giản “Tên đất, tên địa phương”{66, tr.102}. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Âu
nêu quan niệm “Địa danh học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về
tên địa lí các địa phương”{2, tr.6}. Trong khi đó, tác giả Lê Trung Hoa có
nhận xét “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định, được dùng làm tên riêng
của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành chính,
các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều”
{41, tr.5}. Nguyễn Kiên Trường lại xác định “Địa danh là tên riêng chỉ các đối
9


tượng địa l{ tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất”.
{93, tr.16}.
Theo chúng tôi, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác
nhau nhưng các đối tượng địa l{ bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với

những cá thể độc lập. Đầu tiên, người ta thường sử dụng các tên chung để
định danh, tạo tên riêng cho đối tượng. Tên riêng của các đối tượng này
xuất hiện muộn hơn các tên chung chỉ loại. Do vậy, khi xác định khái niệm
địa danh cần phải chú { đến những vấn đề nội tại trong bản thân đối tượng.
Trước hết mỗi địa danh sinh ra đều có tính l{ do, sau đó là sự thể hiện chức
năng gọi tên và cá thể hoá. Từ kiến giải của các tác giả trong và ngoài nước
nói trên, chúng tôi sử dụng định nghĩa của Superanskaja để nghiên cứu. Do
đó, chúng tôi cũng chấp nhận cách phân loại địa danh thành 2 loại lớn là địa
danh tự nhiên và địa danh không tự nhiên. Địa danh tự nhiên là địa danh
gọi tên các đối tượng địa hình thiên nhiên, trong loại địa danh không tự
nhiên, chúng tôi chia nhỏ hơn thành các tiểu nhóm: tiểu nhóm địa danh chỉ
các đơn vị dân cư, hành chính; tiểu nhóm địa danh đường phố; tiểu nhóm
địa danh chỉ các công trình xây dựng.
Địa danh có hai đặc trưng quan trọng nhất là chức năng xã hội và
chức năng văn hoá của một cộng đồng cụ thể.
Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học, nghiên cứu cấu tạo,
ngữ nghĩa, nguồn gốc và sự biến đổi của các địa danh. Việc nghiên cứu địa
danh xuất hiện từ rất lâu. Nhiều sách lịch sử, địa lí của Trung Quốc không
những ghi chép địa danh mà còn chỉ ra cách đọc, ngữ nghĩa, vị trí diễn biến
và quy luật gọi tên. Đầu thời Đông Hán (32 – 92 sau CN), Ban Cố đã ghi chép
hơn 4000 địa danh, một số địa danh được giải thích rõ { nghĩa và nguồn
10


gốc. Đến thời Bắc Ngụy (380 – 535), Lịch Đạo Nguyên viết Thuỷ kinh Chú sớ,
trong đó có ghi chép 3 vạn địa danh {64, tr. 3}.
Cuối thế kỉ XIX, ở phương Tây môn địa danh học chính thức ra đời.
Năm 1872, J.J Eghi ( Thuỵ Sĩ) viết Địa danh học và năm 1903, J.

W.


Nagl

(người Áo) cũng cho ra đời tác phẩm Địa danh học. Những năm 90 của thế
kỉ XIX và 20 năm đầu của thế kỉ XX, các uỷ ban địa danh ở các nước được
thành lập: Uỷ ban địa danh nước Mĩ (BGN – 1890), Uỷ ban địa danh Thụy
Điển (1920), Uỷ ban địa danh nước Anh (1919)…Thời kì đầu các nhà địa
danh học quan tâm đến khảo cứu nguồn gốc địa danh. Bắt đầu từ thế kỉ XX,
J.Gilllénon (1854 – 1926) đã viết “Atlat ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa
danh theo hướng phát triển địa lí học. A.Dauzat (1926 – Pháp) đã viết “
Nguồn gốc và sự phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp địa lí học để
nghiên cứu các lớp niên đại của địa danh.
Ngày nay, địa danh học phổ thông nghiên cứu tổng hợp các nguyên lí
cơ bản về địa danh: sự xuất hiện, quy luật phát triển và quan hệ địa danh
với lịch sử địa lí trong một khu vực, địa danh, địa chí học nghiên cứu từng
địa danh về cách đọc, cách viết, cách dịch, tiêu chuẩn hoá có mục đích thực
tiễn. Ngoài ra địa danh học còn vận dụng phương pháp phân tích bản đồ để
nghiên cứu sự phân bố địa danh.
Đi đầu và đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu địa danh là các công
trình của những học giả Xô Viết trước đây. Có thể kể tên một số công trình
tiêu biểu như “Dẫn luận địa danh học” (M. 1965) và “Từ điển địa danh bỏ
túi” (M. 1968) của V.A. Nhikonov; “Môn địa lí trong các tên gọi” (M.1979)
của E.M. Muzaeve….Trong đó công trình “Địa danh học là gì?” của A.V.
Superanskaja là tác phẩm quan trọng nhất đã tổng kết thu gọn các tri thức cơ
11


bản của địa danh học như khái niệm, nhận diện, phân tích, phân loại địa
danh. {41, tr.11}
Hàng loạt các tác phẩm nghiên cứu địa danh khác và nhiều cuốn từ

điển địa danh cũng đã lần lượt xuất hiện ở Anh, Pháp, Hoa Kz, Đức, Trung
Quốc…
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu địa danh cũng đã có từ lâu, nhưng các
công trình nghiên cứu phần lớn đều tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu ngôn
ngữ. Với bài nghiên cứu công bố cách đây hơn 40 năm “Mối liên hệ về
ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á với qua một vài tên sông” {16}, Hoàng Thị
Châu được coi như một trong những người cắm cột mốc đầu tiên nghiên
cứu địa danh dưới góc nhìn ngôn ngữ học. Sau đó, những nghiên cứu của
tác giả Lê Trung Hoa {38} là những chuyên khảo đầu tiên về địa danh của
một địa phương là Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác phẩm này đã dựa vào
những cứ liệu ngôn ngữ học để nghiên cứu địa danh. Tiếp sau đó là luận án
Phó tiến sĩ của Nguyễn Kiên Trường, nghiên cứu địa danh thành phố Hải
Phòng {93}, tác giả Từ Thu Mai nghiên cứu địa danh Quảng Trị {61}. Những
công trình này đã có những đóng góp đáng trân trọng khi tiếp cận vấn đề
địa danh học dưới cách nhìn ngôn ngữ học….Tiếp theo các tác giả Trần
Thanh Tâm , Bùi Thiết {74}, {79} đã lần lượt nghiên cứu địa danh một số địa
phương, địa danh lịch sử văn hoá….
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu địa danh hiện nay về cơ
bản sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học để khai thác vấn
đề. Đây là một hướng nghiên cứu khoa học và chặt chẽ. Nó thường đi vào
tìm hiểu địa danh bằng những thao tác của ngôn ngữ học như từ vựng học,
ngữ pháp học, phương ngữ học, ngôn ngữ học lịch sử….Vì người nghiên cứu
12


coi địa danh như một lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ (địa danh học) nên
đã bỏ qua những yếu tố phi ngôn ngữ của địa danh, mà vấn đề này chỉ có
thể được nhìn nhận và sáng tỏ bằng nhiều khoa học khác.
1.1.2. Vấn đề địa danh đường phố trong nghiên cứu địa danh
Phân loại địa danh là vấn đề phức tạp, do sự khác biệt về cách phân

loại. Tuy nhiên, địa danh đường phố luôn là đối tượng được chú { trong hệ
thống phân loại địa danh.
Ở Liên Xô, nhà địa danh học A. V. Superanskaja chia địa danh thành 7
loại theo đối tượng mà địa danh biểu thị, gồm: 1) Phương danh; 2) Thuỷ
danh; 3) Sơn danh; 4) phố danh (tên các đối tượng trong thành phố); 5)
Viên danh; 6) Lộ danh (tên các đường phố); 7) Đạo danh. {97; tr.31}. Trong
khi đó, G. P. Smolicnaja và M. V. Gorbanevskij cũng chia địa danh theo 4
loại: 1) Phương danh; 2) Sơn danh; 3) Thuỷ danh; 4) Phố danh (tên các đối
tượng trong thành phố). {41, tr.25}.
Ở phương Tây, nhà nghiên cứu Ch. Rostaing cũng đề cập đến một
chương có tên là Các địa danh và tên đường phố trong tác phẩm Les noms
de lieux {41, tr.26}. Trong các nghiên cứu này, đường phố nằm trong hệ
thống phố danh, hoặc lộ danh.
Ở Việt Nam, đáng chú { nhất, là cách phân loại của Lê Trung Hoa. Căn
cứ vào đối tượng nghiên cứu, ông chia địa danh thành ba loại: địa danh chỉ
các địa hình tự nhiên, địa danh chỉ các công trình xây dựng, thiên về không
gian hai chiều như tên cầu, cống, chợ, đường phố, công viên… và địa danh
chỉ các đơn vị hành chính {41, tr.15}. Dựa theo cách phân loại này, tác giả
Nguyễn Kiên Trường đã có những phân chia nhỏ hơn, với nhiều tiểu nhóm,
13


trong đó có tiểu nhóm địa danh đường phố, bao gồm các đối tượng: cửa ô,
đại lộ, đoạn phố, đường, đường bao, đường vòng, đường xuyên đảo, ngã
ba, ngã năm, ngã sáu, ngã tư, ngõ, ngõ phố, phố, quảng trường {93, tr.31}.
Bản thân ngành địa danh học trong ngôn ngữ học cũng được chia
thành nhiều tiểu nhóm như sơn danh học, thuỷ danh học, phương danh
học và phố danh học. Trong đó, phố danh học là ngành học chuyên nghiên
cứu về tên gọi các đường phố và các đối tượng trong thành phố. Có thể sử
dụng sơ đồ của tác giả Lê Trung Hoa để khái quát mối quan hệ này:


14


NGÔN NGỮ HỌC

NGỮ ÂM HỌC

TỪ VỰNG HỌC

NGỮ PHÁP HỌC

DANH XƯNG HỌC

NHÂN DANH HỌC

SƠN
DANH
HỌC

ĐỊA DANH HỌC

THỦY
DANH
HỌC

PHƯƠNG
DANH
HỌC


HIỆU DANH HỌC

PHỐ
DANH
HỌC

Nguồn: {41, tr 20}
Khi khảo sát hệ thống địa danh ở Hà Nội, chúng tôi sử dụng kết quả
hệ thống phân loại địa danh của tác giả Nguyễn Kiên Trường khi nghiên cứu
địa danh Hải Phòng, do đây là kết quả thống kê có tính khái quát cao, có thể
áp dụng cho nhiều địa bàn khác nhau:

15


- Nhóm địa danh tự nhiên: Hồ, sông, ao, núi, vũng, đầm, đảo, gò, cánh đồng,
ruộng
- Nhóm địa danh hành chính, đơn vị cư trú: khu, khu phố, khu tập thể, phủ,
tổng, trại, tràng, trấn, thị trấn, làng, xóm, xã, thôn, giáp, khu, phường, quận,
huyện, thành phố, vùng…
- Nhóm địa danh công trình xây dựng: cầu, cống, bãi, bến, chợ, công viên,
vườn hoa, vườn thú, cung thể thao, cung văn hoá, đập , đê, đồn, khu di
tích, pháp trường, quảng trường, sân vận động, thành cổ, đình, chùa, am,
nhà thờ, quán.
- Nhóm địa danh đường phố: đường, phố, ngõ, dốc, quảng trường, cửa ô,
ngã ba, ngã tư, ngã năm, quốc lộ.
{93, tr.32}
Như vậy, đường phố là một đối tượng nghiên cứu quan trọng của địa
danh, tuz theo mỗi cách phân chia mà nó nằm trong những đối tượng cụ
thể. Theo chúng tôi, địa danh đường phố Hà Nội nên được xét vào nhóm

đối tượng riêng, vì nó mang trong mình những đặc trưng riêng biệt của
không gian, cũng như chức năng mà nó được gọi tên. Khi nghiên cứu những
đối tượng này, có thể nhận ra những ảnh hưởng quan trọng của vấn đề địa
– văn hoá trong tên gọi và những vấn đề biến đổi trên phương diện lịch đại.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lấy địa danh đường phố làm đối tượng
nghiên cứu chính, bao gồm thống kê những tên gọi của các đối tượng:
đường, phố, ngõ với cấu tạo chung gồm:
Đường ( phố, ngõ) + tên riêng.
Ví dụ: Đường Hoàng Hoa Thám, Phố Huế, Ngõ Dân Chủ…
16


Lí do chúng tôi chọn những đối tượng này vì đây là những tên gọi có
số lượng lớn, có tính hệ thống cao, có những biến đổi quan trọng và có
nhiều vấn đề gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của Hà Nội. Việc lựa
chọn này cũng là để chúng tôi có điều kiện đi vào nghiên cứu cụ thể và chặt
chẽ những đối tượng được chọn lọc, hơn là đi vào thống kê cả những đối
tượng khác mà xét về { nghĩa trên góc độ văn hoá và ngôn ngữ lại có sự
trùng lặp. Những l{ do cụ thể hơn, chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau của
đề tài.
1.1.3. Nghiên cứu địa danh bằng cái nhìn của nghiên cứu khu vực học,
dưới góc độ ngôn ngữ - văn hoá.
Là sản phẩm của một cộng đồng sử dụng ngôn ngữ nhất định, địa
danh là tấm bia phản chiếu đời sống văn hoá của cộng đồng đó trong suốt
chiều dài lịch sử. Cùng với những tác động của những quy luật ngôn ngữ và
những tác động của các yếu tố khác như yếu tố tộc người, đặc điểm lịch sử,
chính trị, tâm l{, văn hoá đã làm nên đặc điểm văn hoá của địa danh. Xét
trên góc độ này, địa danh có thể coi là sản phẩm văn hoá của một không
gian văn hoá cụ thể, và đến lượt mình, địa danh lại thể hiện trong đó những
giá trị nhiều mặt. Thông qua địa danh, có thể nhận biết được nhiều thông

tin qu{ báu về dân tộc, lịch sử, ngôn ngữ, văn hoá, địa l{, kinh tế, xã hội….
Trên thực tế, những nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam từ
trước đến nay thường hạn chế khi nghiên cứu địa danh dưới góc độ của
riêng khoa học ngôn ngữ, coi đây là một ngành của ngôn ngữ học, hoặc nếu
có xét địa danh dưới góc độ khác thì lại nặng về tính trình bày, như một
cuốn từ điển về lịch sử, địa chí. Tất cả những nghiên cứu này chưa thực sự
chú { đến tính khu vực và liên ngành để đi vào lí giải những vấn đề của địa
17


danh. Địa danh được hình thành và phát triển trong một không gian cụ thể,
biến đổi theo chiều dài của thời gian. Đặc thù của nó là gắn với bối cảnh của
rất nhiều các tác động với các yếu tố như địa l{, lịch sử, tộc người và tính
liên tục của văn hoá. Địa danh được ghi lại bằng chất liệu ngôn ngữ, do vậy
khi nghiên cứu địa danh, cần phải coi ngôn ngữ là chìa khoá và thao tác
chính để lí giải và nghiên cứu nhiều hiện tượng. Bản thân ngôn ngữ cũng
mang đậm tính khu vực. Nó góp phần hình dung diện mạo của chính khu
vực đang nghiên cứu, dưới nhiều góc độ. Đây là cách tiếp cận khoa học và
hợp l{. Tuy nhiên, như phần phương pháp nghiên cứu chúng tôi đã trình
bày, địa danh với chức năng định danh, cá thể hoá đối tượng, đồng thời
cũng mang chức năng phản ánh và bảo tồn nên nó mang trong mình nhiều
biểu hiện có tính ngôn ngữ lẫn phi ngôn ngữ. Vì thế vấn đề địa danh cần
được nhìn nhận bằng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, dưới nhiều
góc độ. Có thể khái quát mối quan hệ này bằng sơ đồ 1.2:

XÃ HỘI
HỌC

NGÔN
NGỮ


ĐỊA LÝ

VĂN
ĐỊA DANH
HỌC
KHOA
HÓA
HỌC
KHÁC

18

LỊCH SỬ


Hình 1.1. Sơ đồ mối quan hệ của địa danh học với các khoa học
khác
Nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà Nội từ góc nhìn ngôn ngữ và
văn hoá theo phương pháp nghiên cứu liên ngành khu vực học là xem xét
địa danh trong một không gian cụ thể, tìm ra sự ảnh hưởng của những đặc
trưng đó vào sự phản ánh trong địa danh. Đồng thời, thông qua các thao
tác của khoa học ngôn ngữ và những khoa học liên ngành khác, tìm ra
những nét đặc trưng của khu vực được thể hiện trong địa danh.

1.2.

Vấn đề nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà Nội

1.2.1. Lược sử nghiên cứu địa danh và địa danh đường phố ở Hà Nội

Nghiên cứu địa danh là một vấn đề còn mới mẻ ở Việt Nam và chưa có
nhiều công trình nghiên cứu. Cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu về địa danh Hà Nội một cách khoa học và đầy đủ. Những địa danh ở Hà
Nội đã được nhắc đến từ rất sớm trong những tài liệu của người Trung Quốc,
sau này là trong các tài liệu của triều đình phong kiến, trong văn học dân
gian. Là vùng đất cổ, đế đô của nhiều triều đại, thể chế, việc địa danh ở Hà
Nội xuất hiện nhiều và phổ biến là điều dễ hiểu.
Những công trình nghiên cứu về địa danh Hà Nội mới chỉ xuất hiện từ
thế kỷ thứ XIX. Đó là những công trình thiên về lịch sử, liệt kê các đơn vị hành
chính, mô tả phong vật, sông núi, thành trì, nhân vật, sản vật của vùng đất Hà
Nội xưa, bao gồm địa bàn chủ yếu của hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương,
nay thuộc quận Ba Đình và Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đầu tiên là công trình “Các
trấn, tổng, xã danh bị lãm” (1810), thu thập tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
19


XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra, trong đó có địa danh làng, xã Hà Nội
{63, tr.396}. Tiếp đó là cuốn “Bắc Thành địa dư chí lục” (1818 – 1821) do Lê
Chất biên soạn, có ghi chép 12 trấn thuộc Bắc Thành, nay là 12 tỉnh miền Bắc
{63, tr. 271}. Năm 1866, “Hà Nội địa bạ” xuất bản với danh sách các địa danh
đến tận xã, phường, thôn, trại của tỉnh Hà Nội thời Tự Đức {63, tr.1034}. Tiếp
theo đó là các cuốn “Đại Việt địa dư toàn biên” của Bùi Hữu Trúc, “Phương
Đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu, xuất bản năm 1882; “Đồng Khánh địa
dư toàn biên” năm 1888 {63, tr.624}, {63, tr.3034}, {63, tr.702}. Bên cạnh đó,
còn có những ghi chép về sông núi, thành trì …thuộc địa bàn Hà Nội khá tỷ mỉ
như “Hà Nội, sơn xuyên phong vực”, “Hà Nội địa dư”…{63, tr.2035}, {63,
tr.1157}. Các công trình này không có giá trị nhiều về l{ luận nghiên cứu mà
chỉ được xem như là nguồn tư liệu cho việc khảo sát địa danh ở Hà Nội.
Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp thực hiện việc nghiên cứu địa danh
Hà Nội mang tính ghi chép chủ yếu để phục vụ cho công cuộc xâm lược.

Điều này được thể hiện rõ trong tài liệu lưu trữ 1873 – 1954 của trung tâm
Lưu trữ Quốc gia I, về địa giới hành chính, về giao thông đô thị….do người
Pháp ghi chép. Ở thời kz này nhiều tên gọi địa danh được đặt thêm, mang
màu sắc của địa danh phương Tây. Ngoài ra, các kho thần tích, thần sắc Hà
Nội năm 1938 có ghi chú rõ ở ngõ, làng, phố, khu phố nào, đình nào có bao
nhiêu đạo sắc phong, bao nhiêu nhân thần, thiên thần, hoàng thành và tên
gọi của chúng. Cũng có những địa danh bị mất đi nhưng vẫn có thể suy luận
ra nay ở đâu nhờ tên nhân thần, thành hoàng…của khu vực đó. Như vậy
việc nghiên cứu địa danh Hà Nội ở thời kz này cũng chỉ dừng lại ở việc khảo
sát, không mang tính l{ luận.
Địa danh đường phố Hà Nội được nhắc đến từ cuối đời Lê trong tài
liệu “Lịch triều hiến chương loại chí” {63, tr. 2877}. Đến đời Nguyễn nó trở
20


nên phổ biến hơn trong các tài liệu như “Đại Nam nhất thống chí” {63,
tr.675, trong tài liệu của một số nhà buôn người Pháp, trong ca dao, tục
ngữ…nhưng đó chỉ là những tài liệu có nhắc đến tên phố mà chưa đi vào
khảo sát thống kê như một chuyên đề.
Tài liệu đầu tiên còn lưu lại đến ngày nay có đề cập đến hệ thống địa
danh đường phố, tuy chưa đầy đủ nhưng bước đầu đã có { nghĩa như một
khảo sát, thống kê là cuốn “Đại Nam nhất thống chí”, có nêu tên 21 phố
nhưng chưa có thống kê về vị trí, xuất xứ hoặc { nghĩa tên gọi. Sau đó,
những tài liệu thời Pháp thuộc như “Hà Nội địa bạ”, “Hà Nội chỉ nam”, “Hà
Nội sơn xuyên và phong tục”… đã có những thống kê thứ tự các đường
phố ở Hà Nội, cả tiếng Pháp lẫn tên quen thuộc của người Việt, vị trí, độ dài
của những đường phố đó. Tuy nhiên, những tài liệu này vẫn nặng về tính
chất hành chính hơn là một tài liệu nghiên cứu.
Thời hiện đại, hàng loạt các công trình nghiên cứu về đường phố và
địa danh đường phố Hà Nội đã ra đời như những nghiên cứu về lịch sử, địa

chí, văn hoá. Tiêu biểu có các tài liệu “Tiểu sử các tên phố Hà Nội” – Đinh
Gia Thuyết – 1951, “Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX” - Nguyễn Văn Uẩn – 1987
{89}, {95}. Gần đây đáng chú { có các tài liệu “Hà Nội tự điển” – Bùi Thiết –
1991, “Từ điển đường phố Hà Nội” - Nguyễn Loan, Nguyễn Hoài – 1994,
“Từ điển đường phố Hà Nội” – Giang Quân – 2003 {79}, {59}, {68}. Điểm
giống nhau của những tài liệu này là sự thống kê, phân loại địa danh đường
phố theo thứ tự A, B, C…Mỗi địa danh có nêu độ dài, vị trí, tên gọi trước đó
(nếu có), nguồn gốc tiểu sử và những di tích danh thắng trên đường phố
đó. Đây là những khảo sát tỷ mỉ, công phu, như một cuốn từ điển, giúp
người đọc có những hiểu biết cụ thể về từng địa danh. Tuy nhiên, vấn đề
chỉ dừng lại ở đó mà chưa có những nghiên cứu khoa học về địa danh
21


đường phố như một vấn đề của ngôn ngữ, và văn hoá. Mặt khác, do chú
trọng về diễn biến thời gian mà những tài liệu này thường hướng đến cái
nhìn lịch đại của địa danh đường phố mà chưa thấy được cái nhìn đồng đại
về những gì còn đọng lại của hệ thống địa danh đường phố ngày nay qua
quá trình biến đổi và chắt lọc của lịch sử.
Địa danh đường phố là một vấn đề đặc sắc và thú vị của Thăng Long –
Hà Nội, nhưng chưa được khai thác như một vấn đề có tính khoa học của
ngôn ngữ, văn hoá. Vì vậy, người viết mạnh dạn xây dựng đề tài “Khảo sát
địa danh đường phố ở Hà Nội”, coi đó là một vấn đề cần khảo sát, nghiên
cứu của khoa học liên ngành, đặc biệt với địa hạt ngôn ngữ và văn hoá.
1.2.2. Vấn đề lựa chọn địa danh đường phố ở Hà Nội để nghiên cứu
Hà Nội là đô thị cổ, kinh đô của nhiều triều đại phong kiến. Tính chất
đô thị hẳn nhiên là nét đặc sắc và tiêu biểu của vùng đất này, là vấn đề mà
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Địa danh đường phố là một biểu hiện
quan trọng, một hình thức phản ánh có tính chất đặc biệt tính đô thị đó.
Trong khi khảo sát, chúng tôi nhận thấy địa danh đường phố, xét về

xuất xứ, là sự biến đổi, chuyển hoá từ hầu hết hệ thống địa danh khác (địa
danh tự nhiên, địa danh hành chính, cư trú, địa danh các công trình xây
dựng….). Nó là hệ quả đặc biệt của quá trình đô thị hoá lâu dài và liên tục
trong lịch sử. Do đó, nghiên cứu địa danh đường phố Hà Nội, tuy là một đối
tượng nhỏ trong hệ thống phân loại địa danh, nhưng khi nghiên cứu, lại góp
phần khái quát được những nét tiêu biểu của địa danh Hà Nội nói chung,
tránh những thống kê có tính trùng lặp, rườm rà, làm ảnh hưởng đến quá
trình khai thác theo hướng chuyên sâu.
Địa danh đường phố mang trong mình những giá trị đặc sắc nhiều
mặt về lịch sử, địa l{, văn hoá, ngôn ngữ….trong một không gian phân bố
22


rộng nhưng lại có tính thống nhất cao. Nó rất phù hợp với những nghiên
cứu theo hướng khu vực học liên ngành. Nó góp phần quan trọng vào việc
phục dựng diện mạo không gian văn hoá Thăng Long – Hà Nội, đồng thời
cũng góp phần kiến giải nhiều vấn đề về ngôn ngữ, văn hoá của mảnh đất
nghìn năm văn hiến. Do đó chúng tôi chọn đối tượng địa danh đường phố
để đi sâu nghiên cứu.
Tiểu kết chương 1
Địa danh học là khoa học phát triển trên thế giới và có vị trí quan
trọng trong đời sống xã hội. Với tư cách là một bộ phận của ngôn ngữ, địa
danh mang trong mình những đặc điểm vốn có của ngôn ngữ. Vì thế, nó là
đối tượng nghiên cứu của cả từ vựng học, ngữ âm học, ngữ pháp học và
phương ngữ học. Ở Việt Nam, ngành học này vẫn còn non trẻ, đang trên
đường hình thành. Tác giả Nguyễn Văn Âu là nhà nghiên cứu đầu ngành
trong lĩnh vực này ở Việt Nam.
Nghiên cứu địa danh thường được nhìn nhận dưới góc độ của ngôn
ngữ học. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều hướng nghiên cứu chú trọng đến yếu
tố liên ngành trong nghiên cứu địa danh. Đây là hướng đi phù hợp để khai

thác vấn đề địa danh dưới nhiều góc độ, nếu chỉ nhìn nhận dưới cái nhìn
của ngôn ngữ sẽ có những hạn chế nhất định. Nghiên cứu địa danh theo
hướng liên ngành, khu vực học là một trong những hướng nghiên cứu phù
hợp, góp phần phác họa bức tranh toàn cảnh về lịch sử, địa l{, văn hóa,
ngôn ngữ, tộc người…trong một không gian địa l{, văn hóa cụ thể.
Hà Nội trong quá trình phát triển lâu dài với nhiều biến động đã để lại
những dấu ấn trên hệ thống địa danh, trong đó đặc biệt đáng chú { là lớp
địa danh đường phố. Đây được coi là hệ thống địa danh đặc sắc và tiêu biểu
23


của Thăng Long – Hà Nội. Nghiên cứu địa danh Hà Nội nói chung và địa
danh đường phố Hà Nội nói riêng chưa được đánh giá đúng mức và chưa
được nghiên cứu như một vấn đề khoa học của ngôn ngữ và văn hóa.

Chương 2
24


Phương thức định danh và cấu tạo địa danh đường phố
Hà Nội đương đại
2.1. Một số nét khái quát về không gian văn hoá Thăng Long – Hà Nội
Không gian văn hóa Thăng Long – Hà Nội được hình thành trên cơ sở
vùng hạt nhân trung tâm và những biến đổi của địa giới hành chính, gắn với
những biến động của lịch sử. Tuy nhiên, không gian văn hóa không đồng
nhất với không gian hành chính, địa giới vùng văn hóa không thể coi là địa
giới hành chính. Nói đến vùng văn hóa không thể xác định rõ ràng vị trí như
vùng địa l{ hành chính. Khi nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi sử dụng khái
niệm vùng văn hóa của GS Ngô Đức Thịnh:
Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt

hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có mối quan hệ nguồn
gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong
vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với vùng văn
hóa khác.
{84, tr.64}
Theo chúng tôi, không gian văn hóa Thăng Long – Hà Nội, nếu xét hạt
nhân trung tâm chính là vùng nội thành, gồm phạm vi bốn quận là Hoàn
Kiếm, Ba Đình, Đống Đa và Hai Bà Trưng cùng những vùng ven nội mà ngày
nay đã mở rộng thành quận là Cầu Giấy, Thanh Xuân, Tây Hồ, Hoàng Mai và
Long Biên. Nếu mở rộng vùng ảnh hưởng và những mối quan hệ trong lịch
sử thì địa vực vùng văn hóa Thăng Long – Hà Nội có thể tính thêm cả những
25


×