Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Nghiên cứu tái sinh tự nhiên dưới tán rừng thông mã vĩ (pinus massoniana lamb) tại vườn quốc gia tam đảo vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 83 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tam Đảo là một dãy núi cao, chạy dài trên 80 km và nằm độc lập ở
Trung tâm miền Bắc Việt Nam. Núi Tam Đảo có nhiều tài nguyên quý, nhiều
tác dụng tốt phục vụ cho cuộc sống con người như bảo vệ môi trường sống,
điều tiết và cung cấp nước, là môi trường sống của trên 2.000 loài thực vật và
hàng ngàn loài động vật, côn trùng, là nơi phục vụ cho công tác nghiên cứu
khoa học rất tốt. Trong thời gian qua Nhà nước đã quan tâm đến công tác bảo
vệ rừng để bảo vệ môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học... Thể hiện qua
chiến lược xây dựng hệ thống các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, giảm
thiểu việc khai thác gỗ rừng tự nhiên, thực hiện có hiệu quả chương trình
trồng mới 5 triệu ha rừng... Vườn Quốc gia (VQG) Tam Đảo được thành lập
với tổng diện tích tự nhiên là 36.883 ha và nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Vĩnh
Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Rừng Thông mã vĩ là kiểu rừng trồng có quy mô khá lớn ở Vườn Quốc
gia Tam Đảo với diện tích trên 1000 hectare được trồng từ những năm 1890
thời Pháp thuộc, trải qua nhiều năm sau diện tích rừng trồng Thông mã vĩ
ngày càng được nhân rộng từ chân lên đến độ cao khoảng 800 m so với mực
nước biển. Đây là khu rừng tiếp nối với rừng nguyên sinh và thứ sinh trên
đỉnh Vườn, nó có ý nghĩa rất quan trọng không những về giá trị môi trường
mà còn về giá trị nhân văn trên địa bàn Tam Đảo. Từ khi Vườn được thành
lập (1996) đến nay, rừng Thông mã vĩ cũng được bảo vệ nghiêm ngặt. Chính
vì vậy với khu rừng lớn liền kề rừng nguyên sinh và thứ sinh trong suốt một
thời gian dài, rừng Thông mã vĩ tại Tam Đảo có thể đã có một số lượng lớn
các loài cây tái sinh dưới tán rừng, nhiều loài cây có thể là cây gỗ có giá trị
cao về mặt kinh tế hay có giá trị cao về tính đa dạng sinh học, quá trình tái
sinh như vậy là cơ sở quan trọng để chuyển hóa rừng trồng Thông thành rừng
cây bản địa tự nhiên có giá trị cao hơn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có
các đề tài nghiên cứu sâu về quá trình tái sinh tự nhiên này tại Tam Đảo, vì
vậy luận văn này được xây dựng nhằm giúp phần tìm hiểu kỹ hơn về quá trình


tái sinh tự nhiên trên.


2

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng. Biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một thế hệ cây
con của những loài cây gỗ ở các nơi có hoàn cảnh rừng (hoặc mất rừng chưa
lâu): dưới tán rừng, lỗ trống trong rừng, rừng sau khai thác, trên đất rừng sau
làm nương đốt rẫy... Vai trò lịch sử của thế hệ cây con này là thay thế thế hệ
cây gỗ già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng, hiểu theo nghĩa hẹp, là quá trình phục hồi
lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Sự xuất hiện lớp cây con là nhân tố mới làm phong phú thêm số lượng
và thành phần loài trong hệ sinh thái rừng (thực vật, động vật, vi sinh vật),
đóng góp vào việc hình thành tiểu hoàn cảnh rừng và làm thay đổi cả quá trình
trao đổi vật chất và năng lượng diễn ra trong hệ sinh thái. Do đó, tái sinh rừng
có thể hiểu theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng. Tái sinh
rừng thúc đẩy việc hình thành cân bằng sinh học trong rừng, đảm bảo cho rừng
tồn tại liên tục và do đó bảo đảm cho việc sử dụng rừng thường xuyên.
Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của loài cây tái sinh, điều kiện địa lý
và tiểu hoàn cảnh rừng là cơ sở tự nhiên quan trọng có tác dụng quyết định, chi
phối sự hình thành nên những quy luật tái sinh rừng. Ở các vùng tự nhiên khác
nhau, tái sinh rừng diễn ra theo các quy luật khác nhau. Tái sinh rừng nhiệt đới
tự nhiên là một vấn đề cực kỳ phức tạp. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ cho thấy việc
áp dụng máy móc các phương thức tái sinh kinh điển của các vùng ôn đới vào
các nước nhiệt đới nói chung và Việt Nam nói riêng không thể mang lại kết quả
mong muốn. Ở đây, khẳng định lại một lần nữa, tái sinh rừng không chỉ là một

hiện tượng sinh học mà còn là một hiện tượng địa lí. Những kiến thức về sinh
thái tái sinh rừng bao gồm mối quan hệ giữa loài cây tái sinh với hoàn cảnh sinh


3

thái, đặc biệt là tiểu hoàn cảnh rừng, mối quan hệ sinh vật trong hệ sinh thái rừng
có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu quy luật tái sinh trong từng loại
hình rừng cụ thể và là cơ sở khoa học quan trọng cho việc đề xuất các biện pháp
tái sinh rừng có hiệu quả.
Do sự phát triển công nghiệp ở thế kỷ 19, trong lâm nghiệp đã hình
thành xu hướng thay thế rừng tự nhiên bằng rừng trồng nhân tạo có năng suất
cao đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Nhưng sau những thất bại về tái sinh
nhân tạo ở Đức và một số nước ở vùng nhiệt đới, nhiều nhà khoa học đã nêu
khẩu hiệu “Hãy quay trở lại với tái sinh tự nhiên”.
Đặc điểm tái sinh rừng được nhiều nhà khoa học quan tâm đến là thế hệ
cây tái sinh có tổ thành giống hay khác biệt với tổ thành tầng cây cao
(Mibbread, 1930; Richards, 1933[19]; Baur, 1964; Aubrerille, 1938)[16]. Qua
đó đã làm sáng tỏ thêm khái niệm về tái sinh rừng, góp phần tạo cơ sở khoa
học cho nghiên cứu tái sinh rừng.
Với rừng nhiệt đới số lượng loài cây trên một đơn vị diện tích khá lớn,
tổ thành loài cây phức tạp, nên kinh doanh những loài cây đã rất khó có thể
mang lại hiệu quả mong muốn. Trong thực tiễn lâm sinh người ta chỉ tập
trung nghiên cứu những loài đáp ứng được mục đính kinh doanh và nhu cầu
của thị trường.
Vấn đề tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là
hiệu quả của các phương thức xử lý lâm sinh đến tái sinh rừng của các loài
cây mục đích trong các kiểu rừng. Qua đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng
thành công nhiều phương thức chặt tái sinh, công trình của Kennedy (1935),
Lancaster (1953) Taylor (1854), Jones (1960), Foggie (1960), Rosevear

(1974) ở Nigiêria và Gana, Schultz (1960) ở Xurinam với phương thức chặt
dần tái sinh dưới tán rừng, Brooks (1941), Ayoliffe (1952) với phương thức
chặt dần nhiệt đới (T.S.S) ở Trinidat. Griffith (1947), Barnerji (1959) với


4

phương thức chặt dần nâng cao vòm lá ở Andamann [20]. Công trình của
Bernard (1951-1954), Wyatt Smith (1961, 1963) với phương thức rừng đều tuổi
ở Malaysia, Nichalson (1958) ở Bắc Borneo, Donis và Maudova (19541951)[32] với phương thức đồng nhất hoá tầng trên ở Zaia... Chi tiết về các bước
xử lý cũng như hiệu quả của từng phương thức đối với tái sinh đã được Baur
(1964) tổng kết trong tác phẩm “Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng
mưa”.[1]
Ở rừng nhiệt đới, hiện tượng tái sinh có nhiều điểm khác biệt. Van Steenis
(1956) [33] đã nêu hai đặc điểm tái sinh phổ biến. Đó là tái sinh phân tán liên tục
của các loài cây chịu bóng và kiểu tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Ngoài ra theo nhận xét của A. Obrevin (1938) khi nghiên cứu các khu
rừng nhiệt đới ở Châu Phi, còn đưa ra lý luận bức khảm tuần hoàn hay lý luận
tái sinh tuần hoàn, nhưng phần lý giải cho hiện tượng đó còn hạn chế. Vì vậy,
lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản xuất
các biện pháp điều khiển tái sinh rừng theo mục tiêu kinh doanh đề ra.
Với phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng
cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1972) [30] với diện
tích ô đo đếm thông thường 1-4m2. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi
trong điều tra tuy nhiên số lượng ô phải đủ lớn mới phản ảnh được thực trạng
của quá trình tái sinh. Để giảm sai sót khi nghiên cứu thống kê tái sinh tự
nhiên, Barnard (1950)[34] đã đề nghị một phương pháp điều tra chuẩn đoán
mà theo đó kích thước các ô đo đếm có thể thay đổi tùy theo giai đoạn phát
triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau.
H.Lamprecht (1989)[31] căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây

trong suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa
sáng, nhóm cây trung sinh và nhóm cây chịu bóng. Kết cấu của quần thụ lâm


5

phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng. ID.Yurkevich (1960) đã chứng minh độ
tàn che tối ưu cho sự phát triển bình thường của đa số loài cây gỗ là 0,6-0,7.
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt
đới, đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu của P.W. Richards (1952)[19].
Ở châu Phi, trên cơ sở số liệu thu thập được, Taylor (1954), Bennard (1955)
xác định cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt, cần phải bổ sung bằng
cách trồng rừng. Các tác giả nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới châu Á như:
Budowski (1956); Bara (1954); Catinot (1965) lại có nhận định rằng: Dưới
tán rừng nhiệt đới, nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế,
do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ cây tái sinh sẵn có
dưới tán rừng, (Dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [4].
Đối với rừng nhiệt đới các nhân tố sinh thái như ánh sáng, độ ẩm đất, kết
cấu quần thụ, cây bụi, thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình tái sinh rừng, cho đến nay đã có nhiều công trình công bố về vấn đề này.
Baur G.N. (1962)[1] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển
cây con còn đối với sự nảy mầm và phát triển cây mầm thì ảnh hưởng này
thường không rõ ràng. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái
sinh thường khá lớn, nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không
nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được
nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh phục hồi sau nương rẫy.
Độ khép tán của quần thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức
sống của cây con. Trong công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây
con và quần thụ V.G.Karpov (1990) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan
hệ cạnh tranh về dinh dưỡng đất khoáng, độ ẩm và tính không thuần nhất của

quan hệ giữa các thực vật, tùy thuộc đặc điểm sinh vật học, tuổi và điều kiện
sinh thái của quần thể thực vật (Dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 2002)[26].


6

Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây
bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố khoáng của tầng đất mặt
đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần thụ
kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây bụi sinh
trưởng kém nên ảnh hưởng của nó không đáng kể đến cây tái sinh. Những
lâm phần đã qua khai thác, thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh là nhân tố
ảnh hưởng xấu đến tái sinh rừng. Ghent. A. W (1969) [30] đề nghị, thảm mục,
chế độ thuỷ nhiệt, tầng đất mặt với tái sinh rừng cũng cần được làm rõ.
Nghiên cứu khả năng tái sinh của thực vật sau nương rẫy từ 1-20 năm ở
vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ranmaksishnan (1981,1982) đã cho biết chỉ số đa dạng
loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn
thế và giảm dần theo thời gian bỏ hóa. Long Chun và cộng sự (1993) đã
nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishhuang banna
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: Tại Baka khi nương rẫy bỏ hóa được 3
năm có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hóa 19 năm thì có 60 họ, 134 chi,
167 loài thực vật (Dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000)[2]
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả
nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới Colombia và
Venezuela nhận xét: sau khi bỏ hóa, số lượng loài thực vật tăng dần từ ban
đầu đến rừng thành thục, thành phần của các loài cây phụ thuộc và tỷ lệ loài
nguyên thủy mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá trình tái sinh, thời
gian phục hồi khác nhau, phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác của khu vực
đó (Dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000)[2]. Kết quả nghiên cứu của Lambertetal
(1989), Waner (1991), Rouw (1991) [29] đều cho thấy quá trình diễn thế sau

nương rẫy như sau: đầu tiên đám nương rẫy được các loài cỏ xâm chiếm,
nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ các vùng lân
cận hỗ trợ cho việc hình thành quần thụ các loài cây gỗ, tạo ra tiểu hoàn cảnh


7

thích hợp cho sinh trưởng của cây con. Những loài cây gỗ tiên phong chết đi
sau 5-10 năm và được thay thế dần bằng các loài cây mọc chậm, ước tính cần
phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ mới chuyển thành loài hình rừng
gấn với dạng nguyên sinh ban đầu.
Các công trình nghiên cứu được trích dẫn trên đây, đã phần nào làm
sáng tỏ đặc điểm tái sinh rừng tự nhiên ở rừng nhiệt đới, đó là những cơ sở để
xây dựng các phương thức tái sinh. Trong nghiên cứu, việc điều tra đánh giá
tái sinh cần lựa chọn những phương pháp phù hợp với đối tượng nghiên cứu.
Cần phân chia các giai đoạn tái sinh và các nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh tự
nhiên. Trong điều kiện nhất định, cần xác định đối tượng và giới hạn nghiên
cứu cho từng loại hình rừng cụ thể.
1.2. Ở Việt Nam
Nghiên cứu về quy luật tái sinh tự nhiên và diễn thế thứ sinh của các ưu
hợp thực vật rừng nhiệt đới, Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978)[28] đã nhận
định: Sự phát sinh các loại hình quần thể có thành phần loài cây khác nhau được
nghiên cứu đầy đủ trước đây nên cho rằng trong rừng nhiệt đới không có quần
hợp mà chỉ có những loài ưu thế, do đó đề nghị lấy kiểu thảm thực vật làm đơn vị
cơ bản của thảm thực vật.
Đã có nhiều nghiên cứu về tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng và rừng tự
nhiên ở nước ta. Kết quả nghiên cứu về tái sinh thường được đề cập trong các
công trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa học và một phần
được công bố trong các tạp chí.
Ở miền Bắc nước ta từ 19621969, Viện điều tra quy hoạch rừng đã

điều tra tình hình tái sinh tự nhiên theo các “loại hình thực vật ưu thế” rừng
thứ sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn
(1969). Đáng chú ý là công trình điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng Sông Hiếu
(19621964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. Kết quả điều tra đã được


8

Vũ Đình Huề (1975)[10] tổng kết trong báo cáo khoa học “Khái quát về tình
hình tái sinh tự nhiên ở rừng miền Bắc Việt Nam”. Theo báo cáo đó, tái sinh
tự nhiên ở rừng miền Bắc Việt Nam cũng mang những đặc điểm tái sinh của
rừng nhiệt đới, cụ thể ở rừng nguyên sinh, tổ thành các loài cây tái sinh tương
tự như tầng cây gỗ, dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ mềm kém
giá trị, hiện tượng tái sinh theo đám được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố số
cây không đồng đều trên mặt đất rừng. Từ kết quả đó, tác giả đã xây dựng biểu
đánh giá tái sinh áp dụng cho các đối tượng rừng lá rộng miền Bắc nước ta.
Khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái Văn Trừng
(1978)[28] đã nhấn mạnh tới ý nghĩa của điều kiện ngoại cảnh đến các giai đoạn
phát triển cây tái sinh. Theo tác giả, ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên cả ở rừng nguyên sinh lẫn rừng thứ sinh.
Trần Ngũ Phương (1970) [18] khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới mưa
mùa lá rộng thường xanh đã có nhận xét “rừng tự nhiên dưới tác động của con
người khai thác hoặc làm nương rẫy, lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết quả cuối cùng
là sự hình thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm thực vật hoang dã
tự nó phát triển lại, thì sau một thời gian dài trảng cây bụi, trảng cỏ chuyển dần
lên những dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình tái sinh tự nhiên và cuối
cùng rừng có thể phục hồi dưới dạng gần giống trạng thái rừng ban đầu”.
Ảnh hưởng của các biện pháp lâm sinh tới tái sinh tự nhiên của quần xã
thực vật còn được một số tác giả nghiên cứu như Phùng Ngọc Lan (1984)[14],
Hoàng Kim Ngũ [17] (1984), Nguyễn Duy Chuyên (1985), Nguyễn Ngọc Lung

[15](1985).
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Trương (1983)[23] đã đề cập
đến mối quan hệ giữa cấu trúc rừng với tái sinh tự nhiên trong rừng hỗn loài.
Hiện tượng tái sinh lỗ trống ở các rừng thứ sinh vùng Hương Sơn-Hà Tĩnh đã
được Phạm Đình Tam (1987) [21] làm sáng tỏ. Theo tác giả, số lượng cây tái


9

sinh xuất hiện khá nhiều dưới các lỗ trống khác nhau. Lỗ trống càng lớn, cây
tái sinh càng nhiều và hơn hẳn những nơi kín tán. Từ đó tác giả đề xuất áp
dụng phương thức khai thác chọn, tái sinh tự nhiên.
Nguyễn Duy Chuyên (1988)[3] khi nghiên cứu cấu trúc, tăng trưởng
trữ lượng và tái sinh tự nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn loài cho ba vùng
(Sông Hiếu, Yên Bái, Lạng Sơn), đã khái quát đặc điểm phân bố của nhiều
loài cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý thuyết. Từ đó làm
cơ sở định hướng giải pháp lâm sinh cho các vùng sản xuất nguyên liệu.
Một số tác giả khác cũng đã có những công trình nghiên cứu về tái sinh tự
nhiên mà đối tượng là nhóm loài cây hoặc một loài cây cụ thể. Công trình nghiên
cứu của Đinh Quang Diệp (1993)[6] nghiên cứu tiến trình tái sinh và ảnh hưởng
của một số nhân tố đến từng giai đoạn tái sinh của nhóm loài cây họ Dầu, từ đó
tác giả đề nghị một số nguyên tắc chính trong khai thác, xúc tiến, bảo vệ, nuôi
dưỡng cây tái sinh cho các đối tượng rừng khộp vùng EaSúp ĐăkLăk.
Dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề (1969) [9]đã phân chia khả
năng tái sinh rừng thành 3 cấp, trong đó cấp tốt có mật độ cây tái sinh lớn hơn
12.000 cây/ha, cấp trung bình có mật độ từ 4.0008.000 cây/ha, cấp xấu có
mật độ cây tái sinh từ 2.000  4.000 cây/ha. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
mới chỉ chú trọng đến số lượng cây tái sinh.
Khi bàn về vấn đề đảm bảo tái sinh trong khai thác, Phùng Ngọc Lan
(1984) [14]đã nêu ra kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng ở Lâm

trường Hữu Lũng (Lạng Sơn). Ngay từ giai đoạn nẩy mầm, Bọ xít là nhân tố
sinh vật đầu tiên gây ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ nẩy mầm. Tiếp theo đề tài
trên, tác giả đã nghiên cứu tiếp và nêu lên sự cần thiết của việc bảo vệ và phát
triển Lim xanh, đồng thời đề ra một số biện pháp kỹ thuật về xử lý hạt giống,
gieo trồng loài cây này. Theo tác giả đã kết luận là không nên trồng Lim xanh
thuần loài.


10

Khi nghiên cứu về tái sinh tự nhiên trong rừng chặt chọn ở Lâm trường
Hương Sơn - Hà Tĩnh. Trần Xuân Thiệp (1995) [27]đã định lượng các cây tái
sinh tự nhiên trong các trạng thái rừng khác nhau. Để đảm bảo mức độ tái
sinh vốn rừng ở Ngã Đôi cần giữ trữ lượng ở mức tối thiểu từ 170200m3/ha
(trạng thái rừng IIIA3). Tác giả còn thống kê các cây tái sinh theo 6 cấp chiều
cao, trong đó cây tái sinh có triển vọng là những cây có chiều cao  1,5m. Khi
nghiên cứu tái sinh tự nhiên sau khai thác chọn tại Lâm trường Hương Sơn Hà Tĩnh, Trần Cẩm Tú (1998) [24] cho rằng: áp dụng phương thức xúc tiến
tái sinh tự nhiên có thể đảm bảo khôi phục vốn rừng, đáp ứng mục tiêu quản
lý, sử dụng tài nguyên bền vững. Tuy nhiên, các giải pháp kỹ thuật lâm sinh
tác động đều phải có tác dụng thúc đẩy cây tái sinh mục đích sinh trưởng và
phát triển tốt, khai thác phải đồng nghĩa với tái sinh rừng, phải chú trọng và
điều tiết tầng tán của rừng đảm bảo cho cây tái sinh phân bố đều trên toàn bộ
diện tích. Để cải thiện tổ thành rừng loại bỏ các loài cây phi mục đích cần phải
thực hiện các giải pháp lâm sinh (chặt mở tán, phát dây leo, cây bụi...) trước
khi khai thác và dọn vệ sinh rừng ngay sau khi khai thác.
Nguyễn Minh Đức (1998)[7] đã nghiên cứu đặc điểm một số nhân tố
sinh thái dưới tán rừng và ảnh hưởng của chúng đến tái sinh loài Lim xanh tại
Vườn quốc gia Bến En - Thanh Hoá. Theo tác giả việc tác động vào lớp cây
tái sinh nói chung, cây tái sinh Lim xanh nói riêng phải dựa vào mối quan hệ
giữa cường độ ánh sáng và độ ẩm dưới tán rừng thông qua việc điều chỉnh độ

tàn che. Từ đó, tác giả đề xuất biện pháp nuôi dưỡng và xúc tiến tái sinh loài
Lim xanh.
Trần Ngũ Phương (1999)[18] khi nghiên cứu các quy luật phát triển
rừng tự nhiên ở miền Bắc Việt Nam, đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh
của rừng tự nhiên. Theo tác giả trong rừng tự nhiên có nhiều tầng, khi tầng
trên già cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế hoặc cũng có thể


11

một thảm thực vật trung gian khác xuất hiện thay thế nó, nhưng về sau, dưới
thảm thực vật trung gian này sẽ xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ
và sẽ thay thế thảm thực vật trung gian này trong tương lai, lúc bấy giờ rừng
cũ sẽ được phục hồi.
Theo tài liệu của Viện điều tra quy hoạch rừng (1993) tại khu vực lâm
trường Sông Đà - Hoà Bình xuất hiện một số loài cây có giá trị như: Sến, Dẻ,
Re, Táu . . . Nhưng do quá trình khai thác không hợp lý, đốt nương làm rẫy
của đồng bào dân tộc, những loài cây này dần bị mất đi mà thay vào đó là
những loài cây ưa sáng, mọc nhanh, ít giá trị kinh tế. Theo nghiên cứu của
Ngô Kim Khôi (1996) [13] tổ thành loài cây phục hồi sau nương rãy ở Bình
Thanh- lâm trường Sông Đà gồm các loài: Re, Dẻ, Trâm, Kháo...
Bùi Văn Chúc (1996) [5]đã nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phòng
hộ đầu nguồn tại lâm trường Sông Đà ở các trạng thái rừng IIA, IIIA 1 và rừng
trồng, tác giả cũng đã đề cập đến tái sinh nhưng mới chỉ xác định được tổ
thành, mật độ.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về tái sinh trên đây mới chỉ đề
cập đến một số nghiên cứu liên quan đến đề tài. Những vấn đề này gần đây
được nhiều tác giả quan tâm hơn. Xu hướng nghiên cứu cũng chuyển dần từ
định tính sang định lượng, từ nghiên cứu lý thuyết sang ứng dụng thực tiễn.
Những nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần vào việc xác định cơ sở

lý luận cho các tác động lâm sinh, từ đó đưa ra những đề xuất cụ thể nhằm
xúc tiến tái sinh tự nhiên, nuôi dưỡng rừng, đáp ứng mục tiêu kinh doanh,
nâng cao năng lực và chất lượng phòng hộ của rừng, bảo vệ môi trường sinh
thái trong khu vực và các vùng lân cận.


12

Chương 2
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
Ngày 06 - 03- 1996, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 136/TTg
về việc phê duyệt “Dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam
Đảo”. Ngày 15 - 05- 1996 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp &PTNT đã có quyết
định số 601 NN- TCCB/QĐ về việc thành lập VQG Tam Đảo trực thuộc Bộ
Nông nghiệp &PTNT. Hiện nay VQG Tam Đảo có diện tích 34.995 ha, nằm
trọn trong dãy núi Tam Đảo và trên địa bàn của 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên
và Tuyên Quang. Vườn hiện có 26.163 ha rừng, chủ yếu là rừng tự nhiên mưa
ẩm thường xanh, độ che phủ chiếm trên 70% tổng diện tích toàn Vườn.
2.1.1. Vị trí địa lý
Vườn Quốc gia Tam Đảo nằm trong khoảng 210 21’ đến 21042’ độ vĩ Bắc,
105023’ đến 105044’ độ kinh Đông. Địa giới hành chính Vườn Quốc gia
được giới hạn như sau:
- Phía Bắc là đường quốc lộ 13A từ Thái Nguyên đi Tuyên Quang
qua Đèo Khế.
- Phía Đông-Bắc bởi đường ô tô giáp chân núi từ xã Quân Chu đến gặp
quốc lộ 13A tại xã Phú Xuyên huyện Đại Từ.
- Phía Nam bởi ranh giới các huyện Tam Đảo, Mê Linh thuộc Vĩnh
Phúc; Phổ Yên, Đại Từ thuộc Thái Nguyên.
- Phía Tây-Nam bởi đường ô tô phía trái sông Phó Đáy nối từ đường

13A tại xã Kháng Nhật, qua mỏ thiếc Sơn Dương, dọc theo chân Tam Đảo
gặp sông Bà Hanh tại xã Mỹ Khê bên hồ Đại Lải.


13

BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG THẢM THỰC VẬT
VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO

TỶ LỆ 1/50.000


14

2.1.2. Địa hình, địa mạo, địa chất
Vườn Quốc gia Tam Đảo chiếm giữ toàn bộ hệ núi Tam Đảo, có cấu
tạo hình khối đồ sộ, nằm ở phía Bắc đồng bằng Bắc Bộ, chạy dài theo hướng
Tây-Bắc –Đông-Nam. Cả khối núi có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, sườn rất
dốc, độ chia cắt sâu và dầy. Chiều dài khối núi gần 80km, có gần 20 đỉnh cao
sàn sàn trên 1000m được nối với nhau bằng đường dông núi sắc, nhọn. Đỉnh
cao nhất là đỉnh Nord (1592m) là ranh giới địa chính của ba tỉnh Vĩnh Phúc,
Tuyên Quang và Thái Nguyên. Chiều ngang biến động trong khoảng 1015km. Núi cao, bề ngang lại hẹp nên sườn núi rất dốc, bình quân 25-350,
nhiều nơi trên 350 nên rất hiểm trở và khó đi lại. Dựa vào độ cao, độ dốc, địa
mạo có thể phân chia dãy núi Tam Đảo thành bốn kiểu địa hình chính:
- Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông suối: độ cao tuyệt đối
<100m, độ dốc cấp I (<70). Phân bố dưới chân núi và ven sông suối.
- Đồi cao trung bình: Độ cao tuyệt đối 100-400m. Độ dốc cấp II (80
– 150) trở lên. Phân bố xung quanh chân núi và tiếp giáp với đồng bằng.
- Núi thấp: Độ cao tuyệt đối 400 – 700m. Độ dốc trên cấp III (160
– 260). Phân bố giữa hai kiểu địa hình đồi cao và núi trung bình.

- Núi trung bình: Độ cao tuyệt đối >700m – 1590m. Độ dốc >cấp III.
Phân bố ở phần trên của khối núi. Các đỉnh và đường dông đều sắc và nhọn.
Như vậy có thể nói địa hình Tam Đảo cao và khá đều (cao ở giữa và thấp dần
về hai đầu nhưng độ chênh không rõ), chạy dài gần 80km theo hướng TâyBắc – Đông-Nam nên nó như một bức bình phong chắn gió mùa đông-bắc
tràn về đồng bằng và trung du Bắc Bộ, vì vậy ảnh hưởng lớn đến chế độ khí
hậu và thủy văn trong vùng (FIPI, 1992)[8]
Trong phạm vi toàn bộ dãy núi Tam Đảo, về mặt thổ nhưỡng được chia
làm 4 loại đất chính, bao gồm:


15

1. Đất feralit mùn vàng nhạt trên núi trung bình: Diện tích 8968ha
(17,1%). Phát triển trên đá Macma axit kết tinh chua riolit, dacit, granit. Tầng
đất rất mỏng. Tầng mùn và thảm mục khá dày và chỉ xuất hiện nơi có độ dốc
nhỏ. Nơi độ dốc lớn tầng đất bị xói mòn trơ lại đá gốc. Phân bố từ độ cao
700-1600m, chiếm hầu hết các đỉnh của dãy Tam Đảo.
2. Đất feralit có mùn vàng đỏ trên núi thấp: Diện tích 9292ha (17,8%).
Phát triển trên đá kết tinh chua. Tầng đất mỏng, thành phần cơ giới nhẹ. Tầng
mùn mỏng hoặc không còn vì bị xói mòn, tầng đá lộ đầu trên 75%. Phân bố
xung quanh sườn Tam Đảo ở độ cao 400 – 700m.
3. Đất feralit đỏ vàng phát triển trên vùng đồi: Diện tích 24641ha
(47%). Đây là loại đất feralit điển hình vùng đồi, phát triển trên nhiều loại đá
mẹ khác nhau, do lớp thực bì bị mất nhưng độ dốc thấp nên tầng đất có dày
hơn hai loại đất trên. Đất ít đá nổi, đá lẫn, thành phần cơ giới trung bình đến
nặng. Phân bố trên các đồi cao và trung bình, cao 100-400m xung quanh dãy
núi Tam Đảo.
4. Đất phù sa và bồi tụ sông suối: Diện tích 9794ha (18,1%). Đất phù sa
và dốc tụ sông suối có màu nâu đen, tầng dày, thành phần cơ giới trung bình,
màu mỡ, độ ẩm cao, được sử dụng để trồng lúa và hoa màu. Phân bố trong

các thung lũng hẹp giữa núi và ven các sông suôi suối lớn. (FIPI, 1992)[8]
2.1.3. Khí hậu
Tam Đảo là dãy núi lớn, bao gồm một vùng lãnh thổ rộng và có sự
phân hóa theo độ cao rất đa dạng, vì vậy khái quát hóa các đặc trưng khí hậu
toàn vùng không phải là vấn đề đơn giản. Các nhà lâm học (FIPI) dựa trên các
số liệu khí tượng của trạm Tam Đảo và các trạm xung quanh (Tuyên Quang,
Vĩnh Yên, Đại Từ) để đưa ra các nhận định khái quát cho toàn vùng như sau:


16

Thuộc chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa vùng cao. Dựa vào các số liệu
quan trắc bình quân nhiều năm của các đài khí tượng Đại Từ, Tuyên Quang,
Vĩnh Yên, Tam Đảo (thị trấn Tam Đảo).
Bảng 2.1. Số liệu khí tượng của các trạm trong vùng
Trạm

Trạm

Tuyên

Vĩnh

Quang

Yên

Nhiệt độ trung bình năm (0C)

22,9


23,7

22,9

18,0

Nhiệt độ tối cao trung bình (0C)

41,4

41,5

41,3

33,1

Nhiệt độ tối thấp trung bình (0C)

0,4

3,2

3,0

-0,2

Lượng mưa trung bình năm (mm)

1641,4


1603,5

1906,2

2630,9

Số ngày có mưa trong năm

143,5

142,5

193,4

193,7

Lượng mưa tối đa/ngày

350

284,0

352,9

295,5

Độ ẩm trung bình (%)

84


81

82

87

Độ ẩm cực tiểu (%)

15

14

16,0

6,0

760,3

1040,1

985,5

561,5

Tên yếu tố

Lượng bốc hơi nước (mm)

Trạm

Đại Từ

Trạm
Tam
Đảo

Trạm Tuyên Quang và Vĩnh Yên đặc trưng cho khí hậu sườn phía Tây,
trạm Đại Từ đặc trưng cho khí hậu sườn phía Đông; trạm Tam Đảo ở độ cao
gần 900m trên mực nước biển đặc trưng cho khí hậu trên cao của khu bảo tồn.
- Sườn Tây có vũ lượng trên 1600mm/năm, vào loại trung bình. Sườn
Đông có vũ lượng trên 1900mm/năm, vào loại nhiều; Đó là sườn đón được
gió mang hơi ẩm thổi từ biển vào. Trên đỉnh còn có lượng mưa trên
2600mm/năm, vào loại mưa rất nhiều vì ngoài lượng mưa giống như vùng
thấp nó còn được hưởng lượng nước do mưa địa hình mang lại.


17

- Tổng lượng mưa trong mùa hè và thu rất cao (>90% tổng lượng mưa
năm), mùa mưa kéo dài hơn 7 tháng (suốt từ tháng 4 đến tháng 10).Về mùa đông
và xuân lượng mưa không đáng kể, chỉ chiếm dưới 10% lượng mưa năm.
- Số ngày mưa khá nhiều, sườn Tây trên 140 ngày/năm, sườn Đông và
vùng đỉnh trên 190 ngày/năm.
- Cường độ mưa rất lớn, có nhiều trận mưa trên 350mm/ngày.
- Tần suất xuất hiện những trận mưa to và rất to trong mùa mưa trên
20%, tập trung vào các tháng 6, 7, 8, 9; cao nhất là các tháng 8 và 9 (đỉnh
mưa đều nằm trong tháng 8), xói mòn và những trận lũ lớn đều xảy ra vào
những thời gian này.
- Hàng năm có trên 60 ngày dông tại trạm và một trận bão đi qua với
tốc độ gió trên cấp 8. Vì thế khi xây dựng các công trình trong vùng đều có hệ

thống chống sét và gió giật cẩn thận, điển hình là cột phát sóng truyền hình
trên đỉnh Tam Đảo.
- Do điều kiện địa hình, địa mạo đã chi phối mạnh mẽ đặc điểm khí
hậu trong vùng nên nhiệt độ vùng thấp biến động từ 22,9 0C đến 23,70C, tháng
lạnh nhất trên 150C (tháng 1), tháng nóng nhất trên 280C (tháng 7). Riêng
vùng đỉnh có nền nhiệt độ thấp hơn cả, bình quân 180C, lạnh nhất là 10,80C
(tháng 1), nóng nhất 230C (tháng 7). Vùng thấp số giờ nắng đều trên 1600
giờ/năm, lượng bức xạ dồi dào; Riêng Tam Đảo chỉ có 1200 giờ/năm vì
thường có mây che phủ trong mùa xuân – hè.
- Đầu mùa đông thường có dạng thời tiết khô hanh, cộng với gió mùa
đông - bắc mạnh làm cho lượng bốc hơi tăng. Sang xuân có mưa phùn (vùng
thấp có 20 ngày/năm, vùng cao số ngày mưa phùn lên đến trên 46 ngày) làm
giảm đáng kể lượng bốc hơi. Lượng bốc hơi, vì vậy, có sự khác biệt rõ rệt
giữa vùng thấp (xấp xỉ 1000mm/năm) và vùng cao (Tam Đảo chỉ có
560mm/năm).


18

- Độ ẩm bình quân vùng thấp >80%, vùng cao >87%. Mùa mưa, nhất là
khi có thời tiết mưa phùn độ ẩm lên tới trên 90%, nhưng mùa khô chỉ còn 7075%, cá biệt có ngày chỉ 6%, vì vậy thời tiết rất khô hanh, dễ gây ra cháy rừng.
(FIPI, 1992)[8]
Đặng Trung Thuận và cộng sự (2006) cho rằng Tam Đảo nói riêng,
cũng như Vĩnh Phúc nói chung nằm trong khu vực khí hậu gió mùa chí tuyến,
có mùa đông lạnh, khô. Dựa vào chuỗi số liệu các đặc trưng khí hậu giai đoạn
1975-2004 tại trạm khí tượng Tam Đảo đã nêu ra các nhận định như sau:
Nhiệt độ không khí: Bình quân nhiều năm khoảng 18,30C, nhiệt độ
không khí trung bình cao nhất nhiều năm là 21,40C. Nhiệt độ không khí trung
bình thấp nhất nhiều năm là 16,40C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối là 33,40C,
nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối là 00C. Chênh lệch nhiệt độ ngày đêm khá lớn,

khoảng 10-150C.
Lượng mưa năm: Trung bình nhiều năm là 2355mm, cao hơn nhiều so
với lượng mưa bình quân cả nước (1960mm/năm) và của tỉnh Vĩnh Phúc
(1500-1800mm/năm). Lượng mưa ngày lớn nhất đạt 318,6mm. Bình quân
hàng năm có khoảng 203 ngày mưa, tập trung chủ yếu trong tháng 6. Mùa
mưa ở Tam Đảo kéo dài hơn so với các nơi khác của tình Vĩnh Phúc (5
tháng). Mỗi năm xuất hiện bình quân 60 ngày có dông. Một vài năm còn xuất
hiện hiện tượng mưa đá.
Độ ẩm: Độ ẩm tương đối bình quân nhiều năm là 87,7%; độ ẩm tương
đối trung bình thấp nhất bình quân nhiều năm là 76,2%; độ ẩm tương đối thấp
nhất tuyệt đối là 6%. Độ ẩm tuyệt đối trung bình là 19,1%.
Sương mù: Hàng năm bình quân có 118 ngày có hiện tượng sương mù.
Tổng lượng mây: Trung bình nhiều năm bằng 8.
Số giờ nắng: Một năm bình quân có 1212 giờ.
Tổng lượng bốc hơi: Bình quân nhiều năm là 512mm, là khá thấp so
với bình quân bốc hơi toàn quốc.


19

Tốc độ gió: Bình quân là 3,0m/s; tốc độ gió cực đại đến 30m/s. (Dẫn
theo Đặng Trung Thuận, 2006)[22].
2.1.4. Phân vùng sinh thái VQG Tam Đảo
Qua công tác khảo sát và đánh giá điều kiện tự nhiên, các nhà lâm học
(FIPI, 1992) phân chia khu bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo thành bốn vùng sinh
thái khác nhau, kết quả được thể hiện qua bảng 2.2
2.1.5. Cấu trúc các hệ sinh thái chính VQG Tam Đảo
Vườn Quốc gia Tam Đảo có các kiểu rừng chính sau:
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới.
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp.

- Kiểu rừng lùn trên đỉnh núi.
- Một số kiểu rừng khác.
21.5.1. Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Kiểu rừng này thường phân bố ở độ cao dưới 800m, nhưng do ảnh
hưởng của độ dốc, hướng phơi mà loại rừng này có thể phân bố ở độ cao 900 1000m. Kiểu rừng này bao phủ phần lớn dãy núi Tam Đảo với những loài cây
có giá trị kinh tế như Chò chỉ (Shoera chinensis), Giổi (Michelia sp..), Re
(Cinnamomum sp.)…Do sự gia tăng dân số quá nhanh và nhu cầu về gỗ củi của
nhân dân trong vùng cũng tăng theo, nên kiểu rừng này cũng bị khai thác, lợi
dụng nhiều trong những năm từ 1970 - 1995. Diện tích kiểu rừng kín thường
xanh mưa ẩm nhiệt đới nguyên sinh còn lại rất ít, đa phần đã bị tàn phá với
hình thức chặt chọn làm kết cấu tổ thành loài và tầng thứ thay đổi nhiều.


20

Bảng 2.2. Các vùng sinh thái VQG Tam Đảo
Các tiêu chí và đơn vị
Khí hậu
Nhiệt độ trung bình/ năm (0C)
Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (0C)
Lượng mưa bình quân/năm (mm)
Số ngày mưa /năm (ngày)
Số tháng khô (tháng)

20-24

Vùng 3
Vùng núi thấp
và đồi cao sườn
Đông Tam Đảo

20-24

Vùng 4
Thung lũng và
đồng bằng chân
Tam Đảo
20-24

10-14

15-19

15-19

15-19

> 2500
>190
không

1500-2000
> 140
3-4
Đồi cao và núi thấp >100
đến 700m. Độ dốc cấp
III-IV
Nhóm đá axit cứng, khó
phong hóa
Đất feralit vàng đỏ hay
đỏ vàng, tầng đất mỏng

đến trung bình, thị nhẹ.
Rừng kín lá rộng thường
xanh vùng đồi và núi
thấp
Đặc trưng cho hệ động
vật phía Bắc. Các loài
quý hiếm bị săn bắn
nhiều, hiện nay không
thấy xuất hiện

2000-2500
>190
3
Đồi cao và núi thấp
>100 đến 700m. Độ
dốc cấp IV
Nhóm đá axit cứng,
khó phong hóa
Đất feralit vàng đỏ hay
đỏ vàng, tầng đất mỏng
đến trung bình, thị nhẹ
Rừng kín lá rộng
thường xanh vùng đồi
và núi thấp
Đặc trưng cho hệ động
vật phía Bắc. Các loài
quý hiếm bị săn bắn
nhiều, hiện nay không
thấy xuất hiện


1500-2000
140-190
3-4
Thung lũng và đồng
bằng ven sông < 100m.
Độ dốc cấp I
Sản phẩm xung tích bồi
tụ cấp hạt mịn
Đất dốc tụ hoặc phù sa,
thịt trung bình, giàu
dinh dưỡng

Vùng 1
Vùng núi cao trung bình Tam
Đảo (Vùng đỉnh)
15-19

Địa hình

Núi cao trung bình 700-1700m. Độ
dốc* cấp V

Địa chất

Rionit cứng rắn khó phong hóa

Thổ nhưỡng

Đất feralit màu vàng nhạt trên núi,
tầng đất rất mỏng, đá lộ >75%


Thảm thực vật

Rừng lá rộng thường xanh - Rừng
lùn đỉnh núi

Động vật

Đăc trưng khu hệ động vật vùng núi
cao phía Bắcvới các loài quý hiếm:
voọc mũi hếch, cá cóc Tam Đảo,
các
loài chim quý

Ảnh hưởng xã hội con người

Rừng cũng bị con người tác động
song còn ở mức độ nhẹ không có
dân ở

Vùng 2
Vùng núi thấp và đồi
cao sườn Tây Tam Đảo

Rừng đã bị tác động
Rừng đã bị tác động
nặng nề, khai thác, làm
nặng nề khai thác, làm
rẫy nhưng chưa có dân ở rẫy nhưng chưa có dân
trong vùng

ở trong vùng

Lúa và cây màu – cây
lâu năm
Chủ yếu là vật nuôi
trong gia đình (gia súc,
gia cầm)
Là nơi định cư của
nhân dân trong vùng,
toàn bộ đất đai đã
được khai phá làm
ruộng.


21

Nhìn chung quần hệ thực vật kiểu rừng này gồm nhiều tầng có chiều
cao tới 25m, tán kín rậm với những loài cây lá rộng thường xanh hợp thành.
- Tầng vượt tán hình thành bởi một số loại cây họ Dầu (Dipterocarpaceae)
như: Chò nâu (Dipterocarpus petusus), Táu muối (Vatica fleuryana), Giổi
(Michelia sp.), và Trường mật (Paviesia annamensis)…
- Tầng ưu thế gồm một số loài cây thuộc họ Re (Lauraceae), họ Dẻ
(Fagaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Cà phê (Rubiaceae),
- Tầng dưới tán gồm một số loài cây mọc rải rác dưới tán rừng thuộc các họ
Máu chó (Myristicaceae), họ Na (Annonaceae).
- Dưới nữa còn tầng cây bụi có các loài thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), Đơn
nem (Myrsinaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae). cuối cùng là tầng cỏ Quyết,
ở những nơi khe ẩm có xuất hiện loài Quyết thân gỗ.
2.1.5.2. Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp ở Tam Đảo phân bố

từ độ cao 800m trở lên nhưng đôi khi phân bố trên 900m. Quần hệ thực vật
của kiểu rừng này không còn các loài thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae) .
Thực vật bao gồm các loài họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Chè
(Theaceae), họ Mộc lan (Magnoliaceae), họ Sau sau (Hamamelidaceae). Đây
là vành đai của những loài cây thuộc khu hệ á nhiệt đới, còn được gọi là vành
đai mây. Không khí luôn ở tình trạng bão hoà hơi nước, nên tạo điều kiện
thuận lợi cho Rêu và Địa y phát triển. Ngoài những cây thuộc các họ kể trên,
từ độ cao 1000, trở lên xuất hiện một số loài cây thuộc ngành Hạt Trần như
Thông nàng (Dacrycarpus imbricatus), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Thông
tre (Podocarpus neriifolius). Ngoài ra, còn thấy các loài Thông Yên Tử
(Podocarpus pilgeri), và Kim giao (Nageia fleuryi).
Ở một vài nơi trên sườn Đông núi Tam Đảo thuộc huyện Đại Từ, mật
độ cây Hạt trần dày hơn, chủ yếu là Pơ mu (Fokienia hodginsii) tạo nên một
quần thể hỗn hợp giữa các loài cây lá rộng và lá kim còn gọi là kiểu phụ hỗn


22

hợp lá rộng, lá kim. Dưới tán rừng á nhiệt đới thường có Vầu đắng. Lên cao
hơn nữa là Sặt gai (Arundinaria giffithiana) mọc dày đặc dọc theo các dông
núi. Ven theo các sườn núi thường có các loài cây bụi thuộc họ Cà phê
(Rubiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae)…
2.1.5.3. Rừng lùn trên đỉnh núi
Rừng lùn trên đỉnh núi là một kiểu phụ đặc thù của rừng kín thường
xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp được hình thành trên các đỉnh dông dốc hay
các đỉnh núi cao đất xương xẩu, nhiều nắng gió, mây mù thường xuyên bao
phủ. Cây cối ở đây thường thấp bé, phát triển chậm, thân và cành được Địa y và
Rêu bao phủ. Đất dưới tầng rừng khá mỏng nhưng có tầng thảm mục khá dày (ở
một số nơi như đỉnh Rùng Rình, tầng thảm mục có thể dày hơn 1m). Thực vật chủ
yếu là các loài cây thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae), Giổi nhung (Michelia

faveolata), Hồi núi (Illicium griffithii). Từ các đỉnh cao của Tam Đảo xuống thấp
hơn, các loài thuộc họ Đỗ quyên giảm dần, các loài thuộc họ Re (Lauraceae), họ
Hồi (Illiciaceae), họ Thích (Aceraceae) tăng lên về số lượng cá thể.
2.1.5.4. Rừng tre nứa
Khi rừng thuộc hai loại trên bị phá thì các loài Tre, nứa mọc xen vào
hoặc chuyển hẳn thành rừng tre, nứa. Ở đai cao hơn 800m, loài tre tiêu biểu là
Vầu và Sặt gai. Đai trung bình là Giang (ở độ cao từ 500 - 800m), còn thấp
hơn (dưới 500m) là Nứa.
2.1.5.5. Rừng phục hồi sau nương rẫy
Vườn Quốc gia Tam Đảo có 23 xã vùng đệm nằm trên địa bàn 3 tỉnh
Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang bao quanh. Rừng ở đây trước
những năm 80 bị tác động mạnh bởi hoạt động khai thác gỗ của các Lâm
trường đóng trên địa bàn giáp ranh với Vườn và canh tác nương rẫy của nhân
dân vùng đệm. Sau khi thành lập Vườn Quốc gia Tam Đảo, việc đốt nương
làm rẫy đã giảm xuống rõ rệt. Do tác động mạnh của con người, thành phần
thực vật ở đây ít nhiều có biểu hiện cho thực vật rừng thứ sinh được phục hồi


23

sau khi đất được sử dụng cho canh tác nương rẫy hoặc phục hồi sau khi rừng
được khai thác. Sau khi khai thác, làm nương rẫy rừng được khôi phục bởi
các loài như Bục trắng (Mallotus apelta), Bục bạc (Mallotus paniculatus), Ba
soi (Macaranga denticulata), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Thẩu tấu
(Aporosa dioica), Dền (Xylopia vielana), Dung (Symplocos sp.), Màng tang
(Litsea cubeba), … Loại hình rừng này thường mọc thành các chòm rải rác
thuộc các xã như Quân Chu, Phú Xuyên, La Bằng thuộc huyện Đại Từ và các
xã Hợp Hoà, Kháng Nhật thuộc huyện Sơn Dương.
Trên các loài đất Feralit đỏ vàng, đỏ nâu, vàng, có rừng thứ sinh với
thành phần loài cây phong phú hơn cụ thể là các loài cây tiên phong ưa sáng

mọc nhanh trong đó đáng lưu ý nhất là Mán đỉa (Pithecolobium clypearia),
Chẹo tía (Engelhardtia sp.), Dung (Symplocos sp.), Lim xẹt (Peltophorum
ptorocarpum)…Rừng phục hồi ít bị tác động được thấy ở các xã thuộc huyện
Sơn Dương. Do các diện tích đó được giao khoán cho người dân chăm sóc. Vì
vậy, các loài thực vật rừng có giá trị còn tồn tại khá phong phú, trong đó Lim
xanh (Erythrophloeum fordii), Trâm (Syzygium sp.), Mán đỉa (Pithecolobium
clypearia), Côm (Elaeocarpus silvetris), Trám (Canarium spp.), các loài họ
Xoan (Meliaceae), đại diện các loài Ficus spp. (họ Moraceae), Thôi chanh
(Alangium chinense), Sòi tía (Sapium discolor), Sau sau (Liquidambar
formosana), một số loài cây bụi và thảo thuộc họ Mua (Melastomataceae),
như Melastoma, Mememcylon, Medinilla… hoặc Dương xỉ thân gỗ Cyathea,
và các loài thuộc Dương xỉ.
2.1.5.6. Rừng trồng
Rừng trồng Tam Đảo đã có từ thời kỳ Pháp thuộc. Đó là những diện
tích rừng Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana) được trồng dọc hai ven đường
lên thị trấn Tam Đảo để tạo cảnh quan đẹp cho khu du lịch Tam Đảo, cải thiện
môi trường sinh thái và rừng Lim xanh rất tươi tốt chạy dọc theo dải đồi thấp
từ xóm Thông đến gần đồi Giếng. Do con người chặt phá nên hiện nay rừng


24

đó chỉ có khoảng 190 ha ở Phù Mây với mật độ 300 cây/ha. Loài dứa hoa
được trồng dưới tán rừng Lim xanh sinh trường phát triển rất tốt cho năng
suất cao và chất lượng quả ngon. Năm 1962, công tác trồng rừng mới được
bắt đầu trở lại ở Tam Đảo. Loài cây trồng chủ yếu là những loài cây nhập nội
như Thông, Bạch đàn và gần đây là Keo lá tràm và Keo tai tượng.
2.1.5.7. Trảng cây bụi
Thành phần thực vật trảng cây bụi không phong phú nhưng số lượng
cá thể lại nhiều. Nguyên nhân chính là do sự thoái hoá của đất, thành phần

dinh dưỡng nghèo, độ ẩm thấp, xói mòn xảy ra mạnh mẽ. Đây là những vùng
núi đất phát triển trên đá sa thạch, phiến thạch sau nhiều lần rừng bị khai phá
làm nương hoặc chặt trắng hoặc bị đốt cháy thường xuyên hoặc sau khai thác
mỏ (mỏ thiếc Sơn Dương, mỏ thiếc than núi Hồng, Đại Từ) các loại trảng
được hình thành, sau đó các loại cây bụi ưa sáng mọc nhanh cũng xuất hiện
và phát triển tốt. Thành phần các loài cây bụi ở đây là các cây ưa sáng, chịu
hạn, nhiều khi có cả lá cứng và có gai. Phổ biến là Thẩu tấu (Aporosa dioica),
Thổ mật (Bridelia tomentosa), Thao kén (Helicteres spp.), Bồ cu vẽ (Breynia
fruticosa), Me rừng (Phyllanthus emblica), Mua rừng (Melastoma
soptemnervium), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Màng tang (Litsea cubeba),
Sầm (Memexylon edule), Chổi xuể (Baeckea frutescens), Lau (Saccharum),
Tơ xanh (Casytha filiormis), Bòng bong (Lygodium sp.), Kim cang (Smilax
sp.), cỏ tranh (Imperata cylindrica), Seo gà (Pteris multifida)…, Số cá thể
nhiều thường tập trung vào một số họ như họ Mua (Melastomaceae), họ Sim
(Myrtaceae), họ Hoà Thảo (Poaceae).
2.1.5.8. Trảng cỏ
Thành phần thực vật trảng cỏ được hình thành trên các kiểu rừng đã bị
khai thác, đất bị thoái hoá mạnh do đốt nương hàng năm, có thể phân biệt
bằng hai loại hình sau:


25

- Trảng cỏ cao: thường gồm các loài cỏ cao khoảng 2m mọc thành từng
bụi như Lách (Saccharum spontaneum), Cỏ chít (Thysanolema maxima), mọc
chung với cỏ Lào (Chromolaena odorata), rải rác trên trảng cỏ này có các cây
bụi như: Thao kén (Helicteres spp.), Chổi xuể (Baeckea frutescens), Thẩu tấu
(Aporosa dioica), Bùm bụp (Mallotus barbatus), Bồ cu vẽ (Breynia
fruticosa)… Trảng cỏ cao phân bố rải rác ở độ cao dưới 400m ở các bãi trống
ven đường Tam Đảo 1.

- Trảng cỏ thấp: Thường gồm các loài cỏ thấp hơn 1m, mọc thành thảm
cỏ dày đặc hoặc rải rác. Thành phần loài tương đối nghèo nàn, cỏ tranh
(Imperata cylindrica) chiếm ưu thế. Ngoài ra còn có cỏ đắng (Paspalum
scrobiculatum), cỏ sâu róm (Setaria viridis), …
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các loài cây rừng tái sinh dưới tán rừng Thông
mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) ở 5 cấp độ tuổi là: 21 tuổi; 28 tuổi; 40 tuổi;
47 tuổi và 70 tuổi.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
2.3.1. Giới hạn về địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn này giới hạn tại khu vực
vùng đệm của Vườn Quốc gia Tam Đảo. Số liệu được thu thập tại các ô tiêu
chuẩn của rừng Thông mã vĩ tại các tuổi khác nhau, độ cao khác nhau và các yếu
tố lập địa khác nhau (độ dốc, hướng phơi, độ dày tầng đất A, …).
2.3.2. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên
đến đặc điểm tái sinh dưới tán rừng Thông mã vĩ.


×