ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------------
LÊ ĐẮC THẮNG
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI
CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƯỚI TÁN RỪNG THÔNG MÃ VĨ
(Pinus massoniana Lamb) Ở LỤC NGẠN - BẮC GIANG
LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HOÁ RỪNG THÔNG THUẦN
LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI BỀN VỮNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------------
LÊ ĐẮC THẮNG
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI
CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƯỚI TÁN RỪNG THÔNG MÃ VĨ
(Pinus massoniana Lamb) Ở LỤC NGẠN - BẮC GIANG
LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HOÁ RỪNG THÔNG THUẦN
LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI BỀN VỮNG
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
T.S Nguyễn Huy Sơn
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính đến 31/12/2009, tổng diện tích rừng nước ta đã tăng lên hơn 13
triệu ha, trong đó rừng tự nhiên chiếm hơn 10,34 triệu ha và rừng trồng 2,92
triệu ha, độ che phủ của rừng tăng lên 39,1% [1]. Tuy diện tích cũng như độ
che phủ của rừng tăng lên khá rõ nhưng chất lượng của rừng còn thấp, phần
lớn rừng tự nhiên là rừng nghèo kiệt, trữ lượng thấp dưới 90m3/ha, những loài
cây gỗ có giá trị kinh tế còn lại rất ít, khả năng tái sinh kém, tăng trưởng rất
chậm, bình quân mỗi năm đạt 3 - 4m3/năm [17]. Rừng trồng hiện nay chủ yếu
là rừng trồng thuần loài với các loài cây ưa sáng mọc nhanh như Thông, Keo,
Bạch đàn..., do trồng thuần loài nên gần đây đã xuất hiện dịch sâu, bệnh hại
hàng loạt như dịch sâu róm và bệnh tuyến trùng ở Thông, bệnh đốm và cháy
lá ở Bạch đàn và bệnh phấn hồng ở Keo.... Đặc biệt, đối với loài Thông thì
việc trồng rừng thuần loài đã chứng tỏ không bền vững, thường xuyên bị sâu
bệnh hại mà điển hình là sâu róm Thông đã xảy ra ở nhiều nơi trong những
năm vừa qua. Để phát triển rừng theo hướng bền vững, đa dạng hoá nguồn
sản phẩm từ việc trồng nhiều cây gỗ có giá trị khác nhau, hạn chế được sự
bùng phát dịch bệnh, cải thiện môi trường sinh thái, việc gây trồng một số
loài cây bản địa dưới tán rừng Thông nhằm chuyển hoá rừng Thông thuần
loài thành hỗn loài bền vững là cần thiết.
Dự án trồng rừng Việt - Đức đã được đầu tư ở nhiều nơi, trong đó có Lục
Ngạn - Bắc Giang, đã trồng được là 3.313,48 ha [2] nhưng chủ yếu là trồng
thuần loài Thông mã vĩ (Pinus massoniana) và trồng hỗn loài Thông mã vĩ
(Pinus massoniana) với Keo lá tràm (A.auriculifomis), sau 5 - 7 năm chặt Keo
lá tràm trở thành rừng Thông thuần loài.
Chính vì vậy, với mục tiêu xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài
giữa Thông mã vĩ với các loài cây lá rộng bản địa để phát triển bền vững cả
về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái ở các địa phương thực hiện dự án là
3
một chủ trương đúng đắn. Dự án đã tiến hành trồng một số loài cây bản địa
như Lim xanh (Erythrophleum fordii), Trám trắng (Canarium album), Re
gừng (Cinamomum ilcidioides), Sồi phảng (Lithocarpus fissus), Giẻ cau
(Quecus platycalyx), Kh¸o vµng (Machilus bonii). Kết quả bước đầu cho thấy
các loài cây này đã tỏ ra sinh trưởng khá tốt dưới tán rừng Thông mã vĩ.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra, việc “Đánh giá khả năng sinh
trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Lục
Ngạn - Bắc Giang làm cơ sở chuyển hoá rừng Thông thuần loài thành rừng
hỗn loài bền vững” là cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa cả khoa học và thực tế
sản xuất hiện nay.
4
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài
Kết quả nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới cho thấy rừng trồng thuần
loài đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Vì vậy, các nhà khoa học trên thế giới đã
quan tâm nghiên cứu xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài nhằm kinh
doanh rừng theo hướng bền vững, nhất là trong giai đoạn biến đổi khí hậu
toàn cầu hiện nay.
Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài đã được các nước Châu Âu tiến hành
từ những năm đầu thế kỷ 19. Điển hình là công trình nghiên cứu của
Tikhanop (1872), tác giả đã sử dụng 2 loài cây là: Quercus sp và Ulmus
campestris với kiểu hỗn loài có tên gọi là Donsk. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa
hai loài cây này có phù hợp với nhau hay không thì chưa được quan tâm
nghiên cứu, do đó loài Ulmus campestris với đặc tính sinh trưởng nhanh hơn
nên sau khi trồng vài năm đã lấn át loài Quercus sp. Để giải quyết mối quan
hệ này, Polianxki (1884) đã cải tiến kiểu hỗn loài Donsk, song vẫn chưa thành
công [15]. Một số tác giả khác như Kharitonovis (1950); Grixenco (1951);
Timofeev (1951); Encova (1960) và các cộng sự đã phân tích nguyên nhân
thất bại của kiểu Donsk và chỉ ra rằng các Phitonxit của loài Ulmus
campestris đã tác động xấu tới loài cây Quercus sp nên chúng sinh trưởng rất
kém. Nghiên cứu về ảnh hưởng tương hỗ giữa các loài, các tác giả cho rằng
sự cảm nhiễm tương hỗ là yếu tố quan trọng khi lý giải cơ chế cạnh tranh sinh
học của thực vật [28]. Trên cơ sở nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa Quercus
sp và Fraxnus sp, JB.Ball, T.J Wormald (1994) cho thấy sinh trưởng của
Quercus sp trồng hỗn loài tốt hơn Quercus sp trồng thuần loài. Ngoài ra, khi
trồng Quercus sp hỗn loài với các loài cây khác theo băng hẹp (3 - 4 hàng)
5
hoặc theo hàng cũng thấy Quercus sp sinh trưởng tốt hơn khi trồng thuần loài
[29].
Ở Kasma Forest Technology Centre (Nhật Bản) [27] đã thiết lập hàng
loạt các mô hình rừng nhiều tầng tán bao gồm nhiều loài cây và ở nhiều cấp
tuổi, trồng ở một số mật độ khác nhau, đặc biệt ở vùng Tsucuba với độ cao
dưới
876m so với mực nước biển đã trồng loài cây Tuyết tùng (Japanese
ceder) để tạo ra các lâm phần bền vững có giá trị, các nhà nghiên cứu ở đây
nhận thấy có ảnh hưởng lẫn nhau giữa các loài cây khi trồng rừng hỗn giao
với nhau và ảnh hưởng của môi trường tới từng loài cây trồng. Khi nghiên
cứu về trồng rừng hỗn loài, các tác giả trên đều cho rằng việc bố trí các loài
cây trong mô hình rừng trồng hỗn loài thường có ảnh hưởng khá rõ tới sinh
trưởng của chúng tuỳ theo đặc điểm từng loài và cự ly trồng từng cá thể.
Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn loài là có kết cấu nhiều tầng tán. Vì thế
nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng đã được một số nhà khoa học trên thế
giới quan tâm. Khi nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài,
Bernar Dupuy (1995) đã cho thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn
loài phụ thuộc vào đặc điểm sinh trưởng và tính hợp quần của các loài cây
trong lâm phần [25]. Điều này cho thấy để tạo được các mô hình rừng trồng
hỗn loài có cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa không gian dinh dưỡng thì
cần phải dựa vào đặc điểm sinh thái cũng như phải quan tâm đến mối quan hệ
qua lại giữa các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là
những cơ sở quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mô
hình rừng trồng hỗn loài.
Ở Malaysia (1999) đã nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng bằng
nhiều phương thức khác nhau. Tuỳ theo các đối tượng khác nhau là rừng tự
nhiên hay rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) 10 - 15 tuổi hoặc rừng
trồng Keo tai tượng 2 - 3 tuổi mà mở các băng chặt và băng chừa khác nhau.
6
Chiều rộng băng chặt và chừa từ 6m (chặt 1 hàng) đến 60m (chặt 20 hàng).
Thời gian đưa các loài cây bản địa vào trồng hỗn loài trong các băng chặt
cũng rất khác nhau, từ 1 - 7 năm sau khi mở băng chặt. Các loài cây bản địa
đưa vào trồng trong các băng chặt tương đối phong phú, từ 14- 23 loài cây
khác nhau với số hàng từ 3 đến 16 hàng. Kết quả cho thấy các loài cây bản
địa được trồng trong các băng có 3 loài cây khả năng sinh trưởng chiều cao và
đường kính tốt nhất là Shorea roxburrghii; Shorea ovalis; Shorea leprosula.
Sinh trưởng chiều cao của các loài cây trồng trong băng 10m và 40m tốt hơn
băng 20m. Khu trồng theo băng có sinh trưởng chiều cao tốt nhất ở công thức
trồng 1 hàng Keo xen 1 hàng cây bản địa. Kết quả nghiên cứu này còn đưa ra
khuyến nghị điều chỉnh quá trình sinh trưởng của các mô hình thí nghiệm
theo 8 thời điểm từ 2 - 47 năm sau khi trồng [30]. Như vậy, đây là một trong
những công trình nghiên cứu tạo rừng hỗn loài ở nước ngoài tương đối toàn
diện về các biện pháp kỹ thuật, từ việc chọn loài cây trồng đến nghiên cứu
phương thức trồng, thời điểm trồng và sự điều chỉnh mô hình theo quá trình
sinh trưởng trong thời gian dài. Do đó những mô hình thí nghiệm này hứa hẹn
nhiều thành công trong tương lai và có thể áp dụng mở rộng trong sản xuất.
Qua những nghiên cứu trên cho thấy cây bản địa đã được nhiều tác giả
quan tâm và đã được lựa chọn để trồng rừng, về phương thức trồng có thể
trồng theo băng hoặc theo đám để tận dụng không gian dinh dưỡng, các
nghiên cứu về ảnh hưởng lẫn nhau khi trồng rừng hỗn giao. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trên chưa đề cập đến ảnh hưởng của độ tàn che của tầng cây cao
đến sinh trưởng của loài cây khác trồng dưới tán. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng của cây bản địa trồng dưới tán
và biện pháp gây trồng một số loài cây bản địa là cần thiết, đặc biệt đối với
loài cây bản địa tại Việt Nam.
7
1.1.2. Những nghiên cứu về rừng Thông thuần loài
Nghiên cứu rừng Thông thuần loài cũng đã được nhiều tác giả trên thế
giới quan tâm và đã đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, điển
hình một số công trình nghiên cứu sau:
Bolstad và cộng sự (1988) [24] cũng đã tìm thấy một vài loại phân bón
mang lại hiệu quả tích cực cho rừng trồng thông P. caribeae ở Colombia như
potassium, phosphate, boron và magnesium. Khi nghiên cứu phân bón cho
trồng rừng thông P. caribeae ở Cu ba, Herrero và cộng sự (1988) [26] cũng
cho thấy bón phosphate nâng cao sản lượng rừng từ 56 lên 69m3/ha sau 13
năm trồng.
Ở Thái Lan từ năm 1969 – 1974 người ta đã nghiên cứu ảnh hưởng của
đất, phân bón và kỹ thuật lâm sinh đến khả năng sinh trưởng của loài Thông
nhựa kết quả cho thấy điều kiện lập địa, phân bón và kỹ thuật trồng có ảnh tới
khả năng sinh trưởng loài cây Thông nhựa [31]. Ở Swaziland cũng đã chọn
được giống Pinus patuna sau 15 năm tuổi trồng thuần loài đạt 19m3/ha/năm
[32].
Điểm qua một vài công trình nghiên cứu trên cho thấy các công trình
nghiên cứu chủ yếu tập chung vào vấn đề ảnh hưởng của phân bón và điều
kiện lập địa nhằm nâng cao năng xuất chất lượng rừng Thông trồng thuần
loài. Các nghiên cứu trên chưa đề cập tới việc phối hợp các loài Thông với
cây trồng khác, đặc biệt là trồng một số loài cây bản địa dưới tán rừng Thông.
1.2. Ở VIỆT NAM
1.2.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa
Ở Việt Nam, vấn đề trồng rừng hỗn loài đã được các nhà khoa học quan
tâm từ rất sớm, điển hình là công trình nghiên cứu của Maurand (người Pháp)
ở Đồng Nai vào những năm 30 của thế kỷ trước, tác giả đã sử dụng các loài
Sao đen (Hopea odorata), Dầu rái (Dipterocarpus alatus) và Vên vên
8
(Anisoptera costata) để xây dựng các mô hình trồng rừng hỗn loài, cho đến
nay các mô hình này vẫn còn giá trị tham khảo nhất định. Trong giai đoạn
1930-1980 có rất ít các công trình nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài và
nghiên cứu chọn loài cây trồng cũng chỉ tập trung cho một số loài cây thuộc
họ Dầu. Từ năm 1985 đến nay, việc nghiên cứu trồng rừng hỗn loài bằng các
loài cây bản địa được triển khai nhiều hơn kể cả số lượng loài cây và diện tích
rừng trồng. Trong giai đoạn này nhiều loài cây lá rộng bản địa đã được lựa
chọn để nghiên cứu cho các vùng sinh thái trong cả nước. Các loài cây lá rộng
bản địa được lựa chọn để nghiên cứu trồng rừng hỗn loài chủ yếu là các loài
có giá trị kinh tế cao. Một số loài cây bản địa được lựa chọn cho vùng Tây
nguyên và Nam bộ như: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Cẩm lai (Dalbergia
oliveri), Căm xe (Xylia xylocarpa), Tếch (Tectona grandis) ... và được trồng
chủ yếu tại các trạm thực nghiệm Trảng Bom tỉnh Đồng Nai, Lang Lanh và
Măng Linh tỉnh Lâm Đồng, Ekmat tỉnh Đắc Lắc, Tân Tạo Thành Phố Hồ Chí
Minh. Ở miền Bắc, các loài cây chủ yếu được lựa chọn để trồng rừng hỗn loài
là Lim xanh (Erythurophleum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis),
Giổi xanh (Mechelia mediocris), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Mỡ
(Manglietia conifera), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Lát hoa
(Chukrasia
tabularis), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Xoan đào (Prunus arborea),
Vạng trứng (Endospermum chinense) ...
Nguyễn Bá Chất (1995) [4], khi nghiên cứu rừng phục hồi ở Sông Hiếu
(1981 - 1985) đã thí nghiệm gây trồng rừng hỗn loài Lát hoa (Chukrasia
tabularis) với các loài cây bản địa lá rộng khác như: Lim xẹt (Peltophorum
tonkinnensis), Giổi (Michelia sp), Thôi chanh (Evodia bodinieri), Lõi thọ
(Gmelia arbores) ... nhằm tạo ra cấu trúc hợp lý. Sau 10 năm, kết quả cho
thấy Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn khi trồng thuần loài ...
9
Trần Ngũ Phương (2000) [23] cũng đã nghiên cứu xây dựng các mô hình
trồng rừng hỗn loài tạo ra rừng nhiều tầng tán nhằm mục đích cho phòng hộ
và sản xuất thông qua các phương thức hỗn loài khác nhau như hỗn loài giữa
cây cao với cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ kết quả của các
công trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu ở rừng tự nhiên ở miền Bắc Việt
Nam, tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta đều phân thành
nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi. Dựa
trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp ứng mục
tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mô hình hỗn
loài nổi bật là mô hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản
xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Một thí nghiệm trồng rừng hỗn loài khác là trồng theo đám ở Trường đại
học Lâm nghiệp (Phạm Xuân Hoàn, 2004) [11], đã sử dụng 165 loài cây bản
địa trồng dưới tán của Thông và Keo, trong đó dưới tán rừng Thông mã vĩ
(Pinus massoniana) là 27 loài, dưới tán rừng Keo lá tràm (Acacia
auriculifomis) là 21 loài, số còn lại trồng dưới tán của trạng thái rừng hỗn
giao Thông mã vĩ với Keo lá tràm, Thông mã vĩ với Keo tai tượng, Bạch đàn
... tỉ lệ sống của các loài cây bản địa dưới tán rừng Thông được đánh giá đạt
93,2% và dưới tán rừng Keo đạt 91,2%. Tăng trưởng thường xuyên và tăng
trưởng bình quân của cây bản địa có sự phân hoá khác nhau khá rõ ràng ở các
loài. Đặc biệt, đáng chú ý một số loài thường được đánh giá sinh trưởng chậm
như: Re hương (Cinnammomun inners), Lim xanh (Erythurophleum fordii)...
nhưng ở giai đoạn còn nhỏ có khả năng chịu bóng tốt dưới tán rừng Thông,
Keo lại sinh trưởng tốt và rất có triển vọng.
Mô hình trồng rừng hỗn loài Keo trắng (Paraserianthes falcataria) và
Lõi thọ (Gmelia arboria) ở Lương Sơn – Hoà Bình cũng đã được Hoàng Văn
Thắng và cộng sự (2005) [18] nghiên cứu và kết quả cho thấy sau nương rẫy,
10
cú dc t 150 n 200, trng hn giao theo bng, c Keo trng v Lừi th
u sinh trng tt, cha thy xut hin sõu bnh hi v Lừi th hin nay ó
bt u ra hoa v cú th chuyn hoỏ thnh rng ging.
Xỏc nh loi cõy bn a cho tng vựng sinh thỏi cng l ni dung quan
trng trong xõy dng rng hn loi. Vit Nam nghiờn cu cỏc loi cõy bn
a cho mi vựng sinh thỏi cng ó c mt s tỏc gi quan tõm, mt s
cụng trỡnh nghiờn cu in hỡnh cú th k n nh sau:
Phựng Ngc Lan (1994) [12] nghiờn cu c tớnh ca loi lim xanh
(Erythurophleum fordii) ó xỏc nhn vựng phõn b ca loi Lim xanh rt rng
cú mt hu ht cỏc tnh trong c nc vi cao phõn b t 900m tr
xung phớa Nam v 500m tr xung phớa Bc. Sinh trng thớch hp
i bỏt ỳp, dc nh hn 200 hoc chõn i, chõn nỳi dc t.
Theo Hong Hoố v Trn Xuõn Thip (1999) thỡ nc ta cú khong
250 loi cõy bn a v nhp ni ó v ang c s dng trng rng [19].
Nh vy, vic to lp cỏc lõm phn rng trng núi chung v cỏc lõm phn
rng trng hn loi núi riờng nc ta ó chn ra c nhiu loi cõy trng
phự hp cho cỏc vựng sinh thỏi trong c nc. ú l c s khoa hc quan
trng cho vic xõy dng v nõng cao nng sut cht lng rng trng nc
ta.
Qua nhiu nm nghiờn cu, Vin khoa hc Lõm nghip Vit Nam (2000)
[21] ó a ra trờn 100 loi cõy bn a cho cỏc chng trỡnh trng rng phc
hi c 3 loi rng l rng sn xut, phũng h v c dng.
Ngoi cỏc cụng trỡnh nghiờn cu ó nờu, Chng trỡnh 327, D ỏn 661
cng to ra nhiu mụ hỡnh trng rng hn loi vi cỏc loi cõy bn a lỏ
rng, trong ú ch yu l to rng phũng h cho cỏc vựng xung yu trong c
nc. Trong các mô hình này hầu hết đều sử dụng các loài cây phù trợ nh
Keo tai tợng (Acacia mangium), Keo Lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo
11
lai (Acacia mangium x Acaccia auriculiformis), Muồng đen (Cassia siamea),
với tỷ lệ hỗn loài là 600 cây bản địa và 1000 cây phù trợ/ha. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh tán che của các loài cây phù trợ trong các mô hình rừng trồng hỗn
loài đB cha đợc quan tâm nghiên cứu và điều chỉnh kịp thời nên các loài cây
trồng chính có tỷ lệ sng rt thấp và thờng sinh trởng kộm. Đây cũng là tồn
tại chung của hầu hết cỏc mụ hỡnh trong cỏc d ỏn 327 v 661.
Nghiờn cu phng thc v phng phỏp hn loi cng ang c nhiu
tỏc gi quan tõm. Thc t cho thy cỏc mụ hỡnh rng trng hn loi nc ta
n nay ch yu l ỏp dng theo phng thc trng rng hn loi gia cõy
cao vi cõy cao. in hỡnh l thớ nghim trng rng hn loi theo hng gia
M (Manglietia conifera) vi cỏc loi cõy Lim xanh (Erythurophleum fordii),
X c (Khaya senegalensis), Tch (Tectona grandis) [22]. Trong mt cụng
trỡnh nghiờn cu khỏc trng rng g lng Tõy Nguyờn, Nguyn Xuõn Quỏt
v cng s (1990) ó s dng cõy u trm (Indigofera teysmanii) nh l mt
cõy phự tr cho Tch (Tectona grandis), kt qu cho thy Tch trng xen vi
cõy u trm giai on u sinh trng khỏ tt, hỡnh thõn p v thng, kh
nng phõn cnh ớt. Hn na, c di di tỏn rng trng cng hn ch phỏt
trin hn ni Tch trng thun loi [14]; Nghiờn cu to rng hn loi gia
cõy lỏ kim (Thụng uụi nga) v cõy lỏ rng (Keo lỏ trm v Bch n trng)
Nỳi Lut - Xuõn Mai ca Phựng Ngc Lan (1986) [13]; Nghiờn cu thit
lp rng trng hn loi gia cỏc loi cõy a sỏng Bch n trng (Eucalyptus
camaldu) v Keo lỏ trm (Acaccia auriculiformis) ca Nguyn Hu Vnh v
cỏc cng tỏc viờn (1991-1993) [20]. Hu ht cỏc cụng trỡnh nghiờn cu ny
u ỏp dng phng phỏp trng hn loi theo hng hoc theo bng. Cỏc kt
qu nghiờn cu ca cỏc cụng trỡnh ny cho thy dự c xõy dng theo
phng thc v phng phỏp no thỡ rng trng hn loi u to iu kin
12
cho cỏc loi cõy bn a sinh trng tt hn v rng trng cú tớnh bn vng
cao hn c v kinh t v mụi trng so vi rng trng thun loi.
Khi nghiờn cu cỏc phng thc phc hi rng th sinh nghốo kit,
Nguyn Bỏ Cht (1981-1985) [6] ó cho thy sinh trng ca Lỏt hoa
(Chukrasia tabularis) trng hn loi tt hn rng Lỏt hoa trng thun loi.
Hn na, cỏc loi cõy khỏc trong rng th sinh cng cú kh nng tỏi sinh
phc hi tt hn.
Dự án trồng rừng hỗn loài các loài cây gỗ giá trị cao để cung cấp gỗ và
tăng cờng các dịch vụ cộng đồng gia Việt Nam và Australia (2002-2006) đB
thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây nhập nội và cây bản địa với các
thời điểm hỗn loài khác nhau tại 3 địa điểm: i) Đoan Hùng - Phú Thọ: trồng
cùng thời điểm các loài Bạch đàn urophylla, gồm có Giổi xanh (Mechelia
mediocris), Lát hoa (Chukrasia tabularis) và Trám trắng (Canarium album);
ii) Vờn quốc gia Tam Đảo: trồng hỗn loài giữa Su (Darcontomelon
duperrea), Xà cừ (Khaya senegalensis), Lim xanh (Erythurophleum fordii)
với Keo lai vào cùng một thời điểm; iii) èo Hải Vân - Huế tạo rừng hỗn loài
giữa Keo tai tợng (Acacia mangium) với Sao đen (Hopea odorata), Dầu rái
(Dipterocarpus alatus) và Chò chỉ (Parashorea chinensis), trong đó Keo tai
tợng đợc trồng trớc 7 năm sau đó đợc chặt theo băng để đa các loài cây
bản địa vào trồng dới tán với mật độ 250 cây/ha. Kết quả sau 3 năm cho thấy
các loài cây trồng đều có tỷ lệ sống cao, sinh trởng tốt và có nhiều triển
vọng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả bớc đầu. Mặt khác khi thiết kế xây
dựng mô hình, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài cây cha đợc chú
ý. Vì vậy, với các mô hình này cần phải theo dõi để có biện pháp tác động kịp
thời, điều chỉnh sự cạnh tranh giữa các loài, đặc biệt là các loài cây mọc
nhanh nh Bạch đàn và Keo lai, tạo điều kiện để cây bản địa sinh trởng, phát
triển tốt.
13
Hiện nay nhiều đối tượng rừng trồng thuần loài đều tuổi ở nước ta đã và
đang được nghiên cứu để chuyển hoá thành rừng hỗn loài khác tuổi, có cấu
trúc ổn định và bền vững hơn thông qua việc đưa thêm một số loài cây mục
đích vào trồng theo các thời điểm khác nhau. Điển hình là dự án trồng rừng
Việt - Đức ở các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Ban đầu rừng
trồng của dự án ở các tỉnh này là rừng thuần loài Thông mã vĩ, Keo lá tràm,
hoặc Thông mã vĩ xen Keo lá tràm. Sau 7 năm dự án đã thí nghiệm chuyển
hoá rừng Thông mã vĩ thuần loài và rừng hỗn loài Thông mã vĩ xen Keo lá
tràm thành rừng hỗn loài với một số loài cây lá rộng bản địa khác bằng cách
chặt tỉa Thông mã vĩ và Keo lá tràm, mở thành các rạch rộng 6m sau đó đưa
các loài cây lá rộng bản địa vào trồng. Như vậy, xét về thời điểm hỗn loài thì
đây có thể coi là một trong những thí nghiệm điển hình và có tính thực tiễn
cao, phần lớn diện tích rừng trồng của nước ta hiện nay đều là rừng trồng
thuần loài hoặc hỗn loài không bền vững là đối tượng cần được chuyển hoá
thành rừng hỗn loài bền vững nhằm kinh doanh rừng theo hướng ổn định, bền
vững hơn.
1.2.2. Các nghiên cứu về trồng rừng Thông
1.2.2.1. Các loài Thông có giá trị khoa học và kinh tế phổ biến ở Việt Nam
Hiện nay trên Thế giới người ta đã xác định được hơn 100 loài Thông và
ở Việt Nam đã xác định được 33 loài Thông. Tuy nhiên, một số loài có nguy
cơ bị tuyệt chủng cũng như những loài có giá trị kinh tế đã được các nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, điển hình là một số loài sau đây:
* Thông đỏ Lâm Đồng (Taxus wallichiana Zuce; hoặc Taxus baccata
ssp. Wllichiana (Zuce) Pilg); tên gọi khác là Sam hạt đỏ lá dài, hay Thông đỏ
Himalaya; thuộc Họ Thông đỏ: Taxaceae.
Thông đỏ Lâm Đồng là loài cây gỗ lá kim, có kích thước lớn cao tới
30m, đường kính thân cây đạt tới 160cm. Lecomte (1905) đã phát hiện loài
14
thông này ở Đà Lạt và Nha Trang, phân bố ở độ cao 1500m so với mực nước
biển; hiện nay chỉ còn 150 cây. Thông đỏ Lâm Đồng có chứa chất Taxol là
nguyên liệu để chế tạo thuốc chống ung thư.
* Thông 5 lá Đà Lạt (Pinus dalatensis de Ferre); thuộc Họ Thông:
Pinaceae.
Thông 5 lá Đà Lạt là loại cây gỗ lá kim, thường xanh, cây có kích
thước tương đối lớn, cao tới 20m với đường kính thân cây đạt tới 70 – 90cm.
Phân bố tại Đà Lạt, ở độ cao ≥ 1600m so với mực nước biển, người ta còn
gặp Thông 5 lá Đà Lạt phân bố ở Măng Giang và Kon Ka Kinh tỉnh Gia Lai.
* Thông ba lá (Pinus kesiya Royle ex Gardon); thuộc Họ Thông:
Pinaceae.
Thông ba lá là loài cây gỗ lá kim, có kích thước lớn; cao tới 30m – 45m, với
đường kính thân cây đạt tới 70 – 90cm. Vỏ thân cây dày mầu nâu, nứt dọc
theo trục thân và tạo thành các rãnh sâu dạng lưới, cành cây thường có màu
nâu đỏ, lá hình kim, hợp thành từng túm 3 lá, nên có tên gọi là Thông 3 lá, lá
mọc đầu cành dài từ 12 - 20cm, mảnh, mềm, màu xanh thẫm. Hoa đơn cùng
gốc, quả hình nón - trứng, dài 5 - 8cm, quả thường quặp suống, đôi khi hơi
vẹo, cuống quả ngắn dài không quá 1cm. Phân bố ở độ cao 1000 – 2000m so
với mực nước biển, với diện tích khá rộng ở Đà Lạt. Từ nhựa thông chế biến
ra côlôphan, dầu thông, tùng tiêu và các dẫn xuất của tinh dầu thông dùng để
xuất khẩu và sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp như sơn, giấy, dược.
Rừng thông đẹp, có môi trường trong lành, thường là thắng cảnh phục vụ
khách thăm quan, du lịch và điều dưỡng.
* Thông hai lá dẹt (Pinus krempffi H.Lec hoặc Ducampopinus krempffi
(Lec) A.Chev); thuộc Họ Thông: Pinaceae.
Là cây gỗ lá kim, thường xanh, cây có kích thước lớn: cao tới 30m và
đường kính thân cây đạt tới 150 – 200cm. Thông hai lá dẹt phân bố tự nhiên ở
15
vùng núi cao trung bình và núi cao tại tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa với độ cao:
1200 – 1800m so với mực nước biển. Hiện nay ở Khu bảo tồn thiên nhiên
Bidoup, núi Bà có diện tích 10.000ha, là nơi phân bố tự nhiên nhiều Thông
hai lá dẹt.
* Thông nhựa (Pinus merkussi Jungh & de Vries); Còn gọi là Thông hai
lá); thuộc Họ Thông : Pinaceae.
Cây có kích thước tương đối lớn, cao tới 30 – 35m, với đường kính thân
cây đạt tới 60 – 70cm, thân cây thẳng và tròn, vỏ thân cây dầy có mầu nâu đỏ
nhạt, nứt dọc sâu. Cành 1 năm có mầu nâu nhạt, không có phấn trắng nhẵn,
gốc lá hình vẩy tồn tại nâu trên cành. Phân bố nhiều ở Nam Tây Nguyên (tỉnh
Lâm Đồng) trên độ cao thấp hơn 1000m so với mực nước biển, có đặc điểm
khí hậu nhiệt đới. Cây cho nhiều nhựa, được trồng trên diện tích khá rộng ở
các tỉnh từ Bắc vào Nam.
* Thông tre (Podocarpus neriifolius P Don hoặc Podocarpus
annamiensis N Gray); còn gọi là Thông trúc đào; thuộc Họ Kim Giao:
Podocarpaceae.
Cây có kích thước nhỏ, cao khoảng 25m. Phân bố ở độ cao 600 – 1500m
trên núi đất tại các tỉnh Sơn La, Yên Bái, Tuyên Quang, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Thừa Thiên Huế (Bạch mã), Kon Tum (Kôn Plông), Lâm Đồng (Đà Lạt).
Gỗ Thông tre bền, ít mối mọt, dùng làm nguyên liệu đóng tàu thuyền, và
làm đồ gia dụng.
* Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri Foxw, Podocarpus brevifolius
(stapf) Foxw và Podocarpus nerriifolius D.Don var brevifolius stapf); còn gọi
là Thông la hán); thuộc Họ Kim giao: Podocarpaceae.
Cây có kích thước nhỏ, chỉ khoảng 10 – 15m, phân bố trên núi đất, có độ
cao từ 500 – 1500m tại Lào Cai, Hà Giang (Đồng Văn, Quảng Bạ), Quảng
Ninh (Yên Tử), Hòa Bình ( Pà Cò), Vĩnh Phúc (Tam Đảo).
16
* Thông đỏ Pà Cò (Taxus chinensis (Pilg) Rehd, Taxus ssp cuspidata
Sieb et Zucc var chinensis Pilg và Taxus celebrica auct non (warb) H.L.Li);
còn có tên: Sam hạt đỏ lá ngắn, Thông đỏ Trung Quốc; thuộc Họ Thông đỏ:
Taxaceae.
Thuộc cây gỗ lá kim, thường xanh, có kích thước nhỏ, cao 9 – 10m,
đường kính thân cây 30 – 35cm, phân bố ở núi đá vôi Thái Phìn Tùng thuộc
tỉnh Hà Giang, ở độ cao 1500m so với mực nước biển. Người ta còn phát hiện
thấy loài Thông đỏ Pà Cò ở núi đá vôi Mai Châu (tỉnh Hòa Bình).
* Thông Pà Cò (Pinus Kwangtungenssis Chun ex Tsiang) còn gọi là
thông năm lá Pà Cò; thuộc Họ Thông: Pinaceae.
Cây có kích thước trung bình, cao 15 – 20m, đường kính thân cây: 50 70cm, phát hiện Thông Pà Cò phân bố trên núi đá vôi ở huyện Mai Châu
(Hòa bình), với độ cao trên 1000m so với mực nước biển.
* Thông mã vĩ (Pinus massoniana); thuộc Họ Thông: Pinaceae.
Thông mã vĩ là cây thân gỗ lá kim có kích thước tương đối lớn. Cây có
thể cao tới 30m, đường kính 50 – 60cm, thân thẳng vỏ mầu nâu đỏ, gốc có
mầu thẫm hơn, khi già vỏ bong thành từng mảng (đây cũng là một đặc điểm
để phân biệt với các loài Thông nhựa).
Lá Thông mã vĩ có mầu xanh tươi, tập trung ở đầu cành, lá mềm và rủ
xuống. Thường có 2 lá kim trong một bẹ lá. Lá hình kim dài 12 – 20cm. Khi
cây Thông mã vĩ từ 5 – 10 tuổi, tán lá có hình tháp, sau đó trở thành hình
trứng và hình ô khi tuổi già
Thông mã vĩ bắt đầu ra hoa, kết quả ở tuổi 6 – 7, hoa đơn tính cùng gốc.
Nón quả khi non có hình tròn, khi già có hình trứng, dài từ 4 – 7cm, đường
kính 2,5 – 4cm. Khi chín nón quả có mầu hạt Dẻ, mặt vẩy hình thoi, dẹt, mép
lá phía trên tròn.
17
Gỗ Thông mã vĩ có lõi và giác phân biệt. Lõi có màu vàng, thớ gỗ thô,
thẳng. Gỗ nhẹ, thường được làm trụ mỏ, làm cột điện, sản xuất giấy, sợi
celluloso.... Nhựa Thông mã vĩ dùng để sản xuất tùng hương và tinh dầu
Thông, phục vụ cho ngành công nghiệp và xuất khẩu.
Hiện nay, rừng Thông mã vĩ được trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc, như:
Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái và Lào Cai...
1.2.2.2. Các nghiên cứu về rừng trồng Thông mã vĩ
Tính đến 2009, diện tích rừng Thông nước ta có khoảng 327.212,3 ha [8]
phần lớn diện tích rừng trồng chủ yếu là trồng thuần loài. Về vấn đề trồng
rừng cho các loài Thông ở nước ta cũng đã được các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu, có thể điểm qua kết quả của một số công trình nghiên cứu điển
hình như sau:
Các phương thức trồng rừng nói chung trồng Thông mã vĩ nói riêng là
trồng thuần loài hoặc trồng hỗn loài với một số loài cây khác. Theo kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Bình, Phạm Đức Tuấn (2009) [3] rừng Thông
mã vĩ 7 năm tuổi với mật độ để lại 2000 cây/ha hàng năm trả lại cho đất 60,12
kg đạm và 19,54 kg lân, nhưng thực tế khả năng nâng cao độ phì của đất dưới
tán rừng Thông mã vĩ không cao và diễn ra với mức độ tương đối chậm.
Ngoài ra, việc trồng Thông mã vĩ thuần loài thường xẩy ra dịch sâu róm
Thông, đồng thời cũng không hạn chế được nạn cháy rừng Thông trong mùa
khô, đây là những nhược điểm nổi bật của rừng Thông trồng thuần loài đã
được các nhà khoa học khẳng định. Ngoài ra, các tác giả đã đưa ra một số yêu
cầu kỹ thuật trồng rừng Thông mã vĩ từ khâu chọn cây con đến khi trồng rừng
và chăm sóc rừng trồng như sau:
- Về hỗn hợp ruột bầu gồm 75% đất mùn tế guột, 15% đất vườn ươm,
9% phân chuồng hoai (không ủ vôi), 1% Sufe lân. Sau từ 6 đến 10 tháng tuổi,
cây con đạt tiêu chuẩn xuất vườn với chiều cao trung bình từ 28 – 50cm, cây
18
cứng cáp, không cụt ngọn. Thời vụ trồng vụ xuân (tháng 2 đến tháng 3), vụ
thu (tháng 8 đến tháng 10)
- Kích thước hố đào 30cm x 30cm x 30cm, đào hố trước khi trồng một
tháng. Mật độ trồng: 2500 cây/ha (2m x 2m). Tiêu chuẩn cây con xuất vườn:
Tuổi cây, từ 6 đến 10 tháng tuổi, cây cao từ 28 - 50cm, cây cứng cáp, không
bị sâu bệnh và không cụt ngọn.
- Chăm sóc rừng trồng: Năm thứ nhất: 3 lần, năm thứ 2: 2 lần, năm thứ 3:
1 lần. Nội dung chăm sóc chủ yếu phát dọn thưc bì lấn át cây thông, cuốc đất
và xới sáo quanh gốc cây.
- Tỉa thưa lần đầu vào năm thứ 5 và năm thứ 6. Cường độ tỉa thưa 30%
tổng số cây trong rừng.
1.2.3. Các nghiên cứu về trồng cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ
Với các nhược điểm của rừng Thông trồng thuần loài đã được các nhà
khoa học xác định và đã phân tích ở phần trên. Để khắc phục vấn đề này, việc
trồng rừng hỗn loài giữa các loài Thông nói chung và Thông mã vĩ nói riêng
với các loài cây bản địa là rất cần thiết và có ý nghĩa cả khoa học và thực tiễn.
Vấn đề này đã được một số nhà khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu
trong những năm gần đây, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu điển
hình sau đây:
Gần đây nhất Lê Minh Cường (2007) đã nghiên cứu trồng một số loài
cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Đại Lải Vĩnh Phúc [7], tác giả đã đề
xuất được 3 loài cây bản địa có triển vọng để gây trồng dưới tán rừng Thông
mã vĩ (Pinus massoniana) đó là: Lim xanh (Erythrophleum pordii), Re hương
(Cinnamomum iners), Sao đen (Hopea odorata). Trong đó, Lim xanh là loài
cây có khả năng sinh trưởng tốt nhất dưới tán rừng Thông mã vĩ sau 7 năm
trồng đường kính gốc trung bình đạt từ 6,0cm - 6,4cm, chiều cao vút ngọn đạt
19
từ 4,2m - 4,6m. Ngoài ra, tác giả đã đề xuất một số biện pháp kỹ thuật gây
trồng cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ.
Trường đại học Lâm nghiệp Xuân Mai cũng đã xây dựng vườn sưu tập
vườn thực vật với gần 300 loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ
(Pinus massoniana) và Keo tai tượng (Acacia mangium). Sau nhiều năm
nghiên cứu đã tìm ra một số loài cây thích nghi dưới tán rừng như Đinh thối
(Fernandoa brilletii), Máu chó (Knema pierrei), Tai chua (Garcinia cowa),
Re hương (Cinnamomun iners), Long não (Cinnamomun camphora)... (dẫn
theo Lê Minh Cường 2007)[7].
Cũng trên nền tảng rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại Núi Luốt, Xuân
Mai, Đỗ Thị Quế Lâm (2003) [12] đã nhận định các loài Lim xanh
(Erythrophleum pordii), Đinh thối (Fernandoa brilletii), Re hương
(Cinnamomun iners), sinh trưởng tương đối tốt dưới tán rừng Thông mã vĩ.
Tuy nhiên, dưới các độ tàn che khác nhau, khả năng sinh truởng của các loài
cây bản địa cũng rất khác nhau.
Qua những nghiên cứu trên cho thấy việc trồng rừng hỗn loài giữa Thông
và cây bản địa, đặc biệt là trồng các loài cây bản địa dưới tán rừng Thông mã
vĩ đã và đang được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều loài
cây gỗ có giá trị đã được lựa chọn để trồng rừng như: Đinh thối, Lim xanh,
Re hương ...
Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa đề cập đến biện pháp kỹ thuật gây
trồng và tác động cụ thể vào tầng cây cao như thế nào, các biện pháp kỹ thuật
gây trồng cây bản địa dưới tán như thế nào. Hơn nữa, chưa thấy có nghiên
cứu nào về trồng cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Lục Ngạn - Bắc
Giang.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật gây trồng cây bản
địa dưới tán rừng, đặc biệt là rừng Thông mã vĩ để làm cơ sở chuyển hoá rừng
20
Thông mã vĩ thuần loài thành rừng hỗn loài với các loài cây bản địa nhằm
phát triển bền vững và nhân rộng mô hình là cần thiết.
1.3. THẢO LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy các công
trình nghiên cứu trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng tương đối
phong phú và toàn diện về tất cả các mặt, những nghiên cứu chủ yếu tập trung
vào mối quan hệ qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các loài cây, biện pháp
kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng hỗn loài trong quá trình sinh trưởng. Tuy
nhiên, một số vấn đề còn tiếp tục phải đặt ra để nghiên cứu như sau:
+ Tuổi rừng Thông tỉa thưa và trồng cây bản địa;
+ Tiêu chuẩn cây con cây bản địa trồng dưới tán;
+ Độ tàn che của rừng Thông mã vĩ để trồng cây bản địa cho từng loài;
+ Địa hình trồng cây bản địa;
+ Hướng phơi trồng cây bản địa;
+ Loại đất trồng cây bản địa...
Nhưng trong phạm vi nghiên cứu này ở Lục Ngạn – Bắc giang, đề tài
này chỉ có thể giải quyết được một số vấn đề nhằm bổ sung thêm cơ sở lý
luận để chuyển hoá rừng thuần loài thành rừng hỗn loài như sau:
+ Đánh giá điều kiện lập địa khu vực nghiên cứu;
+ Đánh giá đặc điểm của rừng Thông mã vĩ sau khi tỉa thưa và đã trồng
cây bản địa;
+ Đánh giá đặc điểm cây bụi, thảm tươi dưới tán rừng Thông mã vĩ;
+ Đánh giá khả năng sinh trưởng của các loài cây bản địa dưới tán rừng
Thông mã vĩ.
21
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
2.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Lục Ngạn là huyện trung du miền núi nằm ở phía Đông Bắc của
tỉnh Bắc Giang, thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Có toạ độ vị trí địa lý: từ
210 16’ 00’’- 210 34’ 40’’ vĩ độ Bắc và 1060 26’ 30’’- 1060 52’ 00’’ kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp huyện Hữu Lũng và huyện Chi Lăng của tỉnh Lạng Sơn.
Phía Đông giáp huyện Sơn Động của tỉnh Bắc Giang và huyện Lộc Bình
tỉnh Lạng Sơn.
Phía Tây và Nam giáp huyện Lục Nam của tỉnh Bắc Giang.
Trung tâm huyện lỵ nằm cách thành phố Bắc Giang 40 km về phía Đông,
cách Hà Nội 90 km về phía Đông Bắc và cách cửa khẩu Lạng Sơn 120 km về
phía Nam. Có trục đường Quốc lộ 31, 279 và nhiều trục đường tỉnh lộ đi qua,
tương đối thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các vùng miền khác.
2.1.2. Địa hình
Lục Ngạn là một bồn địa được bao bọc bởi 2 dải núi lớn là Bảo Đài ở
phía Bắc và Yên Tử, Huyền Định ở phía Nam và Đông Nam. Địa hình chia
thành 2 vùng rõ rệt là vùng cao và vùng thấp.
Vùng thấp bao gồm những dãy đồi bát úp xen kẽ những cánh đồng có độ
cao trung bình từ 100 – 150m so với mực nước biển, độ dốc < 200, rất thuận
lợi cho phát triển cây ăn quả và trồng rừng, đặc biệt là xây dựng những mô
hình vườn rừng, đồi rừng, trang trại lâm nghiệp…
Vùng cao bao gồm những dãy núi có độ dốc trung bình từ 25 – 300, độ
cao trung bình > 300m so với mực nước biển. Vùng này diện tích đất chưa sử
dụng còn khá lớn, có thể dùng cho sản xuất kinh doanh rừng trồng.
22
Vì vậy, có thể nói Lục Ngạn có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế đồi
rừng cũng như đẩy mạnh phát triển sản xuất lâm nghiệp.
2.1.3. Đặc điểm thổ nhưỡng
Lục Ngạn có nhiều loại đất khác nhau nhưng chủ yếu là đất feralit vàng
đỏ và nâu xám phát triển trên 3 loại đá mẹ chủ yếu là: sa thạch, phiến thạch và
phấn xa. Thành phần cơ giới từ trung bình đến sét nặng, có kết cấu viên, độ
xốp lớp đất mặt từ 50 – 70%, khả năng thấm và giữ nước trung bình, hàm
lượng mùn trong đất khoảng 4%, đạm từ 0,01 - 0,4%, rất thích hợp cho các
loài cây lâm nghiệp, cây ăn quả và cây công nhiệp. Tuy nhiên, do có độ dốc
tương đối lớn kiểu bát úp lên cần phải chú ý đến những biện pháp chống xói
mòn và rửa trôi đất.
Ngoài ra, còn có diện tích nhỏ đất phù sa được bồi tụ hàng năm ở ven
sông, suối được người dân sử dụng trồng lúa nước, hoa màu và cây ăn quả.
Với tiềm năng đất đai lớn và phù hợp cho sản xuất lâm nghiệp cũng như
cây ăn quả, Lục Ngạn đang là một huyện đứng đầu tỉnh Bắc Giang về công
tác bảo vệ rừng và trồng rừng cũng như phát triển kinh tế đồi rừng.
2.1.4. Khí hậu, thuỷ văn
Lục Ngạn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa thuộc vùng Đông
Bắc. Một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh, mùa hè nóng ẩm, mùa xuân
và mùa thu khí hậu nhìn chung là ôn hoà. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 22
- 230c, ẩm độ dao động lớn từ 73 - 87%. Lượng mưa trung bình hàng năm
1.417,5mm đủ đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất và đời sống.
Vùng cao của huyện Lục Ngạn là lưu vực phòng hộ chính của hồ Cấm
Sơn, vùng thấp là một trong những lưu vực của sông Lục Nam. Hệ thống khe,
suối, các hồ nhỏ khá nhiều nhưng phần lớn cạn nước vào mùa khô và chảy
xiết dâng cao vào mùa mưa, gây khó khăn cho sản xuất nông lâm nghiệp.
2.1.5. Hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên rừng
23
* Hiện trạng sử dụng đất đai
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 101.223,72 ha, trong đó diện tích đất
có rừng là 43.631,4 ha, chiếm 43% diện tích đất tự nhiên. Trong tổng số
43.631,4 ha đất có rừng thì diện tích rừng trồng phòng hộ là 21.419,6 ha
(chiếm 49%), đất trồng rừng sản xuất 22.211,8 ha (chiếm 51%). Diện tích đất
chưa có rừng quy hoạch cho lâm nghiệp là 14.318,2 ha. Qua đây chúng ta có
thể thấy diện tích đất trống còn lớn, đây là cơ hội và tiềm năng cho phát triển
rừng.
* Thực vật rừng
+ Rừng tự nhiên: Tổ thành loài khá phong phú với trên 100 loài cây gỗ.
Tuy nhiên, do khai thác quá mức và không hợp lý trong nhiều thập kỷ qua
nên hiện nay chỉ còn tập trung chủ yếu tại rừng phòng hộ Cấm Sơn và vùng
cao giáp huyện Sơn Động.
+ Rừng trồng: Các loài cây trồng rừng chủ yếu là những loài cây nhập
nội, sinh trưởng nhanh, cung cấp nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ hoặc làm ván
như Bạch đàn, Thông, Keo…
2.2. ĐIỀU KIỆN DÂN SINH, KINH TẾ - XÃ HỘI
2.2.1. Dân sinh
* Dân số: Dân số toàn huyện là 196.616 người, trong đó có 97.161 nam
( chiếm 49,44%) và 99.355 nữ (chiếm 50,56%) tỷ lệ tăng dân số hàng năm
1,3%.
* Lao động: Với khoảng 85.000 người trong độ tuổi lao động, chiếm
khoảng 43% tổng dân số, lao động nông lâm nghiệp chiếm 85%, hầu hết là
lao động chưa có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lục Ngạn là một địa phương
khá thuận lợi để phát triển sản xuất, đặc biệt là ngành nông lâm nghiệp vốn là
thế mạnh của một huyện miền núi.
* Dân tộc: Trong huyện có nhiều dân tộc anh em khác nhau cùng chung
sống, nhưng chủ yếu 8 dân tộc chính là Kinh, Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu,
24
Cao Lan, Hoa, Dao, sinh sống ở 397 thôn, bản. Mỗi dân tộc đều có phong tục,
tập quán khác nhau, có nền văn hoá riêng theo tộc người.
2.2.2. Giao thông và cơ sở hạ tầng
Ngoài quốc lộ 31 từ Bắc Giang đi Sơn Động và quốc lộ 279 đi Đồng Mỏ
- Lạng Sơn, Lục Ngạn còn nằm trên tuyến tỉnh lộ 285 và 290. Các tuyến
đường liên xã nối với quốc lộ chính đến trung tâm huyện tạo thành mạng lưới
giao thông, vận tải cho việc vận chuyển hàng hoá. Đây cũng là một yếu tố
thuận lợi để đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, học tập và trao đổi
kinh nghiệm sản xuất trong và ngoài huyện.
Mạng lưới diện đã cung cấp cho toàn huyện, một thế mạnh có thể khai
thác phục vụ chủ động cho tưới tiêu và sản xuất nông, lâm nghiệp.
2.2.3. Văn hoá – giáo dục
Hiện nay, toàn huyện đã đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục THCS; 100%
số các xã ở Lục Ngạn đã có trường học kiên cố, trạm y tế và bưu điện văn hoá
xã, đặc biệt là đã xây dựng được Bệnh viện đa khoa khu vực, hoạt động văn
hoá, thông tin, tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc được đẩy mạnh;
nhiều xã đã duy trì tổ chức tốt lễ hội văn hoá như: Tân Sơn, Kim sơn, Tân
Hoa... Huyện tổ chức ngày hội văn hoá các dân tộc hàng năm vào ngày 17 -18
tháng hai (Âm lịch); góp phần làm phong phú đời sống văn hoá, khơi dậy
phát huy giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc. Lục Ngạn còn là nơi
lưu giữ nhiều bản sắc văn hoá dân tộc với các lễ hội hát dân ca như hát sli, hát
soong hao.... Tuy nhiên, các phong tục và tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại,
ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh tế, xã hội của huyện, đặc biệt là tư
tưởng trọng nam khinh nữ.
2.2.4. Thu nhập và đời sống
Tổng sản lượng lương thực quy ra thóc toàn huyện đạt 50.854 tấn/năm
2009, sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 218kg năm 2004 lên
320kg năm 2009. Toàn huyện vẫn còn trên 4000 hộ nghèo, chiếm 10%.
25