Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Đặc điểm sinh thái học và ảnh hưởng của thuốc trừ sâu đến loài kiến vàng (oecophylla smaragdina fabricius) trên cây cam tại xã ngọc thanh, thị xã phúc yên, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 59 trang )

LỜI CẢM ƠN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

======
Trước tiên, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc về những chỉ dẫn tận tình
của PGS.TS. Trương Xuân Lam – Trưởng phòng Côn trùng học Viện Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
PHÙNG THỊ MINH TRANG
trong suốt quá trình tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này.
Đồng thời qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ
nhiệm Khoa cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh – KTNN, Trường Đại học Sư

THÁI
HƯỞNG
Phạm ĐẶC
Hà NộiĐIỂM
2, nhữngSINH
người đã
truyền HỌC
đạt kiếnVÀ
thứcẢNH
và tạo điều
kiện thuận
lợi CỦA
giúp đỡTHUỐC
tôi trong suốt
quá trình
hoàn
thànhLOÀI
khóa luận


tốt nghiệp
của mình.
TRỪ
SÂU
ĐẾN
KIẾN
VÀNG
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, thầy cô

( Oecophylla smaragdina Fabricius) TRÊN CÂY CAM

những người đã luôn động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và

TẠI
XÃ học.
NGỌC
nghiên
cứu khoa

THANH, THỊ XÃ PHÚC YÊN,

Xin chân thành cảm ơn!
TỈNH

VĨNH PHÚC
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: SinhPhùng

thái học
Thị Minh Trang

Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS.TRƯƠNG XUÂN LAM
LỜI CAM ĐOAN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về những chỉ dẫn tận tình
của PGS.TS. Trương Xuân Lam – Trưởng phòng Côn trùng học Viện Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
trong suốt quá trình tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này.
Đồng thời qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ
nhiệm Khoa cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh – KTNN, Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận
lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, thầy cô
những người đã luôn động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

Phùng Thị Minh Trang



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.Trương Xuân
Lam.
Các số liệu, những nghiên cứu được trình bày trong khóa luận này trung
thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

Phùng Thị Minh Trang


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.......................................................... 2
3.1. Ý nghĩa khoa học ....................................................................................... 2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn ........................................................................................ 2
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................. 3
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu ...................................................... 3
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới ................................................................. 4
1.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài kiến bắt mồi trên cây cam ........ 4
1.2.2. Những nghiên cứu về sinh học, sinh thái học của các loài kiến ............. 6
1.3. Những nghiên cứu trong nước ................................................................... 9
1.3.1. Những nghiên cứu về thành phần loài kiến bắt mồi trên cây cam ......... 9
1.3.2. Những nghiên cứu về sinh học, sinh thái học của các loài kiến ........... 10

1.3.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc trừ sâu lên loài kiến trên
cây cam ............................................................................................................ 13
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............... 15
2.1. Địa điểm và thời gian ............................................................................... 15
2.2. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu ............................................................. 15
2.2.1. Đối tượng .............................................................................................. 15
2.2.2. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................... 15
2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 15


2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 16
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình thái của loài kiến vàng ........ 16
2.4.3. Xác định phổ vật mồi, sức ăn mồi của loài kiến vàng trên cây cam..... 17
2.4.4. Nghiên cứu diễn biến số lượng của loài kiến vàng ............................... 18
2.4.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại thuốc bảo vệ thực vật............. 18
2.5. Phương pháp xử lý và bảo quản mẫu vật ................................................. 20
2.6. Xử lý số liệu ............................................................................................. 20
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .......................... 22
3.1. Một số đặc điểm hình thái và sinh thái học của loài kiến vàng
(Oecophylla smaragdina Fabricius) trên cây cam tại điểm nghiên cứu. ........ 22
3.1.1. Đặc điểm hình thái ................................................................................ 22
3.1.2. Một số đặc điểm sinh thái học .............................................................. 26
3.2. Phổ vật mồi, diễn biến số lượng và khả năng khống chế sâu hại của kiến
vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius) trên cây cam tại điểm nghiên cứu. 27
3.2.1. Nghiên cứu phổ vật mồi và diễn biến số lượng của kiến vàng
(Oecophylla smaragdina Fabricius) tại điểm nghiên cứu............................... 28
3.2.2. Khả năng di chuyển và săn mồi của kiến vàng trên cây cam ............... 31
3.2.3. Khả năng tiêu diệt sâu hại của kiến vàng (Oecophylla smaragdina)
trong vườn trồng cam tại địa điểm nghiên cứu............................................... 34
3.3. Ảnh hưởng của thuốc hóa học lên loài kiến vàng trên cây cam tại điểm

nghiên cứu và đề xuất việc lợi dụng chúng trong phòng trừ sinh học. ........... 36
3.3.1. Hiện trạng sử dụng thuốc BVTV tại khu vực nghiên cứu. .................... 36
3.3.2. Ảnh hưởng của 3 loại thuốc trừ sâu đối với ấu trùng của kiến vàng bắt
mồi. .................................................................................................................. 39


3.2.3. Đề xuất phương pháp sử dụng kiến vàng phòng trừ sinh học sâu hại
trên cây cam tại địa điểm nghiên cứu. ............................................................ 41
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 45
PHỤ LỤC


DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Đặc điểm hình thái của loài kiến vàng (Oecophylla smaragdina
Fabricius) .......................................................................................................... 23
Hình 3.2. Hình thái các pha của loài kiến vàng (Oecophylla smaragdina
Fabricius). ......................................................................................................... 24
Hình 3.3. Vòng đời của kiến vàng(Oecophylla smaragdina Fabricius) .......... 26
Hình 3.4. Cách xây tổ của kiến vàng trên cây cam ở điểm nghiên cứu ........... 27
Hình 3.5. Diễn biến số lượng kiến vàng và con mồi trên cây cam. ................. 30
Hình 3.6. So sánh số lượng sâu hại tại vườn cam có kiến vàng và vườn cam
không có kiến vàng. .......................................................................................... 33
Hình 3.7. Ảnh hưởng của thuốc BVTV đến sự biến động số lượng cá thể của
loài kiến vàng trong PTN. ................................................................................ 41


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Kích thước các pha của loài kiến vàng (Oecophylla smaragdina

Fabricius) .......................................................................................................... 25
Bảng 3.2. Phổ vật mồi của kiến vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius) trên
cây cam tại khu vực nghiên cứu. ...................................................................... 28
Bảng 3.3. Nghiên cứu sự biến động của loài kiến vàng bắt mồi (Oecophylla
smaragdina Fabricius) và rệp muội hại cam tại địa điểm nghiên cứu ............. 29
Bảng 3.4. Nghiên cứu diễn biến số lượng ổ, mật độ của loài kiến vàng bắt mồi
trên cây cam tại địa điểm nghiên cứu. .............................................................. 31
Bảng 3.5. Thành phần và mật độ sâu hại giữa vườn không nuôi kiến vàng và
vườn có nuôi kiến vàng .................................................................................... 32
Bảng 3.6. Hiệu quả khống chế rệp muội của kiến vàng trên cây cam tại xã
Ngọc Thanh, tỉnh Vĩnh Phúc. ........................................................................... 35
Bảng 3.7. Hiện trạng sử dụng thuốc trừ sâu của nông dân lên cây cam tại điểm
nghiên cứu. ....................................................................................................... 37
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của thuốc hóa học đối với ấu trùng loài kiến vàng bắt
mồi (Oecophylla smaragdina) trong PTN ....................................................... 40


CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

VQG

Vườn quốc gia

KBT

Khu bảo tồn

BVTV

Bảo vệ thực vật


STT

Số thứ tự

TLPB

Tỷ lệ phân bố

ST và TNSV

Sinh thái và Tài nguyên sinh vật

PTN

Phòng thí nghiệm

et al.

Và những người khác

ctv.

Cộng tác viên

ĐC

Đối chứng



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cây Cam (Cistrus sinensis) thuộc họ cây có múi (Rutaceae) là loại cây ăn
quả trồng phổ biến và mang lại giá trị kinh tế cao ở nước ta.
Ngọc Thanh là một xã thuộc thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc có khí hậu
và thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại cây ăn quả như cam, nhãn, vải... Tuy
nhiên diện tích cây ăn quả tăng chậm, nguyên nhân do tình hình sâu bệnh
nhiều.
Kiến vàng có tên khoa học là Oecophylla smaragdina, thuộc bộ cánh màng
Hymenoptera, họ Formicidae. Kiến vàng có khả năng tấn công nhiều loại sâu
hại phổ biến trên cây ăn trái. Kiến vàng là một loại côn trùng đã có từ rất lâu.
Nhiều nhà vườn đã thấy lợi ích của kiến vàng trong các vườn cây ăn trái. Tuy
nhiên, nông dân chưa biết rõ vai trò của kiến vàng, là một loại thiên địch giúp
nông dân tiêu diệt sâu rầy, bảo vệ cây trồng mà không cần sử dụng thuốc hóa
học. Hiện nay, nhu cầu sử dụng trái ngon và sạch (không có dư lượng thuốc
bảo vệ thực vật), ít sử dụng hóa chất đang càng ngày càng lớn. Vì thế, phục
hồi việc nuôi kiến vàng trên vườn cây ăn trái để hạn chế sự gây hại của một số
sâu hại chính là rất cần thiết.
Bên cạnh đó tập quán sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan đã
làm ảnh hưởng đến cây cam, đồng thời ảnh hưởng rất nhiều đến môi trường
sống cũng như sự sinh trưởng, phát triển của các loài thiên địch đặc biệt là các
loài côn trùng bắt mồi, làm mất cân bằng sinh thái. Vì thế liều lượng thuốc
bảo vệ thực vật sử dụng năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều này làm ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình phát triển lâu dài, làm giảm hiệu quả kinh tế vì chi
phí đầu tư cao, đặc biệt ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống cũng
như làm mất cân bằng sinh thái tại môi trường nghiên cứu.


Xuất phát từ tình hình thực tế đó tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Đặc
điểm sinh thái học và ảnh hưởng của thuốc trừ sâu đến loài kiến vàng

(Oecophylla smaragdina Fabricius) trên cây cam tại xã Ngọc Thanh, thị
xã Phúc Yên, tỉnhVĩnh Phúc.”
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định một số đặc điểm hình thái, sinh thái học của loài kiến vàng
(Oecophylla smaragdina Fabricius) và nghiên cứu ảnh hưởng của thuốc trừ
sâu lên chúng. Từ đó, đề xuất các biện pháp bảo vệ và duy trì chúng trong
phòng trừ sinh học sâu hại, giảm thiểu việc sử dụng thuốc trừ sâu hóa học,
bảo vệ môi trường sinh thái và tạo sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài đã đề xuất sử dụng kiến vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius)
trong phòng trừ sâu hại trên cây cam một cách có hiệu quả, an toàn.
- Nghiên cứu diễn biến số lượng, ảnh hưởng của một số loại thuốc trừ sâu
hay sử dụng lên một số loài bắt mồi phổ biến ( họ Formicidae) trên cây cam.
- Đề xuất những biện pháp cho việc bảo vệ duy trì và lợi dụng chúng có
hiệu quả nhằm kiểm soát sâu hại chính trên cây cam, hạn chế tối thiểu việc sử
dụng thuốc trừ sâu hóa học.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua điều tra thành phần thiên địch bắt mồi trên cây cam và nghiên
cứu một số đặc điểm sinh thái học của kiến vàng (Oecophylla smaragdina)
trong phòng trừ một số loại sâu hại cây cam nhằm đề xuất biện pháp kiểm
soát và phòng trừ sâu hại cam một cách hiệu quả theo hướng tổng hợp.
Cung cấp dẫn liệu giúp người dân cũng như cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí
ở địa phương nhận biết bảo vệ và sử dụng các loài côn trùng bắt mồi phòng
trừ sâu hại trong quá trình sản xuất cam an toàn.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Loài kiến vàng (có tên khoa học là Oecophylla smaragdina Fabricius),
thuộc bộ cánh màng Hymenoptera, họ Formicidae phân bố chủ yếu nhiều nhất
ở châu Á và Úc.
Trong tự nhiên kiến vàng phân bố rộng trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Là côn trùng làm tổ sống trên cao, ăn tạp và chuyên săn mồi trên tán lá
cây trong rừng tự nhiên và trên vườn cây ăn quả.
Kiến vàng có cơ thể màu đỏ hoặc màu xanh lá cây, chúng làm tổ bằng
cách dùng sợ tơ của ấu trùng tạo ra để đan dệt những tấm lá lại với nhau. Tập
đoàn kiến vàng bao gồm hàng trăm tổ kiến liên kết lại với nhau trên nhiều cây
và chứa hàng triệu cá thể.
Giống như nhiều loài khác, thức ăn chủ yếu của kiến vàng là côn trùng
nhỏ, chất ngọt có chứa carbohydrate được tìm thấy ở chất thải của loài
Hemiptera. Nhiều người bản địa ở Thái Lan bắt những ấu trùng của kiến làm
thức ăn cho cá, chim và làm một loại dược phẩm.
Trung bình một con kiến trưởng thành có kích thước khoảng 8 – 10mm,
đối với loài kiến vàng thì phân chia công việc dựa trên chiều dài của cơ thể.
Kiến thợ bảo vệ tổ, tìm kiếm thức ăn trên lãnh địa rộng lớn, kiến thợ nhỏ sống
ở trong tổ, chăm sóc tổ và uống dịch tiết ra từ rệp.
Kiến vàng có 3 dạng cá thể: kiến thợ (nhỏ và lớn), kiến đực và kiến chúa.
Kiến thợ lớn quản lý cùng nhau và đảm nhận việc xây tổ; trong khi đó thì việc
quản lý những ấu trùng và di chuyển chúng qua lại được đảm nhận bởi những
kiến thợ nhỏ. Không phải tổ nào cũng có kiến chúa, chỉ có một số tổ có kiến
chúa, có tổ có tới trên 90 kiến chúa. Mật số kiến thợ tăng cao vào tháng 3 và
4 có thể do có một vài cơn mưa đầu vụ, cây cối đâm chồi, hấp dẫn một số côn


trùng đến gây hại đủ thức ăn cho kiến vàng. Với nguồn thức ăn này, mật số
kiến thợ gia tăng nhanh và khi mật số kiến trong tổ quá cao thì kiến chia đàn
để xây dựng đàn mới hoặc tổ mới. Thời gian này cũng là thời điểm phân đàn

rõ rệt nhất và cũng là thời điểm tạo đàn mới lý tưởng nhất.
Các nghiên cứu thành phần của tổ kiến vàng cho biết mỗi tổ có từ 2.000 –
8.000 con kiến các loại, trung bình có 4.000 – 4.500 kiến thợ. Trong các tháng
7 – 9 mỗi tổ có từ 25 – 100 kiến chúa và 30 – 150 kiến đực. Do đó mùa tách
đàn tốt nhất trong năm là từ tháng 7 – 9, các tháng còn lại mỗi tổ thường
xuyên chỉ có một kiến chúa và một kiến đực nên chỉ duy trì quân số trong tổ
chứ không thể tách đàn.
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới
1.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài kiến bắt mồi trên cây cam
Kiến thuộc bộ cánh màng (Hymenoptera), chúng phân bố ở vùng khí hậu
nhiệt đới, cận nhiệt đới và bán khô hạn. Trong phạm vi 460 vĩ bắc và nam bán
cầu. Ước tính phạm vi phân bố của kiến chiếm 2/3 diện tích bề mặt trái đất
(Bolton B., 1994) [14].
Đến nay đã biết có khoảng 2700 loài kiến trong đó có 7 phân họ:
Kalotermitinae, Temropsinae, Homotermitinae, Formicinae, Rhinotermitinae,
Serritermitinae và Mastotermitinae quan trọng. Sáu trong số 7 phân họ được
xếp vào “kiến thấp” với đặc điểm vi sinh vật sống cộng sinh trong ruột là
trùng roi. Họ còn lại là “Fomicinae”“kiến cao” chiếm 75% số loài kiến đã
phát hiện, chúng có vi sinh vật cộng sinh trong ruột là bacteria (Bolton , 1994)
[14].
Kiến đã được con người biết đến từ lâu, nhưng mãi đến năm 1778 công
việc nghiên cứu khoa học đầu tiên trên thế giới về kiến mới được Konig nhà
tự nhiên học người Đức công bố. Tác giả đã mô tả 3 loài kiến được tìm thấy ở
Ấn Độ và Srilanca. Sau đó có nhiều công trình nghiên cứu về kiến, nổi bật là


chuyên khảo về kiến được xuất bản năm 1858, tác giả đã ghi nhận 98 loài
thuộc các vùng địa lí khác nhau trên thế giới (King et al.,1998) [23].
Nửa đầu thế kỉ XX (1901 – 1949): Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ
của các nghiên cứu phân loại hình thái kiến. Theo Thakur (1983) có nhiều tên

tuổi các nhà khoa học về kiến xuất hiện trong giai đoạn này và được xem như
những người đặt nền móng cho các nghiên cứu về phân loại học kiến. Từ
1950 – nay: Ở giai đoạn này các nghiên cứu về kiến phát triển rất đa dạng,
một mặt đẩy mạnh các nghiên cứu phân loại học, phát hiện thêm các loài mới,
mặt khác là công việc tu chỉnh, đặc biệt là các taxon bậc loài. Những đóng
góp có ý nghĩa về kiến ở vùng đông phương là các công trình của Ahmad
(1958, 1965); Akhtar (1976) (dẫn theo Jaitrong và Hashimoto, 2012) [19].
Kusnezov (1957) [25] đã cho công bố công trình nghiên cứu về chủng loại
phát sinh các giống kiến dựa trên đặc điểm hàm trên của kiến thợ và kiến
cánh. Gần nửa thế kỉ sau Sand (1998) cũng có một công trình tương tự với các
giống kiến thuộc kiến đất của vùng châu Phi và Trung Á. Ngoài các đặc điểm
chính để phân biệt hàm trên của kiến thợ Sand còn sử dụng các đặc điểm cấu
tạo nội quan như hình thái ruột, cấu tạo anterric valve, cấu tạo hệ thống
manlpighi để phân loại đến giống, thậm chí có trường hợp có thể phân loại
đến loài và lập cây chủng loại phát sinh của chúng. Tài liệu này là công cụ
hữu ích để giải quyết một số trường hợp các mẫu phân loại khó phân biệt
bằng các đặc điểm hình thái bên ngoài. Tác giả đã thống kê được 172 loài
kiến, trong đó có 16 giống mới được phát hiện bởi các tác giả khác nhau.
Các loài kiến có thể được tìm thấy trong bất kì môi trường sống nào từ Bắc
Cực đến xích đạo. Mặc dù thực tế là các khu rừng nhiệt đới là những nơi có
số lượng loài kiến được mô tả ít nhất, nơi đây được ghi nhận là có sự đa dạng
loài cao nhất (Holldobler and Wilson,1990) [29].
Điều tra trên tổng số 250km2 rừng nhiệt đới của Malaysia đã ghi nhận có
460 loài kiến, 216 loài thuộc tất cả các phân họ kiến có mặt ở khu vực đông


phương đã được ghi nhận ở vườn thực vật ở Bogor, phía Đông Java của
Indonesia (Ito, 2001). Thậm chí ở các khu vực khô cằn cũng có sự đa dạng
loài khá cao, như trên diện tích 18km2 của vùng đất khô cằn ở phía nam của
Úc đã ghi nhận 248 loài kiến thuộc 32 giống (Andersen & Clay, 1996) [13].

Ba Lan đã ghi nhận 15 loài kiến (họ Formicidae) và ong bắt mồi (họ
Vespidae) trên cây cam và bưởi. Việc bảo vệ các loài này trên cây để diệt các
loài sâu hại cho kết quả rất khả quan (dẫn theo Yamane et al., 2001) [27].
Trên thế giới, những nghiên cứu về các loài kiến thuộc họ Formicidae trên
cây ăn quả có múi đã được thực hiện từ những năm đầu của thế kỉ XVII,
thống kê họ Formicidae có hơn 15 loài (Bolton, 2005). Các loài trong nhóm
này có tính đa dạng cao nhưng rất đặc trưng cho từng khu vực.
Các loài kiến có thể được tìm thấy ở bất cứ vị trí nào trên cây có múi. Mặc
dù thực tế trên cây ăn quả các loài kiến có số lượng loài được mô tả không
nhiều, nơi đây được ghi nhận là có sự đa dạng loài cao nhất (Holldobler and
Wilson,1990) [29].
Khu vực trồng cam ở Brazil, phía Nam của Brazil, ở Úc và Tasmania đã
ghi nhận có 18, 16, 11 và 12 loài kiến, đại diện cho các khu vực từ nhiệt đới ,
cận nhiệt đới cho tới ôn đới. Sự đa dạng các loài kiến cũng rất cao.Trong 216
loài kiến thuộc tất cả các phân họ kiến có mặt ở khu vực Đông phương đã
được ghi nhận trên cây cam là 13 loài (dẫn theo Ito, 2001).
Theo ghi chép được trong lịch sử nhân loại thì thực tiễn đầu tiên sử dụng
biện pháp sinh học trừ côn trùng hại với khái niệm hiện đại là việc nông dân
Trung Quốc dùng kiến vàng trong các vườn cam, quýt. Theo Eguchi et al.,
(2005) [17], từ năm 1200, các chủ nhân vườn chà là ở Yemen hàng năm lên
núi tìm kiếm những tổ kiến có ích chuyển về thả chúng lên cây chà là để
phòng chống các côn trùng hại chà là.
1.2.2. Những nghiên cứu về sinh học, sinh thái học của các loài kiến


Cấu trúc tổ và hang giao thông của các loài kiến là khía cạnh hấp dẫn các
nhà nghiên cứu về kiến, bởi lẽ các tập tính khác nhau cho cấu trúc tổ cũng
khác nhau (Eguchi et al., 2011) [18].
Thông thường thì ở mỗi loài có cấu trúc tổ riêng. Tuy nhiên điều này
không phải lúc nào cũng tuân theo quy luật như vậy. Khi nghiên cứu chi tiết

cấu trúc tổ của loài M.subhualinus và M.bellicosus, Jaitrong và Yamane
(2011) [20] đã phát hiện thấy rằng, các loài kiến này ngay trong cùng một khu
vực cũng có 2 loại kiểu tổ khác nhau. Có nhiều ý kiến đưa ra để lý giải hiện
tượng này, tuy nhiên đa số ý kiến cho rằng kiểu cấu trúc tổ là kết quả tác động
tổng hợp của các yếu tố như đặc điểm sinh thái vùng, đặc tính lý hóa của đất
nơi làm tổ và tập tính chuyên hóa của loài. Do vậy khi các thành phần trong tổ
hợp đó thay đổi dẫn đến sự thay đổi của cấu trúc tổ.
Nghiên cứu về tương quan giữa kích thước tổ kiến, số lượng cá thể kiến đã
được Jaitrong và Yamane (2012) [21] tiến hành ở loài Macrotemes bellicosus.
Trên cơ sở các dẫn liệu thực nghiệm tác giả đã đưa các phương trình toán học
giúp cho việc dự đoán tuổi của tổ kiến và số lượng cá thể trong quần thể căn
cứ vào kích thước đo được của tổ kiến. Bên cạnh cấu trúc của tổ kiến thì cấu
trúc và sự phân bố của hệ thống hang giao thông của tổ kiến cũng được Lys &
Leuthld (1991) nghiên cứu khá chi tiết. Hệ thống hang giao thông, kiếm ăn
của loài này có đặc tính phân bố phóng xạ, luôn nằm cách mặt đất một
khoảng 2 – 6 cm và chúng có thể đi xa kiếm ăn cách tổ đến 50m.
Các đẳng cấp và chức năng xã hội của mỗi đẳng cấp đã được các nhà
nghiên cứu kiến biết đến từ những năm 70 (Haris, 1971; Lee and Wood
1971). Thành phần đẳng cấp cơ bản trong tổ kiến là kiến sinh sản, kiến thợ và
kiến lính. Chúng đảm nhận các chức năng khác nhau. Nghiên cứu tỷ lệ của
các đẳng cấp trong quần thể về sự phân công lao động trong các hoạt động
của tổ kiến đã cung cấp dẫn liệu giúp cho sự hiểu biết về tiến hóa của loài
kiến (Jermy Bono, 2001). Mặt khác chúng còn làm cơ sở để xây dựng các


biện pháp phòng trừ kiến một cách hữu hiệu nên được nhiều nhà nghiên cứu
chú ý (dẫn theo Kojima and Carpenter, 1997) [24].
Tỷ lệ đẳng cấp trong tổ một số loài kiến đã được xác định trong các nghiên
cứu của (Rhorhmann, 1977) tại Swziland, của (Collin, 1981) tại Negenia, của
(Darlington, 1984) tại Kenya, của (Gerber, 1988) tại Abidijan. Kết quả cho

thấy các loài khác nhau có tỷ lệ đẳng cấp trong đàn kiến cũng khác nhau, ở
mỗi loài có tỷ lệ dao động trong một giới hạn phụ thuộc vào tuổi của đàn kiến
(Darlington, 1984). Kết quả phân tích của Gerber về tỷ lệ kiến thợ
Macrotemes bellicosus tham gia trong các hoạt động khác nhau (kiếm ăn, xây
tổ) đã minh chứng cho sự tồn tại của quá trình phân công lao động theo đẳng
cấp của kiến thợ (dẫn theo Ogata, 2001) [26].
Ngoài việc phân công lao động theo đẳng cấp ở kiến còn có phân công lao
động theo lứa tuổi (Age polyethism). Đây là một đặc trưng thường gặp phổ
biến ở kiến; các cá thể có tuổi khác nhau đảm nhận với những nhiệm vụ khác
nhau trong quần thể, các cá thể non với nhiệm vụ chủ yếu là duy trì các hoạt
động trong tổ, trong khi các cá thể già hơn tham gia các hoạt động bên ngoài
tổ (Oster and Wilson, 1978). Badertscher et al. (1983) đã phát hiện ra rằng,
các cá thể kiến thợ dưới 30 ngày tuổi sử dụng thức ăn mà các kiến già đem về.
Các cá thể trên 30 ngày tuổi tham gia các hoạt động kiếm ăn. Dựa vào bằng
chứng có đất hay không có đất Gerber et al., 1988 cũng đưa ra nhận xét tương
tự. Ngoài ra Passteels (1965); Gerber (1988); Steiner (1984) (theo Gerber,
1988 và Billen et al., 1989) đã quan sát thấy các tế bào của tuyến nước bọt có
kích thước thay đổi theo tuổi và theo chức năng hoạt động của các cá thể kiến.
Như vậy do có đặc tính phân công lao động nên chỉ có một phần số lượng cá
thể tham gia các hoạt động ở bên ngoài tổ kiến (Zryanin, 2011) [28].
Hiện nay công tác nghiên cứu kiến được nhiều nhà khoa học quan tâm.
Ngoài các nghiên cứu sâu hơn về phân loại học, phát hiện các loài kiến mới,
tu chỉnh những loài hiện có, các nghiên cứu về sinh học cũng được quan tâm


với sự chú ý đặc biệt đến cấu trúc tổ, sự phân công lao động và chức năng xã
hội của các đẳng cấp.
1.3. Những nghiên cứu trong nước
1.3.1. Những nghiên cứu về thành phần loài kiến bắt mồi trên cây cam
Ở Việt Nam, tổng số gần 290 loài kiến thuộc 78 giống của 12 phân họ đã

được ghi nhận (Yamane et al., 2002; Bui & Eguchi, 2003; Eguchi et al., 2005;
Zryanin, 2011). Một số loài kiến được sử dụng trong phòng trừ sâu hại cam
nước ta như kiến vàng Oecophylla smaragdina Fabricius (Nguyễn Thị Thu
Cúc, 2005) [2].
Thành phần của các loài kiến tại các khu bảo tồn (KBT) hay vườn quốc gia
(VQG) cũng đã được một số tác giả nghiên cứu như 151 loài thuộc 50 giống
và 11 phân họ được ghi nhận ở VQG Tam Đảo (Eguchi et al., 2005) [16].
150 loài thuộc 50 giống và 8 phân họ được ghi nhận ở VQG Cúc Phương
(Yamane et al., 2002), 87 loài thuộc 33 giống và 8 phân họ được ghi nhận ở
VQG Hoàng Liên (Bui & Eguchi, 2003) và 272 loài thuộc 68 giống và 12
phân họ được ghi nhận ở VQG Nam Cát Tiên (Jaitrong and Yamane, 2013)
[22].
Các nghiên cứu về kiến ở khu vực Đông Bắc nước ta đã thống kê có 51
loài thuộc 16 giống và 3 phân họ được ghi nhận ở đây (Jaitrong and Yamane,
2011, 2012, 2013; Jaitrong & Hashimoto, 2012; Jaitrong et al., 2012; Eguchi
et al., 2011). Một số loài kiến được sử dụng trong phòng trừ sâu hại ở nước ta
như kiến vàng Oecophylla smaragdina Fabricius, có loài được sử dụng làm
thực phẩm và chữa bệnh như kiến gai đen Polyrhachis dives Smith (Nguyễn
Thị Thu Cúc, 2005) [1].
Kết quả điều tra côn trùng ở miền Bắc Việt Nam năm 1976 đã ghi nhận 26
loài côn trùng bắt mồi thuộc 3 bộ, 6 họ trên cây có múi, trong đó đã xác định
được tên 4 loài kiến thuộc họ Formicidae trên cây cam quýt (Viện bảo vệ thực
vật, 1976) [12].


Tại Vĩnh Phúc trong 8 loài bắt mồi trên một số cây trồng trong đó có 2 loài
trên cây cam quýt thuộc 2 bộ bao gồm bộ cánh cứng (Coleoptera) chiếm số
lượng loài lớn nhất (37,8%) bao gồm kiến vàng Oecophylla smaragdina và
Oecophylla sp. (Phạm Văn Lầm, 1995, 2005) [6], [7].
Theo Vũ Quang Côn và ctv. (1995) [3] trong nghiên cứu bước đầu về

thành phần loài có hại và lợi trên một số cây trồng tại vùng đệm VQG Tam
Đảo (Mê Linh – Vĩnh Phúc) đã thu thập được 25 loài bọ xít có lợi trong đó có
12 loài thu được trên một số cây trồng đậu tương, ngô, chè và cây ăn quả, đặc
biệt có 3 loài có số lượng cao và xuất hiện thường xuyên như: loài
Cantheconidae jurcellata, loài Sycanus croceovittatus, loài Coranus
fuscipennis và loài kiến vàng Oecophylla smaragdina. Trong đó loài kiến
vàng Oecophylla smaragdina thuộc họ Formicidae là loài bắt mồi phổ biến
trên cây ăn quả ở miền Bắc Việt Nam.
Tại Cần Thơ, thành phần côn trùng bắt mồi trên cây cam quýt đã ghi nhận
được 5 loài kiến, 4 loài bọ xít, 1 loài bọ ngựa, 14 loài bọ rùa, 2 loài bọ chân
chạy và 1 loài họ vằn hổ bắt mồi (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2007) [2].
1.3.2. Những nghiên cứu về sinh học, sinh thái học của các loài kiến
Cho đến nay, mặc dù việc sử dụng kiến vàng Oecophylla smaragdina
trong phòng trừ sinh học đã được đề cập và ghi nhận nhưng các đặc điểm sinh
học của loài này gần như chưa được nghiên cứu. Để có thể sử dụng loài này
một cách dễ dàng và tạo điều kiện cho quần thể kiến phát triển nhanh chóng
trong tự nhiên. Trong điều kiện tự nhiên ghi nhận được kiến thợ có mang
trứng chiếm 93% với số lượng trứng trung bình là 12,5 trứng/ con. Các trứng
trong tổ có kích thước bằng kích thước trứng trong bụng kiến thợ phát triển
thành kiến đực. Tuy nhiên chưa ghi nhận thấy kiến thợ đẻ trứng trong điều
kiện nhà lưới. Kết quả quan sát trong điều kiện PTN, nhà lưới và ngoài tự
nhiên chưa ghi nhận thấy kiến chúa bắt cặp. Kiến chúa không thụ vẫn có thể
đẻ trứng, nhưng trứng phát triển thành kiến đực. Các quần thể kiến mới thiết


lập có thể chấp nhận nhộng của quần thể kiến khác để phát triển về mật độ, số
tổ và kích thước tổ (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2005, 2007) [1], [2].
Theo Nguyễn Thị Vân Thái và ctv. (2008) [8] do đốt bụng thứ nhất của
kiến nằm thụt vào trong ngực nên phần bụng mà ta nhìn thấy bắt đầu từ đốt
bụng thứ hai. Đốt bụng này và có thể cả đốt tiếp theo thường thắt nhỏ lại

thành cuống bụng, phần bụng còn lại có dạng phình to. Cuống bụng có một
đốt, râu đầu hình đầu gối, hàm có dạng kìm, gồm hàm trên và hàm dưới. Hàm
trên kiến chúa và kiến đực thường kém phát triển. Mắt kiến gồm mắt đơn và
mắt kép. Mắt kép của kiến đực có nhiều mắt đơn nhất, kế đó là mắt kép của
kiến chúa và cuối cùng là mắt kép của kiến thợ. Kiến chúa và kiến đực có
cánh phát triển, còn kiến thợ không có cánh. Cánh kiến chúa sẽ rụng sau khi
giao phối, kiến đực thường không rụng cánh do chúng sẽ chết sau khi giao
phối một thời gian ngắn. Do không có cánh nên kiến thợ có ngực nhỏ hơn so
với kiến chúa, ngực kiến thợ thường nhẵn trong khi ngực kiến chúa có các
mảnh chitin cứng và có nếp nhăn. Kiến đực có cơ thể nhỏ nhắn và bụng thon
hơn so với kiến chúa.
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2007) [2] ấu trùng kiến có hình dạng rất khác
với cha mẹ của chúng, chúng có lớp da mướt và trắng như sữa, không có chân
và cánh. Trong quá trình phát triển lớn lên, ấu trùng lột xác nhiều lần, sau khi
phát triển đầy đủ, ấu trùng hóa nhộng. Nhộng rất giống thành trùng nhưng cơ
thể mềm, trắng, không ăn và không di chuyển, sau một thời gian ngắn, nhộng
hóa thành kiến trưởng thành.
Khi điều kiện thích hợp, kiến chúa và kiến đực ở một vùng nhất định sẽ rời
khỏi tổ để đi giao phối. Chính vì thế, một số lượng khổng lồ kiến đực và kiến
chúa rời tổ trong cùng một ngày. Đa số những ấu trùng cuối cùng còn lại sẽ
nở muộn hơn một vài ngày. Kiến chúa mới sau khi giao phối sẽ cố gắng xây
dựng tổ mới; kiến đực thường chết sau vài ngày sau khi chúng rời khỏi tổ.
Kiến chúa sau khi giao phối với kiến đực một thời gian sẽ bắt đầu đẻ trứng,


thường gian ấp trứng từ 4 – 8 ngày, ấu trùng có 4 tuổi, thời gian nhộng từ 5 –
7 ngày, vòng đời của kiến từ 19 – 32 ngày. Chu kỳ sinh trưởng của kiến từ
trứng đến thành trùng kéo dài khoảng 26 ngày (dẫn theo Nguyễn Thị Thu Cúc
(2005) [1].
Ghi nhận của Nguyễn Thị Thu Cúc (2007) [2] việc nuôi kiến vàng trên

vườn cam quýt tại đồng bằng sông Cửu Long đối với bà con nông dân là một
việc làm không đơn giản. Cho đến nay sự thành công của việc du nhập và
định cư được kiến ở trong vườn đối với bà con trồng cam quýt, ngay cả những
nông dân trồng cam quýt lâu đời vẫn còn phó thác cho sự may rủi, vì có rất
nhiều tổ kiến được du nhập nhưng không tồn tại.
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2005) [1] thức ăn của kiến rất đa dạng, bao
gồm cả 2 nhóm: chất đạm và chất đường. Tuy nhiên không giống như những
loài kiến khác, kiến vàng thích chất đạm hơn đường. Chất đạm có thể được
tìm thấy trong thịt, cá, gà, chuột và chất đạm cũng hiện diện trong một nhóm
đối tượng khác rất quan trọng đối với chúng ta, đó là côn trùng. Kiến vàng tìm
thức ăn rất tích cực, kiến thường đem thức ăn về tổ để ăn đồng thời cung cấp
cho ấu trùng và những cá thể kiến khác trong tổ.
Theo Zryanin (2011) [28] kiến là loài ăn thịt, hay ăn dịch ngọt của mật hoa
hay cộng sinh để ăn mật ngọt của các loài rệp, chúng giúp tiêu diệt các loài
sâu bọ phá hại cây trồng.
Kiến vàng thường thích làm tổ trên những cây cao, phần lớn là cây đa
niên, đặc biệt là những cây có là to và mềm như: mãng cầu xiêm, cóc, mận,
bình bát. Tổ kiến có cấu trúc bằng lá và cành cây liên kết lại với nhau bởi chất
tơ trắng, trên một cây ngoài tổ chính còn có thể có nhiều tổ phụ. Tổ kiến là do
kiến thợ làm, kiến thợ sẽ cắn các mép lá kéo sát lại đồng thời tha những ấu
trùng đến, ấu trùng sẽ nhả tơ kết chặt lá lại với nhau (Zryanin, 2011) [28].
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2005) [1] thì sự bộc phát những loài côn trùng
chích hút tiết mật không bao giờ xảy ra nếu ta chăm sóc tốt đàn kiến trong


vườn tránh sử dụng thuốc trừ sâu. Vì khi số lượng mật nhiều hơn số lượng
kiến cần, kiến có thể tiêu diệt một số côn trùng này. Trong mỗi bầy đàn, có
thể tìm thấy một hoặc nhiều kiến chúa trong cung một tổ (mùa khô) hoặc
trong nhiều tổ (mùa mưa). Những con kiến chúa trong cùng một tổ có thể chia
kiến thợ để thành lập một quần thể mới.

1.3.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc trừ sâu lên loài kiến
trên cây cam
Sử dụng thuốc hóa học trong phòng trừ sâu hại không những gây ô nhiễm
môi trường mà còn tác động lớn tới mật độ của nhiều loài thiên địch của sâu
hại. Theo Lê Văn Khoa và ctv. (2007) [4] có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng
đến sự mẫn cảm của thiên địch đối với thuốc trừ sâu và việc đánh giá của
thuốc hóa học đối với thiên địch là một khía cạnh quan trọng để định hướng
sử dụng thuốc hợp lý.
Sử dụng thuốc hóa học trong phòng trừ sâu hại cây có múi không những
gây ô nhiễm môi trường mà còn ảnh hưởng xấu thậm chí tiêu diệt nhiều loài
thiên địch của sâu hại (Nguyễn Viết Tùng, 2006) [11].
Có nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật như Fenvalcrate, Permethrin,
Cypermethrin, Deltamethrin, Diethquinalphion, Aziphosmethyl, Methomyl có
độ độc cao đối với thiên địch đặc biệt là côn trùng bắt mồi (Trương Xuân
Lam, Vũ Quang Côn, 2004) [5].
Ảnh hưởng của 5 loại thuốc hóa học (Monocrotophos, Dimaathoate,
Methylparathion, Quimalphos và Endosulfan) lên số lượng các loài kiến vàng
Oecophylla smaragdina đã được nghiên cứu. Kết quả cho thấy thuốc
Methylparathion đã làm ảnh hưởng rất lớn đến số lượng ấu trùng kiến này.
Trong 5 loại thuốc nghiên cứu trên thì thuốc Endosulfan làm ảnh hưởng đến
số lượng thiếu trùng cũng như trưởng thành ít nhất (Nguyễn Xuân Thành,
2000) [9].


Theo Tạ Huy Thịnh và ctv. (2004) [10] biện pháp hóa học phòng trừ sâu
hại đã làm suy giảm đa dạng sinh học.
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2007) [2] thì kiến vàng có khả năng khống chế
sự bộc phát của bọ xít xanh, sâu xanh hại cam quýt, hạn chế sự gây hại của
sâu vẽ bùa và rầy mềm, giới hạn sự bộc phát của rầy chổng cánh, qua đó gián
tiếp hạn chế bệnh vàng lá Greening trên cây cam, quýt. Nếu có trên 50 con

kiến vàng trong 1 cây cam (4 – 5 năm tuổi) chúng sẽ có khả năng khống chế
được mật độ của rầy mềm, rệp sáp và sâu vẽ bùa.
Nghiên cứu ảnh hưởng của thuốc trừ sâu đến số lượng của kiến vàng
Oecophylla smaragdina cho thấy thuốc Trebon 10EC dùng ở 2 liều lượng
(0,7 và 1,0 lít/ha) đều làm giảm mật độ quần thể kiến vàng Oecophylla
smaragdina từ 13,9 – 54,6% và từ 3,9 đến 57,6% (tương ứng). Thuốc Bassa
50EC làm giảm mật độ quần thể kiến vàng Oecophylla smaragdina với tỷ lệ
rất cao (88,4 – 89,5%) (Trương Xuân Lam, Vũ Quang Côn, 2004) [5].
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Thuốc BVTV làm ảnh hưởng đến tập đoàn
thiên địch trong có loài kiến vàng, tuy nhiên kết quả mới chỉ xác định được
ảnh hưởng của một số loại thuốc và số lần phun thuốc đến mật độ và sự xuất
hiện trở lại của nhóm thiên địch này.
Nhận xét chung
Ở Việt Nam việc nghiên cứu loài kiến vàng, mối quan hệ giữa chúng với
sâu hại cam và biến động số lượng cũng như ảnh hưởng của thuốc trừ sâu lên
kiến bắt mồi chưa được quan tâm. Việc phòng trừ sâu bệnh chủ yếu bằng hóa
học, lạm dụng quá mức gây ra các vấn đề về tiêu thụ, sức khỏe và môi trường,
gây các chủng chống thuốc và tạo ra các sản phẩm cam không an toàn cho
người tiêu dùng.


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: Điều tra tiến hành trên các vườn cam tại xã Ngọc Thanh, thị xã
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Các thí nghiệm được thực hiện tại phòng thí nghiệm thuộc Phòng Côn
trùng học thực nghiệm, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
- Thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 9/2016 – 3/2017.

2.2. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng
- Các loài kiến bắt mồi và vật mồi của chúng, chú trọng loài kiến vàng bắt
mồi Oecophylla smaragdina Fabricius.
- Thuốc bảo vệ thực vật: Karate 2.5EC, Selecron 500EC, Actara 25WG.
2.2.2. Vật liệu nghiên cứu
- Các loại bẫy côn trùng như bẫy dính, vợt
- Khay điều tra, khung lấy mẫu
- Hộp nhựa
- Các loại kính lúp, hộp petri, ống nghiệm
- Hóa chất (cồn 70o)
- Sổ ghi chép, phiếu điều tra
- Máy ảnh
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái và sinh thái học của loài kiến vàng
(Oecophylla smaragdina Fabricius) trên cây cam tại điểm nghiên cứu.


- Nghiên cứu phổ vật mồi, biến động số lượng và khả năng khống chế sâu
hại chính của kiến vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius) trên cây cam tại
điểm nghiên cứu.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của 3 loại thuốc hóa học phổ biến lên loài kiến
vàng Oecophylla smaragdina Fabricius) trên cây cam tại điểm nghiên cứu và
đề xuất việc lợi dụng chúng trong phòng trừ sinh học.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình thái của loài kiến vàng
- Mẫu kiến vàng được thu tại vườn cam mang về PTN, sau đó tiến hành
mô tả đặc điểm hình thái, màu sắc, đo kích thước của từng pha phát dục như
sải cánh, chiều dài cơ thể, chiều rộng cơ thể với n = 30, đơn vị đo kích thước
là mm.

- Đo kích thước các pha:
+Pha trứng: đo chiều dài, chiều rộng
+Pha ấu trùng: đo chiều dài, chiều rộng
+Pha nhộng: đo chiều dài, chiều rộng
+Pha trưởng thành: đo chiều dài, chiều rộng, dài sải cánh
- Mô tả đặc điểm hình thái các pha:
+Pha trứng: màu sắc, hình dạng, đặc điểm riêng
+Pha ấu trùng: màu sắc, hình dạng, đặc điểm riêng
+Pha nhộng: màu sắc, hình dạng, đặc điểm riêng
+Pha trưởng thành: màu sắc cơ thể, kiểu râu đầu, kiểu miệng, màu sắc
lưng, bụng, cánh…
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu sinh thái học của loài kiến vàng và khả
năng sử dụng chúng trong phòng chống rệp muội hại cam
a) Sự phân bố của kiến vàng trên cây cam
- Quan sát về sự phân bố của rệp muội đen T. auranti và kiến vàng trên
cây cam được tiến hành tại xã Ngọc Thanh (Vĩnh Phúc).


×