Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng trồng tếch (tectona grandis linn f ) làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng tếch ở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
---------------

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG TRỒNG TẾCH
(TECTONA GRANDIS LINN.F.) LÀM CƠ SỞ KHOA HỌC CHO
VIỆC ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NUÔI DƯỠNG RỪNG
TẾCH Ở TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
---------------

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG TRỒNG TẾCH
(TECTONA GRANDIS LINN.F.) LÀM CƠ SỞ KHOA HỌC CHO
VIỆC ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NUÔI DƯỠNG RỪNG


TẾCH Ở TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VŨ TIẾN HINH

Hà Nội, 2010


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tếch (Tectona grandis Linn.f.) thuộc họ Tếch (Verbenaceae Jaume) là một
loài cây gỗ lớn trong chi Tectona, cao tới 30 – 40 m, đường kính có thể đạt trên
100cm [3, tr.402]. Tếch được đánh giá là một trong những loài cây gỗ quý, sinh
trưởng nhanh, biên độ sinh thái rộng. Tếch có phân bố tự nhiên ở Ấn Độ, Miến Điện,
Thái Lan, Lào và được trồng thành công trên diện tích hàng triệu ha ở cả những nơi
nằm ngoài khu phân bố tự nhiên như Sri Lanka, Bangladesh, Trung Quốc, Việt Nam,
Brazil, Ecuador, v.v.. Tính đến năm 1990, tổng diện tích rừng trồng Tếch trên thế
giới là 1,6 triệu ha, chiếm 75% diện tích trồng cây gỗ cứng chất lượng cao của nhiệt
đới [40]. Gỗ Tếch cứng, nặng, thớ gỗ mịn, màu vàng hoặc nâu nhạt, có ánh phản
quang, vân đẹp, có mùi thơm, dễ phơi khô, hệ số co rút nhỏ, không bị cong vênh,
nứt nẻ, chịu được mưa, nắng, chịu được nước biển, không bị hà, không bị mối mọt.
Vì thế, gỗ Tếch thường được dùng để đóng tầu, toa xe, xẻ ván sàn, điêu khắc, làm
các đồ dùng quý trong gia đình, tà vẹt, báng súng, cầu phà, nhất là làm gỗ lạng có
giá trị xuất khẩu cao, v.v.. Tại Châu Á - Thái Bình Dương, nhiều nước đã trồng
thành công và biến vùng này thành thị trường truyền thống gỗ Tếch trên thế giới.
Sản lượng trung bình 4 triệu m3/năm lấy từ gỗ có đường kính 6 cm trở lên [17,
tr.6-7].

Đặc biệt, Tếch là một loài cây có khả năng cải tạo đất, cải tạo môi trường,
phiến lá to 20-40cm, dầy, có khả năng hút bụi và CO2 nên cũng rất được ưa chuộng
làm cây trồng dọc theo các tuyến đường giao thông, nhằm tạo cảnh quan sinh thái
và bảo vệ môi trường.
Do tầm quan trọng của gỗ Tếch, tháng 3/1991, cuộc hội thảo quốc tế đầu tiên
chuyên đề về Tếch (Teak) được tổ chức tại Quảng Châu, Trung Quốc dưới sự đồng
bảo trợ của FAO và Bộ Lâm nghiệp nước chủ nhà; Tiếp tháng 5/1995, mạng lưới
quốc tế nghiên cứu và phát triển cây Tếch của các nước vùng Châu Á – Thái Bình
Dương đã được thành lập với tên gọi là TEAKNET nhằm thúc đẩy sự tương tác và
chia sẻ các nguồn thông tin giữa các bên liên quan của ngành gỗ Tếch (nhà quản lý,
nhà khoa học, nông dân, thương gia) [21].
Tại Việt Nam, Tếch đã được đưa vào gây trồng từ đầu thế kỷ XX tại một số


2
vùng Tây Bắc, Nam Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên như: Đồng Nai, Sông Bé,
Tây Ninh, Đắc Lắc, Hà Nội, Sơn La, v.v.. Tuy là một loài nhập nội, nhưng qua quá
trình khảo nghiệm đã chứng tỏ cây Tếch đặc biệt thích hợp với điều kiện sinh thái ở
Việt Nam.
Sơn La là một tỉnh biên giới phía Tây Bắc của Việt Nam. Phía Bắc giáp Yên
Bái và Lai Châu, phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và các tỉnh Louangphabang,
Houaphan của Lào, phía Đông giáp Hòa Bình và Phú Thọ, phía Tây giáp Điện Biên.
Vì điều kiện địa hình, đất đai và khí hậu khá phù hợp với nhu cầu sinh thái của loài
Tếch, nên trong chương trình 327 và chương trình GTZ của Đức, Tếch được đưa
vào gây trồng ở nhiều huyện của tỉnh Sơn La như: Mai Sơn, Yên Châu, Phù Yên,
Thuận Châu từ năm 1994. Mục tiêu chiến lược của các dự án nhằm phủ xanh đất
trống đồi núi trọc, đáp ứng nhu cầu về gỗ đồ mộc cao cấp, giảm áp lực khai thác gỗ
từ rừng tự nhiên đồng thời mở ra hướng mới trong kinh doanh rừng trồng, tạo công
ăn việc làm, phát triển kinh tế cho người dân sống trên địa bàn. Tuy nhiên, muốn
làm được điều đó thì cần phải có những hiểu biết tốt về đặc điểm lâm học, các quy

luật cấu trúc của lâm phần, những kiến thức về trồng, chăm sóc, nuôi dưỡng rừng,
sản lượng và năng suất rừng.
Từ trước đến nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình công bố về cây Tếch.
Trong đó đáng kể nhất là những nghiên cứu của Phạm Thế Dũng (1990)[7], Nguyễn
Xuân Quát (1995)[24], Bảo Huy (1995)[14], Nguyễn Ngọc Lung (1999)[19], v.v..
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ tập trung tại khu vực Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên, còn vùng Tây Bắc nói chung và Sơn La nói riêng vẫn chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu về rừng Tếch. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi thực hiện
đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng trồng Tếch (Tectona grandis Linn.f.)
làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng Tếch ở
tỉnh Sơn La"


3
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm phân bố tự nhiên và nhận biết của cây Tếch
1.1.1. Phân bố tự nhiên
Tếch là loài cây có nguồn gốc nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á, phân bố tự
nhiên ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào. Vùng phân bố tự nhiên của Tếch nằm
trong khoảng giữa vĩ độ 9o00’ Bắc đến 25o30’ Bắc và kinh độ 73o – 103o độ kinh
Đông [40]. Tếch cũng thấy xuất hiện khoảng 1 triệu ha ở quần đảo Java (Indonesia).
Tếch sinh trưởng khá tốt ở Indonesia, nên hiện nay người ta đã coi giới hạn phân bố
của Tếch ở phía Nam là giữa vĩ độ 5o-9o Nam [41].
Tếch phân bố tự nhiên trong khu vực nhiệt đới gió mùa (mùa khô và mùa
mưa rõ rệt), khí hậu nóng ẩm, mùa đông không quá lạnh, không có bão lớn. Biên độ
nhiệt độ trung bình từ 20 – 27oC, tổng nhiệt độ lớn hơn 10oC là 8.000oC, nhiệt độ
tối cao trung bình 400C, nhiệt độ tối thấp trung bình 12,50C. Lượng mưa từ 1.300 –
2.990 mm/năm [31], [32], [45].
Tếch phân bố tự nhiên từ độ cao khoảng 1000m trở xuống. Tếch sinh trưởng

không tốt trên những đất hình thành từ cuội kết, sa thạch hoặc đá ong. Tếch ưa thích
đất phát triển từ đá granit, bazan và phiến sét. Tếch đòi hỏi đất thoát nước và không
chịu được đất úng nước, ưa thích môi trường đất có pH từ 6,5 – 8,0, đủ canxi,
photpho và magie [31], [32], [45].
1.1.2. Đặc điểm nhận biết
Trên thế giới có 3 loài Tếch – là Tectona grandis Linn.f., Tectona
philippinensis Beth & Hokkf và Tectona hamiltonia Wallich. Loài Tếch được trồng
thành rừng ở tỉnh Sơn La có tên khoa học là Tectona grandis Linn.f.
Theo Lê Mộng Chân, Nguyễn Thị Huyên (2000) [3], Tếch là loài cây gỗ lớn,
cành non vuông, cạnh phủ nhiều lông màu gỉ sắt, khi dập có mủ đỏ. Lá đơn, mọc
đối, hình trứng ngược, chiều dài có thể đạt tới 40cm hoặc hơn, rộng trên 20cm,
phiến xoan bầu dục, có màu lục tươi, mặt dưới lá có lông hình sao vàng; rụng lá từ
tháng 2 đến tháng 3 dương lịch. Hoa tự hình xim viên chuỳ, dài 40 cm, đường kính


4
trên 35 cm. Hoa có lá bắc nhỏ hình lưỡi mác. Hoa nhỏ dài hình chuông mép có 5
răng đều, phía ngoài phủ dầy lông. Tràng hoa mầu trắng, ống đài 5-6mm, cánh tràng
5-6, gần tròn, phía ngoài phủ lông và các tuyến nhỏ. Nhị 5-6 hơi lộ ra ngoài. Bầu
hình nón, vòi ngắn, đầu nhuỵ xẻ đôi. Quả hạch hình cầu, đường kính gần 2cm, phủ
dầy lông hình sao. Đài phát triển bao kín quả, hạt 1-2 (đôi khi 3-4).

Hình 1.1. Rừng Tếch (Tectona grandis Linn.f.) được gây trồng tại xã Chiềng
Hặc – Yên Châu – Sơn La (chụp 3/2010)
Theo Lê Mộng Chân (2000) [3], ở điều kiện sống thích hợp, cây mọc khá
nhanh, cây 20 tuổi có thể cao 18m, đường kính 22cm. Theo Kadambi (1979) [39],
Tếch là loài cây của rừng nửa rụng lá nhiệt đới gió mùa. Ở rừng tự nhiên, Tếch
trưởng thành có thể đạt chiều cao 40m, đường kính 1-2m. Tếch có thân thẳng, nhiều



5
hoa nhưng tới 90% không hình thành quả. Tếch sinh sản sớm, thông thường từ tuổi
8-10. Thời kỳ ra hoa là giữa tháng 7 đến tháng 9 hàng năm; Quả chín và rụng từ
tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau. Quả chín có vỏ màu nâu vàng. Tếch tái
sinh chồi tốt ở tuổi non, do đó có thể được trồng bằng thân cụt.
1.2. Những nghiên cứu về loài cây Tếch trên thế giới
1.2.1. Những nghiên cứu chung về quy luật cấu trúc lâm phần
Trên thế giới, ngay từ những năm đầu của thế kỷ 20, đã có nhiều công trình
nghiên cứu về cấu trúc rừng, nhất là về các quy luật kết cấu của lâm phần. Đặc biệt
với sự phát triển của thống kê toán học và tin học, việc mô hình hoá các quy luật
cấu trúc lâm phần bằng các mô hình toán học đã mở ra bước phát triển mới trong
lâm sinh học hiện đại.
- Về phân bố số cây theo đường kính, chiều cao.
Phân bố số cây theo đường kính là quy luật cấu trúc cơ bản của lâm phần đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của
Meyer (1972)[37]. Ông mô tả phân bố số cây theo đường kính bằng mô hình toán
học mà dạng của nó là đường cong giảm liên tục. Phương trình này được gọi là
phương trình Meyer. Một số tác giả khác đã dùng phương pháp giải tích để tìm
phương trình đường cong phân bố. Loetsch (1973)[38] dùng hàm Bêta để nắn các
phân bố thực nghiệm. J.L.F Batista và H.T.Z Doucoto (1992)[34] trong khi nghiên
cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài cây rừng ở Maranhoo – Brazin đã dùng hàm Weibull
mô phỏng phân bố N/D. Nhìn chung các tác giả đều biểu diễn quy luật phân bố số
cây theo đường kính dưới dạng phân bố xác suất, các hàm thường hay sử dụng là
hàm Weibull, hàm mũ, hàm chuẩn, hàm logarit, hàm bêta, hàm gama, v.v..
Ngoài việc sử dụng các hàm toán học để biểu thị quy luật cấu trúc lâm phần,
đối với rừng tự nhiên, quy luật phân bố số cây theo chiều cao còn được thể hiện
thông qua phương pháp trắc đồ rừng. Các trắc đồ này đã mang lại hình ảnh khái
quát về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng, từ đó rút ra các
nhận xét và đề xuất ứng dụng trên thực tế, điển hình cho hướng nghiên cứu này là
các công trình của P.W. Richards (1952) [22], Rollet (1979) [43].

- Tương quan chiều cao với đường kính (H/D)


6
Qua nhiều nghiên cứu của các tác giả đi trước cho thấy, giữa chiều cao với
đường kính có quan hệ chặt chẽ. Theo quy luật sinh trưởng của cây rừng, khi tuổi
tăng lên thì đường kính và chiều cao cũng tăng lên. Tuy nhiên quy luật này chỉ tồn
tại trong một giới hạn cho phép của cây rừng trong quá trình sinh trưởng. Trong lâm
phần, khi tuổi tăng thì tỉ lệ H/D cũng tăng. Từ đó đường cong biểu thị quan hệ H/D
có thể bị thay đổi. Đường cong luôn chuyển dịch lên phía trên khi tuổi lâm phần
tăng lên. Phương trình toán học cụ thể biểu thị mối quan hệ này rất phong phú và đa
dạng. Hohenadl, Krenn, Michailof, Naslund, Anoutchia, Echert, Keusn, Meyer
Mucler, Soest đã đề nghị sử dụng các phương trình dưới đây để mô tả quan hệ H/D
(dẫn theo tài liệu [6]):
H = a 0 + a 1 D + a 2 D2

(1.1)

H - 1.3=D2/(a + bD)2

(1.2)

H = a.Db

(1.3)

logH = a + blogD

(1.4)


H-1.3=a(1-e-eD)

(1.5)

H-1.3=a.e-b/D

(1.6)

log(H-1.3)=loga-blog(e/D)

(1.7)

H=a(blnD-elnD)

(1.8)

H = a0 + a1D1 + a2D2 + a3D3

(1.9)

H = a0 + a1D + a2logD

(1.10)

H =a + blogD

(1.11)

1.2.2. Những nghiên cứu về sinh trưởng, sản lượng và các giải pháp kỹ
thuật lâm sinh trong kinh doanh rừng trồng Tếch

a) Những nghiên cứu về sinh trưởng, sản lượng
Khi nghiên cứu về rừng Tếch ở Ấn Độ, Kadambi (1979) [39] cho rằng sự
khác biệt về sinh trưởng đường kính và chiều cao của rừng Tếch là do sự khác biệt
về lập địa và nguồn gốc rừng khác nhau.
D.Alder (1980) [35] đã có tổng hợp hết sức phong phú về các phương pháp
nghiên cứu sinh trưởng và sản lượng rừng như: Xây dựng mô hình sinh trưởng, tăng


7
trưởng cây rừng và lâm phần, thiết lập đường cong sinh trưởng bình quân bằng
phương pháp phân tích hồi quy theo nhóm của Bailey – Clutter, phương pháp Affill
để phân chia các đường cong sinh trưởng chỉ thị cấp đất, lý thuyết Marsh làm cơ sở
dự đoán sản lượng.
Cùng với ESCAP và FAO, các nước Châu Á – Thái Bình Dương đã thành
lập mạng lưới nghiên cứu phát triển cây Tếch. Tại Trung Quốc, năm 1991 hội thảo
quốc tế về cây Tếch đã đưa ra một số điều kiện sinh thái thích hợp cho trồng Tếch
như: Khí hậu, lập địa, tổ thành cây bạn, phương pháp trồng, v.v.. Khuyến nghị tổng
kết phương thức trồng rừng Tếch thuần loại hoặc khảo nghiệm ở quy mô nhỏ để rút
ra các ưu trội so với phương thức trồng hỗn loài truyền thống (dẫn theo tài liệu [14]).
Sau cuộc hội thảo lần thứ nhất, năm 1995 cuộc hội thảo cây Tếch lần 2 đã được tiến
hành tại Myanma và mạng thông tin quốc tế về Tếch đã được thành lập với tên gọi –
TEAKNET.
Theo Siswamartana (1995) [44], rừng Tếch ở Indonesia đã được nghiên cứu
chi tiết về tăng trưởng, sản lượng và năng suất trên 3 cấp đất. Trên cấp đất III, rừng
tếch ở tuổi 10 có mật độ 1.452 cây/ha, D=9,1cm; H=11,4m; trữ lượng gỗ trên cây
nuôi dưỡng 39,6m3/ha; năng suất trung bình 5,8m3/ha; lượng tăng trưởng hàng năm
6,9m3/ha. Ở tuổi 20, mật độ 766 cây/ha, D = 14,3cm, H = 16,1m, trữ lượng gỗ cây
nuôi dưỡng 64,8m3/ha, năng suất trung bình 5,9m3/ha/năm; lượng tăng trưởng hàng
năm 5,0 m3/ha/năm. Từ tuổi 30 trở đi, năng suất rừng giảm nhanh, trong đó năng
suất trung bình 4,7 m3/ha/năm ở tuổi 30 và 4,0 m3/ha/năm ở tuổi 80 năm.

Ở các nước có Tếch tự nhiên hoặc diện tích rừng Tếch lớn đều có những
khảo sát, đánh giá sinh trưởng, năng suất, tiêu biểu như công trình nghiên cứu của
Wycherley FR. (1966) [42] ở Thái Lan và Vaclav E. (1972) [36] ở Bangladesh, v.v..
Những công trình này nhằm đề xuất kỹ thuật lâm sinh như: Xác định mật độ trồng
rừng, mật độ tối ưu, v.v.. hoặc dự đoán các chỉ tiêu kỹ thuật trong điều chế rừng, xác
định chu kỳ kinh doanh theo từng điều kiện sinh trưởng. Tại các nước Myanmar, Ấn
Độ, Nigeria, Brazin, v.v.. đã xây dựng các biểu sản lượng riêng về cây Tếch (dẫn
theo tài liệu [14]).
Tổng kết những báo cáo về năng suất rừng tếch trồng ở những khu vực khác


8
nhau của Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ, Kaosa-and (1995)[32] đã đi đến nhận định
rằng: Năng suất trung bình của rừng tếch trồng là 8 - 10m3/ha/năm và có biến động
mạnh không chỉ giữa các vùng địa lý khác nhau, mà còn trong phạm vi một nước.
Ông cho rằng, hiện nay vẫn còn thiếu những tài liệu về tăng trưởng, sản lượng và
năng suất rừng trồng tếch của các nước. Nhiều nước vẫn chưa phân chia cấp đất và
xây dựng biểu quá trình sinh trưởng quần thụ tếch. Hệ thống phân chia cấp đất cho
những lâm phần tếch không giống nhau giữa các nước.
Theo Ly Meng Seang (2008) [20] khi nghiên cứu về rừng trồng Tếch ở
Campuchia đã cho thấy, sinh trưởng đường kính và chiều cao bình quân của những
quần thụ Tếch trong khoảng 18 năm đầu thay đổi rõ rệt theo 2 giai đoạn tuổi: Giai
đoạn sinh trưởng nhanh (từ 1 – 7 tuổi) và sinh trưởng chậm (từ 8 -18 tuổi).
b) Những nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh
rừng Tếch
Hiện nay Tếch đã được trồng thành rừng cả ở trong và ngoài phạm vi phân
bố tự nhiên. Khu vực này bao phủ một vùng khí hậu rộng lớn, từ kiểu khí hậu xích
đạo đến kiểu khí hậu á nhiệt đới, với lượng mưa từ 500 – 3.500 mm và biên độ nhiệt
độ từ 2o – 48oC. Điều kiện đất trồng rừng Tếch cũng rất khác nhau, từ đất chua
nghèo đến đất bồi tụ màu mỡ [32]

Khi nghiên cứu đặc tính của đất dưới rừng Tếch trồng 1, 15, 30, 60 và 120
năm, Jose và Koshy (1972) đã nhận thấy rằng: Mặc dù hình thái, tính chất vật lý và
hoá học của đất có sự thay đổi, nhưng hàm lượng chất hữu cơ ở tầng đất mặt dưới
rừng Tếch tự nhiên và rừng Tếch trồng 120 tuổi là tương tự nhau. Đất tầng mặt dưới
rừng trồng Tếch non có tỷ trọng và hàm lượng cát cao hơn, nhưng độ xốp và khả
năng hút nước kém hơn so với rừng tự nhiên (dẫn theo [20]).
Theo Kaosa-ard (1981), (1995) [31], [32] cho rằng: Kích thước, chất lượng,
mật độ, hình thái thân cây và tăng trưởng của rừng Tếch bị kiểm soát bởi một số
yếu tố như lượng mưa và phân bố lượng mưa trong năm, độ ẩm đất, đặc tính đất và
ánh sáng. Ngoài ra, màu sắc và cấu trúc của gỗ Tếch cũng chịu ảnh hưởng của lập
địa. Đồng thời tác giả cũng khẳng định, Tếch sinh trưởng tốt nhất trên đất bồi tụ
(phù sa) sâu và thoát nước tốt được hình thành trên nền các loại đá vôi, phiến thạch,


9
phiến sét và một số loại đá do núi lửa hình thành như Bazan. Ngược lại, khi mọc ở
điều kiện đất cát khô, đất có tầng mỏng, đất chua (pH<6,0) có nguồn gốc từ feralit,
đất than bùn, đất cứng hoặc bị úng nước, thì Tếch sinh trưởng rất kém, hình thái
thấp và xấu.
Theo Kadambi (1979) [39], ngoài lập địa, chất lượng hạt giống, tiêu chuẩn
cây con thì thành công của trồng rừng Tếch còn phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật
lâm sinh (khoảng cách trồng, chăm sóc, phòng chống cháy, phòng trừ dịch bệnh, tỉa
thưa nuôi dưỡng rừng).
Tại Thái Lan, ở những nơi không áp dụng phương thức nông lâm kết hợp,
Tếch được trồng với mật độ 1.100 cây/ha (hay 3*3m). Những nơi áp dụng phương
thức nông lâm kết hợp, mật độ trồng ban đầu là 1.250 cây/ha (hay 4*2m) (dẫn theo
[32]). Sau khi tổng kết mật độ trồng rừng ở các nước trên thế giới, Kaosa-ard (1995)
[32] cho rằng: Khi không thực hiện phương thức nông lâm kết hợp, thì mật độ trồng
rừng Tếch thay đổi từ 1.100 cây/ha (3*3m), 1.250 cây/ha (4*2m) đến 2.500 cây/ha
(2*2m) và 3.333 cây/ha (3*1m). Tuy nhiên, nếu trồng rừng với mật độ (3*3m) hoặc

thưa hơn thì đất sẽ bị xói mòn rất mạnh.
Các nhà khoa học lâm nghiệp cũng rất quan tâm đến vấn đề chặt nuôi dưỡng
rừng trồng Tếch nhằm đạt đến mục tiêu kinh doanh. Đối với Tếch, phương thức
nuôi dưỡng chủ yếu là chặt tỉa thưa. Thời điểm bắt đầu và kết thúc tỉa thưa, số lần
tỉa thưa, cường độ tỉa thưa và phương pháp tỉa thưa rừng Tếch được đề nghị khác
nhau tuỳ theo lập địa, khoảng cách trồng, phương thức trồng xen. Theo Kadambi
(1979) [39], tại Ấn Độ có hai phương thức tỉa thưa rừng: Tỉa thưa sớm và tỉa thưa
muộn. Tỉa thưa sớm được thực hiện trong giai đoạn rừng Tếch dưới 20 tuổi. Mục
tiêu của tỉa thưa sớm là mở rộng không gian cho rừng Tếch phát triển tốt hệ thống
tán lá. Tỉa thưa muộn chỉ được áp dụng cho những rừng Tếch trồng trên không gian
rộng, với cường độ kinh doanh cao. Mục tiêu của tỉa thưa muộn tạo cho rừng cung
cấp gỗ chất lượng cao. Tỉa thưa với cường độ mạnh và tuyển chọn cây tốt để nuôi
dưỡng. Đồng thời tác giả cũng cho rằng: Tếch là loài cây ưa sáng mạnh, do đó sử
dụng biện pháp tỉa thưa mạnh là biện pháp cần thiết, song khoảng cách giữa những
cây để loại nuôi dưỡng sau khi tỉa thưa phải đồng đều.


10
Theo Kaosa-ard (1995) [33] khi chu kỳ kinh doanh rừng trồng Tếch là 25 –
30 năm nhằm cung cấp gỗ nhỏ và trung bình, mật độ trồng rừng ban đầu là
(1,8*1,8m) hoặc (2,0*2,0m) thì việc tỉa thưa rừng Tếch có thể được thực hiện qua 2
lần. Lần 1 được bắt đầu thực hiện vào tuổi 5 còn lần 2 tương ứng tuổi 10. Phương
pháp tỉa thưa là tỉa thưa cơ giới (chặt hàng cách hàng hoặc chặt cây cách cây trong
hàng). Cường độ tỉa thưa lần 1 là 50% số cây ban đầu, lần 2 là 50% số cây để lại sau
lần tỉa thưa thứ nhất.
Theo Siswamartana (1995) [44], chu kỳ kinh doanh rừng Tếch ở Indonesia
trên lập địa tốt là 40 năm, còn trên lập địa xấu là 80 năm. Mục tiêu kinh doanh là
tạo gỗ lớn có chất lượng cao. Trong 20 năm đầu, rừng Tếch được tỉa thưa 5 lần với
kỳ dãn cách 4 năm. Từ năm thứ 20 trở đi, kỳ dãn cách 10 năm. Số cây tỉa thưa được
quy định theo biểu quá trình sinh trưởng. Việc tuyển chọn cây tỉa thưa phải đảm bảo

nguyên tắc nâng cao chất lượng quần thụ và cải thiện chất lượng gỗ ở cuối kỳ kinh
doanh.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp xác định mật độ tối ưu khác nhau như
P.R.Kelle (1932), B.A.Suxtov (1938), V.G.Nesterov (1952), B.V.Belov (1983),
H.Thomasius (1972), I.C.Melekhov (1989), v.v.. Tuy nhiên, tất cả các tác giả đều có
một đặc điểm chung là tìm kiếm các phương pháp để xác định được không gian
sống thích hợp cho từng loài ở từng thời điểm nhất định. Theo H.Thomasius (1972),
không gian dinh dưỡng trên mặt đất của một cây được giới hạn bằng một hình viên
trụ đứng có tiết diện bằng diện tích hình chiếu thẳng đứng của tán lá và giới hạn
bằng chiều cao của cây đó. Như vậy, để xác định được mật độ tối ưu trước hết phải
xác định được không gian dinh dưỡng thích hợp. Không gian này ngoài phụ thuộc
vào chiều cao (chỉ tiêu phân chia cấp đất) còn phụ thuộc vào diện tích hình chiếu
tán lá bình quân của những cây sinh trưởng tốt trong lâm phần (dẫn theo [12]).
1.2.3. Nghiên cứu về phân cấp sinh trưởng cây rừng
Cấp sinh trưởng cây rừng là một trong những chỉ tiêu quan trọng được các
nhà lâm học sử dụng để tuyển chọn cây chặt và cây chừa trong nuôi dưỡng rừng,
phát hiện mức độ cạnh tranh giữa các cá thể cây rừng, phân tích động thái của lâm
phần dưới ảnh hưởng của môi trường sống và các biện pháp lâm sinh, v.v..


11
G.Kraft (1884) là người đầu tiên xây dựng hệ thống phân cấp cây rừng ở Đức.
Tác giả đã dựa vào các chỉ tiêu định tính là độ lớn của chiều cao và đường kính để
phân cấp. Theo tác giả cây rừng được chia thành 5 cấp (I, II, III, IV, V). Trong đó
cấp I là những cây cao to nhất và cấp V hoàn toàn nằm dưới tầng rừng chính. Phân
cấp theo cách của G.Kraft khá đơn giản, song chỉ áp dụng được cho các lâm phần
rừng thuần loài, đều tuổi, (dẫn theo [12]).
Để đơn giản cho việc phân cấp cây rừng, Shedelin (1972) (Thuỵ Điển), đã
tiến hành phân cấp cây rừng theo chỉ tiêu số lượng và trên cơ sở hệ thống chỉ số
hàng trăm (phản ánh vai trò của cây gỗ trong lâm phần), hàng chục (phản ánh chất

lượng thân cây), hàng đơn vị (phán ánh chất lượng tán cây). Mỗi chỉ số có 3 đơn vị
(1 - tốt; 2 – trung bình; 3 - xấu). Như vậy, một cây đạt chỉ số 111 là cây tốt nhất về
điều kiện sống, về hình thái thân cây và hình thái tán cây; Còn cây có chỉ số 333 là
những cây xấu nhất ở cả 3 chỉ tiêu trên. Rõ ràng, cách phân cấp này rất dễ áp dụng
trong thực tiễn, tuy nhiên đối với những đối tượng phức tạp như rừng khác tuổi,
rừng còn quá non hoặc ở những lâm phần tỉa thưa trong giai đoạn dài, phân cấp này
thường không đạt được độ chính xác mong muốn, (dẫn theo [12]).
Mạng lưới toàn cầu về hợp tác khoa học lâm nghiệp (IUFRO) đã xây dựng
một hệ thống phân loại khá chi tiết, dựa vào 2 đặc trưng lớn: Tình trạng cây trong
quần xã và hiện trạng giá trị của cây theo mục đích kinh doanh. Từ 2 đặc trưng này
được chia nhỏ thành 6 chỉ tiêu : (1) cấp chiều cao; (2) khả năng sống của cây trong
lâm phần; (3) xu hướng phát triển của cây trong quần xã; (4) giá trị kinh tế của cây;
(5) chất lượng hình thân thân cây; (6) chất lượng của tán lá. Theo nhiều nhà khoa
học đánh giá thì đây là một hệ thống phân loại khá đơn giản, song áp dụng được cho
rất nhiều các đối tượng khác nhau, cho kết quả nhanh chóng, chính xác, có thể
lượng hoá các chỉ tiêu nên dễ áp dụng trong kỹ thuật tính toán hiện đại (máy tính)
để xử lý số liệu, (dẫn theo [12]).
1.3. Những nghiên cứu về cây Tếch ở Việt Nam
1.3.1. Những nghiên cứu chung về quy luật cấu trúc lâm phần
Các công trình nghiên cứu về cấu trúc phục vụ kinh doanh rừng ở trong nước
thường tập trung vào các vấn đề:


12
Phân loại rừng phục vụ đề xuất biện pháp kinh doanh đã được tiến hành bởi
nhiều tác giả: Trần Ngũ Phương (1963), Thái Văn Trừng (1978), Nguyễn Hồng
Quân (1981), Vũ Đình Phương (1985 - 1986), v.v..
Nguyễn Văn Trương (1973 – 1986), Đồng Sỹ Hiền (1974), Nguyễn Hải Tuất
(1975 – 1991), Nguyễn Hồng Quân (1975 – 1982), Nguyễn Ngọc Lung (1985 –
1989), Vũ Đình Phương (1985 – 1987), Phùng Ngọc Lan (1986), Vũ Tiến Hinh

(1988), Trịnh Đức Huy (1988), v.v.. đã định lượng các quy luật kết cấu, sinh trưởng,
tương quan làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh.
* Phân bố số cây theo đường kính và chiều cao
Đồng Sỹ Hiền (1974) [8], khi lập biểu thể tích cây đứng rừng tự nhiên ở
miền Bắc Việt Nam đã nghiên cứu nhiều lâm phần trên các địa phương khác nhau
và đi đến kết luận chung là: Do quá trình khai thác chọn thô không theo quy tắc, nên
đường phân bố N/D là đường phân bố có dạng hình răng cưa. Với kiểu phân bố này
tác giả đã chọn hàm Meyer và họ đường cong Pearson để mô tả.
Nguyễn Hải Tuất (1982, 1996) [27], [28], đã sử dụng phân bố giảm, phân bố
khoảng cách để biểu diễn cấu trúc đường kính, cấu trúc chiều cao của rừng thứ sinh,
đồng thời áp dụng quá trình pearson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể.
Vũ Tiến Hinh [9], [10], [11], đã thử nghiệm một số phân bố lí thuyết để nắn
phân bố số cây theo đường kính và phân bố số cây theo chiều cao cho rừng trồng
một số loài cây và đi đến kết luận: “Phân bố Weibull là phân bố thích hợp nhất”.
* Tương quan giữa chiều cao và đường kính (H/D)
Đồng Sĩ Hiền (1974) [8], đã thử nghiệm nhiều dạng phương trình để mô tả
quan hệ H/D và khẳng định các dạng dưới đây có mức độ thích hợp cao. Tuy nhiên
với mỗi loài cây khác nhau thì phương trình lựa chọn cũng khác nhau:
H = a 0 + a 1 D + a 2 D2

(1.12)

H = aDb hay lg(H) = a + blg(D)

(1.13)

H = a + blg(D)

(1.14)


Vũ Đình Phương (1975) [23] đã khẳng định giữa đường kính tán và đường
kính ngang ngực luôn tồn tại tương quan chặt chẽ theo dạng đường thẳng. Nguyễn


13
Ngọc Lung (1987) [16] đã xây dựng biểu tỉa thưa tạm thời và biểu thể tích cây đứng
tạm thời cho Keo lá tràm trên cơ sở xác lập tương quan Dt –D1.3 và mối quan hệ
giữa các nhân tố điều tra với thể tích thân cây.
1.3.2. Những nghiên cứu về sinh trưởng, sản lượng và các giải pháp kỹ
thuật lâm sinh trong kinh doanh rừng trồng Tếch
a) Những nghiên cứu về sinh trưởng, sản lượng
Khi nghiên cứu rừng tếch trồng ở Tây Nguyên của Việt Nam, Bảo Huy (1995)
[14] đã cho rằng, thời điểm tỉa thưa rừng tếch lần đầu vào thời điểm tăng trưởng
đường kính lớn nhất. Đối với rừng tếch trên cấp đất I, II, III việc tỉa thưa lần đầu
tương ứng với tuổi 8, 10 và 12. Những lần tỉa thưa tiếp theo tương ứng với tuổi mà
tổng diện tích tán lá trên 1 ha đạt 13.000 m2/ha và tăng trưởng trữ lượng đạt cực đại.
Theo đó, kỳ dãn cách giữa 2 lần tỉa thưa liên tiếp đối với rừng trồng tếch trên cấp I
và cấp II tương ứng là 7 và 10 năm.
Nguyễn Ngọc Lung (1995)[18] cho rằng, sinh trưởng và năng suất của rừng
trồng tếch ở Việt Nam thay đổi tuỳ theo tuổi rừng, loại đất và địa phương. Kết quả
nghiên cứu của phân viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ (1995) (dẫn theo [20])
cho thấy, sinh trưởng về đường kính, chiều cao và năng suất của rừng Tếch 20 tuổi
ở các địa phương thay đổi tuỳ theo loại đất và mật độ trồng. Năng suất trung bình
của rừng tếch tuổi 20 đạt cao nhất ở trên đất bazan (11,5m3/ha/năm), đất phù sa cổ
(8,5m3/ha/năm), cuối cùng đất feralit đỏ vàng (4m3/ha/năm).
Những nghiên cứu của Trần Duy Diễn (1995) [5] và Đinh Đức Điểm (1995)
[4] đã chỉ ra rằng, rừng Tếch ở La Ngà (Đồng Nai) sinh trưởng tốt trên đất feralit
nâu đỏ phát triển từ đá Bazan (lập địa tốt) với pH > 6,6, sinh trưởng kém trên đất
feralit đỏ vàng phát triển từ đá phiến thạch sét (lập địa trung bình) với pH < 5,0.
Trên lập địa tốt, đường kính và chiều cao rừng Tếch ở tuổi 12 đạt tương ứng 15,0

cm và 19,0m, trữ lượng 200m3/ha.
Theo kết quả nghiên cứu của Bảo Huy (1998) [15] về rừng Tếch ở Tây
Nguyên, để xác định chu kỳ kinh doanh hợp lý cần nghiên cứu quy luật sinh trưởng
thể tích cây bình quân lâm phần, trên cơ sở đó xác định mối quan hệ giữa các lượng
tăng trưởng thường xuyên và bình quân, từ đây sẽ tìm được tuổi năng suất tối đa và


14
thành thục số lượng. Tuổi đạt năng suất tối đa là 20, đây cũng có thể coi là cơ sở xác
định chu kỳ kinh doanh nếu mục tiêu là kinh doanh gỗ nhỏ đến gỗ vừa. Tuổi thành
thục số lượng là 49 nếu mục tiêu là kinh doanh gỗ lớn.
Khi nghiên cứu về rừng Tếch ở khu vực miền Đông Nam Bộ, Nguyễn Văn
Thêm (2000) [26] và Mạc Văn Chăm (2005) [2] đã chỉ ra rằng, Tếch sinh trưởng rất
nhanh trong 6 năm đầu, nhưng từ tuổi 8 trở đi lượng tăng trưởng về đường kính và
chiều cao đều giảm nhanh. Suất tăng trưởng đường kính đạt cao ở tuổi 2 (50%),
giảm còn 7% (ở tuổi 10) và 2,8% (ở tuổi 20). Năng suất rừng Tếch từ tuổi 9 – 14
dao động từ 13 – 15 m3/ha/năm, còn ở tuổi 20 – 22 là 10 m3/ha/năm.
b) Những nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh
rừng Tếch
Theo tác giả Nguyễn Xuân Quát (1995) [24], đất có vai trò quyết định đối
với sự thành công của trồng rừng Tếch ở khu vực Tây Nguyên. Trên đất nâu đỏ,
sinh trưởng của rừng Tếch giảm theo mức độ thoái hoá của thảm thực vật, nhưng
trên đất đỏ vàng sinh trưởng của tếch dưới rừng thứ sinh kiệt không có sự khác biệt
rõ rệt so với đất dưới trảng cỏ. Tếch không thích hợp với loại đất đỏ nâu phát triển
trên đá bazan dưới rừng Le và trảng cỏ.
Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Bảo Bình (1995)[25] cho rằng, đất phù hợp với
sinh trưởng của Tếch trồng ở tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là đất nâu xám
phát triển trên đá bazan, đất hình thành trên đá vôi, đất đen trên tro núi lửa, đất nâu
sẫm trên đá bazan, đất xám trên phù xa cổ và granit, đất phù sa sông suối thoát
nước.

Theo Phân viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ (1995) (dẫn theo [20], chu
kỳ kinh doanh rừng Tếch là 40 – 50 năm. Mục tiêu kinh doanh rừng Tếch là tạo gỗ
có kích thước trung bình và lớn để làm đồ mộc gia dụng, làm nhà, v.v.. Chương
trình tỉa thưa rừng Tếch ở Việt Nam đã được soạn thảo trên phạm vi rộng. Khi trồng
rừng Tếch ở mật độ ban đầu 1.430 cây/ha (2,5*3,0m), 1.667 cây/ha (2,0*3,0m) và
2.222 cây/ha (1,5*3,0m), đề nghị tỉa thưa rừng Tếch 2 – 3 lần. Tuổi tỉa thưa lần 1, 2,
3 tương ứng là 6, 12, và 20 năm. Tỉa thưa được thực hiện theo phương pháp cơ giới.
Số cây để lại nuôi dưỡng sau lần tỉa thưa thứ 1, 2, 3 ở các lập địa tốt tương ứng là


15
800, 400 và 200 cây/ha, ở lập địa trung bình tương ứng là 1.200, 600 và 300 cây/ha,
còn ở lập địa xấu tương ứng là 1.400, 800 và 400 cây/ha.
Khi so sánh sinh trưởng Tếch ở các mô hình rừng trồng tại Tây Nguyên, Bảo
Huy (1998) [15] đã chỉ rõ, khi trồng xen điều, cà phê trong các mô hình thì sinh
trưởng Tếch không sai khác với trồng thuần loại. Điều này cho phép trồng xen, qua
đó tăng được thu nhập từ các sản phẩm kết hợp như cà phê, điều.
Tóm lại, ở Việt Nam đã có một số công trình của các tác giả trong nước
nghiên cứu về rừng trồng tếch trên những vùng lập địa khác nhau ở khu vực Tây
Nguyên và Nam Trung Bộ. Kết quả nghiên cứu đều cho rằng nhân tố lập địa có ảnh
hưởng rất lớn đến sinh trưởng, năng suất, chất lượng và tuổi tỉa thưa, tuy nhiên cho
đến nay chưa có nghiên cứu vào về rừng trồng tếch tại vùng Tây Bắc nói chung và
Sơn La nói riêng.


16
CHƯƠNG II - MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu lý luận

Góp phần làm rõ đặc điểm cấu trúc rừng trồng nói chung và rừng Tếch nói
riêng, đồng thời xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất nuôi dưỡng
rừng trồng Tếch ở Sơn La
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được đặc điểm cấu trúc của rừng Tếch
- Bước đầu đề xuất được biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng Tếch ở
Yên Châu nói riêng và tỉnh Sơn La nói chung.
2.2. Đối tượng, địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Là những lâm phần Tếch trồng thuần loài, có
tuổi từ 13 – 16 năm theo chương trình 327 và chương trình lâm nghiệp xã hội sông
Đà (GTZ) tại huyện Yên Châu.
Tên, đặc điểm hình thái thực vật của loài nghiên cứu
* Tên loài nghiên cứu:
- Tên Việt Nam: Tếch, Giá tỵ, Báng súng
- Tên khoa học: Tectona grandis Linn.f.
- Họ: Thuộc họ Tếch (Verbenaceae)
* Đặc điểm hình thái thực vật:
Theo Lê Mộng Chân, Nguyễn Thị Huyên (2000) [3], Tếch là loài cây gỗ lớn,
cành non vuông cạnh phủ nhiều lông màu gỉ sắt, khi dập có mủ đỏ. Lá đơn, mọc đối,
hình trứng ngược, chiều dài có thể đạt tới 40cm hoặc hơn, rộng trên 20cm, phiến
xoan bầu dục, có màu lục tươi, mặt dưới lá có lông hình sao vàng; rụng lá từ tháng
2 đến tháng 3 dương lịch. Hoa tự hình xim viên chuỳ, dài 40 cm, đường kính trên
35 cm. Hoa có lá bắc nhỏ hình lưỡi mác. Hoa nhỏ dài hình chuông mép có 5 răng
đều, phía ngoài phủ dầy lông. Tràng hoa mầu trắng, ống đài 5-6mm, cánh tràng 5-6,
gần tròn, phía ngoài phủ lông và các tuyến nhỏ. Nhị 5-6 hơi lộ ra ngoài. Bầu hình
nón, vòi ngắn, đầu nhuỵ xẻ đôi. Quả hạch hình cầu, đường kính gần 2cm, phủ dầy


17
lông hình sao. Đài phát triển bao kín quả, hạt 1-2 (đôi khi 3-4).


Hình 2.1. Hình thái cây Tếch (ảnh chụp 6/2010)
* Phân bố và yêu cầu sinh thái của cây Tếch
- Tếch phân bố tự nhiên ở 4 nước Miến Điện (Myanma), Ấn Độ, Thái Lan,
Lào. Có kiểu phân bố không liên tục. Chiếm dải vĩ độ thuộc đai nhiệt đới từ 90 đến
25030’ vĩ Bắc, và nằm trong phạm vi 700 đến 104030’ kinh Đông.
- Độ cao thích hợp dưới 1000m so với mặt nước biển
- Khí hậu thích hợp với Tếch dao động lớn:
+ Lượng mưa bình quân năm từ 500 – 5.000 mm/năm. Nhưng sinh trưởng,
phát triển tốt ở vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lượng mưa từ 1.270 mm/năm –
3.800 mm/năm. Tếch đòi hỏi mùa khô từ tháng 3 đến tháng 5.
+ Nhiệt độ bình quân tối đa và tối thiểu tháng lần lượt là 12,50C đến 400C.
- Tếch là loài cây ưa sáng, đối với cây con, nhiều nghiên cứu cho thấy sinh
trưởng tốt ở cường độ ánh sáng 75 – 94% (tính % của toàn sáng).
- Lập địa phù hợp với nhiều loại đất (trừ đất kết von, đất cát), nhưng sinh
trưởng tốt nhất trên đất hình thành từ đá có nguồn gốc núi lửa như Trap, Bazan, đá
biến chất (Gnai, Diệp thạch). Sinh trưởng được trên nhiều loại địa hình thuộc đỉnh,


18
sườn, chân núi, thung lũng ven sông suối nhưng thoát nước tốt. pH đất, theo nhiều
tác giả, là nhân tố khá quan trọng quyết định sự phân bố của Tếch. Các kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra Tếch sinh trưởng tốt trên đất có pH từ 6.5 – 8.0 (trung tính đến
kiềm nhẹ), song ở Việt Nam Tếch vẫn sinh trưởng tốt ở những nơi đất có xuất hiện
vôi. Tuy nhiên còn nhiều ý kiến khác nhau về lượng vôi và loại vôi có trong đất
cũng như việc xuất hiện Tếch kèm theo sự xuất hiện của vôi trong đất.
- Tếch tự nhiên là rừng hỗn loài, ở mỗi nơi có tổ thành cây bạn khác nhau,
phổ biến là các loại: Gmelina arborea (Lõi thọ), Dalbargia latifolis (Cẩm lai Ấn Độ),
Xylia xylocarpa (Cẩm xe), Terminalia chebulata (Chiêu liêu, Kha tử), Butea frondosa
(Riềng riềng), Pterocarpus marsupium, Terminalia tomentosa (Chiêu liêu khế),

Phyllanthus emblica (Me rừng, Me tròn), các loài tre nứa, v.v..
Trong vùng phân bố tự nhiên, Tếch sinh trưởng trong hai kiểu rừng hỗn loại
nhiệt đới là rừng rụng lá ẩm và rừng rụng lá khô. Việc tái sinh tự nhiên của Tếch trong
các khu rừng hỗn loại bị chi phối bởi các yếu tố: Sự chuyển dịch mùa trong từng năm
có rõ rệt hay không? Độ tơi xốp của lớp đất mặt, lớp cỏ, quyết, thảm tươi có cản trở
hạt nảy mầm và cây con phát triển không?
Song rừng Tếch thuần loài đã tỏ rõ tính ổn định ít nhất là trong chu kỳ kinh
doanh đầu không chỉ ở Việt Nam, tuy hay bị cháy vào mùa khô nhưng sinh trưởng rất
nhanh, chất lượng gỗ tốt, sâu bệnh xuất hiện nhưng không thành dịch và chưa phát
hiện sự thoái hoá đất.
Cây Tếch cũng là cây biểu tượng cho người Thái Lan nên họ thường trồng
trong các khu biệt thự, nhà máy, v.v.. nơi mà người Thái làm chủ.
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu:
Mặc dù cây Tếch được đưa vào gây trồng trong nhiều huyện của tỉnh Sơn La
như: Thuận Châu, Mai Sơn, Phù Yên, Yên Châu, v.v.. Tuy nhiên sau nhiều năm
triển khai dự án thì Yên Châu là huyện có tốc độ sinh trưởng tốt nhất, diện tích được
trồng nhiều và tập trung. Còn tại các huyện khác, nhiều diện tích rừng đã bị người
dân khai thác lấn đất làm cây nông nghiệp. Vì vậy, địa bàn nghiên cứu chính của đề
tài được tập trung tại 4 xã có diện tích trồng Tếch chủ yếu của huyện Yên Châu,
tỉnh Sơn La là: Tú Nang, Chiềng Hặc, Chiềng Pằn, Sập Vạt.


19
2.3. Nội dung nghiên cứu
(1) Đặc điểm chung của lâm phần Tếch tại địa bàn nghiên cứu
(2) Đặc điểm cấu trúc đường kính rừng trồng Tếch và mối quan hệ với các
nhân tố ảnh hưởng.
(3) Quy luật cấu trúc tầng thứ rừng trồng Tếch.
(4) Đặc điểm cấu trúc tán cây.
(5) Đặc điểm phân hóa và tỉa thưa rừng trồng Tếch.

(6) Đề xuất biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng Tếch tại khu vực Sơn La.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Cơ sở phương pháp luận
(1) Quần thụ Tếch là một hiện tượng động. Vì thế, những đặc trưng về kết
cấu của quần thụ đều phải được xem xét theo thời gian hay tuổi.
(2) Trong quá trình sống, mặc dù kết cấu và hình thái thân cây thay đổi tuỳ
theo tuổi và điều kiện sống, nhưng giữa chúng luôn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Vì thế, thông qua nhân tố điều tra này có thể dự đoán được nhân tố điều tra
kia.
(3) Sau khi trồng rừng, nuôi dưỡng rừng là biện pháp cần thiết nhằm hướng
dẫn rừng Tếch đạt đến mục đích kinh doanh. Một trong những biện pháp nuôi
dưỡng rừng hiệu quả nhất là chặt nuôi dưỡng hay tỉa thưa rừng. Nhưng muốn xây
dựng được các chỉ tiêu kỹ thuật chặt nuôi dưỡng, cần hiểu rõ được đặc tính lâm học
của rừng ở những giai đoạn tuổi khác nhau. Một trong những đặc tính lâm học phải
được làm rõ là sự phân hoá cây rừng. Vì thế nghiên cứu sự phân hoá của những cá
thể hình thành rừng Tếch là một vấn đề cần đặt ra.
(4) Mục đích của đề tài là xác định được những quy luật cấu trúc cơ bản của
rừng Tếch. Vì thế, để đạt được mục đích trên, cần nghiên cứu những biến đổi về
hình thái, cấu trúc, đường kính và chiều cao, mối quan hệ giữa các đại lượng sinh
trưởng (đường kính, chiều cao) với các điều kiện sinh thái. Quan điểm nghiên cứu
phải tổng hợp và toàn diện, triệt để áp dụng các phương pháp định lượng toán học
chính xác trên cơ sở tôn trọng các quy luật sinh vật học cây rừng.


20
2.4.2. Phương pháp điều tra ngoại nghiệp
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa số liệu
- Kế thừa các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương.
- Bản đồ hiện trạng rừng tại khu vực nghiên cứu
- Hồ sơ trồng rừng Tếch tại khu vực nghiên cứu

2.4.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được thu thập trong những ôtc tạm thời
* Cách chọn ôtc, số lượng và kích thước: Là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến
tính khả thi của đề tài. Số lượng ôtc càng nhiều và phân bố càng đều thì độ tin cậy
của các kết quả càng cao, song cũng làm cho chi phí tăng lên.
Sau khi tiến hành điều tra sơ thám trên cơ sở phối hợp với bản đồ hiện trạng,
tiến hành lập 39 ôtc, ở 4 xã và trên các dạng địa hình (chân, sườn đỉnh), kích thước
mỗi ô là 500m2 (20x25m). Trong đó, xã Tú Nang có diện tích rừng trồng Tếch lớn
nhất huyện, địa hình khá phức tạp nên tiến hành lập 15 ôtc, số ôtc lần lượt giảm dần
theo diện tích rừng trồng Tếch ở các xã còn lại: Chiềng Pằn 10 ôtc, Chiềng Hặc 9
ôtc và Sập Vạt 5 ôtc.
* Thu thập số liệu trong ôtc:
Trong mỗi ôtc tiến hành thu thập các thông tin:
- Đường kính thân cây (D1.3, cm): Được đo tại vị trí 1,3m trên thân cây bằng
thước kẹp kính, theo 2 chiều vuông góc, lấy giá trị trung bình, độ chính xác đến
0,1cm.
- Chiều cao thân cây (Hvn, Hdc, m): Được xác định bằng thước đo cao
Blumeleiss, độ chính xác đến dm.
- Đường kính tán (Dt, m): Được xác định bằng thước dây, đo hình chiếu của
mép lá theo 2 chiều vuông góc, lấy giá trị trung bình, độ chính xác đến dm.
- Độ dốc mặt đất: Được xác định bằng địa bàn cầm tay tại các sườn dốc nơi
đặt ôtc. Trong mỗi ô tiến hành đo tại 9 vị trí khác nhau rồi lấy giá trị trung bình.
- Hướng dốc: Được xác định bằng địa bàn cầm tay tại sườn dốc nơi đặt ôtc.
Kết quả điều tra được ghi vào biểu có mẫu như sau:


21
Biểu 2.1. Biểu điều tra sinh trưởng rừng trồng Tếch
Số hiệu ôtc:
Độ tàn che:

stt

Độ dốc:
Hướng dốc:

Hvn

Hdc

(m)

(m)

Ngày điều tra:
Vị trí ôtc:

D1.3 (cm)
ĐT

NB

Địa điểm (xã):
Tuổi rừng:
Dt (m)

TB

ĐT

NB


Ghi
TB

chú

...

2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tất cả các số liệu điều tra được nhập vào máy tính và tiến hành xử lý dưới sự
hỗ trợ của chương trình Excel trong phần mềm Office 2003 theo tài liệu [27], [28],
[29].
2.4.3.1. Xác định các đặc điểm chung của lâm phần Tếch
- Tính các đặc trưng thống kê: Giá trị trung bình, phương sai, sai tiêu chuẩn,
độ lệch, độ nhọn, giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, hệ số biến động, khoảng biến động, sai
số số trung bình mẫu, sai số tuyệt đối của khoảng ước lượng theo đường lệnh:
Tool\Data Analysis...\Descriptive Statistics\o.k
- Mật độ (N, cây/ha):

N

n
10.000
So

(2.1)

Trong đó: n: Số cây trong ôtc (cây) ; So: Diện tích ôtc (m2); N: Số cây trên ha
- Chiều dài tán (Lt, m):
Lt = Hvn – Hdc


(2.2)

- Tổng diện tích tán (St, m2/ha):


10000
St  ( Dt 2 ) *
500
i 1 4
n

(2.3)

Trong đó: Dt là đường kính tán của từng cây trong ôtc; 10.000 là diện tích một
ha (m2); 500 là diện tích một ôtc nghiên cứu (m2).
- Độ giao tán (q):

q

St
10.000

(2.4)


22
- Tỷ lệ chiều dài tán L0t
L0t 


Lt
Hvn

(2.5)

2.4.3.2. Mô tả đặc trưng cấu trúc lâm phần:
a) Xác định phân bố thực nghiệm cho các nhân tố: Đường kính thân, chiều cao,
đường kính tán.
Do các đối tượng quan sát thuộc mẫu lớn (n>30) nên tiến hành chia tổ ghép nhóm.
Tiến hành xác định giá trị lớn nhất, nhỏ nhất. Sau đó chọn mặc định cự ly tổ K, thường là
giá trị chẵn cho phù hợp với nội dung nghiên cứu. Do đối tượng nghiên cứu là rừng trồng,
nên cự ly tổ K được chọn cho D1.3 là 2cm/cỡ; Chiều cao là 1m/cỡ; Dt là 0,5m/cỡ.
Tần số phân bố thực nghiệm trong từng ô tiêu chuẩn được xác định bằng
đường lệnh: Tools\Data Analysis....\Histogram\Ok.
b) Quy luật phân bố số cây theo đường kính và chiều cao
Có rất nhiều các hàm toán học có thể dùng để biểu thị phân bố số cây theo
đường kính và chiều cao như các hàm: Phân bố chuẩn, phân bố khoảng cách, phân
bố Meyer, v.v... Tuy nhiên, để giảm bớt tính toán mà vẫn đảm bảo tính chính xác, đề
tài tiến hành kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước như: Vũ Tiến Hinh,
Trần Văn Con, Đào Công Khanh, Vũ Nhâm, v.v.. cho rằng phân bố Weibull là phân
bố thích hợp nhất. Vì thế, đây là dạng hàm toán học được đề tài dùng xuyên suốt
trong quá trình phân tích mô phỏng đặc trưng cấu trúc lâm phần Tếch
- Hàm Weibull là phân bố xác suất của biến ngẫu nhiên liên tục, có miền xác
định (0; +), với hàm mật độ:
Và hàm phân phối:



f x ( x)   ..x 1.e  . x



F ( x)  1  e . x

(2.6)
(2.7)

Trong đó: ,  là 2 tham số của Weibull
+ Tham số  đặc trưng cho độ lệch đường cong, tham số này phải tự ước
lượng thông qua hình dạng thực nghiệm của đường cong.
Nếu:

 = 1 phân bố có dạng giảm.
 < 3 phân bố có dạng một đỉnh lệch trái.
 = 3 phân bố có dạng tiệm cận chuẩn.


23
 > 3 phân bố có dạng một đỉnh lệch phải.
+ Tham số  đặc trưng cho độ nhọn của của đường cong phân bố, được tính
theo công thức:
 = n/ft.xi

(2.8)

Trong đó: ft: Là tần số quan sát thực nghiệm
xi = (xtrên + xdưới)/2
Với: xtrên = ytrên – a

(2.9)
(2.10)


xdưới = ydưới – a

(2.11)

ytrên : Giới hạn trên của tổ
ydưới : Giới hạn dưới của tổ
(y là giá trị D hoặc H)
a : giới hạn dưới tổ đầu tiên của biến y
- Sau khi tính toán xác xuất và tần số lý thuyết, tiến hành gộp những tổ có
flt<5 với tổ trên hay tổ dưới sao cho flt≥5.
- Kiểm tra giả thuyết về quy luật phân bố bằng tiêu chuẩn  n2 (khi bình
phương).
Giả thuyết H0: Phân bố của nhân tố điều tra theo hàm Weibull
Giả thuyết H0 được kiểm tra bằng tiêu chuẩn  n2 :

 n2 =

( f t  f lt ) 2

f lt
i 1
l

(2.12)

Nếu  n2 ≤  02.5 ( k= l-r-1) thì giả thuyết được chấp nhận (H0+), tức là phân
bố lý thuyết phù hợp với phân bố thực nghiệm. Ngược lại nếu  n2 >  02.5 (k), thì
phân bố lý thuyết bị bác, hay nói cách khác là phân bố lý thuyết không phù hợp với
phân bố thực nghiệm (H0-).

2.4.3.3. Xác định mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến quy luật
phân bố đường đường kính D1.3
- Các nhân tố ảnh hưởng: A (tuổi); N (mật độ); q (hệ số giao tán)
- Ảnh hưởng của các nhân tố đến quy luật phân bố được xem xét trên các
lâm phần tuân theo quy luật hàm Weibull. Quy luật phân bố được đại diện bằng độ


×