Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Khả năng tích lũy các bon và hiệu quả kinh tế tổng hợp của phương thức NLKH chè quế tại yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.58 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------------------

VŨ THỊ THU HUYỀN

KHẢ NĂNG TÍCH LŨY CÁC BON VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ TỔNG HỢP
CỦA PHƯƠNG THỨC NLKH CHÈ – QUẾ TẠI YÊN BÁI

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Phạm Xuân Hoàn

HÀ NỘI - 2010


1

MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu là hậu quả của sự phát thải khí nhà kính quá mức vào bầu khí
quyển (chủ yếu gồm các khí CO2, NOx, CFC (chlorofluorocacbons)…) do các hoạt
động phát triển kinh tế, xã hội thiếu hợp lý của con người. Nhận thức được vấn đề này,
Việt Nam cùng với 160 quốc gia trên thế giới đã thông qua và ký Công ước khung của
Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu toàn cầu (UNFCCC). Công ước này được cụ thể


hoá bằng Nghị định thư Kyoto năm 1997. Nội dung quan trọng của nghị định thư là
đưa ra chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính có tính rằng buộc pháp lý đối với các
nước phát triển và cơ chế giúp các nước đang phát triển đạt được sự phát triển kinh
tế - xã hội một cách bền vững thông qua thực hiện “Cơ chế phát triển sạch” (CDM:
Clean Development Mechanism). CDM đã mở ra cơ hội mới cho ngành lâm nghiệp
trong việc bán tín chỉ các bon tích luỹ thông qua các dự án trồng rừng và tái trồng
rừng theo CDM (AR-CDM: Afforestation, Reforestation - CDM).
Việt Nam là quốc gia có diện tích rừng khá lớn, tập trung nhiều lao động
tham gia sản xuất lâm nghiệp. Nhưng đóng góp của các hoạt động sản xuất lâm
nghiệp chỉ mới chiếm 5% tổng thu nhập của cả ngành nông nghiệp. Con số này chỉ
phản ánh chủ yếu là giá trị gỗ và lâm sản ngoài gỗ mang lại. Những giá trị phi vật
thể mà ngành lâm nghiệp mang lại mặc dù ai cũng hiểu là rất lớn như giá trị bảo
tồn, du lịch, đa dạng sinh học, bảo vệ đất, nước và môi trường sống…, nhưng trên
thực tế ngành lâm nghiệp chưa có những cơ hội để định giá những giá trị đó.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên việc định giá rừng đã được đề cập và trở thành một
nội dung quan trọng trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi năm 2004. Việc
quy định giá trị của rừng bao gồm cả giá trị kinh tế hàng hoá và giá trị môi trường
của rừng là một bước chuyển có tính cách mạng trong việc quản lý rừng ở nước ta,
phản ánh xu thế tất yếu của xã hội và hội nhập quốc tế.
Phương thức canh tác Nông lâm kết hợp không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế
trong sử dụng đất, mà còn đáp ứng các yêu cầu trong việc bảo đảm bền vững môi


2

trường như bảo vệ, cải thiện đất, giữ nước, hấp thụ và lưu giữ khí CO2 trong hệ
thống, giảm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính trong khí quyển, đóng góp vào việc
giảm thiểu sự biến đổi khí hậu.
Phương thức NLKH Chè - Quế được trồng phổ biến ở các xã của huyện Trấn
Yên, tỉnh Yên Bái, tạo nên khối lượng sản phẩm khá ổn định và đóng góp quan

trọng trong thu nhập của các nông hộ. Trong phương thức này, cây Quế ngoài
nhiệm vụ che bóng cho Chè, còn mang lại thu nhập về vỏ và gỗ Quế. Chè cũng
được thu hoạch hàng năm, vì vậy phương thức này không chỉ mang lại giá trị về
kinh tế và bảo tồn đất đai, mà còn giúp cho việc hấp thụ và lưu trữ một lượng các
bon nhất định. Như vậy, phương thức này sẽ góp phần trong việc giảm phát thải các
khí gây hiệu ứng nhà kính hiện nay.
Từ thực tiễn và lý luận trên, đề tài nghiên cứu “Khả năng tích lũy các bon
và hiệu quả tổng hợp của phương thức NLKH Chè - Quế tại Yên Bái” được đề
xuất thực hiện nhằm góp phần cung cấp các cơ sở dữ liệu, thông tin về đóng góp
của phương thức trong giảm khí gây hiệu ứng nhà kính, từ đó góp phần trong việc
định hướng và thể chế hóa việc chi trả dịch vụ môi trường trong NLKH.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quát về nghiên cứu khả năng tích lũy các bon
1.1.1. Cơ sở khoa học
Trong hệ sinh thái rừng, cây rừng được gọi là sinh vật sản xuất, bởi duy nhất
chúng có khả năng quang hợp nhờ ánh sáng khuếch tán, cùng với CO2 và H2O tạo
ra O2 cung cấp cho các loài thuộc sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân hủy. Nếu nhìn
nhận chúng trong vai trò bảo vệ môi trường, không có một nhà khoa học nào có thể
phủ nhận chức năng này. Vai trò thể hiện qua phương trình tổng quát:
6nCO2 + 5nH2O  C6H10O2 + 6nO2
(nhờ xúc tác của ánh sáng mặt trời và chất diệp lục)
Song song với quá trình quang hợp hấp thụ CO2 thì có quá trình phát thải trở
lại khí CO2 từ thực vật bị đốt cháy theo phương trình:
C6H10O5 + 6nO2  6nCO2 + 5nH2O
Quá trình sinh trưởng của cây trồng cũng đồng thời là quá trình tích lũy các

bon.
1.1.2. Thế giới
a. Nghiên cúu khả năng tích lũy carbon ở rừng
Rừng là bể chứa các bon khổng lồ của thế giới. Tổng lượng dự trữ các bon
của rừng trên toàn thế giới khoảng 830PtC, trong đó các bon trong đất lớn hơn 1.5
lần các bon trong thảm thực vật (Brown, 1997) [19].
Theo ước tính, hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng trên thế giới có tỷ lệ
hấp thu CO2 ở sinh khối là 0,4 - 1,2 tấn/ha/năm ở vùng cực Bắc; 1,5 - 4,5
tấn/ha/năm ở vùng ôn đới và 4 - 8 tấn/ha/năm ở các vùng nhiệt đới (Dioxon et al.,
1994; dẫn từ IPCC, 2003) [26].
Một số kết quả nghiên cứu về khả năng tích lũy các bon của các dạng rừng


4

Năm 1980, Brown và cộng sự đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng các
bon trung bình trong rừng nhiệt đới châu Á là 144 tấn/ha trong phần sinh khối và
148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1m, tương đương 42 – 43 tỷ tấn các bon
toàn châu lục.
Năm 1991, Houghton R.A đã chứng minh lượng các bon trong rừng nhiệt
đới chấu Á là 40 – 250 tấn/ha, trong đó 50 – 120 tấn/ha ở phần thực vật và đất (dẫn
từ Phạm Xuân Hoàn, 2005) [6].
Kết quả nghiên cứu của Brawn năm 1991 cho thấy rừng nhiệt đới Đông Nam Á
có lượng sinh khối trên mặt đất từ 50 - 430 tấn/ha (tương đương 25 - 215 tấn C/ha) và
trước khi có tác động của con người thì các trị số tương ứng là 350 - 400 tấn/ha (tương
đương 175 - 200 tấn C/ha)
Brown và Pearce đã đánh giá lượng các bon và tỷ lệ thất thoát đối với rừng
nhiệt đới. Theo đó một khu rừng nguyên sinh khi hấp thụ được 280 tấn C/ha sẽ giải
phóng 200 tấn C/ha nếu bị chuyển thành du canh du cư và sẽ giải phóng các bon
nhiều hơn nếu được chuyển thành đồng cỏ hay đất nông nghiệp. Rừng trồng có thể

hấp thụ khoảng 115 tấn các bon và con số này sẽ giảm 1/3 – 1/4 khi rừng chuyển
đổi sang canh tác nông nghiệp. (Brown, 1997) [19].
Năm 1995, Murdiyarso D đã nghiên cứu và đưa ra dẫn liệu rừng Indonesia
có lượng các bon hấp thụ từ 161-300 tấn/ha trong phần sinh khối trên mặt đất
(IPCC, 2003) [26].
Tại Philippines, năm 1999 Lasco R cho biết ở rừng tự nhiên thứ sinh có 86201 tấn C/ha trong phần sinh khối trên mặt đất; ở rừng già con số đó là 185 - 260
tấnC/ha (tương đương 370 - 520 tấn sinh khối/ha, lượng các bon ước chiếm 50%
sinh khối) [28].
Tại Thái Lan, Noonpragop K. đã xác định lượng các bon trong sinh khối


5

trên mặt đất là 72 - 182 tấn/ha.
Ở Malaysia, lượng các bon trong rừng biến động từ 100-160 tấn/ha và tính cả
trong sinh khối và đất là 90 - 780 tấn/ha (Abu Bakar, R).
Brown và cộng sự năm 1996 đã ước lượng tổng lượng các bon mà hoạt động
trồng rừng trên thế giới có thể hấp thu tối đa trong vòng 5 năm (1995 – 2000) là
khoảng 60 – 87 GtC, với 70% ở rừng nhiệt đới, 25% ở rừng ôn đới và 5% ở rừng
cực bắc. Tính tổng lại rừng trồng có thể hấp thu được 11 – 15% tổng lượng CO2
phát thải từ nguyên liệu hóa thạch trong thời gian tương đương. (Brown, 1997) [19].
Một hệ thống nhiều tầng gồm các loài cây như: Cây lõi thọ (Gmelina
arborea), ca cao (Theobroma cacao), dừa (Cocos nicifera), cà phê chè (Coffea
arabica), xoài (Mangifera indica) và một số loài cây ăn quả khác có sinh khối từ
32,68 – 285 Mt/ha, lượng các bon tích lũy có giá trị từ 79 – 185 MtC/ha tùy thuộc
vào loài cây, mật độ, tuổi….….(Lasco, 2001) [28].
Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về lượng các bon
tích lũy của rừng được thực hiện bởi Ilic năm 2000 và Mc Kenzie năm 2001. Theo
McKenzie, các bon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở 4 bộ phận chính:
Thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng. Theo phân

loại của IPCC năm 2006, các bể chứa các bon trong một trạng thái thảm thực vật
bao gồm: Sinh khối trên mặt đất, thảm mục, gỗ chết, vật rơi rụng, sinh khối dưới
mặt đất (trong hệ thống rễ có đường kính >= 2mm) và các bon hữu cơ trong đất.
Việc xác định lượng các bon trong rừng thường được thực hiện thông qua xác định
sinh khối rừng.
Kết quả nghiên cứu về sự biến động lượng các bon sau khai thác rừng
Không những chỉ nghiên cứu khả năng hấp thụ các bon của rừng mà các
nghiên cứu về sự biến động các bon sau khai thác rừng cũng rất được quan tâm.


6

Theo Putz F.E. & Pinard M.A (1993), phương thức khai thác cũng có ảnh
hưởng rõ rệt tới mức thiệt hại do khai thác hay lượng các bon bị giảm. Bằng việc áp
dụng phương thức khai thác giảm thiểu (RIL) tác động ở Sabah (Malaysia) sau khai
thác một năm, lượng sinh khối đã đạt 44 - 67% so với trước khai thác. Lượng các
bon trong lâm phần sau khai thác theo RIL cao hơn lâm phần khai thác theo phương
thức thông thường đến 88 tấn/ha (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn, 2005) [6].
Theo Lasco năm 2002, lượng sinh khối và các bon của rừng nhiệt đới châu Á
bị giảm khoảng 22 – 67% sau khai thác; tại Philippines, ngay sau khi khai thác
lượng các bon bị mất là 50% so với rừng thành thục trước khai thác; ở Idonesia tỷ lệ
này là 38 – 75% [28].
Việc thay thế rừng tự nhiên bằng rừng trồng hoặc cây công nghiệp lâu năm
là hình thức thay đổi phương thức sử dụng đất khá phổ biến ở các nước nhiệt đới và
kết quả là làm giảm lượng các bon trong hệ sinh thái mới được hình thành so với
rừng tự nhiên vốn có. Tại Indonesia, các đồn điền cọ dầu và cà phê có lượng các
bon thấp hơn rừng tự nhiên từ 6% - 31% (Sitompul.S.M.et al., 2000), ở các hệ canh
tác NLKH và rừng trồng mức chênh lệch này là 4 – 27% (Hairiah et al., 2000; dẫn
từ Phạm Xuân Hoàn, 2005) [6].
Với sự ra đời của Nghị định thư Kyoto, vai trò của rừng trong giảm phát thải

khí nhà kính và chống lại sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định. Theo kết quả
tính toán, giá trị hấp thụ CO2 của các khu rừng tự nhiên nhiệt đới khoảng từ 5002.000 USD/ha và đối với rừng ôn đới từ 100-300USD/ha ( Zang,2000). Giá trị hấp
thụ CO2 ở rừng Amazone được ước tính là 1.625USD/ha/năm, đó rừng nguyên sinh
là 4.000-4.400USD/ha/năm, rừng thứ sinh là 1.000-3.000 USD/ha/năm và rừng thưa
là 600-1.000USD/ha/năm (Camille Bann và Bruce Aylward, 1994) [21].
b. Nghiên cứu khả năng tích lũy các bon của các hệ thống sử dụng đất


7

Lonis Verchot, chuyên gia cao cấp sinh thái học thuộc ICRAF diễn giải trong
báo cáo “Cây cối cho thay đổi” (Trees for change) rằng nhiều hệ thống NLKH đã
trồng cây tăng trưởng nhanh, cố định đạm để dự trữ độ phì nhiêu của đất và nâng
cao các tính chất vật lý thổ nhưỡng. Một thành phần quan trọng của quá trình phục
hồi thổ nhưỡng này như thu hồi các chu trình dưỡng chất hữu cơ – bổ sung thêm
các chất hữu cơ cho đất, trong đó khoảng một nửa là các bon.
Đất tích lũy CO2 từ khí quyển và các kho lưu chứa khí trong hệ thống sinh
thái nông lâm nghiệp góp phần làm cho các hệ thống đó bền vững. Verchot cho
rằng “điểm cơ bản ở chỗ, NLKH là hệ thống sử dụng đất hiệu quả nhất, vừa để
hidrat hóa các bon, giảm thiểu nóng lên toàn cầu, vừa xóa đói giảm nghèo”. Thông
qua việc sử dụng trồng rừng theo CDM, rừng trồng và canh tác NLKH sẽ trở thành
một sự lựa chọn hấp dẫn về mặt tài chính.
Năm 2000 tại Indonesia, Noordwijk đã nghiên cứu khả năng tích lũy các bon
của rừng thứ sinh, các hệ NLKH và thâm canh cây lâu năm. Kết quả cho thấy lượng
các bon hấp thụ trung bình là 2,5 tấn/ha/năm. Noordwijk đã nghiên cứu về mối quan
hệ giữa điều kiện xung quanh với loài cây: khả năng tích lũy các bon này biến động
từ 0,5 – 12,5 tấn/ha/năm, rừng quế 7 tuổi tích lũy từ 4,49 – 7,19 kgC/ha…[31]
Theo Rodel D. Lasco (2003) lượng các bon tích lũy bởi rừng chiếm 4% tổng
lượng các bon trên trái đất, nên việc chuyển đổi đất rừng thành các loại hình sử
dụng đất khác có tác động mạnh mẽ đến chu trình các bon. Các hoạt động lâm

nghiệp và sự thay đổi phương thức sử dụng đất, đặc biệt là suy thoái rừng nhiệt đới
một trong những nguyên nhân quan trọng làm tăng lượng CO2 trong khí quyển, ước
tính có khoảng 1,6 tỷ tấn/năm trong tổng số 6,3 tỷ tấn khí CO2/năm được phát thải
ra do các hoạt động của con người. Vì vậy, rừng nhiệt đới và sự biến động của nó
có ý nghĩa rất to lớn trong việc hạn chế quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu [32].
Albrecht và Kandji (2003) đã ước lượng lượng các bon tiềm năng trong các
hệ thống NLKH (thành phần là lúa mỳ, ngô, cây họ đậu và các cây công nghiệp) từ


8

12 – 228 Mg/ha (trung bình là 95 Mg/ha) với khoảng từ 585 – 1215 triệu ha diện
tích đất thích hợp cho canh tác NLKH tại Sumatra (dẫn từ Wesi, 2007) [36].
Phương thức NLKH với hai loài cây trồng chủ yếu là cây sầu riêng
(Duriozibethinus Murr) và cây bòn bon (Lansium domesticum) tại Indonexia đã
được xây dựng 23 năm (bắt đầu từ năm 1980) có tổng lượng các bon tích lũy trong
hệ thống là 287,9 tấn C/ha (Ewlis Retnowati, 2003) [23].
Năm 2007, Wise và Cacho đã xác định hàm lượng các bon và nitơ biến động
trong các hệ thống NLKH trong khoảng 10 – 33 Mgt C/ha và 1,0 – 3,3 Mt N/ha,
phụ thuộc vào các hoạt động sử dụng đất [36].
Khi nghiên cứu sinh khối các bon trong hệ thống NLKH với các phương
thức sử dụng khác tại Nairobi của Kenya năm 2000 đã cho kết quả: Trong khi các
khu rừng nguyên sinh tại khu vực nghiên cứu có lượng tích lũy khoảng 300 tấn
C/ha với các hệ thống NLKH bao gồm các loài cây : Cà phê + cao su, cà phê +
chuối có lượng tích lũy các bon nằm trong khoảng 40 – 90 tấn C/ha; với đất đồn
điền trồng bông, cà phê là 11 – 61 tấn C/ha và với đất đồng cỏ, đất hoang hóa thì
lượng các bon tích lũy ở mức rất nhỏ là 3 tấn C/ha [30].
Một số nghiên cứu về biến động các bon sau nương rẫy đã cho thấy: Nếu
rừng bị phá bỏ hoàn toàn để làm nương rẫy hay trở thành trảng cỏ sẽ làm cho khả
năng tích lũy các bon giảm nghiêm trọng, (Phạm Xuân Hoàn, 2005) [6].

Đây cũng là kết quả được khẳng định trong các nghiên cứu về khả năng tích
lũy các bon trong các phương thức sử dụng đất khác nhau của Subekti Rahayu et
al., (2006) [31].


9

Bảng 1.1: Lượng các bon tích lũy trong các phương thức sử dụng đất
Hệ thống sử dụng đất

STT

Lượng các bon
(Mt/ha)

Tỷ lệ (%)

1

Rừng nguyên sinh

230,1

100

2

Rừng thứ sinh sau khai thức 0 – 10 năm

206,8


90

3

Rừng thứ sinh sau khai thức 11 – 30 năm

212,9

92

4

Rừng thứ sinh sau khai thức 31 – 50 năm

184,2

80

5

Jakaw 0 – 10 tuổi

19,4

8

6

Jakaw trên 10 tuổi


58,0

25

7

Nông lâm kết hợp tuổi 0 – 10

37,7

16

8

Nông lâm kết hợp tuổi 11 – 30

72,6

31

9

Cỏ tranh

4,2

2

10


Lúa nương (lúa cạn)

4,8

2

Nguồn: Rahayu.S (2006)
Những công trình nghiên cứu của ủy ban Liên Chính phủ về thay đổi khí hậu
(IPCC) về hiện tượng khí hậu cũng đã chứng minh rằng các hệ thống nông – lâm có
thể thu được lượng các bon gấp 3 lần trên cùng một diện tích nếu so với đất trống
và đồng cỏ, đồng thời ít nhất cũng đạt 60% trên cùng một diện tich mới trồng trọt
và rừng tái sinh.
Một báo cáo của IPCC tháng 5/2000 với nhan đề “Sử dụng đất, thay đổi sử
dụng đất và lâm nghiệp” cũng đã nêu rõ, việc chuyển đổi đất trồng không có năng
suất và đất chăn thả thành đất nông lâm nghiệp có tiềm năng cao nhất để hấp thu
các bon của khí quyển . Theo các số liệu thống kê của IPCC, trong một năm nếu
quản lí tốt đất chưa trồng trọt có thể hấp thu được 12 megaton CO2 khí quyển, đất
chăn thả mới là 240 Mt rừng mới trồng và rừng tái sinh 197 đến 584 Mt và nông


10

lâm kết hợp 390 Mt, ngược lại, suy thoái rừng làm phát tán hàng năm 1788 Mt các
bon trong khí quyển. Như vậy, do tăng dữ trữ các bon tầng đất trên cây cối trên
đồng ruộng và đất dưới chứa chất hữu cơ, nông lâm kết hợp mang lại những lợi ích
toàn cầu to lớn.
1.1.3. Việt Nam
Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế, đặc biệt là về công nghiệp và một
số ngành dịch vụ. Việc phát triển kinh tế mang lại cho người dân một cuộc sống đầy

đủ hơn về vật chất nhưng bên cạnh đó nó còn có mặt trái về ô nhiễm môi trường.
Theo kiểm kê khí nhà kính quốc gia năm 1994, tổng phát thải khí CO2 ở Việt Nam
là 103,8 triệu tấn. Nguồn phát thải nhà kính chính trong nước là năng lượng, nông
nghiệp, thay đối sử dụng đất và lâm nghiệp. Tuy lượng phát thải hiện tại là thấp
nhưng trong tương lai lượng phát thải chắc chắn sẽ tăng lên. Chúng ta cần phải có
biện pháp để giảm mức phát thải. Nhận thức được điều này, chính phủ nước ta đã
phê chuẩn công ước khung của liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) ngày
16/11/1994 và Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2002. Việt Nam được đánh giá là
một trong những nước tham gia vào Nghị định thư Kyoto sớm nhất. Các vấn đề liên
quan đến CDM, hấp thụ các bon của rừng ở nước ta đều là những vấn đề còn khá
mới mẻ và mới được chú ý nghiên cứu trong những năm gần đây.
Ngô Đình Quế, (2005) [14] và Võ Đại Hải, (2007) [4] đã tiến hành đánh giá
khả năng hấp thụ CO2 thực tế của một số loại rừng trồng ở Việt Nam gồm : Thông
nhựa, Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm và Bạch đàn Uro và Mỡ ở các tuổi khác
nhau. Kết quả tính toán cho thấy khả năng hấp thụ CO2 của các lâm phần khác nhau
phụ thuộc vào năng suất lâm phần đó ở các tuổi nhất định. Để tích lũy khoảng 100
tấn CO2/ha Thông nhựa phải đạt đến tuổi 16-17, Thông mã vĩ và Thông 3 lá ở tuổi
10, keo lai 4-5 tuổi, Keo tai tượng 5-6 tuổi, Bạch đàn Uro ở tuổi 4-5. Kết quả
nghiên cứu này là cơ sở quan trọng cho việc quy hoạch vùng trồng, xây dựng các dự
án trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch CDM. Tác giả đã lập được các phương
trình tương quan hồi quy-tuyến tính giữa các yếu tố lượng CO2 thực tế ở nước ta đối
với 6 loài cây nói trên.


11

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Dũng (2005) [3] tại núi Luốt – ĐHLN đã đưa
ra bảng tra lượng các bon tích lũy ở trạng thái theo Dg (đường kính gốc) và Hl
(chiều dài men thân). Đồng thời tác giả cũng kết luận giá trị hấp thụ các bon của
rừng là rất đáng kể (rừng thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi lượng có các bon tích lũy là

80,7 – 122 tấn/ha; giá trị tích lũy các bon ước tính đạt 25,8 – 39 triệu VNĐ/ha.
Rừng keo lá tràm trồng thuần loại 15 tuổi có tổng trọng lượng các bon tích lũy là
62,5 – 103,1 tấn/ha; giá trị tích lũy các bon ước tính đạt 20 – 30 triệu VNĐ/ha). Tuy
nhiên nghiên cứu mới chỉ đề cập đến rừng trồng Keo lá tràm và Thông mã vĩ ở 2
cấp tuổi mà chưa mở rộng cho các cấp tuổi khác nhau nên phạm vi ứng dụng kết
quả nghiên cứu chưa cao.
Vũ Tấn Phương (2006) [10] tính toán trữ lượng các bon trong sinh khối thảm
tươi cây bụi ở Hòa Bình và Thanh Hóa là 20 tấn/ha, với lau lách trữ lượng các bon
trên mặt đất chiếm 46%; 14 tấn/ha, với cây bụi cao 2 – 3 m, (73% trữ lượng các bon
tập trung ở các bộ phận trên mặt đất ); khoảng 10 tấn/ha với cây bụi dưới 2m và tế
guột; 6,6 tấn/ha với cỏ lá tre; 4,9 tấn/ha với cỏ tranh; cỏ chỉ, cỏ long lợn là 3,9
tấn/ha. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc đánh giá trữ lượng các bon
tại thời điểm hiện tại nhưng cũng cho chúng ta cái nhìn đầy đủ hơn về giá trị sinh
khối cây bụi thảm tươi, là căn cứ để xây dựng kịch bản đường các bon cơ sở cho
các dự án trồng rừng CDM sau này.
Đặng Thị Mỹ (2007) [9] khi nghiên cứu về vấn đề này đã kết luận : so sánh
tỷ lệ tiền thu được từ việc bán các bon và bán gỗ của rừng keo tai tượng thì số tiền
thu được từ bán các bon = 1/3 tiền bán gỗ. Nguyễn Văn Tấn, 2006 cũng đã kết luận
CDM làm tăng thu nhập của rừng bạch đàn Uro lên 2.773.000 đồng/ha so với việc
chỉ trồng rừng Bạch đàn làm nguyên liệu giấy.
Theo Vũ Tấn Phương (2007) [11] thì khả năng hấp thụ các bon của cây cá lẻ
thấp hơn, cây ở độ tuổi 12 hấp thụ 93,5 kg CO2/cây; với Bạch đàn urophylla ở tuổi
6 là 169,84 kg/cây.


12

Khả năng tích lũy các bon của các mô hình rừng trồng với các loại cây trồng
khác nhau cũng đã được nghiên cứu. Vũ Tấn Phương và Nguyễn Viết Xuân (2008)
[12] bằng phương pháp giải tích cây tiêu chuẩn đã kết luận : có thể suy đoán sinh

khối khô dưới đất dựa trên trữ lượng trên mặt đất của rừng thông qua tỷ số rễ/thân
khi tỉ số này biến động từ 0.16 – 0,27 và không tuân theo 1 quy luật rõ ràng, không
phụ thuộc vào tuổi của rừng. Sinh khối và trữ lượng các bon trong rừng trồng keo tỷ
lệ thuận với sinh trưởng của cây, tuổi rừng và cấp đất. Lượng các bon do rừng keo
lai hấp thụ là từ 7 – 10 tấn C/ha/năm (tương đương 26 – 36 tấn CO2/ha/năm). Các
tác giả cũng đã lập được các mô hình tính toán riêng cho từng khu vực nghiên cứu
(miền Bắc, miền Trung, miền Nam) và lập chung cho toàn quốc để tính toán trữ
lượng các bon của rừng Keo lai trong các dự án trồng rừng/ tái trồng rừng theo cơ
ché CDM và kiểm kê khí nhà kính.
Các tác giả thường thiết lập mối quan hệ giữa lượng các bon tích lũy của
rừng với các nhân tố điều tra cơ bản như đường kính, chiều cao vút ngọn, mật
độ...cụ thể như Ngô Đình Quế (2005) [14] đã xây dựng mối quan hệ cho các loài
Thông nhựa, keo lai, keo tài tượng, keo lá tràm, bạch đàn Uro; Vũ Tấn Phương
(2006) [10] xây dựng các phương trình quan hệ cho keo lai, keo tài tượng, keo lá
tràm, bạch đàn Urophylla, Quế; Võ Đại Hải (2007) [4] xây dựng phương trình quan
hệ cho cây mỡ. Đây là những cơ sở quan trọng cho việc xác định nhanh lượng các
bon tích lũy của rừng trồng cây nước ta thông qua điều tra một số chi tiết đơn giản.
Khả năng hấp thụ các bon của rừng tự nhiên cũng được quan tâm nghiên
cứu. Vũ Tấn Phương (2006) [10] đã nghiên cứu trữ lượng các bon theo các trạng
thái rừng và cho biết: rừng giàu có tổng trữ lượng các bon 649,9 – 733,9 tấn
CO2/ha; rừng trung bình 539,6 – 577,8 tấn CO2/ha; rừng nghèo 387,0 – 478,9 tấn
CO2/ha; rừng phục hồi 164,9 – 330,5 tấn CO2/ha và rừng tre nứa là 116,5 – 277,1
tấn CO2/ha.
Phạm Tuấn Anh (2007) [1] đã nghiên cứu khả năng hấp thụ các bon của các
lọa cây rừng khác nhau trong rừng tự nhiên. Kết quả cho thấy khả năng hấp thụ các


13

bon của các loại cây khác nhau là rất khác nhau. Một số cây có khả năng hấp thụ

CO2 lớn như Dẻ (3.493,1 kg CO2/cây), Chò Sót (2.638,7 kg CO2/cây) nhưng cũng
có cây chỉ rất thấp như Trâm (20,6 kg CO2/cây), Ba Soi (27,5 kg CO2/cây ). Đây có
thể là cơ sở lựa chọn cây trồng nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong xây dựng các mô
hình NLKH theo CDM.
Theo Hoàng Xuân Tý (2004) [17], nếu tăng trưởng rừng đạt 15 m3/ha/năm
tương đương 15 tấn CO2/ha/năm, với giá thương mại tháng 5/2004 biến động từ 3 –
5 USD/tấn CO2, thì một ha rừng như vậy có thể đem lại 45 – 75 USD (tương đương
675.000 – 1.120.000 đồng Việt Nam).
Tổng kết các công trình nghiên cứu về định giá rừng ở Việt Nam trong
những năm gần đây, Vũ Tấn Phương (2009) [13] đã đưa ra một số khái quát : Giá
trị lưu giữ các bon của rừng gỗ tự nhiên (các trạng thái giàu, trung bình, nghèo,
phục hồi) là 35 – 84 triệu đồng/ha và giá trị hấp thụ các bon hàng năm là khoảng 0,4
– 1,3 triệu đồng/ha/năm ở miền Bắc, tương tự với miền Trung là 37 – 91 triệu
đồng/ha/năm và ở miền Nam là 46 – 91 triệu đồng/ha/năm.
Những nghiên cứu về khả năng hấp thụ các bon của rừng ở nước ta mặc dù
còn rất ít và mới chỉ được tiến hành trong một vài năm trở lại đây song những kết
quả thu được bước đầu là rất lớn, có giá trị và bước đầu đã cung cấp những thông
tin cần thiết về sinh khối và lượng các bon tích lũy ở một số dạng rừng trồng và
rừng tự nhiên.
1.2. Phương pháp xác định sinh khối và khả năng tích lũy các bon
1.2.1. Sinh khối trên mặt đất
Một số phương pháp xác định sinh khối trên mặt đất của cây mà thông qua
đó có thể xác định được lượng các bon tích lũy trong rừng như:
- Phương pháp dựa trên mật độ sinh khối của rừng : theo phương pháp này,
tổng lượng sinh khối trên bề mặt có thể được tính bằng cách nhân diện tích của một
lâm phần với mật độ sinh khối tương ứng (thông thường là khối lượng của sinh khối


14


trên mặt đất/ha). Các bon thường được tính từ sinh khối bằng cách nhân hệ số
chuyển đổi là cố định 0,5. Phương pháp này đã được Trung tâm Hợp tác Quốc tế và
xúc tiến Lâm nghiệp Nhật Bản (JIFPRO) áp dụng. Đây cũng là hệ thống chuyển đổi
giữa lượng carbon tích lũy trong cây rừng với sinh khối khô được IPCC thừa nhận
(Vũ Tấn Phương, 2006) [10]. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở đối
tượng rừng trồng và phần lớn được áp dụng trong nghiên cứu các bon lâm phần
theo phương pháp cây cá thể.
- Phương pháp dựa trên điều tra thể tích: Đây là phương pháp sử dụng hệ số
chuyển đổi sinh khối – các bon để tính sinh khối và các bon cho nhiều loại rừng trên
thế giới trong đó có rừng tự nhiên nhiệt đới (Brown and Lugo, 1984; Gifford, 1992;
Grierson et al., 1992; Schroeder,1992; Brown, 1996,1997; Gifford, 2000; IPCC,
2000,2003). Hệ số chuyển đổi có giá trị khoảng từ 1,4- 5,4 phụ thuộc vào cấp năng
suất của rừng và phương pháp tính toán (Brown et al., 1989; dẫn theo IPCC, 2003
[26]).
- Phương pháp dựa trên các nhân tố điều tra lâm phần: Các nhân tố điều tra
lâm phần như sinh khối, tổng tiết diện ngang, mật độ, tuổi, chiều cao tầng cây trội,
chỉ các yếu tố khí hậu và đất đai có mối liên hệ với nhau được mô phỏng bằng các
phương trình quan hệ. Các phương trình được sử dụng để xác định sinh khối và khả
năng hấp thụ các bon cho lâm phần.
- Phương pháp dựa trên số liệu cây cá thể. Hầu hết các nghiên cứu từ trước
cho đến nay về sinh khối và các bon hấp thụ đều dựa trên kết quả nghiên cứu của
cây cá thể , trong đó có hàm lượng các bon trong các bộ phận của cây. Theo phương
pháp này, sinh khối cây cá thể được xác định từ mối quan hệ của nó với các nhân tố
điều tra khác của cây cá thể như chiều cao, đường kính ngang ngực, tiết diện ngang,
thể tích hoặc tổ hợp các nhân tố này của cây.
- Ngoài ra còn một số phương pháp nữa như phương pháp dựa trên vật liệu
khai thác, phương pháp dựa trên mô hình sinh trưởng.


15


Tuy nhiên hai phương pháp chính thường được áp dụng để ước lượng sinh
khối và khả năng tích lũy các bon trên mặt đất của cây trồng NLKH là phương pháp
tính trực tiếp từ phương trình quan hệ và phương pháp gián tiếp sử dụng hệ số
chuyển đổi sinh khối.
Việc nghiên cứu các bon trong các hệ thống NLKH đã được thực hiện ở
nhiều nơi trên thế giới. các nhà nghiên cứu đã xây dựng được các công thức tính
sinh khối khô của cây trồng trong các hệ thống NLKH. Có thể khái quát một số kết
quả như sau:
Bảng 1.2: Một số phương trình tương quan sinh trưởng
Loại sinh khối

Phương trình tương quan

Nguồn tài liệu

sinh trưởng
B = 0.11*p*D2,62

Kettering, 2001 [27]

B = 0.118*D2.53

Brown, 1997 [19]

B = 0.049 * p * D2*H

Brown et al,. 1995

Cây không phân cành


B= (π/40)*p*H*D2

Hairiah, 2002

Cây chết

B = (π/40)*p*H*D2

Hairiah, 2002

Cà phê (đã đốn,tỉa)

B = 0.281 * D2,06

Cây phân cành

Arifin, 2001
Van Noordwijk,2002 [35]

Chuối

Arifin, 2001
B= 0.030*D2,13
Van Noordwijk,2002 [35]

Nguồn: Rahayu.S; Lusiana.B và Van Noordwijk.M, 2006 [35]


16


Với: B = sinh khối khô, kg/cây; D = đường kính tại vị trí 1.3 m (cm); H = chiều cao
cây (cm); p = tỉ trọng gỗ ( mg/m3, kg/dm3 hoặc g/cm3).
Để đánh giá độ chính xác khi xác định nhanh sinh khối của các cây trồng
thông qua các phương trình, (Hairiah. H et al., 2001) đã tiến hành làm thí nghiệm và
đưa ra kết luận phương trình của (Ketterings, 2001) [27] có giá trị sinh khối khô gần
nhất với thực tế.
1.2.2. Sinh khối dưới mặt đất
Sinh khối dưới mặt đất của lâm phần là khối lượng phần rễ sống của cây.
Rễ cây chiếm một phần quan trọng trong tổng sinh khối lâm phần. Theo (Cairn et
al.,1997)[20], sinh khối của rễ cây trong rừng dao động từ khoảng 3 tấn/ha đến 206
tấn/ha, tùy theo loại rừng. Tuy nhiên, điều tra để xác định tổng lượng rễ cây dưới
mặt đất là công việc khó khăn, đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian, công sức.
Tổng kết 250 công trình nghiên cứu về sinh khối rễ trên toàn thế giới,
(Jacket et al.,1996) [21] nhận thấy hầu hết sinh khối của rễ tập trung ở tầng đất mặt
2m, đa số trong số này tập trung trên lớp đất mặt. Nghiên cứu 11 kiểu rừng trồng ở
Australia, Snowdon nhận thấy 86-100% sinh khối rễ nằm trên lớp đất mặt 1m
(Snowdon, 2000) [33]. Theo Canadell (1996) [21], độ sâu tầng rễ tối đa tìm thấy là
2±0,2m cho đất canh tác nông nghiệp, 9,5±2,4 m cho sa mạc, 3,7±0,5m cho đất
trồng cỏ và savan nhiệt đới, 5,2±0,8m đất cây bụi và rừng (Canadell et al., 1996)
[21]. Độ sâu lấy rễ mẫu để xác định sinh khối dưới mặt đất của rừng được khuyến
nghị là 1m (tính từ mặt đất). Mức này cũng được chấp nhận trong nhiều qui trình
điều tra các bon và động thái các bon dưới mặt đất (IPCC, 2003) [26]. Mặc dù sinh
khối của rễ có đường kính lớn 5mm chiếm chủ yếu trong tổng sinh khối của bộ rễ
(Cairns et al., 1997) [20] nhưng nhiều tác giả và IPCC đề xuất lấy rễ có đường kính
từ 2mm trở lên để xác định sinh khối của cây dưới mặt đất. Rễ có kích thước nhỏ
hơn 2mm được coi là các bon hữu cơ trong đất (IPCC, 2003) [26]. Tuy nhiên
phương pháp thu thập toàn bộ rễ cây để xác định sinh khối rễ khá tốn kém về mặt



17

thời gian và công sức, chỉ thích hợp khi áp dụng để xác định khả năng tích lũy các
bon cho lâm phần bằng phương pháp cây cá thể.
Để có thể xác định nhanh sinh khối dưới mặt đất của cây trồng, các nhà
khoa học đã nghiên cứu mối quan hệ của nó với các nhân tố khác trong lâm phần và
đưa ra kết luận : Sinh khối trên mặt đất được cho là những biến dự đoán tốt nhất cho
sinh khối rễ dưới mặt đất, sinh khối dưới mặt đất còn có quan hệ chặt chẽ với nhiều
nhân tố điều tra trên mặt đất. Zianis (2004) đã tổng kết số liệu từ các nghiên cứu
trên toàn cầu và nhận thấy sinh khối rễ có mối quan hệ chặt chẽ với đường kính
ngang ngực, chiều cao cây.
Cairns (1997) [20] cũng đã tổng kết hơn 160 công trình nghiên cứu trên thế
giới và kết luận tỷ lệ rễ/thân của rừng trên các vùng địa lí khác nhau là : tỷ lệ trung
bình cho vùng nhiệt đới là 0,24 ôn đới 0,26 hàn đới 0,27. Trong các nghiên cứu của
mình, (Brown, 1997) [19] đã khẳng định sinh khối rễ có thể ước lượng bằng cách
nhân sinh khối cây trên mặt đắt với tỷ lệ rễ /thân là 0,26. Khi nghiên cứu về sinh
khối rễ cây trong hệ thống NLKH, (Sudha et al., 2005 [34]; Ketting, 2001[27] ;
Eulis Retnowati, 2003 [23]) đều sử dụng tỷ lệ rễ/thân là 0,25.
1.2.3. Điều tra lượng các bon tích lũy trong thành phần cây bụi, thảm tươi
Có nhiều phương pháp ước tính sinh khối cho cây bụi và cây tầng dưới
trong hệ sinh thái cây. Các phương pháp bao gồm: (1) – lấy mẫu toàn bộ cây; (2)phương pháp kẻ theo đường; (3)- phương pháp mục trắc; (4) – phương pháp lấy
mẫu kép sử dụng tương quan. Trong đó thường được sử dụng là phương pháp lấy
mẫu toàn bộ cây. Cây thân thảo trong dưới tán rừng có thể được đo bằng phương
pháp khai thác đơn giản trên 04 ô tiêu chuẩn nhỏ trên mỗi ô tiêu chuẩn (định vị hoặc
tạm thời) lớn hơn dùng để đo cây. Kích thước các ô này chỉ cần rất nhỏ, 0,5m2 hoặc
nhỏ hơn. Chúng có thể có hình dạng tròn hoặc vuông tùy theo sự lựa chọn của
người điều tra. Toàn bộ vật liệu tươi trong ô này được cắt tới bề mặt đất, gộp lại
theo ô tiêu chuẩn lớn và cân. Mẫu đại diện được lấy ra từ phần gộp này sẽ được sấy



18

khô để đo đếm tỷ lệ sinh khối khô/tươi. Tỷ lệ này sau đó được sử dụng để chuyển
đổi từ sinh khối tươi sang sinh khối khô.
Đối với cây bụi và những bộ phận không phải cây gỗ khác, nên đo đếm
sinh khối bằng phương pháp khai thác toàn bộ. Ô tiêu chuẩn phụ có kích thước phụ
thuộc vào qui mô của thảm tươi được thiết lập, toàn bộ các cây bụi, thảm tươi trên
đó sẽ được khai thác và cân. Một phương pháp thay thế khác là nếu như thảm cây
bụi là rất lớn nên phát triển các phương trình quan hệ cho vùng nghiên cứu dựa trên
các biến số như diện tích tán, chiều cao, hoặc đường kính gốc của thực vật, hoặc
một số biến khác (Phan Minh Sáng et al., 2006) [16].
1.2.4. Các bon trong đất
Điều tra các bon trong đất ngoại thực địa
Trong thực tiễn, chất hữu cơ còn lại sau khi đất được phơi khô và sàng qua
lưới kích thước 2mm được coi là chất hữu cơ trong đất, kể cả thành phần sống
(McKenzie et al., 2000) [29]. Các bon hữu cơ trong đất thường chỉ được tính các
bon hữu cơ tồn tại trong những vật liệu hữu cơ có kích thước nhỏ hơn 2mm (IPCC,
2003) [26].
Theo Polglase, ba vấn đề chính cần phải xem xét khi xây dựng quy trình
điều tra các bon trong đất và biến đổi của nó là độ sâu điều tra, số lượng phẫu diện
trên khu vực nghiên cứu, và thiết kế thí nghiêm (Polglase et al., 2000; dẫn từ Phan
Minh Sáng, 2006 [16]).
Tổng kết từ các nghiên cứu trên thế giới (Hartemink , 2003) [25] đã kết
luận, hầu như không có nghiên cứu nào về động thái biến đổi các bon trong đất đã
được tiến hành điều tra tầng đất sâu hơn 100 cm. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu hiện
nay với mục đích để đánh giá các bon trong đất đã tiến hành thu thập mẫu nghiên
cứu ở độ sâu 100 cm IPCC (1996) khuyến cáo: do các bon trong đất chỉ biến đổi ở
tầng đất mặt nên chỉ cần xác định carbon trong đất đến độ sâu 30cm. (Sudha; P,
2005 [34]; Delaney; M, 2002 [22]) khi nghiên cứu lượng các bon trong đất của hệ



19

thống NLKH đã lấy mẫu phân tích đất ở hai độ sâu: 0-15 cm và 15-30 cm (dẫn theo
Phan Minh Sáng, 2006) [16].
Số lượng mẫu cần thiết để xác định hàm lượng các bon trong đất ở mỗi lập
địa phụ thuộc vào độ biến động của ước lượng giá trị trung bình của nhân tố điều tra
chủ yếu. Trong quy trình hướng dẫn điều tra hấp thụ các bon trong đất, rác hữu cơ,
(McKenzie et al., 2001[29]) đề xuất nên lấy mẫu từ ít nhất 04 điểm trong ô tiêu
chuẩn có thể lấy mẫu từ 04 điểm bằng cách đào phẫu diện hoặc bằng ống kim loại.
Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm
Rất nhiều công trình nghiên cứu hàm lượng trong đất của các hệ thống sử
dụng đất NLKH đã sử dụng phương pháp của Walkley-Black để xác định lượng các
bon trong đất.
1.3. Nhận xét chung
Điểm qua các nghiên cứu trên thế giới và trong nước, đề tài rút ra một số
nhận xét tổng quát như sau:
Các công trình nghiên cứu về sinh khối và lượng các bon tích luỹ trong rừng
đã đạt được những kết quả nhất định. Năm 2005, nghiên cứu để lượng hoá những
giá trị, những lợi ích từ rừng về mặt môi trường (như lượng giá lượng các bon tích
luỹ trong rừng) mới chỉ là bước khởi đầu trên thế giới và là vấn đề hoàn toàn mới ở
Việt Nam. Nhưng hiện nay, vấn đề này đang được quan tâm hơn rất nhiều và được
mở rộng ra các loại hình sử dụng đất khác nhau.
Nghiên cứu lượng các bon tích luỹ trong rừng là một vấn đề phức tạp. Phần
lớn các nghiên cứu đều tập trung xác định sinh khối và lượng các bon tích luỹ của
rừng ở thời điểm nghiên cứu, chưa đưa ra được các dự đoán về tăng trưởng sinh
khối và lượng cố định các bon hàng năm cho các trạng thái rừng.
Các công trình nghiên cứu trên thế giới được tiến hành khá đồng bộ ở nhiều
lĩnh vực từ nghiên cứu cơ bản cho tới các nghiên cứu ứng dụng, trong đó nghiên



20

cứu sinh khối và khả năng hấp thụ các bon của rừng được nhiều tác giả quan tâm
trong những năm gần đây; các phương pháp nghiên cứu cũng khá đa dạng và được
hoàn thiện dần, đặc biệt là đã ứng dụng phương pháp mô hình hóa để biểu diễn các
mối quan hệ giữa sinh khối và lượng các bon tích lũy với các chỉ tiêu điều tra, giúp
cho việc ứng dụng vào thực tiễn nhanh và thuận lợi.
Ở nước ta, nghiên cứu về sinh khối và năng suất rừng mặc dù còn ít nhưng
đã góp phần đáng kể trong việc hình thành cớ sở khoa học và thực tiễn trong nghiên
cứu sản lượng rừng. Nghiên cứu mới chủ yếu tập trung vào rừng trồng một số loài
cây chủ yếu như Keo, Đước, Thông,... sinh khối rừng tự nhiên còn ít được quan
tâm. Trong các nghiên cứu mới chỉ quan tâm tới những bộ phận có ý nghĩa kinh tế
của cây.
Về nghiên cứu khả năng hấp thụ các bon ở nước ta vẫn còn là một vấn đề
mới mẻ, mới bắt đầu tiến hành từ năm 2004 trở lại đây. Nhìn chung, số lượng các
công trình nghiên cứu còn rất ít, nội dung nghiên cứu tập trung vào xác định khả
năng hấp thụ các bon, xác định tiêu chí rừng CDM.
Các kết quả nghiên cứu bước đầu đã cung cấp những thông tin cần thiết về
sinh khối và lượng các bon tích lũy ở một số dạng rừng trồng. Nhưng các nghiên
cứu về khả năng hấp thụ các bon của hệ thống NLKH đã được thế giới nghiên cứu
từ khá lâu, trong khi đó tại Việt Nam, vấn đề này vẫn còn đang được dần hé mở,
đến nay vẫn chưa có tài liệu nào nghiên cứu về NLKH được công bố. Các nghiên
cứu ở Việt Nam mới chỉ tập trung vào rừng tự nhiên, các bon trong các cây cá lẻ
rừng trồng, trong cây bụi thảm tươi.


21

Chương 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần bổ sung cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc đánh giá hiệu quả
các hệ thống NLKH trên khía cạnh tích tụ các bon bằng phương pháp định lượng.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được lượng các bon tích lũy trong phương thức Chè - Quế và mối
quan hệ giữa lượng các bon tích lũy trong từng thành phần.
- Đánh giá được hiệu quả kinh tế tổng hợp (kinh tế và môi trường) của
phương thức NLKH Chè - Quế.
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu phương thức canh tác NLKH Chè – Quế tại
huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, gồm các mô hình cụ thể sau:
- Quế tuổi 5 trồng kết hợp với Chè tuổi 20 tuổi (ký hiệu là Q5).
- Quế tuổi 10 trồng kết hợp với Chè tuổi 20 tuổi (ký hiệu là Q10).
- Quế tuổi 15 trồng kết hợp với Chè tuổi 20 tuổi (ký hiệu là Q15)
- Chè 20 tuổi trồng thuần loài để đối chứng (ký hiệu là Q0).
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Phân tích và đánh giá đặc điểm kỹ thuật canh tác của phương thức NLKH
Chè - Quế tại điểm nghiên cứu
2.3.2. Đánh giá nhanh khả năng tích lũy các bon của phuơng thức Chè - Quế
Xác định sinh khối và lượng các bon tích lũy trong Chè - Quế


22

- Lượng các bon tích lũy trong Quế (Cq).
- Lượng các bon tích lũy trong Chè (Cc).
- Lượng các bon tích lũy trong thảm tươi, thảm mục và vật rơi rụng (Ck).

- Lượng các bon rò rỉ từ phương thức (Cr).
Xác định lượng các bon tích lũy trong đất (Cđ) – độ sâu 0 – 30cm
Tính tổng lượng các bon tích lũy (Ct) và giá trị thương mại cho từng công thức
2.3.3. Xác định và phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố điều tra với lượng các
bon tích lũy.
2.3.4. Dự tính hiệu quả kinh tế tổng hợp của phương thức Chè - Quế (giá trị kinh tế
thức của Chè, Quế + giá trị thương mại CO2).
2.3.5. Đề xuất giải pháp quản lý và kỹ thuật nhằm nâng cao giá trị tích lũy các bon
của phương thức.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Điều tra sơ thám và chọn địa điểm
- Phỏng vấn cán bộ huyện (phòng nông nghiệp, hạt kiểm lâm), cán bộ xã và
cán bộ phụ trách khuyến nông khuyến lâm tại điểm nghiên cứu, từ đó xác định được
khu vực cần khảo sát.
- Sử dụng các tài liệu thứ cấp như các báo cáo hàng năm về phương thức
canh tác mà đề tài quan tâm, kết hợp với bản đồ có sẵn của địa phương, để xác định
được khu vực nghiên cứu.
- Điều tra sơ thám và lựa chọn địa điểm nghiên cứu.
- Địa điểm và vị trí lập ô nghiên cứu được lựa chọn theo các tiêu chí sau:
o Các xã, thôn/bản có phương thức canh tác Chè - Quế.
o Có 3 cấp tuổi của Quế, và một cấp tuổi của Chè điển hình.


23

o Có phương thức canh tác Chè độc canh để đối chứng.
o Điển hình về kĩ thuật canh tác, loại đất đặc trưng cho toàn vùng…
o Dự kiến chọn 3 xã, mỗi xã hai thôn để tiến hành nghiên cứu.
2.4.2. Thu thập và phân tích số liệu thứ cấp
- Kế thừa và áp dụng các phương pháp, tham khảo các kết quả nghiên cứu về

xác định sinh khối và khả năng tích lũy các bon của các phương thức NLKH trên
thế giới.
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và các tài liệu có liên quan
của huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.
2.4.3. Phương pháp điều tra PRA
Trong đề tài sử dụng một số công cụ PRA (đánh giá nông thôn có sự tham
gia) gồm:
- Khảo sát điểm và đi lát cắt: Phân tích phương thức và đánh giá thực trạng.
- Phỏng vấn bán định hướng và tiếp xúc lãnh đạo các ban ngành có liên quan
tại địa điểm nghiên cứu nhằm thu thập các thông tin cơ bản, tổng quát về các vấn đề
nghiên cứu.
- Phỏng vấn trực tiếp các hộ có phương thức quan tâm nhằm thu thập các
thông tin về kỹ thuật trồng, chăm sóc, các bố trí thành phần cây trồng. Thu nhập, chi
phí và lợi nhuận cho 1 ha phương thức Chè - Quế.
- Họp dân và thảo luận nhóm về các thông tin thu thập được (kiểm tra chéo
thông tin). Thành phần tham gia là các cán bộ và các hộ gia đình có liên quan.
2.4.4. Phương pháp lập và điều tra trong ÔTC
Lập ÔTC
- Đề tài tiến hành đo đếm thu thập số liệu trên 4 mô hình Q0, Q5, Q10, Q15.


24

- Mỗi mô hình 5 OTC. Tổng số OTC phải lập là 5OTC x 4 TC = 20 OTC,
diện tích OTC: 1000m2 (25x40m).
- Mỗi OTC lập 5 ô thứ cấp (4 ô 4 góc, 1 ô ở giữa). Diện tích mỗi ô là 80m2
(8x10). Tổng số ô thứ cấp phải lập là 100 ô thứ cấp.
- Mỗi ô thứ cấp lập 5 ô dạng bản (4 ô 4 góc, 1 ô ở giữa) diện tích là 1m2 để
điều tra thảm tươi, thảm mục, vật rơi rụng và mẫu đất. Tổng số ô dạng bản phải lập
là 500 ODB.

Điều tra Quế
- Đo chu vi thân cây tại vị trí 1.3 (C1.3) bằng thước dây từ đó tính D1.3 trên
toàn bộ diện tích ÔTC (do áp dụng công thức 2.1 của Ketterings et al., 2001[27]
nên trong nghiên cứu này chỉ đo D1.3).
Mẫu biểu 01: Biểu điều tra thu thập số liệu Quế
Vị trí:………………………….

Tên chủ hộ……………………

Ngày thu mẫu…………………

Địa chỉ………………………..

Người thu mẫu………………..

Kí hiệu………………………..

TT

Chu vi (C13) cm

D1.3 (cm)

Ghi chú

Điều tra và thu thập mẫu cây Chè và thảm tươi
- Thu thập mẫu sinh khối cây Chè, thảm tươi.
- Trong các ODB, tiến hành cắt và thu thập toàn bộ cây bụi, thảm tươi rồi
chia thành các phần riêng biệt: Cây bụi (các cây thân thảo) được chia làm hai phần
là thân + cành và lá tươi, thảm tươi.

- Các phần trên được cân tươi ngay tại chỗ và ghi chép các thông số vào mẫu
biểu để xác định sinh khối tươi của cây bụi, thảm tươi.


×