Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Nghiên cứu khả năng tích lũy các bon của rừng trồng mỡ (manglietia conifera) tại xã chu hương, huyện ba bể, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 37 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN VĂN HÙNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÍCH LŨY CÁC BON
CỦA RỪNG TRỒNG MỠ (Manglietia conifera) TẠI
XÃ CHU HƯƠNG, HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : QLTNR
Khoa : Lâm nghiệp
Khoá học : 2011 - 2015
Thái Nguyên - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN VĂN HÙNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÍCH LŨY CÁC BON
CỦA RỪNG TRỒNG MỠ (Manglietia conifera) TẠI
XÃ CHU HƯƠNG, HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : QLTNR
Khoa : Lâm nghiệp
Khoá học : 2011 - 2015
Giảng viên hướng dẫn:
1. ThS. Nguyễn Tuấn Hùng
2. TS. Đỗ Hoàng Chung
Thái Nguyên - 2014
MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU 5


2
1.1. Tính cấp thiết 5
1.2. Mục tiêu 6
1.2.1. Mục tiêu tổng quát 6
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 6
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 7
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 7
PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8
2.1. Trên thế giới 8
2.2. Một số hoạt động có liên quan đến Cơ chế phát triển sạch - CDM 12
2.3. Kết luận chung 15
2.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu 15
2.4.1.5. Hiện trạng tài nguyên rừng 16
PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
3.1. Nội dung 18
3.2. Phương pháp nghiên cứu 18
3.2.1. Cách tiếp cận 18
3.2.2. Phương pháp kế thừa 18
3.2.3. Phương pháp phỏng vấn (PRA) 19
3.4.2.2. Hình dạng và kích thước ô mẫu 19
Ô tiêu chuẩn đo đếm cần đáp ứng các tiêu chí sau: i) đại diện cho loại rừng
nghiên cứu; ii) Đại diện cho điều kiện địa hình; và iii) bao gồm nhiều cây 20
3.2.4.3. Các bể chứa các bon phần trên mặt đất cần đo đếm 20
3.2.4.4. Đo đếm tại ô tiêu chuẩn 20
(2) Điều tra trong ô tiêu chuẩn 21
(3) Đo đếm sinh khối tươi cây cá lẻ 21
(4) Lấy mẫu phân tích sinh khối khô và khối lượng thể tích gỗ 22
(5) Đo đếm các phần sinh khối chết và sinh khối sống khác trên mặt đất 23
(6) Phương pháp lấy mẫu phân tích các bon đất 24

3.2.5. Tính toán xử lý số liệu 25
PHẦN 4. KẾT QUẢ DỰ KIẾN VÀ KẾ HOẠCH THỰC HIỆN 28
Phục lục 01. Mẫu phiếu điều tra ô tiêu chuẩn cây gỗ 32
Phụ lục 02. Mẫu phiếu điều tra sinh khối cây gỗ cá lẻ 33
Phụ lục 03. Mẫu phiếu điều tra đo đếm sinh khối thảm tươi cây bụi 34
Phụ lục 04. Mẫu phiếu điều tra đo đếm sinh khối gỗ cây chết 35
Phụ lục 05. Mẫu phiếu điều tra đo đếm sinh khối thảm mục 36
Phụ lục 6. Mẫu biểu nhập số liệu phân tích mẫu đất 37
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
4
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết
Thế kỷ XX, nhân loại chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ
thuật và công nghệ. Từ đó tạo cho con người có nhiều điều kiện để giải quyết các vấn
đề về cuộc sống, quan hệ xã hội, trí tuệ, tìm hiểu khoa khọc tự nhiên Theo đó, cuộc
sống của con người có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, chính sự phát triển quá nóng
như vậy, Chính phủ các nước hầu như chưa quan tâm đến sự phát triển bền vững, hài
hoà giữa kinh tế với bảo đảm môi trường trên trái đất.
Kết quả của việc phát triển kinh tế mà chưa quan tâm đến bảo vệ môi trường là
sự gia tăng của nồng độ CO
2
trong khí quyển. Các nhà nghiên cứu lo ngại rằng sự gia
tăng các khí gây hiệu ứng nhà kính, đặc biệt là khí CO
2
, chính là nhân tố gây nên
những biến đổi bất ngờ và không lường trước của khí hậu. Trong khi đó rừng có vai
trò điều tiết khí hậu, đặc biệt là khả năng hấp thụ khí thải CO

2
. Vì vậy, cần thiết phải
phát triển và tạo ra những diện tích rừng đủ lớn để hấp thụ CO
2,
góp phần giảm hiệu
ứng nhà kính trên tầng khí quyển bề mặt trái đất. Ngày nay, với nhận thức và trách
nhiệm đối với sự tồn vong của nhân loại, Chính phủ nhiều nước đã có sự quan tâm,
nghiên cứu và đi vào giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường sinh thái, phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên. Từ đó, xây dựng
các công ước quốc tế, nghị định thư để thống nhất các biện pháp bảo vệ môi trường,
điều hoà khí hậu ở các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam chúng ta, trong những năm cuối của thế kỷ XX, với hậu quả của
cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ, sức ép về điều kiện kinh tế, sự gia tăng dân
số, kiến thức về môi trường, năng lực quản lý diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp,
nguồn tài nguyên rừng hầu như bị triệt phá hoàn toàn, giá trị kinh tế, vai trò điều hoà
khí hậu, điều hoà sinh thái của rừng suy giảm nghiêm trọng, thậm chí mất cân bằng
sinh thái, giảm khả năng điều hoà nguồn nước bề mặt và nước ngầm, đã ảnh hưởng
rất lớn tới khí hậu, tới đời sống người dân Trong gần 20 năm trở lại đây, Đảng, Nhà
nước đã có những chủ trương lớn nhằm phục hồi, phát triển nguồn tài nguyên rừng
thông qua các chính sách liên quan đến rừng và các dự án, chương trình trồng rừng,
khoanh nuôi, bảo vệ rừng cũng như những chính sách đối với người dân có cuộc sống
gắn bó với rừng và nghề rừng như: Dự án 327, PAM, 661; các dự án trồng rừng kinh
5
tế, các chương trình trồng rừng ở các địa phương; các hoạt động liên quan đến bảo
tồn và phát triển rừng của các tổ chức phi chính phủ Các hoạt động trên đã góp
phần quan trọng vào việc tăng diện tích đất có rừng ở nước ta, cũng như từng bước
đảm bảo cuộc sống người dân có cuộc sống gắn bó với rừng.
Chu Hương là xã nằm ở phía Nam huyện Ba Bể. Tài nguyên rừng của Chu
Hương đa dạng và phong phú, có nhiều chủng loại cây gỗ với tổng diện tích đất lâm
nghiệp có rừng là 2.657,06 ha chiếm 74,19% tổng diện tích đất tự nhiên. Phần lớn

diện tích rừng hiện nay chủ yếu đã giao cho các hộ gia đình, cá nhân quản lý. Diện
tích rừng sản xuất là 2355,23 ha trong đó chủ yếu là rừng trồng Mỡ, diện tích rừng
trồng này đã đóng góp lớn trong tỷ lệ che phủ rừng của địa phương, đóng góp cho
nguồn sinh kế của người dân.
Nhằm đi sâu nghiên cứu, đánh giá giá trị môi trường và khả năng tích luỹ các
bon của rừng trồng Mỡ trên địa bàn xã Chu Hương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn hiện
nay, dự báo khả năng hấp thụ CO
2
của rừng Mỡ và các phương thức quản lý rừng để
làm cơ sở khuyến khích, xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường, đây chính là
những vấn đề còn thiếu nhiều nghiên cứu ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, có những đề
xuất, khuyến cáo người dân, cấp uỷ, chính quyền địa phương để có những định
hướng, lựa chọn loại cây để đưa vào trồng rừng ở địa phương nhằm đáp ứng tốt nhất
hiệu quả kinh tế và hiệu quả bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Từ những điều
kiện thực tiễn và nhu cầu khoa học trên đây nên tôi chọn đề tài nghiên cứu của mình
là: “Nghiên cứu khả năng tích lũy các bon của rừng trồng Mỡ (Manglietia
conifera) tại xã Chu Hương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn ”.
1.2. Mục tiêu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Xác định được khả năng tích lũy các bon của rừng trồng Mỡ tại xã Chu Hương,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được một số đặc điểm cấu trúc của rừng trồng Mỡ tại xã Chu Hương,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
- Đánh giá được lượng sinh khối của rừng trồng Mỡ tại xã Chu Hương, huyện
Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
6
- Đánh giá được lượng các bon tích lũy trong rừng trồng Mỡ tại xã Chu Hương,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
- Lượng hóa được năng lực hấp thu CO

2
của rừng trồng Mỡ tại xã Chu Hương,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
- Bước đầu lượng hóa được giá trị môi trường của rừng trồng Mỡ tại khu vực
nghiên cứu.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lâm phần rừng trông mỡ tại xã Chu Hương,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung xác định lượng các bon tích lũy của
rừng trồng Mỡ ở các cấp tuổi 3, 5, 7 và lớn hơn 7 tuổi tại xã Chu Hương, huyện Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn.
7
PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Trên thế giới
2.1.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng và biến động khí CO
2
trong khí quyển
đối với sự thay đổi khí hậu
Các lý thuyết về sự hâm nóng toàn cầu phát sinh từ cuối thế kỷ XIX do những
nhà khoa học Thụy Điển trong khi quan sát sự thay đổi nhiệt độ của không khí bị ô
nhiễm để rồi từ đó kết luận rằng trái đất nóng dần do con người phóng thích các khí ô
nhiễm vào không khí. Lý thuyết này là nguyên nhân khởi đầu cho bao cuộc thảo luận
sau đó giữa các nhà khoa học. Họ đã tiên đoán là từ năm 1896, thán khí (CO
2
) thải
vào không khí do việc đốt than đá để tạo ra năng lượng là nguyên nhân chính gây ra
“hiệu ứng nhà kính”.
Mãi đến năm 1949, sau khi khảo sát hiện tượng tăng nhiệt độ trong không khí

ở Âu Châu và Bắc Mỹ từ năm 1850 đến 1940 so với các nơi khác trên thế giới, các
nhà nghiên cứu Anh đã đi đến kết luận là sự phát triển ở các quốc gia kỹ nghệ đã làm
tăng lượng ô nhiễm thán khí trong không khí, do đó làm cho mặt đất ở hai vùng này
nóng mau hơn so với các vùng chưa phát triển.
Đến năm 1958, các cuộc nghiên cứu ở phòng thí nghiệm Mauna Loa
Observatory (Hawai) đặt ở độ cao 3.345m đã chứng minh được khí CO
2
là nguyên
nhân chính yếu của sự gia tăng nhiệt độ.
Đến năm 1976, các chất khí methane (CH
4
), chlorofluoroCác bon (CFC),
nitrogen dioxide (NO
2
) cũng được xác nhận là nguyên nhân của hiệu ứng nhà kính.
Các cuộc nghiên cứu do hai khoa học gia Karl và Trenberth trên tạp chí Sciences số
tháng 12/2003 nói lên tính chất khẩn thiết của vấn đề này. Theo ước tính của hai ông
thì từ năm 1990 đến 2100, nhiệt độ trên mặt địa cầu sẽ tăng từ 3,1 đến 8,9
o
F (1,6 đến
4,2
o
C); sự tăng nhiệt độ này sẽ làm nóng chảy hai tảng băng ở Greenland và Antartica
và có thể làm ngập lụt các bờ biển (và người ta cũng ước tính được rằng CO
2
trong
không khí đã tăng 30% từ năm 1750 đến nay). Điều này sẽ làm thu hẹp diện tích đất
sống của con người trên quả địa cầu, để rồi từ đó sinh ra nhiều hệ lụy như sau [43]:
– Trái đất sẽ chịu đựng những luồng khí nóng bất thường;
– Hạn hán sẽ thường xuyên hơn và xảy ra ở nhiều nơi;

– Mưa to, bão tố xảy ra bất thường cũng như không thể tiên liệu trước như hiện nay;
8
– Các hệ thực vật, sinh vật trên trái đất sẽ bị thay đổi;
– Sau cùng mực nước biển sẽ dâng cao ở nhiều nơi, ước tính khoảng 0,75 –1,5m vào
năm 2100.
Vai trò gây nên hiệu ứng nhà kính của các chất khí được xếp thứ tự theo tỉ lệ
được trình bày trong bảng sau:
Bảng 1: Tỉ lệ đóng góp gây hiệu ứng nhà kính của các loại khí trong khí quyển
Các loại chất khí Tỷ lệ (%) gây hiệu ứng
NO
2
5
O
3
8
CH
4
12-20
CFC 15-25
CO
2
50-60
(Nguồn: Md. Mahmudur Rahman, 2004)
Tóm lại, “Hiệu ứng nhà kính” có thể được giải thích một cách khoa học và
hình tượng hơn như sau: Các khí kể trên (cũng được gọi là “khí nhà kính” –KNK) di
chuyển trong bầu khí quyển, “nhốt” (trap) khí nóng, các bức xạ nhiệt thải hồi từ mặt
địa cầu tại nơi đây, do đó khí nóng này không thể thoát ra ngoài không gian được.
Ngược lại, các khí trên cũng đã “hành xử” như một nhà kính để lọc các tia sáng mặt
trời trước khi vào trái đất.
2.1.2. Nghiên cứu về sự tích lũy Các bon trong các hệ sinh thái rừng

Theo số liệu của Tổ chức Lương Nông thế giới (FAO): tổng diện tích rừng
trên thế giới hiện nay khoảng 4 tỉ ha, chiếm gần 30% diện tích đất toàn cầu. Hàng
năm trên toàn thế giới bị mất đi khoảng 13 triệu ha rừng (trong đó có khoảng 0,4% là
rừng nguyên sinh) và con số này vẫn chưa có dấu hiệu giảm, đặc biệt là trong những
năm gần đây những vụ cháy rừng có qui mô lớn đã xảy ra ngày càng nhiều hơn trước
(như ở Indonesia, Mỹ, Nga vừa qua…). Từ đó tổ chức này đã cảnh báo: nạn phá rừng
lấy đất sản xuất, làm nhà ở, nhất là nạn khai thác rừng lấy gỗ một cách bừa bãi và
hiểm họa cháy rừng hiện làm cho trái đất ngày càng bị sa mạc hóa, nhiều động thực
vật quý hiếm đã và đang bị diệt chủng. Các chuyên gia khí tượng trên thế giới cũng
cho biết, nhiệt độ trung bình trên thế giới từ đầu năm 2007 đã cao hơn mức nhiệt độ
trung bình của thế kỷ XX là khoảng 0,72
0
C, gây ra hạn hán kéo dài, mưa lớn, bão
tuyết, lũ lụt và sụt lở đất … diễn ra trong những năm trở lại đây thường xuyên hơn.
9
Phá rừng cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho lượng CO
2
tăng lên -
Đây là một trong những nguyên nhân làm biến đổi khí hậu trái đất [39].
Ngày nay, theo quan sát của các nhà khoa học đã cho thấy trong hệ sinh thái
rừng có 6 loại bể chứa Các bon là: sinh khối trên mặt đất bao gồm: cây trồng và các
thảm thực vật khác; sinh khối dưới mặt đất: thảm mục, thảm tươi, gỗ chết, Các bon
hữu cơ trong đất, trong rễ cây. Trong khi đó các thảm thực vật đã thu giữ một trữ
lượng CO
2
lớn hơn một nửa khối lượng chất khí đó sinh ra từ sự đốt cháy các nhiên
liệu hoá thạch trên thế giới. Và từ nguyên liệu Các bon này hằng năm thảm thực vật
trên trái đất đã tạo ra được 150 tỷ tấn vật chất khô thực vật. Khám phá này càng
khẳng định thêm vai trò hệ sinh thái rừng trong việc làm giảm lượng CO
2

trong khí
quyển [40].
Theo một nghiên cứu mới của các nhà khoa học Úc về “Các bon xanh” và vai
trò của nó đối với biến đổi khí hậu, rừng nguyên sinh có khả năng lưu giữ CO
2
nhiều
hơn gấp 3 lần so với ước tính trước kia và nhiều hơn 60% so với rừng trồng. Các nhà
khoa học thuộc trường Đại học Quốc gia Úc cho biết, cho đến nay vai trò của các khu
rừng nguyên sinh và sinh khối Các bon xanh của các khu rừng này chưa được đánh
giá đúng mức trong cuộc chiến chống lại sự nóng lên của trái đất. Các nhà khoa học
cho rằng Uỷ ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) và Nghị định thư Kyoto
đã không nhận ra sự khác biệt về khả năng hấp thụ Các bon giữa rừng trồng và rừng
nguyên sinh. Rừng nguyên sinh có thể hấp thụ lượng Các bon nhiều gấp 3 lần so với
ước tính hiện thời. Hiện nay, khả năng hấp thụ Các bon của rừng được tính toán dựa
theo rừng trồng. Chính sự khác biệt trong việc định nghĩa một khu rừng cũng dẫn đến
việc đánh giá không đúng mức sinh khối Các bon trong các khu rừng lâu năm…
Những khu rừng chưa bị khai thác ở Úc có thể hấp thụ khoảng 640 tấn Các bon trên 1
ha, thế nhưng theo ước tính của IPCC thì con số này chỉ khoảng 217 tấn Các bon trên
1 ha. Còn theo tính toán của các nhà khoa học, nếu những khu rừng bạch đàn ở phía
Đông Nam Australia không bị xâm phạm thì với diện tích 14,5 triệu ha rừng, sẽ có
9,3 tỉ tấn Các bon được lưu trữ trong đó. Nhưng theo cách tính toán của IPCC thì
lượng Các bon trong những khu rừng bạch đàn này chỉ đạt khoảng 1/3 con số các nhà
khoa học đã đưa ra và chỉ bằng 27% sinh khối Các bon của các khu rừng này. Rừng
tự nhiên không chỉ hấp thụ nhiều Các bon hơn rừng trồng mà chúng còn lưu giữ được
Các bon lâu hơn bởi vì rừng tự nhiên được bảo vệ trong khi rừng trồng bị khai thác
một cách luân phiên.
10
Brendan Mackey, thành viên của nhóm tác giả nhận xét việc bảo vệ rừng tự
nhiên sẽ là “Một mũi tên trúng hai đích”, vừa giữ được một bể hấp thụ Các bon lớn,
vừa ngăn chặn việc giải phóng Các bon trong rừng ra ngoài.

Ước tính lượng Các bon lưu giữ trong sinh khối và đất khoảng gấp 3 lần lượng
Các bon có trong khí quyển. Và khoảng 35% khí nhà kính trong khí quyển là hậu quả
của nạn phá rừng trong quá khứ và 18% lượng phát thải khí này hàng năm là do nạn
phá rừng liên tục. Do đó, “Duy trì lượng Các bon lưu giữ trong các khu rừng tự nhiên
đồng nghĩa với việc ngăn chặn lượng Các bon gia tăng do đốt nhiên liệu hoá thạch”.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, những khu rừng bị chặt phá giảm hơn 40%
lượng Các bon hấp thụ so với những khu rừng không bị chặt phá. Phần lớn lượng Các
bon sinh khối trong các khu rừng tự nhiên được giữ trong sinh khối gỗ của những cây
cổ thụ lớn. Việc phá rừng vì lợi ích thương mại làm thay đổi cơ cấu niên đại của
rừng, mức tuổi trung bình của cây cối trong rừng bị giảm đi rất nhiều và khả năng hấp
thụ Các bon cũng giảm. Vì thế, sinh khối Các bon trong các khu rừng chuyên dụng để
lấy gỗ cũng như trong các khu đồn điền độc canh sẽ luôn luôn thấp hơn đáng kể so
với sinh khối Các bon ở các khu rừng tự nhiên không bị xâm phạm.
Theo Schimel và cộng sự (2001) [43], trong chu trình Các bon toàn cầu, lượng
Các bon lưu trữ trong thực vật thân gỗ và trong lòng đất khoảng 2,5Tt; trong khi đó
khí quyển chỉ chứa 0,8Tt và hầu hết lượng Các bon trên trái đất được tích lũy trong
sinh khối cây rừng.
2.1.3. Những nghiên cứu về phương pháp xác định Các bon trong sinh khối
Khi nghiên cứu lượng Các bon lưu trữ trong rừng trồng nguyên liệu giấy,
Romain Piard (2005) đã tính lượng Các bon lưu trữ trên tổng sinh khối tươi trên mặt
đất, thông qua lượng sinh khối khô (không còn độ ẩm) bằng cách lấy tổng sinh khối
tươi nhân với hệ số 0,49 sau đó nhân sinh khối khô với hệ số 0,5 để xác định lượng
Các bon lưu trữ trong cây.
Những năm gần đây, tại một số công trình nghiên cứu tương tự người ta đã
xác định rằng: Các bon được ước lượng là một hằng số tương đối, tỉ lệ với sinh khối
trong từng đối tượng như sau:
– Sinh khối sống, đứng và sinh khối gỗ nằm, chết: Sinh khối * 0,47 = C.
– Xác bã, thảm mục: Sinh khối * 0,37 = C.
– Trong đất: Cần lấy mẫu phân tích trong phòng thí nghiệm. [18]
11

Ngoài ra Các bon được xác định thông qua việc tính toán sự thu nhận và điều
hòa CO
2
và O
2
trong khí quyển của thực vật bằng cách phân tích hàm lượng hóa học
của Các bon, hydro, oxy, nitơ và tro trong 01 tấn chất khô.
2.2. Một số hoạt động có liên quan đến Cơ chế phát triển sạch - CDM
Cơ chế phát triển sạch (CDM) là một phương thức hợp tác quốc tế mới trong
lĩnh vực môi trường giữa các quốc gia đang phát triển và các quốc gia đã công nghiệp
hoá. Đây là hình thức hợp tác được xây dựng theo Nghị định thư Kyoto nhằm hỗ trợ
các nước đang phát triển thực hiện phát triển bền vững thông qua sự đầu tư vào lĩnh
vực môi trường của chính phủ các nước công nghiệp hoá và các công ty, doanh
nghiệp của các nước này. Trong rất nhiều hội nghị, diễn đàn thế giới và khu vực diễn
ra mới đây đều cho thấy: Biến đổi khí hậu mà biểu hiện chủ yếu là hiện tượng nóng
lên toàn cầu và nước biển dâng đang là mối quan tâm chung của toàn cầu, nó đã và
đang ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống vật chất và môi trường sống của chúng ta. Mặc
dù các nước tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc (LHQ) về biến đổi khí
hậu, nghị định thư Kyoto cũng rất nỗ lực trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính
ra khí quyển nhằm đạt được mục tiêu chung trong việc bảo vệ hệ thống khí hậu trái
đất. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn gặp nhiều khó khăn và là thách thức lớn nhất
đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên cộng đồng quốc tế vẫn đang hợp tác,
tìm “tiếng nói” chung cùng nhau giải quyết vấn đề này, trên cơ sở pháp lý là Công
ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto.
Trong 3 cơ chế của Nghị định thư Kyoto, Cơ chế phát triển sạch (CDM) có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với các nước đang phát triển. Cơ chế này giúp các nước
đang phát triển, triển khai các công nghệ thân thiện môi trường bằng các nguồn vốn
đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp các nước phát triển. CDM cho phép các quốc gia
với những mục tiêu giảm phát thải bắt buộc được phát triển dự án tại các quốc gia
đang phát triển. Đồng thời, cơ chế phát triển sạch CDM cũng nhằm mục tiêu hướng

tới phát triển bền vững bằng các cam kết cụ thể về hạn chế và giảm lượng khí nhà
kính phát thải định lượng của các nước trên phạm vi toàn cầu.
Thời gian qua, các dự án CDM đã đem lại lợi ích rõ rệt về môi trường và kinh
tế cho cả hai phía - phía các nước công nghiệp hoá (tức là các nhà đầu tư dự án
CDM) và phía các nước đang phát triển (hay còn gọi là các nước tiếp nhận dự án
CDM). Về mặt kinh tế, nguồn tài trợ từ các dự án CDM sẽ giúp các nước đang phát
triển đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường và phát triển bền vững, chẳng hạn
12
như giảm ô nhiễm không khí và nước, cải thiện sử dụng đất, nâng cao phúc lợi xã hội,
xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm hay giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu hoá
thạch… Ở mức độ toàn cầu, thông qua các dự án giảm phát thải, CDM có thể khuyến
khích đầu tư quốc tế, thúc đẩy cung cấp nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng kinh tế ở
nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới.
Do đặc điểm có bờ biển dài thấp và dễ bị ảnh hưởng của bão, lốc, lượng mưa
cao và thất thường, nước ta được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tác động
và chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu trên thế giới. Theo một nghiên cứu
thì đến năm 2050 mực nước biển ước tính sẽ dâng thêm 33cm và đến năm 2100 sẽ là
1m. Nếu mực nước biển dâng lên 1m thì 7% đất nông nghiệp và 11% dân số của Việt
Nam sẽ bị ảnh hưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sẽ giảm đi khoảng 10% và
Liên Hợp Quốc cũng đã cảnh báo: nếu mực nước biển tăng thêm 1m thì Việt Nam sẽ
đối mặt với mức thiệt hại lên tới 17 tỉ USD/năm; 1/5 dân số mất nhà cửa; 12,3% diện
tích đất trồng trọt biến mất; 40.000km
2
diện tích đồng bằng, 17km
2
bờ biển ở khu vực
các tỉnh lưu vực sông Mêkông sẽ chịu tác động của lũ ở mức độ không thể dự đoán.
[18, 12]
Là một nước đang phát triển và cũng không thuộc diện phải cắt giảm lượng
phát thải khí nhà kính, song từ những tính toán và dự báo trên, chúng ta đã nhanh

chóng tham gia các diễn đàn quốc tế về các vấn đề liên quan như kí Công ước khung
(1992), Nghị định thư Kyoto (1997), các dự án CDM; thành lập các cơ quan đầu mối
quốc gia (tháng 3 năm 2003, theo yêu cầu của Nghị định thư Kyoto và Thoả thuận bổ
sung Marrakech, Việt Nam đã thành lập Cơ quan quốc gia về CDM thuộc Văn phòng
Ozone và biến đổi khí hậu, trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì cùng 09
Bộ, ngành liên quan) … tức là Việt Nam đã và đang chuẩn bị đầy đủ các điều kiện
theo qui định của thế giới trong việc xây dựng và thực hiện các dự án tiềm năng về
CDM thuộc các lĩnh vực: Bảo tồn và tiết kiệm năng lượng; Chuyển đổi sử dụng nhiên
liệu hóa thạch; Thu hồi và sử dụng CH
4
từ rác thải và khai thác mỏ quặng.
Tháng 04/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 47/2007/QĐ-TTg về
việc phê duyệt Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước
khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu giai đoạn 2007 – 2010, trong đó đề cao
mục tiêu huy động mọi nguồn lực thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ môi trường và đóng góp vào việc tổ chức
thực hiện UNFCCC, Nghị định thư Kyoto, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước
13
vào các dự án CDM, khuyến khích cải tiến công nghệ, tiếp nhận, ứng dụng công nghệ
cao, công nghệ sạch, kỹ thuật hiện đại…
Hiện nay, Việt Nam đã phê duyệt 105 dự án CDM và 15 dự án CDM được
quốc tế công nhận. Các dự án này đã đem lại những hiệu quả rõ rệt. Kết quả thu được
từ các dự án CDM ở nước ta trong thời gian qua là hết sức thiết thực. Điển hình là Dự
án tăng hiệu quả sử dụng năng lượng trong lĩnh vực nồi hơi công nghiệp và Dự án thu
gom khí đồng hành mỏ Rạng Đông của nhà thầu JVPC (Nhật). Dự án trong lĩnh vực
nồi hơi công nghiệp có mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng của nồi hơi công nghiệp,
nâng cao hiệu suất nồi hơi với chi phí đầu tư thấp, nhờ đó giảm phát thải khí CO
2
trong lĩnh vực công nghiệp. Kết quả cụ thể thu được từ Dự án này là giảm được
khoảng 150 nghìn tấn CO

2
mỗi năm, nhờ tăng được hiệu suất trung bình của nồi hơi
công nghiệp từ 45% lên 60%.
Bên cạnh các hoạt động đó, trong những năm gần đây Việt Nam đã có những
nỗ lực thực hiện một số nghiên cứu về vấn đề biến đổi khí hậu và CDM, qua đó đã
thu được một số dẫn liệu quan trọng như sau:
– Các nguồn KNK chính ở Việt Nam là: năng lượng, nông nghiệp, thay đổi sử dụng
đất và lâm nghiệp (trong đó thay đổi sử dụng đất là 50,5% và lâm nghiệp là 18,7%
tổng phát thải quốc gia). Theo kết quả kiểm kê KNK quốc gia năm 1994 ở Việt Nam,
tổng phát thải KNK là 103,8 triệu tấn CO
2
, bình quân khoảng 1,4 tấn/người/năm.
– Các kết quả nghiên cứu chiến lược quốc gia về CDM, trong lĩnh vực thay đổi sử
dụng đất và lâm nghiệp, thì tiềm năng hấp thụ KNK của rừng vào khoảng 52,2 triệu
tấn CO
2
với chi phí giảm thấp dao động từ 0,13 USD/tấn CO
2
– 2,4 USD/tấn CO
2
,
trong khi chi phí giảm thấp CO
2
trong lĩnh vức năng lượng giao động từ 22,3
USD/tấn – 154,22 USD/tấn CO
2
.
Do thị trường mua bán giảm phát thải KNK còn quá mới mẻ, các doanh
nghiệp còn thiếu thông tin về thị trường này, do đó mặc dù tiềm năng thị trườngViệt
Nam là rất lớn nhưng còn quá ít các doanh nghiệp tham gia. Đã đến lúc nhà nước

phải phổ biến rộng rãi hơn, cung cấp nhiều thông tin hơn cho các nhà doanh nghiệp
để họ có thể cân nhắc khi tham gia thị trường.
Đến nay có thể nói rằng hành trình của Việt Nam trên con đường tuân thủ
công ước của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu, nghị định thư Kyoto nói chung và
Cơ chế phát triển sạch nói riêng mới chỉ bắt đầu. Nhưng với những thành công bước
đầu, với những cơ chế, chính sách đã và đang xây dựng và những nguồn lực sẵn có sẽ
14
giúp Việt Nam thành công hơn nữa trong các dự án CDM, vững bước hơn trên con
đường hướng tới một quốc gia tăng trưởng về kinh tế, phát triển về xã hội và bền
vững về môi trường.
2.3. Kết luận chung
Trên đây là một vài nét cơ bản về các công trình nghiên cứu về tích lũy các bon, đa
dạng sinh học thực vật trong và ngoài nước. Thông qua các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học ta có thể nhận thấy lĩnh vực nghiên cứu trữ lượng các bon, động thái hấp thụ
các bon của rừng còn rất mới và rất cần sự quan tâm của các nhà khoa học.
Việc định lượng các bon mà rừng hấp thụ là một vấn đề phức tạp, liên quan
đến nhiều vấn đề nội tại của thực vật, vì vậy phần lớn các nghiên cứu mới chỉ tập
trung và xác định lượng các bon tích lũy tại thời điểm nghiên cứu.
Thị trường về mua bán các bon đã bắt đầu sôi động, bao gồm cả vấn đề cơ chế
giảm phát thải và khả năng hấp thụ CO
2
của rừng.
Việc nghiên cứu trữ lượng các bon hấp thụ của rừng là bước ngoặt quan trọng
trong việc xác định cơ sở để thực hiện Nghị định thư Kyoto, đồng thời còn góp phần
vào bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học, giảm thiểu phát thải khí nhà kính
thông qua hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng. Đây cũng là một cơ hội để khẳng
định chức năng môi trường của rừng cũng như giá trị đích thực của rừng, cơ hội
thương mại các bon, một tiềm năng rất lớn trong lĩnh vực kinh doanh lâm nghiệp mà
trước đây hầu như chưa hề đề cập đến.
2.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu

2.4.1. Điều kiện tự nhiên
2.4.1.1. Vị trí địa lý
Chu Hương là xã nằm ở phía Nam huyện Ba Bể, cách trung tâm huyện Ba Bể
khoảng 20 km; có trục đường 258 đi qua địa phận xã, đường liên xã Chu Hương – Hà
Hiệu dài 11km được nâng cấp và mở rộng, Có chợ Pù Mắt là trung tâm giao lưu hàng
hóa, thương mại và dịch vụ cụm Nam của huyện. Xã có tổng diện tích đất tự nhiên là
3478,96 ; Trong đó diện tích đất nông nghiệp: 3303,97 ha; nghành nghề chủ yếu là
phát triển nông - lâm nghiệp – chăn nuôi và các dịch vụ khác. Có ranh giới hành
chính tiếp giáp với các xã như sau:
- Phía Bắc giáp xã Hà Hiệu huyện Ba Bể
- Phía Nam giáp xã Mỹ Phương huyện Ba Bể
15
- Phía Đông giáp huyện Ngân Sơn
- Phía Tây giáp xã Đồng Phúc và xã Yến Dương huyện Ba Bể
2.4.1.2. Địa hình, địa mạo
Chu Hương là xã có địa hình đồi núi cao, bị chia cắt bỏi các thung lung , các
dãy núi cao, những núi thấp, thoải tạo thành những cánh đồng bậc thang nhỏ hẹp. Xã
có độ cao trung bình từ 400 đến 1200m so với mặt nước biển.
2.4.1.3. Khí hậu
Theo trung tâm dự báo khí tượng thuỷ văn tỉnh Bắc Kạn, xã Chu Hương nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt chia hai mùa rõ rệt.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
2.4.1.4. Thuỷ văn
Mạng lưới thuỷ văn của xã có 32 kênh mương, 25 phai đập cùng với hệ thống
ao hồ, đập lớn nhỏ là những nguồn nước quý phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Mặc
dù có nguồn nước dồi dào như vậy nhưng do địa hình đồi núi nên việc tưới tiêu cho
cây trồng vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhất là những khu ruộng bậc thang hay khu
ruộng cao. Tuy nhiên, vào thời kỳ đầu năm, do điều kiện thời tiết khắc nghiệt nên
thường xảy ra tình trạng hạn hán nên UBND xã kết hợp với trạm thuỷ nông huyện
bơm nước chống hạn.

2.4.1.5. Hiện trạng tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng của Chu Hương đa dạng và phong phú, có nhiều chủng loại
cây gỗ với tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 2.657,06 ha chiếm 74,19% tổng
diện tích đất tự nhiên. Số diện tích rừng hiện nay chủ yếu là các hộ gia đình, cá nhân
quản lý. Diện tích rừng sản xuất là 2355,23 ha bao gồm các loại cây: keo và cây bản
địa. Ngoài ra còn có 301,83 ha rừng phòng hộ, chiếm 8,43 % tổng diện tích đất tự
nhiên.
Mặc dù diện tích rừng trồng tương đối lớn nhưng chủ yếu là rừng non mới tái
sinh hoặc mới trồng theo các chương trình như PAM, 327, 661. Điều đặc biệt cần
được quan tâm hiện nay là khu rừng tự nhiên đang bị khai thác không đúng chu kỳ và
kỹ thuật, chặt phá không xin phép. Do đó trong thời gian tới cần có biện pháp quản lý
chặt chẽ nhằm bảo vệ tốt quỹ rừng hiện có này.
2.4.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Chu Hương
Chu Hương có 19 thôn, do tập quán canh tác lâu đời đã hình thành nên các khu
dân cư sống theo từng khu vực, dọc các trục đường giao thông và các thung lũng sâu.
16
Nhìn chung vị trí các khu dân cư phân bố chưa đồng đều, các khu dân cư nằm rải rác
không thuận tiện cho việc sản xuất, sinh hoạt và giao thông, có những xóm còn quá
xa khu trung tâm ( Khuổi Ha, Nà Quang, Nà Cà, Nà Đông) nhưng lại chưa được quan
tâm mở mang đường xá nên đi lại còn rất khó khăn.
17
PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung
Đề tài nghiên cứu tập trung vào giải quyết một số nội dung sau
Nội dung 1: Đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng và lịch sử rừng trồng Mỡ tại xã Chu
Hương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Nội dung 2: Đánh giá cấu trúc rừng trồng Mỡ tại xã Chu Hương, huyện Ba Bể, tỉnh
Bắc Kạn.
Nội dung 3: Xác định được lượng các bon tích lũy trên mặt đất tại xã Chu Hương,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.

- Xác định sinh khối của các tầng cây gỗ
- Xác định sinh khối của tầng cây bụi thảm tươi
- Xác định sinh khối của tầng thảm mục
- Tính toán lượng các bon tích lũy trong tầng cây gỗ
- Tính toán lượng các bon tích lũy trong tầng cây bụi thảm tươi
- Tính toán lượng các bon tích lũy trong tầng thảm mục
Nội dung 4: Lượng hóa năng lực hấp thu CO
2
của rừng trồng Mỡ tại xã Chu Hương,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Nội dung 5: Đề xuất một số giải pháp.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Cách tiếp cận
Để đạt được các mục tiêu đề ra, cách tiếp cận tự nhiên và tiếp cận cộng đồng
được lựa chọn. Hệ thống các ô tiêu chuẩn được lập cho các hoạt động điều tra rừng
để xác định lượng các bon tích lũy trong rừng trồng Mỡ ở khu vực nghiên cứu. Kết
hợp với điều tra thực địa là hoạt động điều tra cộng đồng nhằm xác định kỹ thuật
trồng, định mức đầu tư, chế độ chăm sóc, quản lý bảo vệ đã được áp dụng và hiệu quả
kinh tế của rừng trồng Mỡ tại khu vực nghiên cứu.
3.2.2. Phương pháp kế thừa
Kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây làm cơ sở cho việc so sánh, phân tích
và phục vụ cho việc viết tổng quan tài liệu và đánh giá hiện trạng rừng.
18
3.2.3. Phương pháp phỏng vấn (PRA)
Điều tra cộng đồng sử dụng các công cụ của bộ công cụ PRA để điều tra xác
định các biện pháp kỹ thuật trồng, định mức đầu tư, chế độ chăm sóc, quản lý bảo vệ
đã được áp dụng và chi phí đầu vào và thu nhập từ rừng trồng Mỡ tại khu vực nghiên
cứu.
3.2.4. Phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn
3.2.4.1. Số lượng và vị trí các ô mẫu

Số ô mẫu được xác định theo từng cấp tuổi, mỗi cấp tuổi lựa chọn đo đếm 3
OTC (tổng 12 OTC).
Các ô mẫu được lựa chọn đại diện cho toàn khu vực, sao cho các ô đo đếm
phân bố đều trên toàn bộ diện tích rừng trồng Mỡ tại khu vực nghiên cứu
3.4.2.2. Hình dạng và kích thước ô mẫu
Ô đo đếm được thiết lập theo cách tiếp cận hệ thống ô đo đếm “lồng nhau”,
diện tích ô tiêu chuẩn là 500 m
2
(20m x 25m) đo tất cả các cây gỗ, và cây bụi và thảm
mục được đo đếm tại 5 ô dạng bản có kích thước 1 m
2
(Hình 3.1). Ô mẫu được lựa
chọn trong phạm vi 0.5 ha, tránh đường ranh giới, trừ khi được xác định trước.
Hình 3.1. Sơ đồ bố trí các ô đo đếm
19
Ô tiêu chuẩn đo đếm cần đáp ứng các tiêu chí sau: i) đại diện cho loại rừng
nghiên cứu; ii) Đại diện cho điều kiện địa hình; và iii) bao gồm nhiều cây.
3.2.4.3. Các bể chứa các bon phần trên mặt đất cần đo đếm
Rừng có 6 bể chứa các bon, bao gồm: Trong cây gỗ, Trong cây bụi – thảm tươi
– lâm sản ngoài gỗ; Trong thảm mục; Trong vật rơi rụng cành nhánh, cây chết; Trong
rễ cây và Trong đất rừng. Phần trên mặt đất bao gồm:
- Cây gỗ sống trên mặt đất: Nhân tố đường kính ngang ngực (dbh), loài hoặc
có thể thêm chiều cao (H) được đo đếm để ước tính sinh khối của cây gỗ trên mặt đất
và các bon trong cây thông qua các phương trình tương quan.
1- Cây bụi, thảm tươi, thực vật phi gỗ: Nhân tố đo đếm là khối lượng sinh khối
tươi, và được lấy mẫu đem về phòng thí nghiệm phân tích tỷ lệ % khối lượng khô.
1- Thảm mục: Nhân tố đo đếm là khối lượng thảm mục, và được lấy mẫu đem
về phòng thí nghiệm phân tích tỷ lệ % khối lượng khô.
2- Cành nhánh ngã đỗ và cây chết: Nhân tố đo đếm là khối lượng, thể tích của
chúng, từ đây lấy mẫu để xác định sinh khối khô và tỷ lệ % khối lượng khô.

3.2.4.4. Đo đếm tại ô tiêu chuẩn
Điều tra các bon rừng có thể sử dụng ô dạng hình chữ nhật vì nó dễ thiết lập
trên hiện trường và nó có thể trải dài trên các dạng địa hình. Do đó nó mang tính đại
diện cao.
Trình tự
(1) Thiết lập OTC
Việc lập ô tiêu chuẩn nên có 3 cán bộ kỹ thuật và 2 lao động địa phương và tiến
hành theo các bước như sau:
a) Trong khu vực điều tra, dùng cọc đóng để đánh dấu điểm xuất phát lập ô;
b) Một người đứng tại điểm xuất phát và sử dụng địa bàn cầm tay để định hướng
cho các cạnh của ô tiêu chuẩn;
c) Những người khác sử dụng thước dây để đo khoảng cách từ điểm xuất phát
theo các cạnh của ô tiêu chuẩn. Chiều dài của các cạnh của ô tiêu chuẩn là
khoảng cách đã được cải bằng. Trong quá trình xác định chiều dài của các
cạnh, cứ 10 m nên dùng cọc để đánh dấu;
d) Để chắc chắn ô tiêu chuẩn là hình chữ nhật, các góc vuông hình thành bởi hai
cạnh của ô phải là 90
O
và tại trung điểm của hai cạnh đối diện, sử dụng thước
dây để kiểm tra độ dài của khoảng cách bằng giữa hai trung điểm này. Khoảng
20
cách bằng giữa hai trung điểm của hai cạnh đối diện là 20 m.
e) Sau khi lập ô với các cọc được đánh dấu tại mỗi khoảng cách từ 10 m, (tùy
thuộc vào điều kiện địa hình), trên mỗi cạnh của ô vuông, sử dụng dây nilon
nối các cọc của ô để đánh dấu ranh giới của ô tiêu chuẩn.
f) Ghi chép các thông tin chung trong ô (vị trí, tọa độ tại tâm ô) trong phiếu điều
tra hiện trường.
(2) Điều tra trong ô tiêu chuẩn
Trong ô tiêu chuẩn, tiến hành đo tất cả các cây sống có đường kính từ 5 cm trở
lên. Thông tin thu thập gồm: i) tên loài cây (tên Việt Nam và tên khoa học); và ii)

đường kính ngang ngực của cây. Số liệu được đo đếm sẽ được sử dụng cho: i) phân
bố cây theo cấp kính; ii) thể tích lâm phần.
Nhóm điều tra trong ô tiêu chuẩn nên bao gồm 3 cán bộ kỹ thuật. Một người ghi
chép số liệu và hai người còn lại để làm công việc khác như xác định tên loài, đo
đường kính ngang ngực của cây, đánh dấu cây sau khi đo. Các lao động địa phương
cũng cần thiết để hỗ trợ phát tuyến điều tra, phát dọn thực bì v.v. Các bước đề xuất đo
đếm trong ô tiêu chuẩn như sau:
a) Xác định tên loài (tên cây) nên được tiến hành trước khi bắt đầu đo DBH;
b) Sử dụng thước 1.3 m để đánh dấu vị trí đo DBH;
c) Sử dụng thước đo vanh để đo chu vi của cây tại vị trí đánh dấu (vị trí 1,3m);
d) Ghi chép tất cả thông tin đo đếm trong ô tiêu chuẩn và ghi chú những đặc điểm
bất thường của cây (cây nhiều thân, cây cụt ngọn, v.v) vào phiếu điều tra hiện
trường nêu tại Phụ lục 01;
(3) Đo đếm sinh khối tươi cây cá lẻ
Khi công việc đo đếm DBH và tên cây trong ô tiêu chuẩn được hoàn thành, việc
đo đếm sinh khối tươi cây tiêu chuẩn được thực hiện theo các bước sau:
a) Nhập số liệu DBH của các cây trong ô tiêu chuẩn vào bảng excel và tính toán
chỉ tiêu trung bình cho D
1.3
và H
vn
.
b) Lựa chọn cây tiêu chuẩn trung bình (cây có chỉ tiêu của các nhân tố điều tra
sấp xỉ bằng giá trị trung bình).
c) Sau khi lựa chọn cây tiêu chuẩn trung bình, sử dụng cưa xăng, dao hoặc rìu để
chặt hạ cây theo quy trình khai thác;
d) Sau khi chặt hạ cây tiêu chuẩn, tiến hành đo chính xác:
i. Đường kính tại gốc cây (vị trí 0.0 m)
21
ii. Đường kính ngang ngực (vị trí 1.3 m);

iii. Chiều dài men thân cây (từ gốc tới ngọn của cây);
iv. Chiều cao dưới cành (từ vị trí 0.0 m tới điểm phân cành chính của cây);
v. Chiều dài men thân cây từ gốc (vị trí 0.0 m) tới điểm có đường kính 10
cm;
e) Tách riêng biệt các phần của cây chặt thành các bộ phận: thân, cành nhánh và
lá;
f) Sau khi tách các bộ phận của cây, sử dụng cân để cân và xác định khối lượng
của thân, cành, lá cây.
g) Ghi chép đầy đủ tất cả thông tin trong quá trình đo đếm sinh khối của cây cá lẻ
bằng phương pháp chặt hạ vào phiếu điều tra nêu tại Phụ lục 02.
(4) Lấy mẫu phân tích sinh khối khô và khối lượng thể tích gỗ
Mẫu để phân tích sinh khối khô được lấy ngay sau khi xác định xong trọng
lượng tươi của từng bộ phận của cây (thân, cành, lá cây). Các bước lấy mẫu được
thực hiện như sau:
1. Mẫu phân tích sinh khối khô: Yêu cầu lấy 03 mẫu cho mỗi cây tiêu chuẩn chặt
hạ, đó là: mẫu thân, cành và lá cây. Mẫu phải đại diện cho các bộ phận của
cây, do vậy khi lấy mẫu cho phân tích sinh khối khô, cần chú ý:
a. Mẫu nên được lấy từ các vị trí khác nhau của thân, các phần khác nhau của
cành và lá. Với mẫu thân, lấy 2 -3 thớt (hoặc thớt xuyên tâm nếu cây to)
với khối lượng mẫu chiếm khoảng 0.2% khối lượng tươi của thân. Với mẫu
cành, lấy 4 thớt nhỏ từ các cành với khối lượng mẫu là từ 0,5 – 1,0 kg.
b. Mẫu của mỗi phần của cây (thân, cành và lá) phải được để trong túi nilon
và buộc chặt để tránh bốc hơi nước;
c. Khối lượng của mẫu thân và cành nhánh của cây là từ 0,5 – 1 kg/mẫu; khối
lượng mẫu lá là từ 0,3 - 0,5 kg/mẫu;
2. Mẫu phân tích khối lượng thể tích gỗ sẽ là 04 mẫu thớt gỗ từ thân cây chặt hạ,
mẫu được lấy như sau:
a. Đánh dấu vị trí lấy mẫu: Vị trí lấy mẫu là tại vị trí gốc cây (0.0m), tại vị trí
1/4 chiều dài thân cây; 1/2 chiều dài thân cây và tại vị trí 3/4 chiều dài thân
cây;

b. Tại các vị trí lấy mẫu, lấy một thớt gỗ dày khoảng 5 -10 cm;
22
3. Tất cả các mẫu phải có nhãn mác để sử dụng cho việc nhận dạng mẫu trong
quá trình phân tích, tổng hợp số liệu. Nhãn mác ghi như sau:
a. Với mẫu phân tích sinh khối khô, sau khi cho mẫu vào trong túi nilon,
sử dụng bút viết trên nilon để ghi nhãn mác cho mẫu. Thông tin cần thiết
gồm: i) mã số ô tiêu chuẩn; ii) Tên cây; iii) Đường kính DBH; iv) Tên mẫu
(thân, cành, lá).
b. Thông tin cho mẫu phân tích khối lượng thể tích gỗ bao gồm: i) Mã ô
tiêu chuẩn; ii) Mã cây lấy mẫu; iii) Vị trí lấy mẫu (vị trí 0.0m; 1/4 chiều dài
thân, 1/2 chiều dài thân, 3/4 chiều dài thân).
4. Sử dụng cân kỹ thuật, cân chính xác trọng lượng các mẫu lấy để phân tích sinh
khối khô. Khối lượng của mẫu phải được xác định ngay sau khi lấy mẫu;
5. Tất cả mẫu nên được gửi kịp thời tới phòng thí nghiệm chuyên ngành để phân
tích;
6. Tất cả thông tin về mẫu thu thập để phân tích sinh khối khô và phân tích khối
lượng thể tích gỗ phải được ghi lại đầy đủ tại Phụ lục 02;
(5) Đo đếm các phần sinh khối chết và sinh khối sống khác trên mặt đất
Trong rừng C được lưu giữ chủ yếu trong sinh khối thực vật (trên và dưới mặt
đất) và trong đất. Sinh khối trên mặt đất bao gồm tất cả các thân cây gỗ, cành, lá cây
sống, dây leo, bụi trườn, và thực vật bì sinh cũng như các cây bụi và thảm tươi. Đối
với đất nông nghiệp, nó bao gồm sinh khối cây trồng và cỏ dại. Bể chứa vật chất hữu
cơ chết (necromass) bao gồm cây chết đổ, các mảnh gỗ vỡ thô khác, thảm mục và
than củi (hoặc một phần các chất hữu cơ bị cháy) phía trên mặt đất.
i . Xác định sinh khối tầng dưới tán
Tầng dưới tán bao gồm: Cây gỗ có đường kính <5cm, cây tái sinh, cây bụi,
thảm tươi.
Trình tự
• Trên ô tiêu chuẩn lập 5 ô dạng bản 1 m
2

. Cắt toàn bộ các cây có trong ô
dạng bản. Xác định trọng lượng tươi (FW) ngay tại thực địa (g/1 m
2
).
Chặt nhỏ tất cả mẫu và trộn đều trước khi lấy mẫu phân tích. Lấy mẫu
đại diện 100g tươi, cho vào túi giấy. Sấy khô mẫu, xác định trọng lượng
khô (DW).
• Các thông tin về đo đếm sinh khối thảm tươi cây bụi được ghi lại chi
tiết vào phiếu điều tra hiện trường nêu tại Phụ lục 03.
23
ii. Cây chết là một phần của vật chất hữu cơ chết
Trình tự
• Trong ô 500 m
2
(20x25 m) tất cả các mảnh vỡ và thân gỗ (một phần
chưa bị cháy), cây chết đứng, cây chết trên mặt đất và gốc đều được đo
đếm (với đường kính >5 cm và chiều dài> 0,5 m).
• Đo chiều cao (chiều dài) trong phạm vi rộng của ô và đường kính (đoạn
giữa), ghi chú xác định loại gỗ để xác định khối lượng riêng.
• Tất cả các thông tin cây gỗ chết được ghi chép đầy đủ trong Phụ lục
03.
iii. Thảm mục
Trình tự
• Thu thập tất cả mẫu thảm mục trong cùng một ô 1 m
2
được sử dụng cho
thu mẫu dưới tán, nó có thể được thực hiện theo hai bước.
• Thu mẫu thảm mục thô chẳng hạn như bất kỳ đoạn thân/cành có d < 5
cm và/hoặc chiều dài < 50cm, vật liệu thực vật chưa phân hủy (tất cả lá và
cành).

• Ghi đầu đủ, chi tiết các thông tin về điều tra sinh khối thảm mục trong
năm (5) ô đo đếm vào phiếu điều tra hiện trường nêu tại Phụ lục 04.
(6) Phương pháp lấy mẫu phân tích các bon đất
i. Dụng cụ và vật liệu
Dụng cụ và vật liệu cần được chuẩn bị tốt trước khi tiến hành điều tra tại hiện
trường, bao gồm:
• Khoan đất hoặc dụng cụ lấy mẫu đất;
• Ống đóng dung trọng thể tích 100 cm
3
;
• Túi vải;
• Dao lấy mẫu đất (để cậy đất từ dụng cụ lấy mẫu đất hoặc khoan đất),
bút đánh dấu, túi nilon, cuốc, phiếu điều tra hiện trường, v.v.
ii. Lập ô tiêu chuẩn cho lấy mẫu đất
Trong khu vực ô tiêu chuẩn đã lập, lựa chọn ngẫu nhiên năm (5) điểm với kích
thước phạm vi lẫy mẫu 4 m
2
để lấy mẫu đất. Tại mỗi điểm lấy mẫu lặp lại 3 lần.
iii. Lấy mẫu phân tích các bon đất
Để tính toán trữ lượng các bon hữu cơ trong đất cần phải biết được hai thông
số cơ bản là hàm lượng các bon trong đất và dung trọng đất. Trữ lượng các bon hữu
24
cơ trong đất thường được xác định cho độ sâu từ 0 – 40 cm, chia thành các tầng 0 –
10 cm; 10 – 20 cm và 20 – 40 cm theo độ sâu. Dưới đây là các bước cơ bản trong lấy
mẫu đất để tính toán trữ lượng các bon trong đất:
• Tại mỗi điểm lấy mẫu, phát dọn sạch thảm tươi, cây bụi và thảm mục trên
bề mặt đất để thuận lợi cho việc lấy mẫu đất cho phân tích hàm lượng các
bon và dung trọng đất.
• Để lấy mẫu đất cho phân tích hàm lượng các bon, sử dụng khoan lấy mẫu
để khoan tới các độ sâu cần lấy mẫu. Nếu không có khoan lấy mẫu hoặc

khoan lấy mẫu không thể sử dụng được do đất quá chặt hoặc lẫn nhiều đá
thì sử dụng cuốc để đào phẫu diện và lấy mẫu theo độ sâu mong muốn.
Mẫu đất phải loại bỏ đá, sỏi, rễ cây và khối lượng của mẫu đất cần lấy là từ
100 – 150 gam. Mẫu đất sau khi lấy phải được cho vào túi nilon có ghi đầy
đủ nhãn mác.
• Để lấy mẫu phân tích dung trọng đất, sử dụng ống đóng dung trọng có thể
tích 100 cm3. Ống đóng dung trọng được đóng từ trên xuống và vuông góc
với mặt đất. Sau khi lấy mẫu, lấy toàn bộ đất trong ống dung trọng và sử
dụng cân kỹ thuật để xác định ngay khối lượng tươi của mẫu đất. Toàn bộ
khối lượng đất đó được cho vào túi nilon với đầy đủ nhãn mác.
• Ghi đầy đủ thông tin về điều tra đất và gửi kịp thời các mẫu đất tới phòng
thí nghiệm chuyên ngành để phân tích hàm lượng các bon và dung trọng
đất.
3.2.5. Tính toán xử lý số liệu
Dựa trên kết quả điều tra ô tiêu chuẩn chúng tôi thực hiện tính toán xử lý số
liệu như sau:
Đánh giá đặc điểm cấu trúc rừng
- Xác định tổng tiết diện ngang thân cây gỗ, đường kính và chiều cao trung
bình được tính theo các công thức:

2
1
2
2
(cm /ha)
n
i
i
D
x

G
S
π
=
 
 ÷
 
=

;
1
n
i
i
D
D
n
=
=

;
1
n
i
i
H
H
n
=
=


- Mật độ: Mật độ cho biết số lượng cá thể trung bình của loài nghiên cứu trên
mỗi ô tiêu chuẩn được tính theo công thức sau đây:
25
(3.1)
(3.2)
(3.3)

×