Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Nghiên cứu cấu trúc và tính đa dạng của thực vật thân gỗ tại vườn quốc gia bù gia mập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN TIÊN PHONG

NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC VÀ TÍNH ĐA DẠNG CỦA
THỰC VẬT THÂN GỖ TẠI VƯỜN QUỐC GIA BÙ GIA MẬP

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN TRỌNG BÌNH

Đồng Nai, 2012


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển của loài người, rừng là cái nôi của sự sống, là lá phổi xanh của nhân loại,
có giá trị to lớn trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước chống
xói mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn hán, cung cấp nguồn nước sạch sinh hoạt và sản xuất
cho con người. Rừng là bảo tàng sống sinh động nhất, có giá trị bảo tồn đa dạng sinh
học, trong đó có nhiều nguồn gen quý hiếm. Rừng phục vụ cho việc phát triển các
ngành nông nghiệp, thủy lợi, thủy điện, công nghiệp, du lịch, an ninh quốc phòng,...
Ngoài ra sản phẩm của rừng như gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ các nhu cầu thiết


yếu của cộng đồng các dân tộc từ miền núi, nông thôn đến thành thị. Từ xưa đến
nay, nói đến giá trị của rừng ông cha ta thường kể đến các loài gỗ quý như đinh, lim,
sến, táu, dổi, vàng tâm,... để xây dựng nhà cửa, đóng đồ mộc trang trí trong nhà chứ
ít ai nhắc đến các sản vật khác lấy từ rừng.
Mất rừng đã gây ra những hậu quả rất nặng nề về kinh tế - xã hội, môi trường
trên toàn cầu. Ở Việt Nam tình hình diễn biến tài nguyên rừng cũng xảy ra tương tự,
năm 1943 diện tích rừng toàn quốc là 14,3 triệu ha, tương ứng độ che phủ là 43%,
đến năm 2005 diện tích rừng toàn quốc chỉ còn 12,616 triệu ha độ che phủ 37%, thấp
hơn chỉ số mức báo động độ che phủ tối thiểu để duy trì cân bằng hệ sinh thái cho
một quốc gia. Mất rừng kéo theo mất diện tích rừng mất đi những loài động thực vật,
giảm tính đa dang sinh học của Quốc gia. (nguồn http//www.nea.gov.vn)
Theo cách tính của các nhà khoa học thì tốc độ tuyệt chủng trung bình trong
quá khứ vào khoảng 9% trên một triệu năm (Rauf, 1998), tức khoảng 0,000009%
trong một năm. Như vậy cứ khoảng 5 năm mất đi một loài trong 2 triệu loài có trong
quá khứ. Điều này có thể thấp hơn so với thực tế vì các nhà khoa học đã không tính
được sự mất đi của các loài đặc hữu. Nếu vậy tốc độ tuyệt chủng cao nhất chỉ có thể
là 2 loài mỗi năm. (Cao Thị Lý và Cộng tác viên, 2002).


2

Trong các khu rừng thì thực vật, đặc biệt các loài thực vật có chồi trên mặt
đất, cây gỗ rừng có chiều cao từ 8 m trở lên đó là các loài thực vật thân gỗ
(Raunkiaer C,1953) (dẫn bởi Ngô Tiến Dũng, 2003) đóng vai trò quan trọng trong
việc điều tiết tiểu khí hậu, có tính chất quyết định sinh thái trong một vùng. Tuy
nhiên, rất nhiều loài cây thực vật thân gỗ đang bị đe dọa tuyệt chủng do sự khai thác
quá mức của con người. Vườn Quốc gia (VQG) Bù Gia Mập cũng như các khu rừng
nhiệt đới khác, có cấu trúc rừng rất phức tạp với hai kiểu rừng chính: kiểu rừng kín
thường xanh mưa nhiệt đới núi thấp (Rkx) và kiểu rừng kín nửa thường xanh ẩm
nhiệt đới núi thấp (Rkn) (Phân viện Điều tra qui hoạch rừng Nam bộ, 2004) [15] còn

mang đậm nét hoang sơ, được các tổ chức bảo tồn trên thế giới đánh giá là khu rừng
mang tính đa dạng cao. Tuy nhiên, trải qua thời gian dài rừng Bù Gia Mập chịu tác
động mạnh bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như chiến tranh, khai thác không hợp
lý v.v..đã làm giảm chức năng phòng hộ, tính đa dạng sinh học của rừng và đang là
mối đe dọa đối với môi trường sống ở nội vùng và các khu vực phụ cận của miền
Đông Nam Bộ.
Hiện nay, ở Bình Phước nói chung và Vườn quốc gia Bù Gia Mập nói riêng,
một nhiệm vụ quan trọng đang được đặt ra là khôi phục lại vốn rừng, nâng cao chất
lượng rừng trở lại như vốn có trước đây. Nhưng muốn khôi phục và phát triển rừng,
nhà lâm nghiệp cần phải có những hiểu biết tốt về đặc điểm lâm học của rừng. Nhận
thấy rằng, hiện nay ở Vườn quốc gia Bù Gia mập, diện tích rừng chủ yếu thuộc các
trạng thái rừng IIIA2 và IIIA1 (15.064 ha chiếm 57,9% diện tích đất có rừng). Đây là
các trạng thái rừng thứ sinh, do bị tác động ở nhiều mức độ khác nhau nên kết cấu
của rừng ít nhiều có sự thay đổi. Mọi hoạt động nghiên cứu về rừng nơi đây đòi hỏi
phải có hiểu biết nhất định về đặc điểm kết cấu và tình hình tái sinh các trạng thái
rừng, đặc biệt là hai trạng thái rừng này. Từ trước tới nay ở Vườn quốc gia Bù Gia
Mập chưa có một nghiên cứu nào về đặc điểm lâm học của hai trạng thái rừng IIIA2,


3

IIIA1, mà hầu hết các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào điều tra tài nguyên, khảo sát
nhân tố phát sinh các kiểu rừng, thống kê thành phần loài cây.
Do vậy, việc kế thừa những tài liệu đã có và tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm rõ
đặc điểm lâm học và tính đa dạng sinh học (trong đó chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu
kết cấu, tình hình tái sinh tự nhiên) của hai trạng thái rừng IIIA2, IIIA1 ở Vườn quốc
gia Bù Gia Mập là một việc làm cấp thiết và có nhiều ý nghĩa. Trước hết, về lý luận,
kết quả của đề tài đóng góp thêm những tư liệu để hiểu biết rõ hơn về kết cấu và tình
hình tái sinh tự nhiên, tính đa dạng sinh học của rừng IIIA2, IIIA1 ở Đông Nam Bộ
nói chung và Vườn quốc gia Bù Gia Mập nói riêng. Về thực tiễn, kết quả của đề tài

cung cấp những thông tin cơ bản làm cơ sở cho xây dựng các biện pháp phục hồi
rừng (đặc biệt là biện pháp phục hồi rừng tại phân khu phục hồi sinh thái) và quản lý
bảo vệ rừng ở Vườn quốc gia Bù Gia Mập có hiệu quả. Đồng thời, kết quả của đề tài
cũng là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu khác ở những nơi có điều kiện tự
nhiên và hoàn cảnh sinh thái tương tự trong việc đề xuất các giải pháp phục hồi
rừng.


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu cấu trúc rừng và sự đa da ̣ng sinh học của rừng tự nhiên được
nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến từ những năm đầu của thế kỷ 20. Nhìn
chung, các tác giả đều quan tâm đến việc xây dựng một mô hình rừng chuẩn, phục
vụ công tác kinh doanh rừng và bảo tồn hiệu quả, đáp ứng yêu cầu về kinh tế, xã hội
và sinh thái. Tuy nhiên, rừng tự nhiên rất đa dạng về cấu trúc tầng tán và tổ thành
loài, ở các vùng địa lý khác nhau, độ cao khác nhau đều hình thành các kiểu rừng
riêng biệt khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu cấu trúc rừng và tính đa dạng của thực vật
thân gỗ luôn được quan tâm trong công tác kinh doanh rừng, đặc biệt là phục vụ cho
công tác điều tra xác định các loài cây quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng, cần được
bảo tồn và phát triển. Trong phạm vi cho phép của đề tài nghiên cứu, tác giả xin
trình bày một vài các công trình khoa học trong và ngoài nước, để làm cơ sở lý luận
cho nghiên cứu thực tiễn tại Vườn quốc gia Bù Gia Mập.
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng trên thế giới
Để phục vụ kinh doanh rừng hợp lý, có hiệu quả, đạt được yêu cầu về kinh tế,
lẫn sinh thái môi trường, việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc cho từng kiểu rừng đã
được tiến hành hàng trăm năm nay. Phương pháp nghiên cứu từ mô tả định tính
chuyển dần sang phương pháp định lượng dưới dạng các mô hình, nhằm khái quát

hóa được các quy luật tồn tại bên trong các hệ sinh thái và các mối quan hệ qua lại
giữa các thành phần bên trong và bên ngoài, có thể điểm qua một số công trình
nghiên cứu sau.
1.1.1.1. Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là hình thức biểu hiện bên ngoài của những mối quan hệ qua lại
bên trong giữa thực vật rừng với nhau và giữa chúng với môi trường sống. Nghiên


5

cứu cấu trúc rừng để biết được những mối quan hệ sinh thái bên trong của quần xã,
từ đó có cơ sở để đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp.
Trong một thời gian dài, vấn đề duy trì và điều tiết cấu trúc rừng đã được bàn luận và
có rất nhiều quan điểm khác nhau, đặc biệt là việc đề xuất các tác động xử lý đối với
rừng tự nhiên nhiệt đới. Nhiều phương thức lâm sinh ra đời và được thử nghiệm ở
nhiều nơi trên thế giới như phương thức chặt cải thiện tái sinh (RIF, 1927), phương
thức rừng đều tuổi của Malaysia (MUS, 1945), T.S.S của Nigeria (1944, 1961),...
Baur G.N. (1964) [2] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học nói
chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, trong đó đã đi
sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng
cho rừng mưa tự nhiên. Theo tác giả, các phương thức xử lý đều có hai mục tiêu rõ
rệt: "Mục tiêu thứ nhất là nhằm cải thiện rừng nguyên sinh vốn thường hỗn loài và
không đồng tuổi bằng cách đào thải những cây quá thành thục và vô dụng để tạo
không gian thích hợp cho các cây còn lại sinh trưởng. Mục tiêu thứ hai là tạo lập tái
sinh bằng cách xúc tiến tái sinh, thực hiện tái sinh nhân tạo hoặc giải phóng lớp cây
tái sinh sẵn có đang ở trạng thái ngủ để thay thế cho những cây đã lấy ra khỏi rừng
trong khai thác hoặc trong chăm sóc nuôi dưỡng rừng sau đó". Từ đó, tác giả này đã
đưa ra những tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh
nhằm đem lại rừng cơ bản là đều tuổi, rừng không đều tuổi và các phương thức xử lý
cải thiện rừng mưa.

Catinot (1965) [3] nghiên cứu cấu trúc hình thái rừng thông qua việc biểu
diễn các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái thông qua việc mô
tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến...
Odum E.P (1971) [10] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở
thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ sinh


6

thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm
sinh thái học.
Khi nghiên cứu tổ thành rừng tự nhiên nhiệt đới thành thục, Evans, J. (1984)
xác định, có tới 70-100 loài cây gỗ trên 1ha, nhưng hiếm có loài nào chiếm hơn 10%
tổ thành loài.
1.1.1.2. Về mô tả hình thái cấu trúc rừng
Rừng mưa nhiệt đới đã được nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu, như:
Catinot R. (1965), Plaudy J . Các tác giả đã biểu diễn hình thái cấu trúc rừng bằng
những phẫu diện đồ ngang và đứng. Các nhân tố cấu trúc được mô tả theo các khái
niệm: dạng sống, tầng phiến... Rollet (1971) [32] đã đưa ra hàng loạt phẫu đồ mô tả
cấu trúc hình thái rừng mưa, như tương quan giữa chiều cao với đường kính D1.3,
tương quan giữa đường kính tán với đường kính D1.3 và biểu diễn chúng bằng các
hàm hồi quy.
Richards P.W (1952) [13] đã đi sâu nghiên cứu cấu trúc rừng mưa nhiệt đới
về mặt hình thái. Theo tác giả này, một đặc điểm nổi bật của rừng mưa nhiệt đới là
tuyệt đại bộ phận thực vật đều thuộc thân gỗ. Rừng mưa thường có nhiều tầng
(thường có ba tầng, ngoại trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong rừng mưa
nhiệt đới ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và các loài thân cỏ còn có nhiều loài cây leo đủ
hình dáng và kích thước, cùng nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây.
"Rừng mưa thực sự là một quần lạc hoàn chỉnh và cầu kỳ nhất về mặt cấu tạo và
cũng phong phú nhất về mặt loài cây".

Khi nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên nhiệt đới, nhiều tác giả có ý kiến
khác nhau trong việc xác định tầng thứ, trong đó có ý kiến cho rằng, kiểu rừng này
chỉ có một tầng cây gỗ mà thôi. Richards (1952) [13] phân rừng ở Nigeria thành 6
tầng với các giới hạn chiều cao là 6-12m, 12-18m, 18-24m, 24-30m, 30*36m và 3642m, nhưng thực chất đây chỉ là các lớp chiều cao. Odum E.P.(1971) [10] nghi ngờ


7

sự phân tầng rừng rậm nơi có độ cao dưới 600m ở Puecto - Rico và cho rằng không
có sự tập trung khối tán ở một tầng riêng biệt nào cả.
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra những
nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao mang tính cơ
giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự nhiên nhiệt đới.
1.1.1.3. Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
Khi chuyển đổi từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng cấu trúc
rừng, nhiều tác giả đã sử dụng các công thức và hàm toán học để mô hình hoá cấu
trúc rừng, xác định mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc của rừng.
Các nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng còn phát triển mạnh mẽ khi các hàm
toán học được đưa vào sử dụng để mô phỏng các quy luật kết cấu lâm phần. Rollet
B. L. (1971) [32] đã biểu diễn mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính bằng các
hàm hồi quy, phân bố đường kính ngang ngực, đường kính tán bằng các dạng phân
bố xác suất, Balley (1973) [29] sử dụng hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc
đường kính thân cây loài Thông,... Tuy nhiên, việc sử dụng các hàm toán học không
thể phản ánh hết những mối quan hệ sinh thái giữa các cây rừng với nhau và giữa
chúng với hoàn cảnh xung quanh, nên các phương pháp nghiên cứu cấu trúc rừng
theo hướng này không được vận dụng trong đề tài.
Một vấn đề nữa có liên quan đến nghiên cứu cấu trúc rừng đó là việc phân
loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo. Cơ sở phân loại rừng theo xu hướng này là đặc
điểm phân bố, dạng sống ưu thế, cấu trúc tầng thứ và một số đặc điểm hình thái khác
của quần xã thực vật rừng. Đại diện cho hệ thống phân loại rừng theo hướng này có

Humbold (1809), Schimper (1903), Aubreville (1949), UNESCO (1973)... Nhiều hệ
thống phân loại rừng theo xu hướng này, khi nghiên cứu ngoại mạo của quần xã thực
vật đã không tách khỏi hoàn cảnh sinh thái của nó, từ đó hình thành xu hướng phân
loại rừng theo ngoại mạo sinh thái.


8

a. Về phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3)
Phân bố số cây theo cỡ đường kính là quy luật kết cấu cơ bản của lâm phần và
được các nhà lâm học, điều tra rừng quan tâm. Meyer (1934) đã mô tả phân bố
N/D1.3 bằng phương trình toán học có dạng đường cong giảm liên tục và được gọi là
phương trình Meyer hay hàm Meyer. Tiếp đó, nhiều tác giả dùng phương pháp giải
tích để tìm phương trình của đường cong phân bố. Balley (1973) [29] sử dụng hàm
Weibull, Schiffel biểu thị đường cong cộng dồn phần trăm số cây bằng đa thức bậc
ba. Prodan. M và Patatscase (1964), Bill và Kem K.A (1964) đã tiếp cận phân bố
này bằng phương trình logarit chính thái. Diatchenko, Z.N sử dụng phân bố Gamma
biểu thị phân bố số cây theo đường kính lâm phần Thông ôn đới. Đặc biệt, để tăng
tính mềm dẻo, một số tác giả hay dùng các hàm khác, như Loetsch (1973) dùng hàm
Beta để nắn các phân bố thực nghiệm, J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992) trong
khi nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo-Brazin đã
dùng hàm Weibull mô phỏng phân bố N/D. Nhiều tác giả khác dùng hàm Hyperbol,
hàm Poisson, hàm Logarit chuẩn, họ Pearson, hàm Weibull..
b. Về phân bố số cây theo chiều cao (N/H)
Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng đứng
đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. Phương pháp kinh điển nghiên cứu cấu
trúc đứng rừng tự nhiên là vẽ các phẫu diện đồ đứng với các kích thước khác nhau
tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Các phẫu đồ đã mang lại hình ảnh khái quát về cấu
trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng. Từ đó rút ra các nhận xét và đề
xuất ứng dụng thực tế. Phương pháp này được nhiều nhà nghiên cứu rừng nhiệt đới

áp dụng mà điển hình là các công trình của các tác giả P.W.Richards(1952) ,
Rollet(1979).c. Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính thân
cây


9

Qua nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, chiều cao tương ứng với mỗi cỡ
đường kính cho trước luôn tăng theo tuổi, đó là kết quả tự nhiên của sự sinh trưởng.
Trong mỗi cỡ kính xác định, ở các tuổi khác nhau, cây rừng thuộc cấp sinh trưởng
khác nhau, cấp sinh trưởng giảm khi tuổi lâm phần tăng lên, dẫn đến tỷ lệ H/D tăng
theo tuổi. Từ đó, đường cong quan hệ giữa H và D có thể thay đổi dạng và luôn dịch
chuyển về phía trên khi tuổi lâm phần tăng lên. Tiurin D.V (1927) đã phát hiện hiện
tượng này khi ông xác lập đường cong chiều cao cho các cấp tuổi khác nhau. Prodan
(1965) và Dittmar.O cho rằng độ dốc đường cong chiều cao có chiều hướng giảm
dần khi tuổi tăng lên. Curtis.R.O (1967) đã mô phỏng quan hệ chiều cao (H) với
đường kính (D) và tuổi (A) theo dạng phương trình:
Logh  d  b1.

1
1
1
 b2 .  b3.
d
A
d.A

(1.1)

Sau đó, tác giả đã nắn theo từng định kỳ 5 năm, tương ứng với định kỳ kiểm

tra tài nguyên rừng Linh sam. Tại từng tuổi nhất định, phương trình có dạng:

Logh  b0  b1.

1
d (1.2)

Petterson.H (1955) theo Nguyễn Trọng Bình (1996), đề xuất phương trình
tương quan:
1
b
a
d
3 h  1,3

(1.3)

Krauter. G (1958) và Tiourin. A.V (1932) nghiên cứu tương quan giữa chiều
cao với đường kính ngang ngực dựa trên cơ sở cấp đất và cấp tuổi. Kết quả cho thấy,
khi dãy phân hoá thành các cấp chiều cao, thì mối quan hệ này không cần xét đến
cấp đất hay cấp tuổi, cũng như không cần xét đến tác động của hoàn cảnh và tuổi, vì
những nhân tố này đã được phản ánh trong kích thước của cây, nghĩa là đường kính
và chiều cao trong quan hệ đã bao hàm tác động của hoàn cảnh và tuổi.


10

Tiếp theo, nhiều tác giả dùng phương pháp giải tích toán học tìm ra những
phương trình Naslund. M (1929); Assmann. E (1936); Hohenadl. W (1936),
Michailov. F (1934, 1952); Prodan. M (1944); Krenn. K (1946); Meyer. H.A

(1952)... đã đề nghị sử dụng các dạng phương trình dưới đây để mô tả quan hệ H/D

h  a  b1.d  b2 .d2

(1.4)

h  a  b1.d  b2 .d2  b3.d 3

(1.5)

d2
h  1.3 
(a  b.d ) 2

(1.6)

h  a  b.logd

(1.7)

h  a  b1.d  b2 .logd

(1.8)

h  k .db

(1.9)

 b
 

 d

h  1,3  a.e

(1.10)

Kennel. R (1971) [31] cho rằng, để mô phỏng động thái đường cong chiều
cao lâm phần, trước hết tìm phương trình thích hợp mô tả quan hệ Hvn với D1.3, sau
đó xác lập mối quan hệ của các tham số theo tuổi.
Như vậy, để biểu thị tương quan giữa chiều cao với đường kính thân cây có
thể sử dụng nhiều dạng phương trình, việc sử dụng phương trình nào thích hợp nhất
cho từng đối tượng, thì chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nói chung, để biểu thị đường
cong chiều cao, phương trình parabol và phương trình logarit được sử dụng nhiều
hơn cả.
Tóm lại, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng
nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều công trình
nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng. Tuy nhiên,
chưa thấy một công trình nào nghiên cứu đầy đủ về đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên


11

ven biển. Do đó, cơ sở khoa học cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật cho rừng
ven biển vẫn còn nhiều vấn đề phải được nghiên cứu.
1.1.2. Nghiên cứu đa dạng sinh học trên thế giới
Curtis và McIntosh (1951) (dẫn bởi Nguyễn Văn Thêm, 1996) [30] đã đề nghị
so sánh vai trò của các loài trong quần xã thông qua chỉ số quan trọng IV. Chỉ số
quan trọng IV được tính bình quân từ tổng của ba đại lượng – đó là độ thường gặp
tương đối (F%), mật độ tương đối (N%) và “độ ưu thế tương đối” (G%): theo công
thức

IV = (F% + N% + G%)/3

(1.11)

Độ thường gặp tương đối (F%) của một loài là tỷ lệ phần trăm độ thường gặp
của loài so với tổng độ thường gặp của tất cả các loài trong quần xã.
Mật độ tương đối (N%) của một loài là tỷ lệ phần trăm số cá thể của loài này
so với tổng số cá thể của tất cả các loài trong quần xã (ô mẫu).
Độ ưu thế tương đối (G%) của một loài là tỷ lệ phần trăm tổng tiết diện ngang
thân cây của loài so với tổng tiết diện ngang thân cây của tất cả các loài trong quần
xã (ô mẫu).
Khi tổng (F% + N% + G%) = 300%, thì quần xã thực vật chỉ bao gồm 1 loài
cây gỗ.
Nghiên cứu về đa dạng sinh học với chuyên đề những chỉ số thăm dò và ưu
thế trong công tác bảo tồn đã được tác giả Perman. D. L , Adelson. G (1991) [28]
nhấn mạnh rằng: đa dạng sinh học dần hết sức trở nên phổ biến trong các hoạt động
về khoa học môi trường và ngày càng phổ biến trong các chương trình giáo dục đại
học.
Theo Udvardi (Walters và Hamilton, 1993), thì trên thế giới bao gồm nhiều
chỉnh thể sinh vật. Sự phân chia đó tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và các sinh vật
sống trên đó. Mỗi một chỉnh thể được xem là một hệ sinh thái lớn bao gồm nhiều hệ


12

sinh thái nhỏ tập hợp lại. Sự phân bố đó tùy thuộc vào nhiều hệ sinh thái khác nhau
bao gồm: 1. Rừng mưa nhiệt đới; 2. Rừng mưa Á nhiệt đới – ôn đới; 3. Rừng lá kim
ôn đới; 4. Rừng khô nhiệt đới; 5. Rừng lá rộng ôn đới; 6. Thảm thực vật Địa Trung
Hải; 7. Sa mạc và bán sa mạc ẩm; 8. Đầm rêu và sa mạc; 9. Sa mạc và bán sa mạc
lạnh; 10. Trảng cỏ và đồng cỏ nhiệt đới; 11. Đồng cỏ ôn đới; 12. Thảm thực vật rừng

núi cao; 13.Thảm thực vật vùng đảo; 14. Thảm thực vật vùng hồ. (Cao Thị Lý và
cộng tác viên , 2002) [29].
Heywood. V.H. (1995) [38] trong công trình đánh giá đa dạng sinh học toàn
cầu đã nghiên cứu về đặc điểm và sự phân bố của đa dạng sinh học, chức năng của
các hệ sinh thái và loài đối với môi trường, giá trị kinh tế của đa dạng sinh học, đề
xuất các phương pháp bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
Blanc. L (1996) [35] và các tác giả đã nghiên cứu cấu trúc, kết cấu thành phần
thực vật của 3 kiểu rừng tại Vườn Quốc gia Cát Tiên ở Việt Nam, một khu rừng rất
gần với Vườn Quốc gia Bù Gia Mập về mặt địa lý. Nghiên cứu đã thiết lập 5 ô định
vị, mỗi ô có diện tích 1 ha trên vùng đất thấp, trong đó hai ô thiết lập trên kiểu rừng
nửa rụng lá với loài cây Bằng lăng chiếm ưu thế, một ô thiết lập trên kiểu rừng nửa
rụng lá với loài cây họ Dầu chiếm ưu thế, hai ô thiết lập trên kiểu rừng thường xanh
nửa rụng lá. Tiến hành thu thập dữ liệu của các cây gỗ có đường kính ngang ngực (D
1,3), đo chiều cao cây và phân ra những cây tầng trội với chiều cao cây > 25 m, và
tầng dưới có chiều cao < 25 m tiến hành thống kê số lượng cá thể. Xác định vị trí các
ô tiêu chuẩn trên bản đồ, định danh tên các loài cây. Tác giả đã tính toán, sử lý số
liệu bằng các chỉ tiêu định lượng như chỉ số tương đồng Jaccard bằng công thức:
J  100 x (

C
)
Ux+Uy+C

(1.12)

Trong đó C là số loài chung tìm thấy trong cả 2 ô x và y, Ux và Uy là số loài
tìm thấy chỉ có ở ô x hoặc ô y. Sau khi tính toán tác giả đã cho ta thấy mối quan hệ
giữa các loài trong các ô nghiên cứu. Tác giả đã tính toán định lượng một số chỉ tiêu



13

đa dạng sinh học như chỉ số đa dạng Shanon – Weiner, chỉ số phong phú loài, chỉ số
đa dạng Simpson, chỉ số quan trọng IV và so sánh các chỉ số đa dạng giữa các ô mẫu
với nhau (so sánh giữa các kiểu rừng). Nghiên cứu của các tác giả cũng đã so sánh
một số chỉ tiêu đo đếm như tiết diện ngang trung bình, tổng tiết diện ngang/ha, mật
độ số cây/ha của vùng nghiên cứu với một số vùng thuộc vùng Đông Nam Á (Bảng
1.1)
Bảng 1.1. So sánh mật độ, đường kính trung bình của rừng nhiệt đới
một số vùng ở Đông Nam Á (Nguồn Blanc. L,1996)
Vùng nghiên cứu

Đường kính trung Mật độ trung Tiết diện ngang
bình (cm)

bình cây /ha

trung bình m2/ha

Uppangala, Indian

30,0

625

39,7

Danum Valley, Sabah

30,0


470

26,6

Pasoh, Malaysia

31,4

530

25,2

Sungei-Menyala

31,4

493

32,4

Mulu, Sarawak

31,4

739

57,0

Cat Tien Vietnam


31,4

469

31,3

Mcintosh và Cộng tác viên, (2001) [40] đã nghiên cứu phục hồi rừng ngập
mặn và đa dạng sinh học vùng cửa biển ở Ranong, Thái Lan bằng phương pháp thu
thập số liệu trên thực địa với ô đo đếm là 100 m2 và xử lý số liệu bằng phần mềm
PRIMER 5 (Clarke và Warwick, 2001) để xác định các chỉ số đa dạng sinh học, sử
dụng SIMPER (Similarity Percent) để mô tả sự đóng góp của các loài trong quần xã,
tính ma trận tương đồng (Similarity matrices) trên cơ sở tương đồng của Bray –
Curtis, vẽ sơ đồ nhánh Cluster và NMDS (Non Metric Multi – Dimensional Scaling)


14

để mô tả mối quan hệ giữa các ô đo đếm. Nghiên cứu đa dạng sinh học theo phương
pháp này đã phân tích, đánh giá, so sánh đa dạng sinh học dựa trên các chỉ số, các
biểu đồ cụ thể từ đó các kết luận của nghiên cứu mang tính khoa học cao.
Terry C . H (2001) [44] cùng một số tác giả khác đã nghiên cứu đánh giá
thực vật ở vùng rừng Takamada của Cameroon. Để nghiên cứu đánh giá thực vật các
tác giả đã thiết lập hơn 300 ô mẫu có kích 100 x 100 m (1 ha) ở 23 quốc gia ký hiệu
là ô mẫu là BDP, xung quanh các ô mẫu này thiết lập 38 ô mẫu có kích thước 10 x
10 m (1.00 m2) được ký hiệu là MWP. Theo hình 2.1, trong các ô mẫu đo đếm các
cây có D1,3 (đường kính ngang ngực) ≥ 10 cm , các ô mẫu được thiết lập ở các đai
độ cao khác nhau.

(Nguồn Terry C . H., 2001)


Hình 1.1. Sơ đồ thiết lập ô mẫu nghiên cứu thực vật tại vùng Takamada
Sau khi thu thập số liệu trên các ô mẫu nghiên cứu đã xử lý số định lượng như
tính chỉ số quan trọng IV dựa trên các nhân tố tần suất xuất hiện tương đối, mật độ
tương đối, tiết diện ngang tương đối, đặc biệt nghiên cứu tính chỉ số che phủ vùng
dựa trên mật độ tương đối và tiết diện ngang tương đối theo công thức sau:
Chỉ số che phủ vùng (CV%)= Mật độ tương đối (RF%) + Ưu thế tương đối (RD%)


15

RD =

Tổng tiết diện ngang của loài nghiên cứu
x100%
Tổng tiết diện ngang của tất cả các loài

(1.13)

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã thống kê được số lượng cá thể, lồi, chi, họ trong
vùng nghiên cứu, tính được chỉ số quan trọng IV dựa trên hai chỉ số đó là chỉ số bao
phủ vùng và tần suất xuất hiện tương đối. Phân tích thành phần cấu trúc, kết cấu
rừng theo các kiểu rừng trên các đai độ cao khác nhau.
Slik J. W. F và cộng sự (2003) [43] đã phân tích hệ thực vật cây họ Dầu trên
vùng đất thấp ở Borneo. Các tác giả đã nghiên cứu đặc điểm hệ thực vật cây họ Dầu
trên vùng đất thấp dưới 500 m so với mực nước biển ở Borneo, xác định được các
taxa trong vùng. Nghiên cứu đa dạng thực vật trong vùng nghiên cứu, mối quan hệ
đa dạng sinh học với các nhân tố, điều kiện như lượng mưa hàng năm, điều kiện địa
hình, khoảng cách giữa các ơ mẫu. Tác giả đã thiết kế 28 ơ mẫu nghiên cứu ở 6 vùng
khác nhau và rút ngẫu nhiên 640 cá thể, đo đếm đường kính ngang ngực (D 1,3 ) của

các cây có D 1,3 ≥ 9,8 cm. Sử dụng phương pháp phân tích ma trận tương đồng, sơ
đồ nhánh UPGMA của Sorensen và Steinhaus (1997) để phân tích mối quan hệ giữa
các vùng nghiên cứu, sự ảnh hưởng của nhân tố lượng mưa hàng năm, điều kiện địa
hình đến cấu trúc hệ thực vật giữa các ơ nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu đã xác định được số họ, chi thực vật trong vùng nghiên
cứu. Xác định được đa dạng thực vật cao nhất trong 6 vùng nghiên cứu. Cơng trình
đã đưa ra kết luận đa dạng thực vật phụ thuộc rất lớn vào yếu tố địa hình và lượng
mưa hàng năm.
Boris. C (2004) khi nghiên cứu chức năng và hoạt động đánh giá nơng nghiệp
trong một vùng các tác giả đã chú ý đến việc đánh giá tác động của con người đến
đa dạng sinh học vùng nơng nghiệp và các biện pháp bảo tồn. Đa dạng sinh học rất
phức tạp và nó được chia ra các mức độ đó là đa dạng gen, lồi, hệ sinh thái và q
trình hệ sinh thái và giữa chúng có quan hệ với nhau. Khi đánh giá đa dạng sinh học
các tác giả đã sử dụng cơng cụ đánh giá bằng định lượng, Các chỉ số cơ bản sử dụng


16

trong nghiên cứu định lượng đó là: Từ việc đo đếm trực tiếp đã đưa ra được các taxa
như là số họ, chi, loài, thứ, kiểu sinh thái của mỗi vùng, sử dụng một số chỉ số định
lượng khác như độ phong phú loài (Species richness S) được tính bởi công thức S =
ni trong đó ni loài thứ i. Chỉ số đa dạng Alpha (Hα’) được tính bởi công thức (Hα’) =
pi log2pi trong đó pi là tần suất xuất hiện loài thứ i. Chỉ số Beta (Hβ’) = (S/m)-1,
trong đó S là tổng số loài trong khu vực nghiên cứu, m là số loài trung bình của mỗi
vùng. Chỉ số đồng đều J được tính bởi công thức J = H’/Log2S. Chỉ số ưu thế D tính
bởi công thức D = ∑pi2. Chỉ số hiếm Ir = ∑Ci/S, trong đó Ci là hệ số hiếm của loài
nghiên cứu (biến động từ 1 - 13). Kết quả nghiên cứu định lượng được chức năng
của đa dạng sinh học trong vùng.
Nghiên cứu các quần xã thực vật và đa dạng sinh học ở vùng TaburnoCamposauro theo Gaurino. C, Napolitano. F (2006) , đã nghiên cứu với diện tích
vùng nghiên cứu 137,8 km2 và ở độ cao trên 1.300 m so với mực nước biển với ô

nghiên cứu (1 km x 1 km) bằng việc điều tra thống kê các loài thực vật, kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra được các loài hiếm và mức độ hiếm. Căn cứ kết quả tính toán
chỉ số hiếm IR để đánh giá mức độ hiếm của từng loài và quần xã thực vật trong khu
vực nghiên cứu theo các thang bậc sau đây: IR từ 78,08% - 95% là loài hiếm R (rare
species), khi chỉ số IR từ 95 - 97% là loài rất hiếm MR (very rare species), chỉ số IR
> 97% là loài cực kỳ hiếm RR (extremely rare species).
Từ kết quả đánh giá mức độ hiếm của từng loài, quần xã tác giả đưa ra các
biện pháp bảo tồn các loài thực vật trong khu vực nghiên cứu.
1.2. Tại Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng trong nước
Trong vòng vài chục năm qua, nghiên cứu về cấu trúc rừng là một trong
những nội dung quan trọng nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật phù hợp. Tuy nhiên,


17

cấu trúc rừng là một vấn đề có nội dung phong phú và đa dạng, nên ở đây, chỉ những
đặc trưng cấu trúc có liên quan đến đề tài mới được đề cập.
Trần Ngũ Phương (1970) đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm thực
vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình hình rừng
miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nhân tố cấu trúc đầu tiên được nghiên cứu là
tổ thành và thông qua đó một số quy luật phát triển của các hệ sinh thái rừng được
phát hiện và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
Thái Văn Trừng (1978) [15] đã tiến hành phân chia thực vật rừng nhiệt đới
thành 5 tầng: tầng vượt tán (A1), tầng ưu thế sinh thái (A2), tầng dưới tán (A3), tầng
cây bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Việc áp dụng phương pháp vẽ "biểu đồ phẫu diện"
sau khi đã đo tính chính xác vị trí, chiều cao và đường kính thân cây, bề rộng và bề
dày tán lá của toàn bộ những cây gỗ (tầng A) trên một dải hẹp điển hình của khu tiêu
chuẩn theo Richards và Davis (1934) đã thể hiện khá rõ sự phân chia theo tầng của
thực vật trong hệ sinh thái rừng. Bên cạnh đó, tác giả này còn dựa vào 4 tiêu chuẩn

để phân chia kiểu thảm thực vật rừng Việt Nam, đó là dạng sống ưu thế của những
thực vật trong tầng cây lập quần, độ tàn che nền đất đá của tầng ưu thế, hình thái
sinh thái lá và trạng mùa của tán lá. Như vậy, các nhân tố cấu trúc rừng được vận
dụng triệt để trong phân loại rừng theo quan điểm sinh thái phát sinh quần thể.
Nguyễn Văn Trương (1984) [38] khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài đã
xem xét sự phân tầng theo hướng định lượng, phân tầng theo cấp chiều cao một cách
cơ giới. Từ những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, Vũ Đình Phương
(1987) đã nhận định, việc xác định tầng thứ của rừng lá rộng thường xanh là hoàn
toàn hợp lý và cần thiết, nhưng chỉ trong trường hợp rừng có sự phân tầng rõ rệt (khi
đã phát triển ổn định) mới sử dụng phương pháp định lượng để xác định giới hạn của
các tầng cây. Đào Công Khanh (1996) đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu
trúc rừng lá rộng thường xanh ở Hương Sơn, Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất một số biện


18

pháp lâm sinh phục vụ khai thác và nuôi dưỡng rừng. Nguyễn Anh Dũng (2000) đã
tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng là
IIA và IIIA1 ở lâm trường Sông Đà - Hoà Bình. Các nghiên cứu này sẽ được đề tài
xem xét và lựa chọn để vận dụng vào các nội dung nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, do có sự hỗ trợ của các phần mềm tính toán, nên
có rất nhiều công trình nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng, nổi bật là các công
trình của các tác giả sau: Đồng Sĩ Hiền (1974) dùng hàm Meyer và hệ đường cong
Poisson để nắn phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên
làm cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam. Nguyễn Hải Tuất (1975)
đã sử dụng hàm phân bố giảm, phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ
sinh và áp dụng quá trình Poisson vào nghiên cứu trúc quần thể rừng.
1.2.1.1. Phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3)
Với rừng tự nhiên hỗn giao khác tuổi, từ kết quả nghiên cứu của Đồng Sĩ Hiền
(1974) cho thấy, dạng tổng quát của phân bố N/D là phân bố giảm, nhưng do quá

trình khai thác chọn thô không theo quy tắc, nên đường thực nghiệm thường có dạng
hình răng cưa và ông đã chọn hàm Mayer để mô phỏng quy luât cấu trúc đường kính
cây rừng, Nguyễn Hải Tuất (1986) sử dụng phân bố khoảng cách mô tả phân bố thực
nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ đường kính bắt đầu đo, Bảo Huy (1993) cho
rằng phân bố khoảng cách thích hợp hơn các dạng phân bố khác, Trần Văn Con
(1991), Lê Minh Trung (1991), Trần Xuân Thiệp (1995), Lê Sáu (1996) , Trần Cẩm
Tú (1999) lại cho rằng hàm Weibull thích hợp hơn cả, Đào Công Khanh (1996) thì
cho rằng dạng tần số luỹ tích thích hợp, vì biến động của đường thực nghiệm này
nhỏ hơn rất nhiều so với biến động số cây hay % số cây ở các cỡ kính. Qua tham
khảo các tài liệu liên quan cho thấy, việc nghiên cứu phân bố N/D trong thời gian
gần đây không chỉ dừng lại ở mục đích phục vụ công tác điều tra như xác định tổng


19

diện ngang, trữ lượng mà còn xây dựng cơ sở khoa học cho các giải pháp lâm sinh
trong nuôi dưỡng rừng, làm giàu rừng.
1.2.1.2. Phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N/H)
Theo nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) cho thấy, phân bố số cây theo
chiều cao (N/H) ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng loài cây thường có nhiều
đỉnh, phản ánh kết cấu phức tạp của rừng chặt chọn. Thái Văn Trừng (1978) trong
nghiên cứu của mình đã đưa ra các kết quả nghiên cứu cấu trúc của tầng cây gỗ rừng
loại IV. Bảo Huy (1993), Đào Công Khanh (1996), Lê Sáu (1996), Trần Cẩm Tú
(1999), đã nghiên cứu phân bố N/H để tìm tầng tích tụ tán cây. Các tác giả đều đi
đến nhận xét chung là, phân bố N/H có dạng một đỉnh, nhiều đỉnh phụ hình răng cưa
và mô tả thích hợp bằng hàm Weibull.
1.2.1.3. Tương quan giữa chiều cao với đường kính (H-D1.3)
Đồng Sỹ Hiền (1974) đã sử dụng phương trình Logarit hai chiều hoặc hàm mũ
để mô tả quan hệ H-D đồng thời cho thấy khả năng sử dụng một phương trình chung
cho cả nhóm loài cây có tương quan H-D thuần nhất với nhau.

Vũ Đình Phương (1975) [11] cho rằng, có thể lập biểu cấp chiều cao lâm phần
Bồ đề tự nhiên từ phương trình Parabol bậc 2 mà không cần phân biệt cấp đất và
tuổi.
Vũ Nhâm (1988), Phạm Ngọc Giao (1995) dùng phương trình Logarit một
chiều xác lập quan hệ H-D cho các lâm phần Thông đuôi ngựa.
Bảo Huy (1993) [6] khi nghiên cứu tương quan H-D của một số loài cây ưu
thế: Bằng lăng, Cẩm xe, Kháo và Chiêu Liêu ở rừng rụng lá và nửa rụng lá khu vực
Tây Nguyên, đã thử nghiệm bốn phương trình:
h  a  b.d1,3

(1.14)

h  a  b.logd1,3

(1.15)

Logh  a  b.logd1,3

(1.16)


20

Logh  a  b.d1,3

(1.17)

Như vậy, trong thời gian qua, việc nghiên cứu cấu trúc rừng ở nước ta đã có
những bước phát triển nhanh chóng và có nhiều đóng góp nhằm nâng cao hiểu biết
về rừng, nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu cũng như sản xuất kinh doanh rừng.

Tuy nhiên, các nghiên cứu về cấu trúc rừng gần đây thường thiên về việc mô hình
hoá các quy luật kết cấu lâm phần và việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động
vào rừng thường thiếu yếu tố sinh thái nên chưa thực sự đáp ứng mục tiêu kinh
doanh rừng ổn định lâu dài. Bởi lẽ, bản chất của các biện pháp kỹ thuật lâm sinh là
giải quyết những mâu thuẫn sinh thái phát sinh trong quá trình sống giữa các cây
rừng và giữa chúng với môi trường. Muốn đề xuất được các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh chính xác, đòi hỏi phải nghiên cứu cấu trúc rừng một cách đầy đủ và phải đứng
trên quan điểm tổng hợp về sinh thái học, lâm học và sản lượng. Mặt khác, các
nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên thường ít đề cập cụ thể đến đối tượng
là loại rừng trên núi đất hay trên núi đá, núi đá vôi, hoặc ven biển. Vì vậy, nghiên
cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng ven biển không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc nhằm đề xuất những biện pháp kỹ thuật tác động hợp lý.
1.2.2. Nghiên cứu về đa dạng sinh học ở Việt Nam
Thời kỳ 1955 – 1975:
Trên phạm vi toàn quốc, trong thời kỳ này, về đa dạng thực vật trước hết phải
kể đến Bộ thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubréville khởi xướng và
chủ biên (1960 – 1997) cùng với nhiều tác giả khác nghiên cứu và hệ thống các loài
thực vật trên phạm vi cả nước. Đến nay đã công bố 29 tập nhỏ gồm 74 họ cây có
mạch nghĩa là chưa đầy 20% tổng số họ đã có.
Phạm Hoàng Hộ (1970 – 1972) [24] công bố 2 tập “Cây cỏ miền Nam Việt
Nam” giới thiệu 5.326 loài, trong đó có 60 loài thực vật bậc thấp và 20 loài rêu, còn
lại 5.246 loài thực vật có mạch. Trần Ngũ Phương (1970) đã chia rừng Miền Bắc


21

Việt Nam thành 3 đai rừng với 9 kiểu rừng khác nhau và UNESCO (1973) đã chia
thảm thực vật Việt Nam thành 4 lớp quần hệ với 25 kiểu rừng (trích dẫn bởi Phùng
Ngọc Lan và ctv, 2006).
Thời kỳ sau năm 1975:

Phan Kế Lộc (1983) [34] đã vận dụng bảng phân loại thảm thực vật của
UNESCO (1973) để xây dựng khung phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam. Tác
giả đã chia thảm thực vật rừng Việt Nam ra làm 5 kiểu chính đó là: Rừng rậm, rừng
thưa, trảng cây bụi, trảng cây bụi lùn, trảng cỏ.
Về mặt thực vật trên phạm vi toàn quốc phải kể đến bộ “Cây cỏ Việt Nam”
của Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1993) [24] xuất bản tại Canada và được tái bản có bổ
sung tại Việt Nam trong hai năm 1999 – 2000. Đây là bộ sách đầy đủ nhất và dễ sử
dụng nhất đã đóng góp phần đáng kể cho khoa học thực vật ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia trên thế giới có đa dạng sinh học cao. Theo Nguyễn
Nghĩa Thìn (1997), nước ta có khoảng 11.373 loài thực vật thuộc 2.524 chi và 378
họ (trích dẫn bởi Phùng Ngọc Lan và ctv, 2006). Các hệ sinh thái ở Việt Nam cũng
rất đa dạng. Theo Thái Văn Trừng (1978), trên quan điểm sinh thái đã phân loại
thảm thực vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu: 1. Kiểu rừng kín thường xanh mưa
nhiệt đới (Rkn), 2. Kiểu rừng kín nửa thường xanh ẩm nhiệt đới (Rkn), 3. Kiểu rừng
kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới (Rkr), 4. Kiểu rú kín lá cứng hơi ẩm nhiệt đới (Rkc), 5.
Kiểu rừng thưa, cây lá rộng hơi khô nhiệt đới (Rtr), 6. Kiểu rừng thưa, cây lá kim
hơi khô nhiệt đới (Rtk), 7. Kiểu rừng thưa, cây lá kim hơi khô á nhiệt đới núi thấp
(Rta), 8. Kiểu trảng cây to, cây bụi, cỏ cao, khô nhiệt đới (Tct, Tcb, Tcc), 9. Kiểu
truông bụi gai, hạn nhiệt đới (Tbg), 10. Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa á
nhiệt đới núi thấp (Rka), 11. Kiểu rừng kín hỗn giao cây lá rộng và lá kim, ẩm, á
nhiệt đới núi thấp (Rkh), 12. Kiểu rừng kín cây lá kim ẩm, ôn đới, núi vừa (Rkk), 13.
Kiểu quần hệ khô vùng cao (Qkc), 14. Kiểu quần hệ lạnh vùng cao (Qlc).


22

Phạm Nhật (2003) [33] đã nghiên cứu và đề xuất những kiến thức, kỹ năng cơ
bản về điều tra giám sát đa dạng sinh học, đưa ra các phương pháp rất chi tiết về điều
tra giám sát đa dạng sinh học thực vật, thảm thực vật và động vật ngoài thực địa.
Lê Quốc Huy (2005) [25] đã trình bày một số phương pháp nghiên cứu phân

tích định lượng các chỉ số đa dạng sinh học thực vật như nghiên cứu, đánh giá thảm
thực vật với chỉ số giá trị quan trọng IV, chỉ số đa dạng sinh học loài H’e Shannon
và Weiner’s Index), chỉ số ưu thế, chỉ số tương đồng (Index of similarity), phương
pháp phân tích đường cong đa dạng ưu thế. Tác giả đã chỉ ra các phương pháp
nghiên cứu đa dạng sinh học và các chỉ số để đánh giá đa dạng sinh học. Khi đánh
giá về đánh giá mô hình thử nghiệm trồng cây bản địa thuộc dự án trồng rừng KFW2
tại Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị bằng phương pháp phân tích định lượng thảm
thực vật. Phương pháp này đã tính toán, phân tích định lượng các các chỉ số đa dạng
sinh học, phân tích đường cong đa dạng ưu thế, dùng chỉ số giá trị quan trọng IV để
biểu thị cấu trúc không gian, mối tương quan và trật tự ưu thế giữa các loài trong
một quần thể thực vật.
Phùng Ngọc Lan và cộng tác viên (2006) [28] đã có công trình nghiên cứu
về hệ sinh thái rừng Việt Nam. Kết quả của công trình nghiên cứu này đã thống kê
và đánh giá được đa dạng hệ sinh thái rừng nhiệt đới và đa dạng loài sinh vật tại Việt
Nam.
Để bảo tồn các loài cây gỗ quý, hiếm Việt Nam theo hình thức ngoại vi,
Nguyễn Văn Trương và cộng tác viên tv (2006) [26] đã đúc kết các kinh nghiệm
trong quá trình nghiên cứu và đề xuất phương pháp bảo tồn đối với từng loài cụ thể.
Cao Thị Lý (2008) đã nghiên cứu đa dạng sinh học trên khía cạnh những vấn
đề liên quan đến tổng hợp tài nguyên rừng ở một số Khu Bảo tồn thiên nhiên vùng
Tây Nguyên từ đó đề xuất giải pháp bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học.


23

Viên Ngọc Nam và ctv (2008) [31] đã nghiên cứu đa dạng sinh học về thực
vật trong Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ, thành
phố Hồ Chí Minh bằng phương pháp khảo sát thực địa để thu thập số liệu và xử lý số
liệu bằng phần mềm PRIMER 5 để phân tích các chỉ số đa dạng sinh học. Tác giả sử
dụng SIMPER (Similarity Percent) để mô tả mức độ đóng góp của các loài trong

quần xã, chỉ số Caswell (V) để so sánh mức độ xáo trộn của môi trường, chỉ số đa
dạng Shannon (H’e) thực tế đo và Shannon (H’e) lý thuyết để xem xét sự thay đổi
tác động của môi trường. Tác giả cũng tính ma trận tương đồng (Similarity matrices)
trên cơ sở tương đồng Bray–Curtis, vẽ các sơ đồ nhánh Cluster và sử dụng NMDS
(Non-Metric multi-Dimensional Scaling), PCA (Principal Component Analysis) để
mô tả mối quan hệ giữa các loài, các ô đo đếm từ ma trận tương đồng với các yếu tố
lập địa, ngập triều, đất.
Ngoài ra, một tài liệu về thực vật cũng dễ sử dụng trong việc phân loại và
nhận biết thực vật của Trần Hợp – Nguyễn Bội Quỳnh (1993) là cuốn “Cây gỗ kinh
tế”. Tuy nhiên, tài liệu này chỉ gói gọn trong việc mô tả về các loài cây có giá trị
kinh tế từ cây gỗ nhỡ đến cây gỗ lớn mà không đề cập tới những cây dây leo, cây bụi


24

Chương 2
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
2.1.1. Vị trí địa lý
Vườn Quốc gia Bù Gia Mập nằm ở phía Bắc của tỉnh Bình Phước thuộc địa
phận hành chính xã Đắk Ơ, Bù Gia Mập, huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước, cách
thành phố Hồ Chí Minh 200 km và tỉnh lỵ của tỉnh Bình Phước 100 km. Vườn Quốc
gia Bù Gia Mập có tọa độ địa lý: Từ 12o8'30" đến 12o7'3" vĩ độ Bắc. Từ 107o3'30"
đến 107o4'30" kinh độ Đông.
- Phía Tây và Tây Bắc giáp sông Đăk Huýt và là biên giới giữa Việt Nam và
Vương quốc Campuchia.
- Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đăk Nông.
- Phía Nam giáp Ban Quản lý rừng phòng hộ Đăk Mai và Ban Quản lý rừng
phòng hộ Đăk Ơ. Vườn có diện tích vùng lõi 25.926 ha trong đó phân khu bảo vệ
nghiêm ngặt 18.163 ha, phân khu phục hồi sinh thái 7.663 ha, phân khu hành chính

dịch vụ 100 ha. Diện tích vùng đệm 15.200 ha, phía tỉnh Bình Phước là 7.200 ha,
phía tỉnh Đắk Nông là 8.000 ha.
Vườn Quốc gia Bù Gia Mập có 4 chức năng chính (i) Duy trì và bảo tồn mẫu
chuẩn hệ sinh thái đồi núi thấp chuyển tiếp từ Cao nguyên xuống đồng bằng Nam bộ
có độ cao dưới 1.000 m, được coi là rất đặc trưng, (ii) bảo tồn các loài động thực vật
quí hiếm. (iii) Rừng phòng hộ cho các thủy điện Soc Phu Miên, Cần Đơn, Thác Mơ.
(iv) Xây dựng cơ sở vật chất, phục vụ nghiên cứu khoa học, phát triển du lịch sinh
thái. (Quyết định số 170/2002/QĐ-TTg, ngày 27/11/2002)


×