Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất phát triển sản xuất nông lâm nghiệp tại xã kim sơn 1, huyện hương sơn, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

DƯƠNG VĂN MINH

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ SƠN KIM 1
HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

DƯƠNG VĂN MINH

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ SƠN KIM 1
HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.02.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN HỮU VIÊN

HÀ NỘI, 2012


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi truờng sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư,
xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội an ninh, quốc phòng. Không giống tư
liệu sản xuất khác, nếu được sử dụng hợp lý thì trong quá trình sản xuất, đất đai
không những không bị bào mòn mà ngày càng tốt lên. Sử dụng hợp lý đất đai là yêu
cầu cần thiết cho sự PTBV. Chỉ có QHSDĐ phù hợp với từng địa bàn cụ thể, đất đai
mới đáp ứng được yêu cầu trên.
QHSDĐ là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà
nước về tổ chức SDĐ đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông qua việc phân phối và
tái phân phối quỹ đất, tổ chức SDĐ như một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu
sản xuất khác gắn liền với đất và nâng cao hiệu quả SDĐ, hiệu quả sản xuất xã hội,
tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường.
Để đảm bảo cho sản xuất nông, lâm nghiệp tăng trưởng liên tục, lâu dài và bền
vững cho NTMN, đòi hỏi công tác QHSDĐ nông lâm nghiệp phải được chú trọng
và quan tâm hàng đầu. Công tác QHSDĐ phải là bước đi đầu tiên có tính chất hoạch
định cho PTSX nông lâm nghiệp. Do đó cần phải có sự phối kết hợp, xem xét, cân
nhắc kỹ lưỡng nhằm phát huy tối đa những mặt thuận lợi của ĐKTN, KTXH, phù
hợp với nguồn lực, với tâm tư nguyện vọng, phong tục tập quán của người dân địa

phương. Để QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp có hiệu quả, cần thực hiện từ những
đơn vị hành chính nhỏ nhất như cấp xã bởi cấp xã có vị trí quan trọng trong việc ổn
định xã hội và phát triển kinh tế trên địa bàn nông thôn Việt Nam nói chung và
miền núi nói riêng. Trên một đơn vị xã thường tồn tại song song nhiều dân tộc anh
em khác nhau cùng sinh sống và làm ăn. Mỗi dân tộc đều có tâm lý, phong tục tập
quán, trình độ phát triển, văn hoá, kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Vì vậy việc tổ
chức, quản lý sao cho phù hợp với từng địa bàn cụ thể, đảm bảo SDĐ đai, tài
nguyên hợp lý, có hiệu qủa, bền vững và an toàn sinh thái chính là nhiệm vụ của
QHSDĐ, PTSX nông, lâm, ngư nghiệp..


2

Trong phát triển KTXH của NTMN nước ta, QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp
cấp xã có sự tham gia của người dân giữ một vị trí hết sức quan trọng nhằm giúp
người dân có thể tự QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp của mình một cách hợp lý,
có hiệu quả, trên nguyên tắc bền vững, bảo đảm hài hoà giữa lợi ích kinh tế với lợi
ích xã hội và MTST. Tuy nhiên, có thể thấy QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp cấp
xã hiện nay vẫn còn một số tồn tại về phương pháp tiếp cận, công tác điều tra cơ
bản và cơ sở thực tiễn của đất đai.
Một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta gần đây như: Nghị
quyết 26/TƯ về nông nghiệp ngày 5/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Khoá X
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Thông báo 238-TB/TƯ ngày 7/4/2009 của
Ban bí thư về chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa; Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày
16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn
mới; Thông tư số 07/2010/TT-BNN ngày 8/2/2010 của Bộ Nông nghiệp & PTNT
V/v: Hướng dẫn quy hoạch PTSX nông nghiệp cấp xã theo Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới, đã tác động một cách đáng kể đến hoạt động QHSDĐ, PTSX nông,
lâm, nghiệp trong phạm vi cả nước.

Sơn Kim I là một xã trung du miền núi của huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, có
diện tích tự nhiên 22.261,97 ha, Việc SDĐ đai của đại bộ phận nhân dân trong xã là
nông, lâm, ngư nghiệp theo phong tục tập quán canh tác thuần nông lâu đời, thực tiễn
SDĐ nông, lâm, ngư nghiệp tại Sơn Kim còn manh mún và chưa đồng bộ. Bên cạnh
đó, việc người dân chưa nhận thức đầy đủ về luật đất đai, luật bảo vệ và phát triển
rừng, SDĐ theo phong tục, sở thích, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi còn nhiều
lúng túng, người dân thiếu vốn sản xuất và canh tác không đúng kỹ thuật đã ảnh
hưởng không tốt đến hiệu quả SDĐ và môi trường. Vì vậy, việc quy hoạch phân bổ
lại quỹ đất trên địa bàn xã sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, PTSX nông lâm
nghiệp đáp ứng được yêu cầu phát triển KTXH, nâng cao đời sống nhân dân và cân
đối được nhu cầư SDĐ đai là hết sức cần thiết. Cho nên việc xác định lựa chọn cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, các hệ thống biện pháp canh tác chưa hợp lý dẫn đến năng


3

suất, chất lượng chưa cao, đồng thời việc bảo vệ môi trường sinh thái chưa thực sự
ổn định, bền vững.
Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn trên tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu
đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất phát triển sản xuất nông lâm nghiệp xã Sơn
Kim I, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh”


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở khoa học của QHSDĐ, PTSX nông
lâm nghiệp trên thế giới
Mô hình SDĐ đầu tiên trên thế giới là du canh, chính là những hệ thống nông

nghiệp trong đó đất được phát quang để canh tác trong một thời gian bỏ hoá (Conklin,
(1957). Du canh được xem là PTCT cổ xưa nhất nó ra đời vào cuối thời kỳ đồ đá, khi
con người đã tích luỹ được những kiến thức ban đầu về tự nhiên. Loài người đã vượt
qua thời kỳ này bằng cuộc cánh mạng về kỹ thuật và trồng trọt. Mãi đến gần đây du
canh vẫn còn được vận dụng trên các rừng Vân Sam ở Bắc Âu (Cox và Atkinss (1979);
Russell (1968); Ruddle và Manshard (1981). Mặc dù hạn chế nhiều mặt về MTST,
song phương thức này vẫn được sử dụng khá phổ biến ở các vùng nhiệt đới. Về chiến
lược phát triển kinh tế bền vững, du canh không được nhiều Chính phủ và cơ quan
quốc tế coi trọng bởi vì du canh được coi như là sự phí phạm về sức người, tài nguyên
đất đai, là nguyên nhân chính gây ra xói mòn và thoái hoá đất.
Sau du canh là sự ra đời của các phương thức Taungya ở vùng nhiệt đới.
Taungya được xem như một dấu hiệu báo trước cho các phương thức SDĐ sau này
(Nair, 1978). Theo Blanford thì nguồn gốc của phương thức này được xuất phát từ
một địa phương, để chỉ phương thức du canh. Sau đó được miêu tả về phương pháp
phục hồi rừng ở Miến Điện vào những năm 1850 - 1858, do nhà tư bản Anh Quốc
Dictaich Brandis vận dụng trong nghiên cứu tái sinh rừng Tếch (Blanford, 1958).
Từ khi Dictaich Brandis cho những người dân sở tại (làm thuê) được tiến hành
trồng cây nông nghiệp ngắn ngày, kết hợp dưới rừng Tếch, ông đã rút ra kết luận là
có thể trồng rừng Tếch với giá rất thấp. Sau đó 2 thập kỷ, HTCT Taungya được cải
tiến sửa đổi và dần dần được hoàn thiện, phổ biến trên toàn thế giới và được coi như
là một hệ thống SDĐ có hiệu quả kinh tế lẫn MTST. Theo thông báo của FAO năm
1990, đến nay đã có tới 117 nước trên thế giới áp dụng phương thức này.
- Hệ thống Taungya được mọi người biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, ở
một số nước các tên gọi được biểu thị cho sự đặc biệt của phương thức du canh, ở


5

Inđônêxia người ta gọi là Tumbansang, ở Philippin là Kaigining; ở Malayxia là La
dang; ở Srilanka là China... Theo Von Hesmen (1966; 1970) và King (1979), hầu

hết các rừng trồng ở vùng nhiệt đới đều được hình thành từ những phương thức này,
đặc biệt là ở Châu Á và Châu Phi.
Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ra đạo luật SDĐ đai vào năm 1929, tiếp theo là xây
dựng KHSDĐ đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin. Kế hoạch này đã xác định
các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.
Năm 1966 Hội đất học và Hội nông dân học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về
hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng QHSDĐ. Tại Đức
tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu “Khái niệm về SDĐ”, đây được coi là
lý thuyết sinh thái về QHSDĐ dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính
đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng
điều chỉnh. Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức
FAO tổ chức nhiều hội nghị về PTNT và QHSDĐ. Các hội nghị này khẳng định
rằng quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch các ngành sản xuất như nông
nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nhỏ . . . cũng như quy hoạch CSHT, đặc
biệt là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1971 và 1975 các
chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thuỵ sỹ) để thảo luận về
phương pháp luận quy hoạch nông thôn. Nội dung các cuộc thảo luận đã đề cập đến
các phương pháp cùng tham gia trong quy hoạch cấp vi mô.
Năm 1997, Gilmour đã phân biệt 2 loại tiếp cận, đó là tiếp cận kinh điển
(classical approach) và tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (people’s centered
approach). Những nghiên cứu của Ông về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở
Nepal chứng tỏ những ưu thế về tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện kế hoạch
phát triển cộng đồng.
Những kết quả phân tích HTCT tại Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ đã xác nhận
rằng phân tích HTCT là một công cụ quy hoạch, lập KHSDĐ lâm nghiệp cấp địa
phương. Năm 1990, Luning đã nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với phân tích
HTCT cho QHSDĐ. Năm 1994, FAO đã công bố quy trình kết hợp đánh giá đất đai


6


với phân tích HTCT cho QHSDĐ (LEFA). Theo Erwin năm 1999, phân tích HTCT là
công cụ cho phân tích các trở ngại trong hệ thống nông trại HGĐ để xác định mục tiêu
quy hoạch, xác định các kiểu SDĐ hiện tại và phương pháp SDĐ mới, đánh giá
phương án SDĐ khác nhau nhằm mục đích lựa chọn phương án một cách tốt nhất.
Việc tìm tòi các giải pháp nhằm nâng cao sản lượng lương thực và khắc phục
tình trạng thiếu hụt về lượng ngũ cốc đã thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu giải
pháp SDĐ bền vững. Một trong những nghiên cứu thành công là tìm ra hệ thống kỹ
thuật canh tác trên đất dốc (SALT) nhằm sử dụng ổn định bền vững trên đất dốc đã
được Trung tâm đời sống nông thôn ở Bapstit Mindanao Philippin tổng kết hoàn
thiện và phát triển từ giữa những năm 1970 đến nay là mô hình SALT1, SALT2,
SALT3, SALT4 . . . đã và đang được áp dụng.
Vào năm 1990, khi nghiên cứu HTCT, FAO đã xuất bản cuốn "Phát triển
HTCT" (Farming system development). Công trình đã chỉ rõ phương pháp tiếp cận
nông thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều từ trên xuống, đã không
phát huy được tiềm năng nông trại và cộng đồng nông thôn. Thông qua nghiên cứu
và thực tiễn, ấn phẩm đã nêu lên phương pháp tiếp cận mới đó là phương pháp tiếp
cận có sự tham gia của người dân, nhằm phát triển hệ thống trang trại trong cộng
đồng nông thôn trên cơ sở bền vững.
Về phương pháp luận đã sử dụng đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia
của người dân vào việc nghiên cứu các HTCT. Theo Robert Chambers, các cách
tiếp cận chủ yếu là:
- Tiếp cận Son deo của Peter Hildebrand (Hildebrand, 1981).
- Tiếp cận "nông thôn - trở lại - về nông thôn" của Robert Rhoades (Rhoades, 1982).
- Cách sử dụng cụm kiến nghị của L.W.Harrington (1984)
- Cách tiếp cận tài liệu của Robert Chambers: "Nghiên cứu nông nghiệp cho
nông dân nghèo"
- Cách tiếp cận "chẩn đoán và thiết kế của ICRAF", (Raintree).
- Chương trình nông nghiệp quốc tế - bản phân tích theo vùng các hệ canh tác
của trường Đại học Cornel (Garrett và cộng sự, 1987).



7

Nhìn chung, các cách tiếp cận đó đều xem xét đánh giá nhanh như một quá
trình học tập liên tục và đang tiếp diễn, qua đó các kết quả của mỗi giai đoạn đều
được sử dụng để đánh giá lại các vấn đề và các biện pháp đã được dự kiến. Nhiều
biện pháp điều tra và phỏng vấn được xây dựng đến các cách tiếp cận đó.
Về mặt phương pháp, bản hướng dẫn quan tâm tới các vấn đề sau:
- Cung cấp các chỉ dẫn để xây dựng một khung cảnh đáng tin cậy nhằm tiến
hành phỏng vấn.
- Tiếp thu thông tin qua các phạm vi quen thuộc, đặc biệt là các mặt cân, đo và
ước tính thời gian.
- Tạo nên việc liên hệ tốt đối với người phải trả lời trước khi đi vào các vấn đề
tế nhị.
- Khuyến khích người được hỏi tham gia thảo luận về các lĩnh vực quan trọng
đối với họ.
- Thảo luận các kết quả trong suốt quá trình phỏng vấn cùng với tổ.
- Kiểm tra thông tin, quan sát và sử dụng các kỹ thuật lấy mẫu
Thực ra "sự tham gia" đã xuất hiện và đưa vào từ vựng của RRA từ giữa thập kỷ 70.
- Năm 1985 tại hội nghị RRA ở đại học Khon Kean (Thái Lan) từ "sự tham
gia/ người tham gia" được sử dụng với sự tiếp tục của RRA.
- Đến thời điểm 1987 - 1988 người ta chia phương pháp RRA ra làm 4 loại sau:
+ RRA cùng tham gia (Participatory RRA)
+ RRA thăm dò

(Exploratory RRA)

+ RRA chủ đề


(Topiacal RRA)

+ RRA giám sát

(Monitoring RRA)

Trong đó cùng tham gia là giai đoạn chuyển đổi đầu tiên sang PRA. Cũng
trong thời điểm 1988, tại hai địa điểm trên thế giới cũng thực hiện hai chương trình
phát triển nông thôn, trong đó PRA cũng được tham gia sử dụng tương tự như RRA.
(1) Ở Kenya, Văn phòng môi trường quốc gia hợp tác với Đại học Clack thực
hiện PRA ở Mbuasayi, một cộng đồng ở huyện Machakos. Một kế hoạch quản lý tài


8

nguyên cấp thôn, bản được xây dựng tháng 9/1988. Sau đó người ta mô tả RRA này
như một PRA và đưa ra phương pháp trong hai cuốn sổ tay hướng dẫn.
(2) Chương trình hỗ trợ phát triển nông thôn Agkhan (Ấn Độ), bắt đầu sử
dụng PRA, có sự tham gia của người dân.
Như vậy PRA được hình thành vào cùng một thời điểm tại Kenya và Ấn Độ.
Từ năm 1990 - 1991, cuộc bùng nổ sử dụng PRA tại Ấn Độ vào các chương
trình dự án phát triển nông thôn, LNXH và các nước khác ở Châu Á, Châu Phi, các
dự án phát triển nông thôn như: Thái Lan, Trung Quốc, Nepal, Philippin.
Đến năm 1994 đã có hai cuộc hội thảo quốc tế về PRA tại Ấn Độ, đến nay đã
có hơn 30 nước đã và đang áp dụng PRA vào phát triển các lĩnh vực như:
+ Quản lý tài nguên thiên nhiên.
+ Nông nghiệp.
+ Các chương trình xã hội và xoá đói giảm nghèo.
+ Y tế và an toàn lương thực.
Trên đây là những dẫn liệu và tài liệu liên quan đến vấn đề đất đai, hệ thống

SDĐ đai, HTCT, cùng phương pháp tiếp cận vùng nông thôn, trên thế giới đã được
nghiên cứu và áp dụng ở nhiều quốc gia, có thể coi là cơ sở lý luận để các nước vận
dụng trong QHSDĐ, PTSX một cách hợp lý.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Một số nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của QHSDĐ, PTSX nông
lâm nghiệp
Trong thời kỳ Pháp thuộc các công trình nghiên cứu đánh giá và QHSDĐ đã
được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng.
Từ năm 1955 - 1975, công tác điều tra phân loại đã được tổng hợp một cách
có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc. Nhưng đến sau năm 1975 các số liệu
nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất
đã có nhiều công trình khác nhau triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô
Nhật Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994... ) Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu
trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết


9

cho việc SDĐ, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác SDĐ.
Những thành tựu về nghiên cứu đất đai trong giai đoạn trên là cơ sở quan trọng góp
phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và SDĐ đai một cách có hiệu quả trong cả
nước. Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân
mới được nghiên cứu ứng dụng. Cấp vi mô thực chất đã được đề cập tới trong nhiều
công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau.
Tác giả Nguyễn Xuân Quát trong công trình “SDĐ tổng hợp và bền vững”
(1996) đã phân tích tình hình SDĐ đai cũng như mô hình SDĐ tổng hợp bền vững,
mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam. Đồng thời đề xuất tập đoàn cây
trồng thích hợp cho các mô hình SDĐ tổng hợp bền vững.
Năm 1996, công trình QHSDĐ nông nghiệp ổn định ở vùng trung du và miền
núi nước ta của tác giả Bùi Quang Toản đã đề xuất SDĐ nông nghiệp vùng đồi núi

và trung du. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) trong chương trình tập huấn hỗ
trợ LNXH của trường Đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ thống SDĐ và
đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật SDĐ bễn vững trong điều kiện Việt Nam.
Trong đó, các tác giả đã đi sâu phân tích về:
- Quan điểm về tính bền vững.
- Khái niệm tính bền vững và PTBV.
- Hệ thống SDĐ bền vững.
- Kỹ thuật SDĐ bền vững.
- Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật SDĐ.
Nghiên cứu HTCT ở nước ta được đẩy mạnh hơn từ sau khi đất nước thống
nhất, Tổng cục địa chính [17] đã tiến hành quy hoạch đất 3 lần vào các năm 1978,
1985 và 1995. Căn cứ vào điều kiện đất đai, ngành lâm nghiệp đã phân chia đất đai
toàn quốc thành 9 vùng sinh thái lâm nghiệp (vùng Tây Bắc, vùng Trung tâm Bắc
bộ, vùng Đông Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ, vùng Nam
Trung bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ, vùng Tây Nam bộ).
Công tác QHSDĐ trên quy mô cả nước giai đoạn 1995 - 2000 đã được Tổng
cục Địa chính xây dựng vào năm 1994. Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nông


10

nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cập tới.
Báo cáo đánh giá tổng quát hiện trạng SDĐ và định hướng phát triển đến năm 2000
làm căn cứ để các địa phương, các ngành thống nhất triển khai công tác quy hoạch
và lập KHSDĐ.
Phương pháp tiếp cận nông thôn có người dân tham gia được đề cập trong
chương trình tập huấn dự án hỗ trợ LNXH của trường Đại học Lâm nghiệp. Các tác
giả: Lý Văn Trọng, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Nghĩa Biên và Trần Ngọc Bình
(1997) đã phối hợp với các chuyên gia trong và ngoài nước biên soạn tài liệu với
những vấn đề chính như sau:

- Các khái niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình tham gia.
- Các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân.
- Tổ chức quá trình đánh giá nông thôn.
- Thực hành tổng hợp.
Tài liệu tập huấn về QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người
dân của tác giả Trần Hữu Viên (1997) đã kết hợp phương pháp QHSDĐ trong nước
và của một số dự án quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam.
Trong đó, tác giả đã trình bày về khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo QHSDĐ và giao
đất có người dân tham gia.
- Hội thảo quốc tế tại Việt Nam vào năm 1998 về vấn đề QHSDĐ cấp làng,
bản đã được FAO đề cập một cách khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia
trong việc đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất cấp làng, bản.
- Tại cuộc hội thảo giữa Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và Trường
Tổng hợp kỹ thuật Dresden, vấn đề QHSDĐ có sự tham gia của người dân đã được
Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ và toàn diện. Tài liệu đã phân tích một cách đầy đủ
về mối quan hệ giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn
đề phát triển nông thôn, QHSDĐ, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới
trong QHSDĐ.
Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế, Vũ Tấn Phương (2005) đã xây dựng hệ thống
đánh giá đất lâm nghiệp Việt Nam, nghiên cứu và áp dụng đánh giá đất lâm nghiệp


11

Việt Nam với việc đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp của vùng đồi núi,
vùng ven biển, vùng ngập mặn và vùng chua phèn của Đồng bằng sông Cửu Long,
tổng hợp đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp; đánh giá và phân chia lập địa
trong lâm nghiệp cho các cấp vĩ mô, trung gian, vi mô. Cũng trong công trình
nghiên cứu này, các tác giả đã xây dựng tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá đất lâm nghiệp
cấp xã phục vụ cho công tác trồng rừng.

PGS. TS Trần Hữu Viên (2005) đã tổng kết những nội dung cơ bản: Cơ sở lý
luận của QHSDĐ gồm các khái niệm về đất đai và vai trò của nó đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người; nghiên cứu các khái niệm về QHSDĐ, bản chất
và quy luật phát triển của QHSDĐ, QHSDĐ cấp vĩ mô, chi tiết những nội dung và
trình tự xây dựng QHSDĐ cấp vĩ mô; QHSDĐ cấp vi mô gồm nội dung QHSDĐ
cấp xã, phương pháp thực hiện các nội dung công việc trong QHSDĐ, QHSDĐ cấp
vi mô theo phương pháp PRA.
TS. Đoàn Công Quỳ (2006) đã xây dựng cơ sở khoa học của công tác QHSDĐ
bao gồm những vấn đề chung về QHSDĐ, trình bày công tác điều tra cơ bản phục
vụ QHSDĐ, vấn đề QHSDĐ cấp xã và đã đưa ra 3 bài tập về tổng hợp kết quả điều
tra cơ bản, xây dựng bản đồ hiện trạng SDĐ và bản đồ QHSDĐ, dự báo nhu cầu
SDĐ phục vụ QHSDĐ cấp xã.
TS. Nguyễn Đình Hợi (2006) đã khái quát hoá vai trò của đất đai đối với sự
phát triển KTXH, trình bày và phân tích chế độ quản lý nhà nước về đất đai ở nước
ta, trình bày nội dung quản lý một số loại đất, nêu cơ sở lý luận chung về quy hoạch
đất đai và nêu nội dung của QHSDĐ.
Các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cũng chính là cơ sở lý luận được
chúng tôi kế thừa có chọn lọc và áp dụng trong đề tài này.
1.2.2. Một số nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp QHSDĐ, PTSX nông
lâm nghiệp vào thực tiễn ở Việt Nam
Nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về QHSDĐ, giao đất lâm nghiệp cấp xã được
thực hiện từ năm 1993 tại xã Tử Nê, huyện Tân Lạc, xã Hang Kia, Pà Cò huyện
Mai Châu, tỉnh Hoà Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp thực


12

hiện. Sau đó, dự án đã tổng hợp những bài học kinh nghiệm và rút ra được công tác
QHSDĐ được coi là một nội dung chính cần được thực hiện trước khi giao đất trên
cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và

giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính
quyền xã [23]. Cần phải có kế hoạch sử dụng chi tiết, tránh được các mâu thuẫn của
cộng đồng phát sinh sau quy hoạch.
Chương trình phát triển NTMN Việt Nam - Thụy Điển giai đoạn 1996 - 2001
trên phạm vi của 5 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang và Phú Thọ đã
tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát triển NLN cấp xã trên cơ sở kế hoạch
phát triển cấp thôn bản và HGĐ. Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Hải Nam năm
1998 [16;10], tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành
QHSDĐ; tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập KHSDĐ 3 cấp: xã, thôn và
HGĐ. Đến năm 1998 trên toàn vùng dự án có 78 thôn bản được QHSDĐ đai theo
phương pháp có người dân tham gia. Phương pháp QHSDĐ trong giai đoạn này đã
căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người SDĐ với cách tiếp cận từ dưới lên
tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn. Tuy nhiên, chưa tạo ra sự gắn kết chặt chẽ
giữa chủ trương của Nhà nước với nhu cầu nguyện vọng của nhân dân. Vấn đề đặt
ra ở đây là phải tìm ra một phương pháp quy hoạch tại địa phương với sự kết hợp
hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu của cộng đồng.
Năm 1996, tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp
QHSDĐ có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6 nguyên tắc và các
bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò phát triển trong phương
pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là:
- Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu, nguyện vọng của
nhân dân địa phương;
- Tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực hiện có tại
địa phương;
- Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người
nghèo và vai trò của phụ nữ;


13


- Đảm bảo PTBV;
- Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia;
- Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng.
Khi thử nghiệm phương pháp này cho các tỉnh Thừa Thiên Huế và Gia Lai,
Vũ Văn Mễ và Desloges cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng SDĐ
hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nghĩa
vụ của nhân dân. Xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên
cho thấy cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp và xu thế chung của thế
giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp. Trong 2 năm 1996
và 1997, trong quá trình triển khai dự án quản lý nguồn nước hồ Yên Lập có sự
tham gia của người dân tại huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh. Tác giả thử nghiệm
phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân để quy hoạch lâm - nông
nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ, phương pháp PRA được sử dụng
để quy hoạch lâm - nông nghiệp và xây dựng dự án cấp xã, thôn cho 5 lĩnh vực:
Quy hoạch lâm nghiệp, cây ăn quả cho quản lý rừng phòng hộ, quy hoạch trồng trọt,
quy hoạch chăn nuôi và đồng cỏ, kế hoạch phát triển thuỷ lợi lập kế hoạch mạng
lưới tín dụng thôn bản hỗ trợ của dự án xã. Sau 3 năm thực hiện cho thấy bản quy
hoạch phù hợp với tình hình hiện tại là cơ sở vững chắc cho lập kế hoạch tác nghiệp
hàng năm. Tuy nhiên những hạn chế do thiếu nghiên cứu về đất, phân tích HTCT
đến việc lựa chọn cây trồng chưa hợp lý.
Năm 1996, trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi Cục kiểm lâm cho ra
tài liệu hướng dẫn “Nội dung, biện pháp và trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp
trên địa bàn xã”. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung vào tài liệu năm
1994, nó đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung và nguyên tắc.
Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang
nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây. Bản
hướng dẫn này cần hoàn thiện theo hướng dừng lại ở những nguyên tắc và phương
pháp cơ bản, không nên có bản hướng dẫn chi tiết dẫn đến ngộ nhận rằng quy hoạch
Nông Lâm nghiệp cấp địa phương theo một chu trình cứng.



14

- Năm (1997), Chương trình hợp tác Việt - Đức về phát triển LNXH Sông Đà
đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp tại 2 xã
của 2 huyện Yên Châu thuộc tỉnh Sơn La và huyện Tủa Chùa thuộc tỉnh Lai Châu
trên cơ sở hướng dẫn của Chi cục kiểm lâm với cách làm 6 bước, đã lấy cấp thôn
bản làm đơn vị quy hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận LNXH
đối với cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt. Sự khác biệt với
chương trình khác là lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch phù hợp với đặc thù
vùng cao, phù hợp với kết quả nghiên cứu xã hội và cộng đồng của Donovan và
nhiều người khác, năm 1997 ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Từ những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Bá Ngãi cùng với nhóm tư vấn của
dự án khu vực Lâm nghiệp Việt Nam - ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm phương
pháp quy hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp
quy hoạch lâm - nông nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiền
dự án lâm - nông nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá; Gia lai; Phú Yên và
Quảng Trị. Kinh nghiệm rút ra từ việc áp dụng phương pháp này là:
- Việc tiến hành quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá và điều tra nguồn
lực một cách chi tiết và đầy đủ.
- Tiến hành QHSDĐ là cơ sở quan trọng cho QHSDĐ nông lâm nghiêp.
- Tiến hành phân tích HTCT làm cơ sở cho việc lựa chọn cây trồng và phương
thức SDĐ.
- Quy hoạch nông lâm nghiệp cấp xã phải được tiến hành từ lập kế hoạch cấp
thôn bản bằng phương pháp có sự tham gia trực tiếp của người dân.
- Tổng hợp và cân đối kế hoạch cho phạm vi cấp xã trên cơ sở: Định hướng
phát triển chiến lược của cấp huyện, cấp tỉnh. Khả năng hỗ trợ từ bên ngoài; đối
thoại và thống nhất trực tiếp giữa đại diện các cộng đồng với nhau và giữa cộng
đồng với cán bộ của tỉnh, huyện và dự án.
- Có sự nhất trí chung của toàn xã thông qua các cuộc họp cộng đồng cấp thôn.



15

1.2.3. Đánh giá ban đầu về vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam và địa phương
Đánh giá, phân tích các nghiên cứu và thử nghiệm về QHSDĐ, PTSX NLN ở
Việt Nam trong thời gian qua có thể rút ra một số kết luận sau :
- Hiện tại Việt Nam chưa có nghiên cứu đầy đủ về QHSDĐ, PTSX NLN cấp địa
phương, đặc biệt là cấp xã. Phương pháp quy hoạch hiện tại còn chưa thống nhất và
được vận dụng rất khác nhau. Mặt khác công tác quy hoạch nhiều khi còn dựa trên ý
kiến chủ quan của các nhà quy hoạch, thiếu sự đóng góp và tham gia của người dân.
- Phương pháp quy hoạch dựa trên thuộc tính của đất đai, ít xét đến tiềm năng
đất đai, nhu cầu và khả năng của cộng đồng.
- Các công trình nghiên cứu và thử nghiệm đã thu được những kết quả nhất
định trong việc tiến hành QHSDĐ, PTSX NLN cấp địa phương. Tuy nhiên các
nghiên cứu này chưa được tổng kết, đánh giá và phát triển thành phương pháp luận.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc QHSDĐ, PTSX nông, lâm, ngư nghiệp cấp
xã mặc dù đã được nhiều tác giả nghiên cứu và phát triển, tuy nhiên chưa tiến hành
trên diện rộng mà mới chỉ được tiến hành ở một số xã nhất định. Đặc biệt sau khi
Thủ tướng Chính phủ ban hành “Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới” và Bộ
Nông nghiệp & PTNT ban hành “Thông tư hướng dẫn quy hoạch PTSX nông
nghiệp cấp xã theo bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới” thì vấn đề nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc QHSDĐ, PTSX nông, lâm, ngư nghiệp cấp xã vẫn
cần được tiếp tục tiến hành nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện hơn, nhằm thúc đẩy
phát triển bền vững KTXH NTMN.


16

Chương 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp
xã Sơn Kim I, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp trên địa bàn
xã Sơn Kim 1.
- Phân tích, đánh giá được ĐKTN, KTXH, hiện trạng quản lý, SDĐ nông, lâm
nghiệp của xã Sơn Kim 1. Lựa chọn được tập đoàn cây trồng, vật nuôi phù hợp với
thực tiễn địa phương;
- Đề xuất được phương án quy hoạch PTSX nông, lâm nghiệp tổng hợp và bền
vững cho xã Sơn Kim 1 giai đoạn 2013- 2020.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp xã Sơn Kim 1
- Điều kiện cơ bản của xã Sơn Kim 1
+ Điều kiện tự nhiên, điều kiện KTXH
+ Hiện trạng quản lý, SDĐ của xã Sơn Kim 1
+ Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thị trường nông, lâm trên địa bàn
nghiên cứu
- Các chính sách, pháp luật liên quan đến QHSDĐ hiện hành.


17

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian, nhân lực và các phương tiện hỗ trợ có hạn nên đề tài chỉ tập
trung giải quyết vấn đề nghiên cứu trong phạm vi sau:

- Vấn đề QHSDĐ: Dựa trên các kết quả kế thừa tài liệu thứ cấp, các văn bản
pháp luật của địa phương, các kết quả PRA.
- Vấn đề quy hoạch PTSX nông, lâm, ngư nghiệp: Đánh giá hiệu quả tổng
hợp trên 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Trong đó tập trung đánh giá hiệu quả
về mặt kinh tế, xã hội còn hiệu quả về MTST chủ yếu là mô tả. Về hiệu quả kinh tế,
đề tài đưa ra dự đoán triển vọng giới hạn trong phạm vi 01 ha đất và chỉ tính toán
cho một/một số loại cây trồng chính trên diện tích đất đó.
- Địa điểm tiến hành nghiên cứu thu thập số liệu: Trên cơ sở phân tích các tài
liệu thứ cấp có liên quan đến các đặc điểm tự nhiên, dân sinh, KTXH và kết quả
điều tra khảo sát theo phương pháp PRA trên toàn diện tích xã Sơn Kim 1, 3 thôn
điển hình được chọn để tiến hành nghiên cứu. Từ các số liệu thu thập được tổng hợp
và xử lý làm căn cứ đề xuất phương án PTSX nông, lâm, ngư nghiệp chung cho cả
xã.
2.3. Nội dung nghiên cứu
(1) Cơ sở lý luận của QHSDĐ, PTSX nông, lâm, ngư nghiệp trên địa bàn xã
Sơn Kim 1.
- Các chính sách, pháp luật liên quan đến QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp
trên địa bàn xã Sơn Kim 1.
- Nguyên tắc và yêu cầu của QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp trên địa bàn xã
Sơn Kim 1.
(2) Điều kiện cơ bản của xã Sơn Kim 1
- Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế - xã hội
- Hiện trạng quản lý, SDĐ, thực trạng sản xuất nông, lâm nghiệp và thị trường
nông, lâm xã Sơn Kim 1
- Phân tích, đánh giá tiềm năng đất đai, mô hình SDĐ điển hình, nhu cầu SDĐ
đến năm 2020 của xã Sơn Kim 1


18


(3) QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp xã Sơn Kim 1 giai đoạn 2013 -2020
- Phương hướng QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp
- Phương án QHSDĐ, PTSX nông, lâm nghiệp
- Quy hoạch phát triển CSHT phục vụ sản xuất
- Đề xuất các giải pháp thực hiện
- Dự kiến đầu tư và hiệu quả của phương án quy hoạch.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.1.1. Phương pháp kế thừa thứ có chọn lọc các tài liệu cấp
- Các thông tin về chính sách được thu thập từ các văn bản pháp quy do Nhà
nước ban hành, bao gồm: Hiến pháp, Pháp luật, Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn thực
hiện, Nghị quyết, Quyết định của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương.
- Về điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, khí hậu, thời tiết được thu thập từ trạm
khí tượng thuỷ văn của địa phương.
- Các số liệu thống kê về đất đai, CSHT, kết quả sản xuất nông, lâm nghiệp thị
trường giá cả... được thu thập tại phòng Thống kê, phòng Nông nghiệp và PTNT,
phòng Tài nguyên và Môi trường huyện và Văn phòng UBND xã.
- Các báo cáo kết quả hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm, nghiệp, thuỷ sản
của xã.
- Bản đồ hiện trạng, bản đồ thổ nhưỡng được kế thừa từ Trung tâm quy hoạch
và thiết kế nông lâm nghiệp tỉnh Hà Tĩnh.
- Thông tin thị trường tiêu thụ sản phẩm trong địa bàn xã và khu vực giáp
ranh từ năm 2005 đến nay.
- Các tài liệu có liên quan: Quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp, QHSDĐ,
quy hoạch tổng thể của tỉnh, huyện; Kết quả rà soát, quy hoạch 3 loại rừng tỉnh Hà
Tĩnh


19


2.4.1.2. Phương pháp điều tra nhanh nông thôn (RRA)
Bằng các công cụ phỏng vấn và tiếp xúc lãnh đạo các ban ngành liên quan tại
huyện, xã, thôn và hộ nông dân. Sử dụng công cụ này để thu thập những thông tin
cơ bản, xác định sơ bộ các vấn đề để xây dựng đề cương nghiên cứu và phương
pháp thu thập số liệu.
2.4.1.3. Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân
Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân là phương pháp có khả năng
khuyến khích, hỗ trợ mọi khả năng hiện có của cộng đồng để họ xác định chính xác yêu
cầu của họ, đề ra các mục tiêu rồi kiểm tra và đánh giá chúng

Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia (PRA): PRA là
phương pháp tiếp cận và cũng là phương pháp học hỏi cùng với người dân, từ người
dân và bằng người dân về đời sống và điều kiện nông thôn.
Khái niệm trên được Robert Chamchers (1994) phát triển như sau:
''Một loạt các phương pháp tiếp cận cho phép người dân nông thôn cùng chia
sẻ, nâng cao và phân tích kiến thức của họ về đời sống và điều kiện nông thôn để
lập kế hoạch và hành động''.
- Sử dụng công cụ phân tích xu hướng cho các cây trồng chính trong thôn.
- Sử dụng công cụ vẽ sơ đồ hiện trạng thôn, bản có sự tham gia của người dân
và thảo luận trên sơ đồ.
- Đi lát cắt (công cụ điều tra tuyến) để đánh giá hiện trạng SDĐ và phân tích
HTCT.
- Sử dụng phương pháp SWOT (Strongth, Weakness, Oppotunity, Threat) –
phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức để đánh giá hiện
trạng SDĐ.
- Thảo luận nhóm với cán bộ xã, thôn, hộ nông dân về các vấn đề ranh giới các
loại hình SDĐ, nhu cầu SDĐ và xu hướng PTSX nông, lâm, ngư nghiệp trong thời
gian tới tại địa phương; Phân loại, xếp hạng, cho điểm cây trồng, vật nuôi; Phân
loại, xếp hạng cho điểm để đánh giá hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường của các
phương án quy hoạch. Trên cơ sở đó lựa chọn được phương án phù hợp nhất.



20

2.4.1.4. Phương pháp điều tra chuyên đề
Được thực hiện để điều tra bổ sung các thông tin không có trong tài liệu PRA
cụ thể:
- Lĩnh vực nông nghiệp điều tra theo các chỉ tiêu: Tình hình giao đất nông
nghiệp, các HTCT, tập đoàn cây trồng, vật nuôi, năng suất và sản lượng cây trồng
của xã, tình hình sâu bệnh hại tổn thất cây trồng, tình hình dịch bệnh và cải tạo
giống vật nuôi của xã, bãi chăn thả, thông tin về khuyến nông, khuyến lâm thôn
bản, tình hình sử dụng và thị trường nông, lâm, thuỷ sản...
- Lĩnh vực lâm nghiệp điều tra các chỉ tiêu: Tình hình SDĐ lâm nghiệp, tình
hình giao đất lâm nghiệp, tình hình quản lý rừng, tình hình đầu tư và phát triển
rừng, tình hình lợi dụng rừng, tình hình bảo vệ rừng…
- Lĩnh vực thuỷ sản điều tra các chỉ tiêu: Tình hình quản lý, sử dụng mặt nước
hồ trong nuôi trồng thuỷ sản, tình hình sản xuất thuỷ sản tại các ao nuôi trong thôn
bản, giống thuỷ sản, năng suất, dịch bệnh…
2.4.1.5. Chọn điểm và HGĐ điều tra
Căn cứ để chọn điểm nghiên cứu dựa trên phân tích các tài liệu thứ cấp có
liên quan đến các đặc điểm tự nhiên, dân sinh, KTXH và kết quả điều tra khảo sát
sơ bộ. Tiêu chí chọn điểm nghiên cứu được xây dựng như sau:
- Chọn xã nghiên cứu: Xã có đầy đủ các hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp,
xã có bản đồ đất đai và bản đồ hiện trạng SDĐ.
- Chọn thôn nghiên cứu: Trong xã chọn ra 3 thôn đại diện, đặc trưng cho xã về
các mặt:
+ Địa hình: không quá phức tạp, đại diện cho địa hình chung của toàn xã.
+ Dân cư và dân tộc: có mật độ dân trung bình so với toàn xã và phân bố tương
đối đồng đều; có dân tộc ít người đại diện cho các dân tộc của xã đang sinh sống.
+ Trình độ dân trí và trình độ phát triển trung bình đại diện cho toàn xã.

+ SDĐ: có đầy đủ các kiểu SDĐ NLN, thuỷ sản đại diện cho toàn xã, có mô
hình điển hình về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.


21

- Mỗi thôn chọn ngẫu nhiên 15 hộ gia đình trong đó có 5 hộ có thu nhập thấp,
5 hộ có thu nhập trung bình, 5 hộ có thu nhập khá giả. Danh sách các nhóm hộ
nghèo, trung bình, khá giàu do trưởng thôn cung cấp.
2.4.2 . Phương pháp phân tích tổng hợp số liệu và đánh giá hiệu quả SDĐ
2.4.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
- Các thông tin về điều kiện tự nhiên, KTXH được tổng hợp và phân tích theo
các nhóm sau:
+ Các thông tin liên quan đến các điều kiện tự nhiên như: vị trí địa lý, địa hình
địa vật, khí hậu thuỷ văn, thổ nhưỡng, thực vật tự nhiên được thu thập chắt lọc từ tài
liệu gốc của xã, huyện và tỉnh.
+ Các thông tin về điều kiện KTXH như: Dân cư (dân số, thành phần dân tộc);
Cơ cấu xã hội: (xã, thôn, nhóm hộ, HGĐ); Nghề nghiệp, việc làm các dịch vụ xã hội
và CSHT (y tế, giáo dục, giao thông, thông tin liên lạc, thị trường giá cả . . .) được
tổng hợp theo mục đích của đề tài.
+ Hệ thống thông tin liên quan đến tổ chức và thể chế được tổng hợp và phân
tích bằng phương pháp SWOT. Phương pháp phân tích tập trung vào các chỉ tiêu:
Tổ chức cộng đồng, dịch vụ khuyến lâm, khuyến nông, quản lý và bảo vệ rừng, dịch
vụ thú y, hoạt động tín dụng cộng đồng…
- Phân tích, tổng hợp thông tin điều tra chuyên đề:
+ Thông tin thu thập được để phục vụ quy hoạch PTSX nông, lâm, ngư nghiệp
được tổng hợp theo phương pháp tối ưu hoá mục tiêu và phân tích đa tiêu chuẩn áp
dụng cho xây dựng kế hoạch. Bài toán phân tích kinh tế được sử dụng cho việc lựa
chọn các phương án.
+ Trong quá trình xử lý tài liệu, tiến hành chỉnh lý và sắp xếp các thông tin

theo thứ tự ưu tiên, mức độ quan trọng của vấn đề, phân tích các ý kiến, quan điểm
để lựa chọn tìm ra giải pháp.
+ Thực trạng của công tác quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đã và
đang thực hiện được đánh giá theo phương pháp SWOT.


22

- Tập hợp kết quả khảo sát theo tuyến lát cắt để lập sơ đồ lát cắt, các biểu mẫu
thống kê, phân loại cây trồng, vật nuôi.
- Sử dụng phần mềm MapInfo 10,5 để xây dựng bản đồ hiện trạng, bản đồ
QHSDĐ và bản đồ quy hoạch phát triển CSHT phục vụ sản xuất.
2.4.2.2. Phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế
Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích (CBA) được vận dụng phân tích hiệu
quả kinh tế của các mô hình sản xuất, trên cơ sở đó để lựa chọn các mô hình SDĐ
có hiệu quả kinh tế nhất để tiến hành quy hoạch sản xuất.
- Phương pháp tĩnh: Coi các yếu tố chi phí và kết quả là độc lập và không chịu
tác động của yếu tố thời gian, mục tiêu đầu tư và biến động giá trị đồng tiền.
Phương pháp này dùng phân tích hiệu quả của các PTCT nông nghiệp do thời gian
đầu tư ngắn, thường là 01 vụ hoặc 01 năm.
+ Tổng lợi nhuận: P = Tn - Cp
+ Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí:

Pcp 

P
 100
Cp

(2.1)


(2.2)

+ Hiệu quả vốn đầu tư:

Pv 

P
 100
Vđt

(2.3)

Trong đó:
P : Tổng lợi nhuận trong một năm
Tn: Tổng thu nhập trong một năm.
Cp: Tổng chi phí kinh doanh trong một năm.
Vđt : Vốn đầu tư trong năm.
- Phương pháp động: Xem xét chi phí và thu nhập trong mối quan hệ động với
mục tiêu đầu tư, thời gian và giá trị đồng tiền, các chỉ tiêu kinh tế được tập hợp và
tính toán theo các hàm số: NPV, BCR, IRR… Phương pháp này dùng để tính hiệu
quả kinh tế của các PTCT có chu kỳ dài như: Rừng trồng, vườn cây ăn quả,
NLKH…


23

+ Tính giá trị hiện tại của thu nhập ròng (NPV): NPV là hiệu số giữa giá trị
thu nhập và chi phí thực hiện các hoạt động sản xuất sau khi đã tính chiết khấu để
quy về thời điểm hiện tại.

n

NPV  
t 0

Bt  Ct
t
(1i)

(2.4)

Trong đó:
NPV là giá trị hiện tại của thu nhập ròng (đồng).
Bt là giá trị thu nhập ở năm t (đồng)
Ct là giá trị chi phí ở năm t (đồng)
(Bt – Ct) là lợi nhuận đạt được ở kỳ thứ t
i là tỷ lệ chiết khấu hay lãi xuất (%)
t là thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm).
NPV là tổng giá trị hiện tại của thu nhập từ năm thứ 0 đến năm thứ n.
NPV dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất. NPV > 0:
có lãi; NPV = 0: hoà vốn; NPV < 0: lỗ vốn. Hoạt động nào có NPV càng lớn thì
hiệu quả càng cao.
+ Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (BCR): BCR là tỷ lệ giữa giá trị hiện tại của
thu nhập so với giá trị hiện tại của chi phí trong cả chu kỳ kinh doanh của chương
trình đầu tư. BCR phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết mức thu nhập trên 1 đơn
vị chi phí sản xuất. Nó được thể hiện theo công thức (2-5).

n



BCR 
Trong đó:

t 0
n

 (1i)
t 0

(2.5)

Bt
t
(1i )



Ct

BPV
CPV

t

BCR là tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (đồng).
BPV là giá trị hiện tại của thu nhập (đồng).
CPV là giá trị hiện tại của chi phí (đồng).
Các ký hiệu khác được giải thích ở công thức (2.4)
Nếu hoạt động sản xuất nào có BCR > 1 thì có hiệu quả kinh tế, BCR càng lớn thì
hiệu quả kinh tế càng cao. Ngược lại BCR < 1 thì việc sản xuất không có hiệu quả.



×