Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nghiên cứu tiềm năng, đề xuất nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản lý rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên ngọc sơn, ngỗ luông, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của đề tài
Việt nam được đánh giá là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao
trên toàn cầu với nhiều loài động, thực vật hoang dã quí hiếm. Trải qua 50 năm hình
thành và phát triển, đến nay nước ta đã có 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30
Vườn Quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên
cứu thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh
quan đặc trưng, tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn và ngập nước. Đây là những tài
sản thiên nhiên vô cùng quí giá ban tặng, phục vụ nhu cầu của con người.
Diện tích rừng và mức độ đa dạng sinh học ở nước ta trong những năm qua
vẫn đang trên đà suy giảm về cả số lượng và chất lượng, các chức năng quan trọng
của rừng ít được phát huy, môi trường ảnh hưởng, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường
xuyên, gây thiệt hại cho hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp cũng như đời sống
của người dân. Một trong số những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công
tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng chưa được quan tâm đúng mức. Các khu rừng
đặc dụng, nơi lưu trữ nguồn tài nguyên rừng phong phú, đa dạng về sinh học, đang
đối mặt với các nguy cơ về việc xâm hại tài nguyên rừng. Sự cần thiết phải tìm
kiếm một cơ chế quản lý, hưởng lợi hợp lý giữa các bên liên quan để bảo vệ tài
nguyên rừng bền vững. Trong bối cảnh quản lý của nước ta hiện nay, sẽ là các cản
trở lớn cho việc bảo tồn và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. Bởi chúng ta chưa có một
cơ chế quản lý phù hợp, gắn kết sức mạnh của người dân, cộng đồng và các bên liên
quan trong bảo vệ và gìn giữ nguồn tài nguyên rừng một cách bền vững.
Để khắc phục tình trạng trên, Chính phủ, các ngành, các cấp, các Ban quản lý
khu bảo tồn thiên nhiên của nước ta đã và đang thay đổi cách tiếp cận trong quản lý
tài nguyên rừng, trao đổi kinh nghiệm, phù hợp với những thông lệ, tiêu chí quản lý
bảo tồn thiên nhiên quốc tế. Vấn đề quản lý rừng bền vững đang được rất nhiều
người quan tâm, việc quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng đang là một hướng
đi có hiệu quả. Nhận thức rõ được điều này gần đây Thủ tướng Chính phủ ban hành



2

Quyết định 126/QĐ-TTg ngày 02/02/2012, về việc thí điểm chia sẻ lợi ích trong
quản lý bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông được thành lập theo Quyết
định số 2714/QĐ-UB ngày 28/12/2004 của UBND tỉnh Hòa Bình, về phê duyệt Dự
án khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông tỉnh Hòa Bình.
Việc thành lập khu bảo tồn, đã làm thay đổi phần lớn cuộc sống của người
dân các xã sống trong khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông và khu vực vùng đệm.
Thực tế cho thấy rằng, các cộng đồng chủ yếu tìm nguồn sinh kế từ rừng khu bảo
tồn như (Khai thác lâm sản, sử dụng đất, trồng rừng, cây nông nghiệp, bãi chăn thả
gia súc)…theo thói quen truyền thống, gắn bó và sự phụ thuộc vào rừng là rất lớn,
điều đó tạo nên nhiều tiêu cực cho nguồn tài nguyên rừng, nhưng vẫn không nâng
cao được đời sống của cộng đồng. Những hoạt động này được xem là cách sinh kế
tạm thời, tác động tiêu cực vào nguồn tài nguyên rừng đặc dụng, không bền vững.
Do đó, các câu hỏi được đặt ra là: Làm thế nào để nâng cao nội lực của cộng đồng,
phát huy những tiềm năng sẵn có và lôi cuốn cộng đồng tham gia vào các hoạt động
đồng quản lý bảo vệ tài nguyên rừng rừng đặc dụng vì mục tiêu phát triển bền vững
của địa phương, khu bảo tồn. Đây là bài toán khó không chỉ đối với những nhà quản
lý, các nhà khoa học, Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông
mà cho cả chính quyền và người dân sở tại.
Trên cơ sở thực tiễn và lý luận, cùng với những kiến thức đã học, tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu tiềm năng, đề xuất nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng
quản lý tại khu BTTN Ngọc Sơn- Ngổ Luông, tỉnh Hòa Bình”.
Ý nghĩa khoa học
Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu, tiến hành điều tra, có tính hệ thống
tiềm năng đồng quản lý tài nguyên rừng ở khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông tỉnh
Hòa Bình. Các kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cho việc đề xuất các nguyên tắc và

giải pháp đồng quản lý rừng, nhằm góp phần vào thực hiện công tác quản lý bền


3

vững tài nguyên rừng tại khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông nói riêng và các khu
BTTN khác như khu vực Ngọc Sơn - Ngổ Luông nói chung.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm cơ sở cho việc nhìn nhận,
điều chỉnh các cơ chế, chính sách một cách hợp lý đối với việc quản lý tài nguyên
thiên nhiên tại khu vực nghiên cứu, các vùng lân cận và trong cả nước có điều kiện
tương tự như khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông.
Chương 1.
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về đồng quản lý.
Hiện nay trên phạm vi toàn cầu, đang ở trong giai đoạn phát triển kinh tế gắn
việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, điều đó cũng dẫn đến một hệ lụy là sự cạn kiệt
nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng. Vấn đề đặt ra
cho mỗi quốc gia là nghiên cứu tìm ra giải pháp quản lý sử dụng tài nguyên thiên
nhiên một cách bền vững. Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả đã đưa ra
hàng loạt các giải pháp về quản lý, trong đó có sự hợp tác giữa các bên tham gia.
Đây là vấn đề rất quan trọng đối với sự thành công của công tác quản lý nguồn tài
nguyên rừng, quan tâm nhất là việc giải quyết ổn thỏa lợi ích của người dân nơi có
rừng hài hoà với mục tiêu chung của quốc gia. Vấn đề này còn khá mới mẻ đối với
Việt Nam, đặc biệt là ở các khu rừng đặc dụng.
Thuật ngữ "đồng quản lý" được sử dụng để mô tả sự bố trí, sắp xếp chính
thức hoặc không chính thức giữa chính phủ, thành phần tư nhân hoặc tầng lớp dân
cư liên quan đến việc quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự thịnh hành của hình
thức quản lý này đang tăng lên đáng kể trong 20 năm qua, có thể tìm thấy rất nhiều,
ví dụ ở các nước đang phát triển nơi mà tình trạng đói nghèo và sự suy thoái nguồn

tài nguyên thiên nhiên đang dẫn dắt xã hội và quốc gia đó vào việc thực hiện hình
thức đồng quản lý.


4

Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên là bước ngoặt mới về quản lý tài
nguyên, đó là một quy trình mang tính chính trị, kinh tế và xã hội sâu sắc. Trên thế
giới đã có nhiều nghiên cứu đưa ra khái niệm này.
Đồng quản lý cũng đã được hai nhà khoa học Andrew W. Ingle và các tác
giả (1999) [58] quan tâm nghiên cứu. Các tác giả cho rằng đồng quản lý được coi
như sự sắp xếp quản lý được thương lượng bởi nhiều bên liên quan, dựa trên cơ sở
thiết lập quyền và quyền lợi, hoặc quyền hưởng lợi được nhà nước công nhận và
hầu hết những người sử dụng tài nguyên chấp nhận được. Quá trình đó được thể
hiện trong việc chia sẻ quyền ra quyết định và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên.
Đồng quản lý các khu bảo tồn là tìm kiếm sự hợp tác, trong đó các bên liên
quan cùng nhau thoả thuận chia sẻ chức năng quản lý, quyền và nghĩa vụ trên một
vùng lãnh thổ hoặc một khu vực tài nguyên dưới tình trạng bảo vệ. Khái niệm này
do Borrini - Feyerabend đưa ra năm 1996 [59]. Đến năm 2000 [59] tác giả lại đưa ra
khái niệm chung “đồng quản lý như là một dạng hợp tác, trong đó hai hoặc nhiều
đối tác xã hội hiệp thương với nhau xác định và thống nhất việc chia sẻ chức năng
quản lý, quyền và trách nhiệm về một vùng, một lãnh thổ hoặc nguồn tài nguyên
thiên nhiên được xác định”. Tác giả giải thích thêm đối với mục tiêu về văn hoá,
chính trị nhằm tìm kiếm sự “công bằng” trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Tác
giả đưa ra thuật ngữ tiếp cận “số đông” trong quản lý tài nguyên, kết hợp giữa nhiều
đối tác có vai trò khác nhau nhằm mục tiêu chung là bảo tồn thiên nhiên, phát triển
bền vững và chia sẻ công bằng quyền lợi liên quan đến tài nguyên.
Theo Rao và Geisler, 1990 [59] đồng quản lý là sự chia sẻ việc ra quyết định
giữa những người sử dụng tài nguyên địa phương với các nhà quản lý tài nguyên về
chính sách sử dụng các vùng bảo vệ. Các đối tác cần hướng tới mối quan tâm chung

là bảo tồn thiên nhiên để trở thành “đồng minh tự nguyện”.
Đồng quản lý là một quá trình hợp tác giữa các cộng động địa phương với
các tổ chức nhà nước trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên hoặc các
tài sản khác. Các bên liên quan, nhà nước hay tư nhân, cùng nhau thông qua một


5

hiệp thương xác định sự đóng góp của mỗi đối tác và kết quả là cùng nhau ký một
hiệp ước phù hợp mà các đối tác đều chấp nhận được (Wild và Mutebi, 1996) [74].
Trên cơ sở các khái niệm và định nghĩa đã nêu trên, căn cứ vào điều kiện cụ
thể ở Việt Nam cho một khu bảo tồn thiên nhiên có thể đi đến khái niệm chung
mang tính chất tương đối về đồng quản lý tài nguyên rừng trong luận văn này như
sau: “Đồng quản lý là việc tổ chức sắp xếp lại quyền và trách nhiệm giữa các bên
tham gia trong quản lý tài nguyên rừng. Hoạt động sắp xếp này liên quan đến việc
chuyển từ hình thức đưa ra quyết định từ trên xuống dưới và thiếu sự phối kết hợp
giữa người bản địa với việc quản lý nguồn tài nguyên của Nhà nước, sang hình thức
đưa ra quyết định có sự chia sẻ, hợp tác và thoả thuận của các bên liên quan trong
quản lý, bảo tồn nguồn tài nguyên rừng”.
1.2. Nghiên cứu đồng quản lý trên thế giới.
Quốc gia đầu tiên trên thế giới đặt nền móng cho phương pháp tham gia quản
lý tài nguyên rừng và khái niệm tham gia quản lý rừng là Ấn Độ vào năm 2004.
Đồng quản lý (hay hợp tác quản lý) bảo vệ rừng được tiến hành trong thời gian này
và nhanh chóng lan rộng tới các quốc gia thuộc các nước châu Phi, châu Mỹ La
Tinh và châu Á.
Nghiên cứu của Eva Wollenberg, Bruce Campbell, Sheeona Shackletton,
Davi Edmunds và Patricia Shanley (2004) tại Orissa và Uttarkhand ở Ấn Độ, Bộ
lâm nghiệp cho phép người dân được trực tiếp tiếp cận với sản phẩm rừng, đất rừng,
lợi ích từ tài nguyên rừng hoặc tạo cơ hội để họ được tiếp cận với cách quản lý rừng
của nhà nước. Ngược lại thì Nhà nước cho phép người dân hợp tác với họ để quản

lý rừng thông qua việc bảo vệ rừng hoặc trồng rừng, yêu cầu người dân chia sẻ lợi
nhuận với các cơ quan quản lý rừng của nhà nước.
Thông qua việc chia sẻ nguồn lợi giữa các nhóm người dân địa phương với
nhà nước, các chương trình dự án cũng đã giúp hoà giải sự tranh chấp nguồn tài
nguyên giữa người dân và nhà nước. Các chương trình đồng quản lý hoặc hợp tác
rừng đã đem lại những kết quả to lớn. Ở Ấn Độ có hơn 63.000 nhóm - tổ tham gia
vào các chương trình trồng mới 14 triệu ha rừng.


6

Theo báo cáo của nhà khoa học Oli Krishna Prasad (1999) [103] tại khu bảo
tồn Hoàng gia Chitwan ở Nepal, cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác
với một số các bên liên quan quản lý tài nguyên vùng đệm phục hồi cho du lịch. Lợi
ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài nguyên là khoảng 30% - 50% thu được
từ du lịch hàng năm sẽ đầu tư trở lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội
của cộng đồng. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở đồng quản lý tài nguyên rừng
phục vụ du lịch ở vùng đệm.
Ở Nam Phi tại Vườn quốc gia Richtersveld trong báo cáo khoa học về vấn đề
“Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi trong phạm vi vận động” của hai nhà
khoa học Moenieba Isaacs và Majma mohamed năm 2000 [57] đã nghiên cứu các
hoạt động hợp tác quản lý tại vườn quốc gia này. Tài nguyên thiên nhiên ở khu vực
này khá phong phú và đa dạng đặc biệt có mỏ kim cương. Bởi vậy, người dân ở các
vùng khác di cư đến khai thác trái phép làm cho tài nguyên rừng, đa dạng sinh học ở
khu vực này bị suy giảm nghiêm trọng.
Năm 1991 ban quản lý Vườn quốc gia đã nghiên cứu tìm ra phương thức hợp
tác quản lý với cộng đồng dân cư. Phương thức này chủ yếu dựa trên hương ước
quản lý bảo vệ rừng, trong đó người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh học trên địa
phận của mình còn chính quyền và ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng cơ sở hạ
tầng và cải thiện các điều kiện kinh tế xã hội khác [57].

Ở Thái Lan theo kết quả đánh giá của các nhà khoa học khi đồng quản lý tài
nguyên rừng trên thế giới lan đến Châu Á thì Thái Lan là một nước được đánh giá
đạt nhiều thành tựu trong công tác xây dựng các chương trình đồng quản lý bảo vệ
rừng. Các cộng đồng dân cư có đời sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng thường có
nhiều kinh nghiệm khi đóng vai trò là người bảo vệ hoặc người tham gia quản lý
khu bảo tồn.
Trong báo cáo “Liên minh cộng đồng” đồng quản lý rừng ở Thái Lan đã có
nghiên cứu điểm tại vườn quốc gia Dông Yai nằm ở Đông Bắc và khu rừng phòng
hộ Nam Sa ở phía Bắc Thái Lan. Đó là những vùng quan trọng đối với công tác bảo
tồn đa dạng sinh học, đồng thời cũng là những vùng có đặc điểm độc đáo về kinh tế


7

- xã hội, về thể chế truyền thống của cộng đồng người dân địa phương trong quản lý
và sử dụng tài nguyên (Poffenberger, M. và McGean, B. 1993) [98].
Tại Dong Yai, người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tổ
chức các hoạt động bảo tồn, đồng thời phối hợp với Cục Lâm nghiệp Hoàng gia xây
dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái cũng như
phục vụ lợi ích của người dân trong khu vực. Tại Nam Sa, cộng đồng dân cư cũng
rất thành công trong công tác quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định rằng chính phủ
khuyến khích và chuyển giao quyền lực thì họ chắc chắn sẽ thành công trong việc
kiểm soát các hoạt động khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng, các hoạt động
phá rừng và tác động tới môi trường. Đồng quản lý ở Thái Lan có thể trở thành bài
học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam bởi vì Thái Lan cũng là một nước trong
vùng Đông Nam Á, đặc biệt Việt Nam là quốc gia có một số đặc điểm tương đồng
về điều kiện tự nhiên và văn hoá xã hội [98].
Ở Nam Phi, tại Vườn quốc gia Kruger trước đây người dân đã chuyển đi từ
Makuleke, khi chính phủ mới thành lập đã cho phép người dân trở lại vùng đất
truyền thống để sinh sống. Để đạt được quyền sử dụng đất đai cũ, người dân phải

xây dựng quy ước bảo vệ môi trường trong khu vực khu bảo tồn đồng thời họ cũng
được chia sẻ lợi ích thu được từ du lịch. Từ những kết quả đạt được về đồng quản lý
tài nguyên ở Nam Phi đã trở thành bài học kinh nghiệm cho các nước đang phát
triển khác (Reid, H. 2000) [72].
Ở Madagascar tác giả Schachenmann 1999 [72] đã đưa ra một ví dụ ở Vườn
quốc gia Andringitra là Vườn quốc gia thứ 14 của nước cộng hoà Madagascar. Theo
tác giả này vườn quốc gia là một vùng núi có mối liên hệ giữa các hệ sinh thái, sinh
cảnh, đa dạng sinh học và cảnh quan cũng như di tích văn hoá. Chính phủ có nghị
định đảm bảo các quyền của người dân như quyền chăn thả gia súc, khai thác tài
nguyên rừng phục hồi để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán truyền
thống khác nhau như có thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Để đạt được
những thoả thuận trên, người dân phải đảm bảo tham gia bảo vệ sự ổn định của các


8

hệ sinh thái trong khu vực. Ngoài ra, có nhiều bên liên quan tham gia trong đồng
quản lý như du lịch, chính quyền.
Khi viết về đồng quản lý rừng tại Vườn quốc gia Vutut, tác giả Sherry E. (1999)
[94] cho rằng đây vừa là một khu bảo tồn thiên nhiên vừa là khu di sản văn hoá của
người thổ dân ở vùng Bắc Cực. Liên minh giữa chính quyền và thổ dân đã huy động
được lực lượng người dân và kết hợp với ban quản lý làm thay đổi chiều hướng bảo
tồn tự nhiên hoang dã và tăng các giá trị của vườn quốc gia. Đồng quản lý ở đây đã
kết hợp được giữa các mối quan tâm và kiến thức bản địa với mục tiêu bảo tồn. Ban
quản lý Vườn quốc gia giúp về kỹ thuật xây dựng các mô hình bảo tồn thiên nhiên
và phát triển kinh tế - xã hội, còn dân bản địa tham gia thực hiện các mô hình đó.
Hợp tác quản lý ở đây đã giải quyết hài hoà mâu thuẫn giữa chính sách của chính
quyền và bản sắc truyền thống của người dân, đảm bảo cho sự thành công của công
tác bảo tồn hoang dã và bảo tồn các di sản văn hoá. Đồng quản lý ở Vườn quốc gia
Vutut được đánh giá rất thành công, theo tác giả thì nó được thiết kế để “kết hợp

giữa sự tốt đẹp nhất của hai thế giới” nhà nước văn minh và thổ dân.
Ở Uganda khi tiến hành nghiên cứu về lĩnh vực đồng quản lý tại vườn quốc
gia Bwindi Impenetrable và MgaHinga Gorilla thuộc Uganda hai nhà nghiên cứu
Winld và Mutebi, 1996 [98]. Cho thấy hợp tác quản lý được thực hiện giữa ban
quản lý vườn quốc gia và cộng đồng dân cư. Hai bên thoả thuận ký kết quy ước cho
phép người dân khai thác bền vững một số lâm sản, đồng thời có nghĩa vụ tham gia
quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn của cộng đồng. Đồng quản lý chỉ
có hai đối tác là Ban quản lý và cộng đồng dân cư địa phương.
Ở Canada kể từ khi ký hiệp định Northern Quebec và James Bay năm 1975,
việc sắp xếp công tác đồng quản lý ở Canada đã tăng lên nhanh chóng. Có rất nhiều
hình thức sắp xếp công tác đồng quản lý và nhiều ban chính thức liên quan đến
Tuần lộc, cá Vôi trắng, các sản phẩm lâm nghiệp và phi lâm nghiệp và các loại cá
được đặt tên nhưng rất ít. Việc sắp xếp quyền đồng quản lý đối với chủ đề này là
một chủ điểm giữa tỉnh Saskatchewan, công ty quản lý lâm nghiệp Mistik và các
cộng đồng người dân thuộc Hội đồng bộ lạc Meadow.


9

Ở Brazil, nông dân đã giúp quản lý 2,2 triệu ha rừng phòng hộ, khoảng một
nửa số huyện ở Zimbabuê tham gia vào chương trình CAMPFIRE. Ở đó người dân
có thể chia sẻ lợi nhuận từ du lịch trong các khu rừng bảo vệ động vật hoang dã, các
chương trình này giúp nhà nước bảo vệ được rừng, giúp người dân cải thiện được
quyền tiếp cận với tài nguyên rừng. Tuy nhiên, chưa giúp người nghèo cải thiện
đáng kể kế sinh nhai.
Năm 1975 nhà nước Nepal thực hiện quốc hữu hóa rừng, tập trung quản lý
bảo vệ rừng và đất rừng, kết quả là người dân ở đây đã ít quan tâm đến bảo vệ rừng
của nhà nước dẫn đến trong vòng 20 năm hàng triệu ha rừng bị tàn phá. Từ năm
1978, Chính phủ đã giao quyền quản lý bảo vệ rừng cho người dân để thực hiện
chính sách phát triển lâm nghiệp. Tuy nhiên, sau một thời gian người ta nhận thấy

các đơn vị hành chính này không phù hợp với việc quản lý và bảo về rừng do các
khu rừng nằm phân tán, không theo đơn vị hành chính và người dân có nhu cầu, sở
thích sử dụng sản phẩm rừng khác nhau.
Năm 1989, nhà nước thực hiện chính sách lâm nghiệp mới đó là chia rừng và
đất rừng làm hai loại: Rừng tư nhân và rừng nhà nước cùng với hai loại sở hữu rừng
tương ứng là sở hữu rừng tư nhân và sở hữu rừng nhà nước. Trong quyền sở hữu
của nhà nước lại được chia theo các quyền sử dụng khác nhau như rừng cộng đồng
theo nhóm người sử dụng, rừng hợp đồng với các tổ chức, rừng tín ngưỡng, rừng
phòng hộ. Nhà nước công nhận quyền pháp nhân và quyền sử dụng cho các nhóm
sử dụng.
Năm 1993, Nepal phát triển chính sách lâm nghiệp mới, nhấn mạnh đến các
nhóm sử dụng rừng, cho phép gia tăng quyền hạn và hỗ trợ cho các nhóm sử dụng
rừng, thay chức năng của các phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng cảnh sát và chỉ
đạo sang chức năng hỗ trợ và thúc đẩy cho các bên liên quan, từ đó rừng được quản
lý và bảo vệ có hiệu quả hơn.
1.3. Nghiên cứu đồng quản lý ở Việt Nam.
Trước đây nhiều diện tích rừng và đất rừng được quy hoạch và đưa vào các
lâm trường quốc doanh quản lý, khai thác sử dụng. Nhiệm vụ chủ yếu của các lâm


10

trường là khai thác rừng để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Cấp quản lý nhà
nước trung ương có Tổng cục Lâm nghiệp (sau này là Bộ Lâm nghiệp) là cơ quan
chuyên trách của chính phủ. Đến năm 1973 chính phủ thành lập Cục Kiểm lâm, là
cơ quan thực thi pháp luật bảo vệ rừng, ở các tỉnh có các Ty Lâm nghiệp (sau này là
Sở Lâm nghiệp) là cơ quan quản lý lâm nghiệp của tỉnh kiêm cả việc quản lý các
doanh nghiệp lâm nghiệp, ở cấp huyện có các Hạt Kiểm lâm kiêm các chức năng về
lâm nghiệp trên địa bàn huyện. Hiện nay cơ cấu tổ chức đã có sự thay đổi ở Trung
ương có Tổng cục lâm nghiệp thuộc bộ NN&PTNT, Cục kiểm lâm thuộc tổng cục

lâm nghiệp. Dưới tỉnh Chi cục Kiểm lâm trực thuộc sở NN&PTNT, các hạt kiểm
lâm thuộc chi cục kiểm và một số nơi như tỉnh Hòa Bình có các Ban quản lý khu
bảo tồn thiên nhiên trực thuộc chi cục Kiểm lâm.
Thực tế cho thấy tài nguyên rừng ở nước ta trước đây do nhà nước quản lý và
quyết định mọi phương án quản lý và sử dụng. Với phương thức quản lý này diện
tích rừng trong thời gian qua suy giảm nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng,
các khu rừng đặc dụng mặc dù có cơ chế quản lý tốt hơn, nhưng cũng bị xâm phạm
nghiêm trọng làm cho tài nguyên rừng ngày càng suy thoái và cạn kiệt. Đã có một
số đề tài, dự án của các tổ chức nước ngoài và trong nước được thực hiện nhằm
quản lý bền vững cho các khu rừng đặc dụng.
Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp tại Hà Nội năm 2001 đã làm rõ các yếu tố
khuôn khổ pháp lý của rừng cộng đồng, việc thực thi các chính sách hỗ trợ cho quản
lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Trong hội thảo có rất nhiều báo cáo và các vấn đề
thảo luận như “Báo cáo về khuôn khổ pháp lý, chính sách của Nhà nước và hiện
trạng quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam” của các tác giả Phạm Xuân Phương, Hà
Công Tuấn, Vũ Văn Mễ, Nguyễn Hồng Quân; Các báo cáo về sự vận dụng chính
sách lâm nghiệp nhà nước ở cấp tỉnh của các tác giả Sheelagh, Orelly, Vũ Hữu
Tuynh, Nguyễn Ngọc Lung, Lê Ngọc Anh, Nguyễn Hải Nam, Cao Vĩnh Hải,…
Cuối cùng hội thảo đi đến kết luận cộng đồng đang quản lý 15% diện tích rừng của
nhà nước, đó là thực tế mang tính khách quan và ngày càng có một vị trí quan trọng
trong hệ thống quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn một số


11

những vướng mắc trong khuôn khổ chính sách hưởng lợi từ rừng khi tham gia bảo
vệ và phát triển như không quy định cộng đồng dân cư thôn bản là đối tượng của
chính sách này.
Tại khu BTTN Pù Luông giáp ranh với khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông,
trong nghiên cứu về phối hợp quản lý và bảo tồn Ulrich Apel, Oliver C. Maxwell và

các tác giả năm 2002 đã có đánh giá nghịch lý về sử dụng đất đai và nhà ở, tình
hình quản lý tài nguyên thiên nhiên ở một số thôn bản vùng đệm khu BTTN Pù
Luông. Kết quả nghiên cứu của các tác giả này mới chỉ đánh giá một số thể chế,
chính sách hiện nay với công tác quản lý rừng đặc dụng, phân tích sự phụ thuộc của
người dân đối với tài nguyên rừng, chưa đánh giá đầy đủ tiềm năng về đồng quản lý
và không đưa ra được nguyên tắc và giải pháp thực hiện.
Với đòi hỏi của thực tiễn là cần có tiến trình, nguyên tắc và các giải pháp
thích hợp để xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài nguyên rừng. Đây là câu trả lời mà
các dự án triển khai trong thời gian gần đây đang lúng túng.
Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng năm 2004 tại Hà Nội được tổ
chức với nội dung về khuôn khổ và thể chế quản lý rừng cộng đồng, chính sách
hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng, đánh giá tài nguyên rừng và khai thác rừng
cộng đồng. Hội thảo kết luận, quản lý rừng cộng đồng hiện đang tồn tại như một xu
thế khách quan và ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý tài nguyên
rừng, nhiều diện tích đất lâm nghiệp có thể giao cho cộng đồng quản lý những diện
tích rừng xa khu dân, có địa hình phức tạp mà các tổ chức nhà nước và hộ gia đình
không có khả năng quản lý và quản lý không có hiệu quả, các khu rừng giữ nguồn
nước phục vụ trực tiếp cộng đồng, khu rừng giáp ranh giữa các xóm, xã.
Bên cạnh đó, vấn đề hưởng lợi của cộng đồng quản lý rừng được nhiều nhà
khoa học quan tâm và nghiên cứu, đặc biệt là tác giả Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn
Ngọc Lung, Bảo Huy. Tác giả Phạm Xuân Phương đã khảo sát đánh giá tình hình
triển khai tình chất hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng được giao
nhận khoán rừng năm 2003.


12

Đánh giá thực trạng quản lý rừng cộng đồng của các tác giả Nguyễn Hồng
Quân, Vũ Long, Phạm Xuân Phương đã đưa ra khung định vị đánh giá hiện trạng
quản lý rừng cộng đồng gồm 5 tiêu chí. Qua hội thảo, các báo cáo và các công trình

nghiên cứu của các tác giả cho thấy tuy nhà nước chưa quy định quyền hưởng lợi
của cộng đồng với những diện tích rừng cộng đồng hiện đang quản lý, song trên
thực tế cộng đồng đang quản lý và có quyền hưởng lợi, phân chia lợi ích từ rừng.
Về hiệu quả đạt được từ quản lý bảo vệ rừng cộng đồng ở nước ta cho đến
nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng ở quy mô toàn quốc. Tuy
nhiên, căn cứ vào 3 kết quả Hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng ở Việt
Nam được tổ chức tại Hà Nội (tháng 6/2000, tháng 11/2001 và tháng 11/2004) có
thể đưa ra một số nhận định sau:
- Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt hơn, những nơi
rừng do cộng đồng quản lý hầu như không bị chặt phá, do không có xâm hại nên
rừng ngày càng tăng trưởng.
Đối với diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm được Nhà
nước hoặc chủ rừng trả tiền công khoán, đã góp phần giải quyết một phần khó khăn
về đời sống cho một bộ phận dân cư.
Đối với diện tích rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao, cộng đồng
có thể tận dụng khi rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng để canh tác
kết hợp cây nông nghiệp, chăn thả dưới tán rừng, được các dự án đầu tư hỗ trợ vốn
để sản xuất, được hưởng lợi sản phẩm từ rừng.
Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến nay hầu
như cộng đồng có toàn quyền quyết định việc sử dụng tài nguyên rừng, trong đó
đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các công trình chung của cộng đồng, giải quyết nhu
cầu gỗ làm nhà cho các hộ gia đình.
- Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước: Hiện nay có nhiều cộng đồng đang quản lý
rừng hầu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, nhưng rừng vẫn được
bảo vệ tốt.


13

- Rừng cộng đồng đã góp phần bảo vệ nguồn nước, giải quyết một phần nhu

cầu gỗ gia dụng cho cộng đồng và thành viên của cộng đồng, khai thác lâm sản
ngoài gỗ,…góp phần phát triển nghề thủ công truyền thống và tăng thu nhập cho
cộng đồng.
- Góp phần khôi phục truyền thống văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp của
cộng đồng thông qua việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và hướng dẫn của
các tổ chức nhà nước, đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện quy chế
quản lý, bảo vệ rừng; Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Khôi phục truyền thống
văn hoá tốt đẹp, hương ước của cộng đồng.
Nhìn chung, quản lý rừng và đất rừng trên cơ sở cộng đồng là vấn đề tổng
hợp và phụ thuộc nhiều vào khuôn khổ thể chế, chính sách của từng quốc gia, từng
địa phương, do vậy không thể sao chép nguyên vẹn một mô hình nào từ nơi này
sang nơi khác. Tuy nhiên, việc chia sẻ kinh nghiệm, những bài học thành công hay
thất bại trong cả nước và khu vực là rất cần thiết trong bối cảnh chính sách lâm
nghiệp đang cải cách và hoàn thiện như hiện nay. Điều đáng chú ý là phải có những
nghiên cứu tổng hợp đánh giá và đúc rút kinh nghiệm, bổ sung và xây dựng những
chính sách mới phù hợp cho mỗi vùng.
Vì vậy, quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng được xem như nền tảng của sự
phát triển vì nó đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu lợi ích cho cộng đồng, góp
phần xoá đói giảm nghèo và phục vụ được tình trạng cạn kiệt tài nguyên trong
những phương thức sử dụng kém bền vững.
Theo kết quả nghiên cứu của Dự án sự tham gia của các tổ chức bảo tồn địa
phương trong quản lý bảo vệ rừng đặc dụng thực hiện tại khu BTTN Ngọc Sơn Ngổ Luông. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm mới chỉ lựa chọn làm điểm được ở một
số xóm mục tiêu. Tuy nhiên việc nghiên cứu đánh giá các tiềm năng tham gia của
cộng đồng địa phương và các bên liên quan chưa được trú trọng đến. Chưa có sự
gắn kết giữa Ban này với các bên liên quan, chưa xây dựng được một cơ chế hoạt
động phù hợp và bền vững.


14


Đồng quản lý tài nguyên rừng ở nước ta tuy chưa có những nghiên cứu hoàn
chỉnh, nhưng trong điều kiện thực tế cho thấy phương pháp này là một trong những
xu hướng phù hợp với điều kiện bảo tồn đa dạng sinh học trong các khu rừng đặc
dụng. Thấy được tầm quan trọng của công tác đồng quản lý tài nguyên rừng, Thủ
tướng Chính phủ ban hành quyết định 126/2012/QĐ-TTg thí điểm cách làm này.
1.4. Phân tích cơ sở khoa học và thực tiễn thực hiện đồng quản lý rừng
tại khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông.
1.4.1. Cơ sở lý luận:
1.4.1.1. Tính đa dạng về chủ thể và hình thức quản lý tài nguyên rừng
Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, có 4 chủ thể chính tham gia
quản lý rừng là Nhà nước, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
- Nhà nước thống nhất quản lý và định đoạt đối với rừng tự nhiên và rừng
được phát triển bằng vốn của Nhà nước. Quản lý nhà nước về lâm nghiệp (tài
nguyên rừng) là một hình thức khẳng định chủ quyền của nhà nước đối với tài
nguyên rừng. Nhà nước quản lý, sử dụng tài nguyên rừng phục vụ mục tiêu kinh tếxã hội, môi trường quốc gia. Quản lý nhà nước có thế mạnh về pháp luật, chính sách
và tài chính.
- Các tổ chức và doanh nghiệp quản lý tài nguyên thiên nhiên với nhiều hình
thức khác nhau và hướng đến nhiều mục tiêu khác nhau. Các hệ thống quản lý rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ với mục tiêu chính là bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi
trường. Các doanh nghiệp quản lý, sử dụng tài nguyên lại có mục tiêu chủ đạo là
kinh doanh. Được giao theo Nghị định 01 của Chính phủ trước đây, hoặc Nghị định
163 của Chỉnh phủ hiện nay. Các tổ chức có thế mạnh trong quản lý về khoa học,
công nghệ, vốn và thị trường. Tuy nhiên trong loại hình hình quản lý theo tổ chức
có nhiều cách quản lý các đối tượng rừng khác nhau, được quy định bằng các văn
bản pháp luật của nhà nước, dẫn đến các phương pháp, hình thức quản lý, chia sẻ
lợi ích, sự tham gia của các bên cũng khác nhau, trong đó loại hình rừng đặc dụng
có một cơ chế quản lý, chia sẻ lợi ích khá đặc thù, tính bảo tồn sự đa dạng được coi
là gốc rễ của loại hình tổ chức này.



15

- Hộ gia đình và cá nhân quản lý tài nguyên rừng là thành phần được công
nhận khi có Nghị định 02/CP ngày 15 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ về giao đất
lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định và lâu dài và đã
được sửa đổi bổ sung tại Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004. Mục tiêu chính
của đối tượng này là tạo điều kiện về tư liệu để người dân gắn bó với rừng, bảo vệ
rừng, góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình và xã hội. Hộ gia đình và cá nhân có
thế mạnh về lực lượng tại chỗ và có nhiều hiểu biết về kiến thức bản địa.
- Quản lý tài nguyên rừng cộng đồng là một hình thức quản lý truyền thống,
xuất phát từ tính cộng đồng của con người từ thời nguyên thủy. Trải qua nhiều thay
đổi của xã hội, hình thức quản lý cộng đồng được điều chỉnh để thích hợp với hoàn
cảnh mới. Nó được đúc rút thành những hiểu biết, kinh nghiệm, hình thành nên các
luật lệ và còn tiếp tục phát triển, hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do tính đa dạng của các
cộng đồng dân cư dẫn đến sự đa dạng về văn hoá. Sự đa dạng này cũng dẫn đến sự
đa dạng về cách thức quản lý tài nguyên rừng cộng đồng. Mục tiêu chính của hình
thức quản lý này là nhằm đáp ứng những yêu cầu của các thành viên nhưng không
làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng. Cộng đồng quản lý tài nguyên có
thế mạnh về tính tổ chức, thể chế (tục lệ), tính tự nguyện, sự ổn định tại chỗ và
những hiểu biết bản địa.
Thông thường, trên một đơn vị tài nguyên rừng không chỉ tồn tại một hình
thức quản lý mà tồn tại song song nhiều hình thức. Vấn đề đặt ra là các hình thức
này nên hợp tác, liên kết với nhau như thế nào?. Để đạt được sự công bằng đối với
các chủ thể quản lý, đạt được các mục tiêu tổng thể cũng như cụ thể của từng đối
tượng thì đồng quản lý rừng sẽ là một phương thức thích hợp. Trong thực tế, nhà
nước không đủ khả năng để quản lý toàn bộ tài nguyên trên lãnh thổ quốc gia. Gánh
nặng này cần phải được chia sẻ với các chủ thể quản lý tài nguyên khác trong xã
hội. Hợp tác trong quản lý sẽ phát huy được những thế mạnh của các chủ thể, đặc
biệt cộng đồng dân cư là những người trực tiếp tiếp cận với nguồn tài nguyên rừng
và có những hiểu biết sâu sắc về chúng. Trên cơ sở đó, hợp tác quản lý sẽ tạo ra một



16

sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho sự thành công của công tác quản lý tài nguyên
rừng.
1.4.1.2. Đồng quản lý, kết hợp bảo tồn tài nguyên rừng và phát triển bền
vững.
- Bảo tồn và phát triển là hai mặt đối lập nhưng thống nhất. Tài nguyên
thiên nhiên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng là nguồn nguyên liệu cần thiết
đối với phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Để phục vụ cho mục tiêu phát
triển, con người đã không ngừng khai thác các nguồn tài nguyên hữu hạn này. Bảo
tồn tài nguyên rừng sẽ mâu thuẫn với phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu khai thác
một cách quá mức, thiếu kiểm soát, không theo kế hoạch làm cạn kiệt tài nguyên
rừng, hệ quả của nó là phá vỡ tính bền vững về kinh tế - xã hội và môi trường.
Chính vì vậy, cần phải bảo tồn, duy trì khả năng tái tạo các tài nguyên cho sự phát
triển ổn định lâu dài. Đồng quản lý tài nguyên rừng khu bảo tồn sẽ là phương thức
hiệu quả cho tiến trình kết hợp giữa bảo tồn và phát triển.
- Đồng quản lý giải quyết được mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển. Nhà
nước có chiến lược, chính sách bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên và thường nảy
sinh mâu thuẫn với các cộng đồng địa phương đang sử dụng tài nguyên (đối tượng
bảo tồn) phục vụ các nhu cầu của đời sống. Giữa cộng đồng và quốc gia sẽ đạt được
đồng nhất trong các mục tiêu bảo tồn và phát triển nếu như tiến tới thỏa thuận về
một phương thức đồng quản lý. Sự hợp tác sẽ chiếm ưu thế khi có sự tham gia của
các bên liên quan, đồng thời các mâu thuẫn được giải quyết, các mục tiêu đặt ra
được thực hiện có hiệu quả.
1.4.2. Cơ sở khoa học và thực tiễn.
1.4.2.1. Đồng quản lý dựa trên cơ sở tiến bộ khoa học và kiến thức bản địa.
- Người dân sống trong khu bảo tồn có trình độ hiểu biết không cao, song họ
có rất nhiều kinh nghiệm thực tế về tài nguyên rừng. Đồng quản lý sẽ ứng dụng kết

hợp sự hiểu biết về đa dạng sinh học của khoa học với những kiến thức sinh thái
bản địa. Kiến thức sinh thái bản địa về đặc tính của các tài nguyên là cơ sở kinh
nghiệm giúp công tác bảo tồn phát triển tài nguyên rừng. Đồng quản lý dựa trên sự


17

kết hợp hài hòa giữa các thành tựu của khoa học quản lý và kinh nghiệm về quản lý
tài nguyên rừng của cộng đồng địa phương. Khoa học quản lý sử dụng các biện
pháp quản lý tiên tiến cho khu bảo tồn, kinh nghiệm quản lý tài nguyên rừng của
cộng đồng sẽ là cơ sở để ứng dụng khoa học quản lý cho phù hợp với địa phương.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học và kiến thức bản địa không
những đảm bảo cho công tác bảo tồn tài nguyên rừng mà còn góp phần bảo tồn bản
sắc văn hoá trong quản lý và sử dụng tài nguyên rừng của cộng đồng dân cư trong
khu vực. Nó góp phần giải quyết được các khó khăn, tồn tại đang phải đối mặt về
kinh tế và khoa học.
1.4.2.2. Đồng quản lý dựa trên cơ sở phối hợp lợi ích quốc gia và cộng đồng.
- Khi đặt vấn đề quản lý một khu bảo tồn nào đó, nhà nước tính đến lợi ích
mang tính toàn cục. Mục tiêu chung là bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường,
phòng hộ cho các ngành sản xuất và đời sống xã hội trong khu vực.
- Đối với cộng đồng, đời sống của họ phụ thuộc trực tiếp vào nguồn tài
nguyên rừng. Lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của người dân là đảm bảo sử dụng
bền vững nguồn tài nguyên cho nhiều thế hệ. Chính vì vậy, bảo tồn thiên nhiên phải
dựa trên cơ sở đảm bảo các lợi ích của cộng đồng dân cư.
- Các bên quan tâm khác về du lịch, khai thác lợi ích môi trường rừng mang
lại,... lợi ích của họ cũng dựa trên các nguồn tài nguyên vốn có của khu bảo tồn.
Mục tiêu của họ là khai thác một cách bền vững các nguồn tài nguyên này cho mục
đích của họ gắn với lợi ích của cộng đồng khi thụ hưởng các dịch vụ liên quan.
- Đồng quản lý phải không làm ảnh hưởng quá mức hoặc làm mất đi lợi ích
của các bên liên quan mà phải gắn lợi ích của họ với trách nhiệm quản lý, bảo vệ

các nguồn tài nguyên rừng mà họ đang quan tâm.
1.4.2.3. Đồng quản lý với việc bảo tồn bản sắc văn hoá cộng đồng và chiến
lược xoá đói giảm nghèo.
Cùng với sự phát triển của xã hội, sự hoà nhập quốc tế về văn hoá ngày
càng gia tăng. Điều này đã làm mai một không ít những bản sắc văn hoá độc đáo
của cộng đồng người địa phương. Nét văn hóa đặc sắc của người Mường, những


18

sinh hoạt văn hoá dân gian và cả những tri thức về quản lý và sử dụng tài nguyên
rừng ngày càng bị thiếu vắng. Bởi vậy, bảo tồn bản sắc văn hoá, kiến thức bản địa
cũng là một trong những chiến lược lâu dài của tỉnh và của đất nước. Đồng quản lý
tài nguyên rừng sẽ khuyến khích người dân sử dụng những kiến thức, sáng kiến và
thể chế cộng đồng cho công tác bảo tồn và phát triển. Chu trình sử dụng và bảo tồn
kiến thức bản địa được thể hiện như sau.

Kiến
thức
Phát
triển

Sử
dụng

Bảo tồn

Kiến thức
mới


Sáng
kiến

Sơ đồ 4.1. Chu trình sử dụng và bảo tồn kiến thức bản địa.
Những hỗ trợ của kiến thức mới, của cơ chế tài chính trong quản lý rừng
đặc dụng kết hợp với việc sử dụng kiến thức và sáng kiến sẽ giúp cộng đồng phát
triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo bằng con đường tự vận động với sự hỗ trợ
tích cực từ các bên liên quan.
1.4.3. Cơ sở pháp lý về đồng quản lý
1.4.3.1. Căn cứ pháp luật: Các văn bản Luật có nội dung liên quan đến đồng
quản lý.
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004.
- Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
- Luật Đất đai năm 2009.
- Bộ Luật dân sự năm 2005.
1.4.3.2. Các văn bản dưới luật
- Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2009 của chính phủ về


19

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản.
- Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của chính phủ về
thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng.
- Nghị định số 64/2010/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ về
thi hành một số điều của Luật đa dạng sinh học.
- Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về
quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp quí hiếm.
- Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ

về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng.
- Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 09 tháng 01 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020
- Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng.
- Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển lâm nghiệp
Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
- Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 02 tháng 02 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thí điểm chia sẻ lợi ích trong quản lý bảo vệ và phát triển bền
vững rừng đặc dụng. Đây là một văn bản quan trọng mở ra cơ chế chia sẻ lợi ích
đồng quản lý tài nguyên rừng.
- Quyết định số 24/2012/QĐ-TTg ngày 01/6/2012 của Thủ tướng chính phủ,
về chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 - 2020.
- Công ước Đa dạng sinh học mà Việt Nam đã tham gia năm 1994,
- Quyết định số 106/2006/QĐ-BNN ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Bộ
trưởng bộ NN&PTNT về ban hành bản hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư
thôn.
- Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg ngày 08/02/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về Ban hành một số chính sách trong công tác bảo vệ rừng.
- Thông tư số 70/2007/TT-BNN ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Bộ Nông


20

nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện
quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn.
- Thông tư 78/2011/TT-BNNPTNT ngày 11 tháng 11 năm 2011 của Bộ
NN&PTNT quy định chi tiết thi hành Nghị định 117 của Chính phủ về tổ chức và
quản lý hệ thống rừng đặc dụng.
Tóm lại: Cơ sở khoa học và thực tiễn của đồng quản lý tài nguyên rừng cho

thấy chìa khoá thành công trong quản ý tài nguyên rừng là hợp tác trong quản lý sẽ
phát huy được những thế mạnh của các chủ thể, đặc biệt cộng đồng dân cư là những
người trực tiếp tiếp cận với nguồn tài nguyên rừng. Trên cơ sở đó, hợp tác quản lý
sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho sự thành công trong quản lý bền
vững tài nguyên rừng.
1.5. Nhận xét đánh giá chung về đồng quản lý.
Qua các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về các vấn đề liên
quan đến đề tài nghiên cứu có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
- Các công trình nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành khá đồng bộ trên
nhiều khía cạnh khác nhau, từ việc đưa ra các quan điểm, khái niệm về đồng quản
lý, nghiên cứu về sự hưởng lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan và các phương
thức hợp tác quản lý rừng,... Những nghiên cứu này đã tạo ra cơ sở khoa học cho
việc triển khai thực hiện đồng quản lý tài nguyên rừng ở các nước trên thế giới.
- Ở Việt Nam, đồng quản lý hay hợp tác quản lý là một vấn đề mới, còn
đang trong giai đoạn thử nghiệm và gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn do tính phức
tạp của các yếu tố xã hội và cơ chế pháp lý. Thực hiện đồng quản lý rừng đặc dụng
cần phải được triển khai thực hiện, để có tổng kết đánh giá nhân rộng; các bước tiến
hành về quản lý phải phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn ở nước ta và đặc
biệt là lôi cuốn sự hợp tác của cộng đồng địa phương vào quản lý tài nguyên rừng.
Khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông có diện tích rộng 19.200 ha, sự đa dạng
sinh học cao, các yếu tố kinh tế xã hội mang tính đặc thù. Cần phải có một nghiên
cứu mang tính toàn diện, đầy đủ, hệ thống về quản lý rừng, đồng quản lý tài nguyên
rừng. Để tìm ra một cách thức quản lý rừng bền vững. Cần xây dựng những nguyên


21

tắc và giải pháp đồng quản lý gì để giải quyết được các mâu thuẫn trong quản lý tài
nguyên rừng tại khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông với các bên liên quan đặc biệt là
người dân, cộng đồng địa phương đang sinh sống xen kẽ trong khu bảo tồn. Đây là

những yêu cầu, đòi hỏi cần được giải quyết của đề tài:
“Nghiên cứu tiềm năng, đề xuất nguyên tắc và giải pháp thực hiện Đồng
quản lý rừng tại khu BTTN Ngọc Sơn- Ngổ Luông tỉnh Hòa Bình”.
Sẽ góp phần cung cấp thêm những thông tin về đồng quản lý rừng. Trên cơ
sở đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng tại khu BTTN Ngọc Sơn - Ngổ Luông,
đưa ra các nguyên tắc và giải pháp quản lý rừng khả thi được áp dụng tại địa
phương nhằm quản lý tốt nguồn tài nguyên rừng khu bảo tồn.


22

Chương 2.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.1. Mục tiêu nghiên cứu.
2.1.1. Đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng trong khu bảo tồn.
2.1.2. Đánh giá được mức độ tác động, tham gia của các bên liên quan vào
rừng đặc dụng, những chính sách và giải pháp đã áp dụng.
2.1.3. Xây dựng các nguyên tắc Đồng quản lý rừng giữa các bên liên quan
đến bảo vệ rừng và bảo tồn.
2.2. Đối tượng nghiên cứu.
- Thực trạng tài nguyên thiên nhiên trong khu bảo tồn.
- Cơ chế chính sách của các cấp có liên quan đến công tác quản lý bảo vệ,
bảo tồn tài nguyên rừng đặc dụng.
- Những tác động của các bên liên quan đến quản lý rừng Khu bảo tồn thiên
nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông.
- Kiến thức bản địa và thể chế của cộng đồng dân cư trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên.
2.3. Giới hạn nghiên cứu.
Do điều kiện về thời gian, nhân lực và kinh phí của đề tài còn hạn chế nên

đối tượng và phạm vi nghiên cứu được giới hạn cụ thể ở 2 xã, trong đó: 1 xã nằm
chọn trong khu bảo tồn là xã Ngọc Sơn; 1 xã nằm ngoài khu bảo tồn (thuộc vùng
đệm khu bảo tồn thiên nhiên NS-NL) là xã Phú Lương, 2 xã đều thuộc huyện Lạc
Sơn tỉnh Hòa Bình.
2.4. Nội dung nghiên cứu.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài tiến hành thực hiện một số nội dung
chủ yếu sau:
- Phân tích tiềm năng Đồng quản lý rừng Khu BTTN Ngọc Sơn- Ngổ Luông.
+ Thực trạng quản lý tài nguyên rừng tại khu BTTN Ngọc Sơn – Ngổ Luông.


23

+ Sự phụ thuộc của người dân vào nguồn tài nguyên rừng trong khu bảo tồn
Ngọc Sơn – Ngổ Luông.
+ Kiến thức và thể chế bản địa trong quản lý rừng.
+ Phân tích các bên liên quan đến quản lý rừng khu BTTN Ngọc Sơn – Ngổ
Luông.
- Phân tích tính thực tiễn của một số chính sách hiện hành có liên quan đến
sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng đặc dụng .
- Phân tích các tiềm năng hiện có trong khu bảo tồn, để có cơ sở chia sẻ lợi
ích cho các bên liên quan:
- Thiết lập các nguyên tắc Đồng quản lý rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên
Ngọc Sơn – Ngổ Luông.
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện các nguyên tắc đồng quản lý rừng tại
khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông.
2.5. Phương pháp nghiên cứu.
2.5.1. Cách tiếp cận và phương hướng giải quyết vấn đề.
- Đề tài bắt đầu từ việc tìm hiểu các thông tin về đồng quản lý rừng và khảo
sát tổng thể khu vực nghiên cứu để chọn ra được địa điểm nghiên cứu phù hợp nhất

với các yêu cầu đặt ra.
- Phát triển bền vững đang là yêu cầu và đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn. Quản
lý rừng bền vững là một trong những nội dung có vai trò vô cùng quan trọng. Để
tìm ra được các nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý tại khu vực nghiên cứu thì
phương pháp tiếp cận của đề tài là tiếp cận tổng hợp. Ngoài việc phân tích những cơ
sở lý luận và thực tiễn thực hiện đồng quản lý tại khu vực, đề tài còn quan tâm đến
việc đánh giá các tiềm năng của đồng quản lý. Đặc biệt chú ý đến chế độ hưởng lợi
của các bên tham gia và cách giải quyết các mâu thuẫn còn đang tồn tại trong công
tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng đặc dụng.
- Đồng quản lý là việc quản lý rừng có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức,
người dân, cộng đồng xã hội. Cho nên để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các
bên tham gia, do đó cần phải sử dụng cách tiếp cận đa phương.


24

- Đề tài kế thừa các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đồng thời
tiến hành điều tra thu thập bổ sung các thông tin sơ cấp. Trên cơ sở đánh giá, phân
tích các kết quả này, đề tài đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý
rừng tại khu bảo tồn theo hướng phát triển tài nguyên rừng bền vững.
- Triển khai thực hiện các nội dung nghiên cứu, vai trò của tác giả là hỗ trợ
còn các đối tác là người thực hiện chính (đồng quản lý trên cơ sở tự nguyện của các
đối tác và chính họ xây dựng và thực hiện sau này).
2.5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các bước thực hiện nghiên cứu được sơ đồ hoá như sau:
Thu thập các tài liệu có liên
quan

Khảo sát tổng thể khu vực
nghiên cứu


Phân tích cơ sở khoa học và thực tiễn của
đồng quản lý tài nguyên rừng tại khu BT

Đánh giá tiềm năng đồng quản lý tài nguyên
rừng tại khu bảo tồn

Đề xuất nguyên tắc
đồng quản lý

Đề xuất giải pháp
đồng quản lý

Sơ đồ 2.1: Các bước tiến hành nghiên cứu
2.5.2.1. Phương pháp kế thừa tài liệu.
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có về đồng quản lý, kể cả các tài liệu
nghiên cứu đã có trên thế giới.
- Kế thừa các tài liệu có sẵn ở các cơ quan và ban, ngành, các cấp từ trung
ương đến địa phương gồm những tài liệu liên quan đến các yếu tố tự nhiên, kinh tế


25

- xã hội; kinh nghiệm quản lý bảo vệ rừng; những kết quả nghiên cứu về
đồng quản lý ở các địa phương, đặc biệt các nghiên cứu liên quan tại khu bảo tồn
Ngọc Sơn - Ngổ Luông; những tài liệu về tổng kết chính sách lâm nghiệp trong
nước; các văn bản qui phạm pháp luật về vấn đề liên quan.
- Thu thập số liệu từ Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ
Luông và cán bộ địa phương như xã, huyện, tỉnh để nắm tình hình chung và các số
liệu thứ cấp cơ bản.

Các tài liệu kế thừa đảm bảo được tính cập nhật (mới nhất), chính thống (cơ
quan, tổ chức có chức năng ban hành) và đảm bảo độ chính xác phù hợp với yêu
cầu của chủ đề nghiên cứu.
2.5.2.2. Thu thập tài liệu, thông tin ngoại nghiệp.
* Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu: Chọn điểm nghiên cứu là đại diện
tương đối cho khu vực nghiên cứu. Dựa trên các tiêu chí chọn xã.
- Xã có địa bàn hành chính nằm trong khu bảo tồn, có diện tích và các trạng
thái rừng đặc trưng cho vùng nghiên cứu.
- Xã có địa bàn hành chính nằm ở vùng đệm khu bảo tồn, có diện tích và các
trạng thái rừng đặc trưng cho vùng nghiên cứu, tiếp giáp và liên quan ảnh hưởng
đến tài nguyên rừng theo địa giới hành chính của xã nằm chọn trong khu bảo tồn.
Đảm bảo tính liên kết thống nhất trong nhận xét, đánh giá.
- Có các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn
thiên nhiên lớn, tài nguyên rừng thường xuyên bị xâm hại.
- Đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, đa số người dân có đời sống
gắn bó với với tài nguyên rừng, thường xuyên gây áp lực lớn tới tài nguyên rừng
của khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông.
- Có các dân tộc ít người đại diện cho các xã vùng đệm của khu bảo tồn thiên
nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông.
- Có vị trí quan trọng trong kiểm soát các hoạt động khai thác lâm sản trong
khu vực khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông và vùng đệm.


×