Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tổng công ty nông nghiệp quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------

NGUYỄN HỮU ĐẲNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TỔNG CÔNG TY NÔNG
NGHIỆP QUẢNG BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ KHẮC CÔI

HÀ NỘI 2012


1

Đặt vấn đề.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một quy luật khách quan, tất
yếu và là cơ chế vận động của thị trường. Năng lực cạnh tranh là nhân tố đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của


nền kinh tế. Trong điều kiện hội nhập nền kinh tế vào thị trường quốc tế thì
cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Mọi doanh nghiệp, mọi ngành nghề đều
phải tự mình vận động để đứng được trong cơ chế này, doanh nghiệp nào
không thích nghi được sẽ phải phá sản và bị gạt ra khỏi thị trường, mở đường
cho các doanh nghiệp nào biết nắm thời cơ, biết huy động tối đa những thế
mạnh của mình, biết khắc phục những điểm yếu để giành thắng lợi trong cạch
tranh.
Tổng công ty nông nghiệp Quảng Bình là một trong những doanh
nghiệp hàng đầu ở tỉnh Quảng Bình, nên nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn
tại và phát triển luôn là mối quan tâm hàng đầu của Tổng Công ty.
Trên tinh thần đó tôi chọn đề tài nghiên cứu: Một số giải pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty nông nghiệp Quảng Bình làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Mục tiêu tổng quát:
Trên cở sở phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
nông nghiệp Quảng Bình trong thời gian qua, đánh giá những thành công đã
đạt được, các tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng, từ đó đề xuất
định hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công
ty trong thời gian tới.


2

- Mục tiêu cụ thể:
+ Hệ thống hoá những cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp;
+ Phân tích những yếu tố vi mô, vĩ mô ảnh hưởng đến hoạt động của
Tổng Công ty;

+ Đánh giá năng lực cạnh tranh của Tổng công ty trong thời gian qua
(2007 -2011);
+ Đưa ra các định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty.

3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh
tranh của Tổng Công ty nông nghiệp Quảng Bình.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Luận văn đi sâu nghiên cứu năng lực cạnh
tranh của Tổng Công ty về các sản phẩm giống cây trồng, phân bón NPK
phục vụ nông nghiệp.
+ Phạm vi về không gian: Tổng công ty nông nghiệp Quảng Bình.
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2007 đến năm 2011.

4. Nội dung nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu: Hệ thống hoá cơ sở lý luận về
cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
+ Khái niệm về cạnh tranh
+ Khái niệm về năng lực cạnh tranh
+ Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
 Nhóm các yếu tố bên trong:


3

 Nhóm các yếu tố bên ngoài: Môi trường vĩ mô, Môi trường vi
mô.
+ Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:

- Thực trạng vấn đề nghiên cứu: Đánh giá thực trạng sản xuất kinh
doanh và năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty nông nghiệp Quảng Bình.
+ Quá trình hình thành và phát triển Tổng Công ty;
+ Thực trạng sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty;
+ Phân tích năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
 Môi trường vĩ mô;
 Môi trường vi mô;
 Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của Tổng Công ty hiện nay;
 Điểm mạnh, điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
- Giải pháp đề xuất: Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của Tổng Công ty nông nghiệp Quảng Bình
+ Mục tiêu phát triển của Tổng công ty
 Định hướng phát triển.
 Mục tiêu phát triển
+ Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty
nông nghiệp Quảng Bình
1. Nhóm giải pháp về hoạt động sản xuất kinh doanh:
 Chiến lược kinh doanh.
 Quy mô và lãnh vực sản xuất kinh doanh.
 Nguồn nguyên liệu đầu vào.
2. Nhóm giải pháp về nhân lực.
3. Nhóm giải pháp về vốn.
4. Nhóm giải pháp về thị trường.


4

 Lựa chọn thị trường mục tiêu.
 Phương thức thâm nhập thị trường.

 Các giải pháp về thị trường.
5. Nhóm giải pháp về công nghệ.
Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương


5

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH.
1. Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khá lâu song trong
những năm gần đây được nhắc đến nhiều hơn, nhất là ở Việt Nam. Bởi trong
nền kinh tế mở hiện nay, khi xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng phổ
biến thì cạnh tranh là phương thức để đứng vững và phát triển của doanh
nghiệp. Cạnh tranh ngày nay là một vấn đề rất được các doanh nghiệp quan
tâm, trường phái kinh tế nào đi nữa cũng đều thừa nhận rằng: “Cạnh tranh chỉ
xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung cầu và giá cả
hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ
chế thị trường”
Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, cấp độ
khác nhau nhưng vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng và cụ thể. Ở cấp độ
doanh nghiệp, cạnh tranh có thể được hiểu là sự tranh đua giữa các doanh
nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hay khách hàng bằng nỗ lực
nâng cao năng lực, tạo ra lợi thế cạnh tranh vượt trội cho bản thân doanh
nghiệp nhằm mang lại cho khách hàng những giá trị gia tăng cao hơn hoặc
mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn mình chứ không phải đối thủ, từ đó doanh
nghiệp tồn tại và nâng cao vị thế của mình trên thị trường để thu lợi nhuận

cao hơn. Theo cuốn kinh tế học của Paul A.Samuelson quan niệm: “Cạnh
tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp để giành khách hàng hoặc thị
trường” (1)
(1)

Theo cuốn kinh tế học của Paul A. Samuelson – NXB giáo dục (2000)


6

Các giá trị gia tăng vượt trội dưới cái nhìn khách hàng có thể được tạo
ra thông qua một hoặc một số các yếu tố như: chất lượng sản phẩm, thời gian,
không gian, chất lượng dịch vụ, thương hiệu, giá cả,… Theo từ điển bách
khoa của Việt Nam thì “Cạnh tranh là hoạt động ganh đua giữa những người
sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản
xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất ”(2)
Khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác cũng đã đưa ra
khái niệm về cạnh tranh: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt
giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch” (3) hoặc theo các tác giả
của cuốn các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền kinh doanh thì “ Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa
các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng
nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh
doanh cụ thể ” (4)
Như vậy cạnh tranh là hoạt động của các doanh nghiệp trong nền sản
xuất hàng hóa với mục đích ganh đua, giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao.
Khoa học kỹ thuật phát triển đã đẩy mạnh nền sản xuất, sản phẩm ngày

càng nhiều trên thị trường, cung càng vượt cầu thì cạnh tranh càng gay gắt.
Khi tính cạnh tranh của thị trường kinh doanh ngày càng cao thì không một
doanh nghiệp nào có thể tự chủ được, nếu như họ không tìm mọi cách khai

(2)

Từ điển Bách khoa (1995), NXB từ điển Bách khoa, Hà Nội

(3)
(4)

K. Marx (1978), Mác-ăng Ghen toàn tập, NXB sự thật

Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương: Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền kinh doanh, Nhà xuất bản giao thông vận tải, Hà Nội.


7

thác lợi thế riêng của mình, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và
phát triển.
Như vậy về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa người với người
trong việc giải quyết lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở
mục đích lợi nhuận và chi phối thị trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc
lộ đạo đức kinh doanh và uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh trong
quan hệ với những người lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp và trong mối quan hệ với người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh
khác.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó
chịu nhiều chi phối của quan hệ sản xuất giữ vị trí thống trị trong xã hội, nó

có quan hệ hữu cơ với các quy luật kinh tế khác như: quy luật giá trị, quy luật
lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu, đây là một đặc trưng gắn với bản chất
của cạnh tranh. Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và thiệt hại
cho người khác nhưng xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác
động tích cực như: tạo ra sản phẩm tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn,…
Cạnh tranh còn giúp thị trường hoạt động có hiệu quả nhờ việc phân bổ hợp
lý các nguồn lực có hạn. Đây cũng chính là động lực cho sự phát triển của nền
kinh tế. Quy luật cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn
giá trị xã hội, do đó nó làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia
tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất, nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh
doanh thành công nhất.
2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng
lực cạnh tranh là khả năng tạo ra, duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị
trường trong và ngoài nước, các chỉ số đánh giá năng suất lao động, công


8

nghệ, năng suất, các yếu tố sản xuất, chi phí cho nghiên cứu và phát triển,
chất lượng, tính khác biệt của sản phẩm, chi phí đầu vào,…
Michael Porter cho rằng: “ Năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo ra
những sản phẩm có quy trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị gia tăng cao,
phù hợp với nhu cầu khách hàng, có chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng lợi
nhuận ” (5)
Như vậy, thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” dù đã được sử dụng rộng rãi
nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về nó, dẫn đến cách thức đo lường
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vẫn chưa được xác định một cách
thống nhất và phổ biến. Từ các quan điểm trên, chúng ta có thể đúc kết lại
như sau: Năng lực cạnh tranh là khả năng khai thác, huy động, quản lý và sử

dụng có hiệu quả các nguồn lực giới hạn như nhân lực, vật lực, tài lực,…để
tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh; đồng thời,
biết lợi dụng các điều kiện khách quan một cách có hiệu quả để tạo ra lợi thế
cạnh tranh trước các đối thủ, xác lập vị thế cạnh tranh của mình trên thị
trường; từ đó, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập và lợi nhuận cao, đảm
bảo cho doanh nghiệp tồn tại, tăng trưởng và phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau như: năng
lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của ngành, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa: là khả năng sản phẩm đó
bán được nhanh với giá tốt khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên
thị trường. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá
cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, thương hiệu, quảng cáo, uy tín của người
bán, chính sách hậu mãi,…

(5)

Michael E. Porter (1996), Chiến lược cạnh tranh, Nxb Khoa học kỹ thuật


9

- Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là năng lực cạnh

tranh doanh nghiệp với các ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị
trường hoặc gắn năng lực cạnh tranh với vị trí của doanh nghiệp trên thị
trường theo thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức, quản trị
kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia
tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp.
- Năng lực cạnh tranh của ngành: là khả năng ngành phát huy được

những lợi thế cạnh tranh và có năng suất so sánh cao hơn giữa các ngành cùng
loại.
- Khái niệm về năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của nền kinh

tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các
chính sách, thể chế và các đặc trưng kinh tế, xã hội khác. Năng lực cạnh tranh
quốc gia được xác định bởi các nhân tố: mức độ mở cửa nền kinh tế, vai trò
của chính phủ, tài chính công nghệ, cơ sở hạ tầng, quản lý kinh doanh, thể chế
pháp lý, giáo dục, khoa học công nghệ. Năng lực cạnh tranh quốc gia có thể
hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo có
hiệu quả phân bố nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động
của thị trường thế giới.
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ trên có mối tương quan mật thiết với
nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần thiết phải đặt nó
trong mối tương quan chung giữa các cấp độ cạnh tranh nêu trên. Ngoài ra,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng cần phải được tiếp cận đồng thời
trên hai góc độ:
- Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh như: thị phần, năng suất lao
động, tỷ suất lợi nhuận, chất lượng và tính khác biệt của sản phẩm…


10

- Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh: đội ngũ nhân lực, bí quyết
công nghệ, năng lực quản trị,… Đây là các yếu tố nền tảng để nhà quản trị
đưa ra các chiến lược nhằm xây dựng và duy trì năng lực cạnh tranh lâu dài
cho doanh nghiệp.
Do đó có thể hiểu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực

lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thoả mãn
tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu được lợi ích ngày càng cao cho
doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và nước ngoài.
Tóm lại, cạnh tranh ngày nay không còn là sự ganh đua đơn thuần,
tranh giành thị phần giữa các doanh nghiệp với nhau mà nó đã tiến bộ lên rất
nhiều, cạnh tranh để cùng nhau phát triển, cùng nhau đổi mới, một sự cạnh
tranh lành mạnh. Nếu doanh nghiệp nào bằng lòng với vị thế hiện tại cuả
mình thì doanh nghiệp đó sẽ rơi vào tụt hậu, nhất là khi sự cạnh tranh trên thị
trường ngày càng khốc lịêt. Do đó các doanh nghiệp phải luôn luôn và liên
tục đổi mới để giữ vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị
trường.
Mục đích của doanh nghiệp hiện nay là tìm cách nâng cao vị thế cạnh
tranh của mình trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài.
Muốn vậy các doanh nghiệp phải tìm cách xây dựng lợi thế cạnh tranh cho
mình hơn là tìm cách xoá bỏ bất lợi thế. Lợi thế cạnh tranh ngày nay được
hiểu khác nhau khi không còn là lợi thế đơn thuần về địa lý, tài nguyên thiên
nhiên, con người .. mà là lợi thế của một quốc gia.
3. Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh:
Trong nền kinh tế thị trường, để có thể tồn tại và phát triển, doanh
nghiệp phải tạo cho mình khả năng chống chọi lại các thế lực cạnh tranh một
cách có hiệu quả. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, với tiến trình khu vực hóa,
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ


11

thuật, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, tính quyết định của năng lực cạnh
tranh đối với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp càng rõ nét. Do
vậy, các doanh nghiệp phải không ngừng tìm tòi các biện pháp phù hợp và
liên tục đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, vươn lên chiếm được lợi thế

cạnh tranh so với đối thủ thì mới có thể phát triển bền vững được. Việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn góp phần vào việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngành. Từ đó, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ
ngày càng tốt hơn với giá rẻ hơn, làm cho nền kinh tế phát triển, khả năng
cạnh tranh của quốc gia được nâng cao và đời sống của nhân dân được tốt đẹp
hơn. Vì thế, bên cạnh nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp, trên tầm vĩ mô, Nhà nước cần phải nhanh chóng và đồng bộ hoàn
thiện các cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật nhằm tạo môi trường kinh
doanh công bằng, lành mạnh cho các doanh nghiệp. Đồng thời, thông qua
đàm phán, ký kết các cam kết quốc tế về hội nhập, xúc tiến thương mại, tạo sự
thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và sự phát triển của
doanh nghiệp có sự tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp phát triển và hội
nhập: Thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp và giúp
doanh nghiệp hội nhập kinh tế thuận lợi cả về chiều rộng lẫn chiều sâu một
cách chủ động.
- Khi doanh nghiệp đứng vững và phát triển sẽ tạo điều kiện ngược lại
để doanh nghiệp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Bởi những
thành tựu của sự phát triển sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh
doanh có đủ khả năng về nguồn lực để tiếp cận những tiến bộ về kỹ thuật,
công nghệ mới, về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh.


12

Trong giai đoạn hiện nay vấn đề có tính chất quyết định là mỗi doanh
nghiệp phải luôn phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để sẵn
sàng nắm lấy cơ hội và đủ khả năng đối mặt với các thách thức trong quá

trình hội nhập để tồn tại và phát triển bền vững.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Để có được năng lực cạnh tranh mạnh, doanh nghiệp phải trải qua một
quá trình xây dựng và củng cố bộ máy tổ chức, xây dựng và thực hiện tốt các
chiến lược sản xuất - kinh doanh, bao gồm: chiến lược sản xuất, chiến lược
nhân sự, chiến lược công nghệ, chiến lược thị trường và đặc biệt là chiến lược
cạnh tranh; tạo dựng môi trường bên trong và bên ngoài tốt để làm cơ sở vững
chắc cho việc thực hiện các chiến lược trên, cũng như các hoạt động khác của
doanh nghiệp. Tất cả các yếu tố trên đều có ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và có thể chia ra làm hai nhóm sau:
4.1. Nhóm các yếu tố bên trong: phát sinh từ nội bộ doanh nghiệp, gồm:
- Cơ cấu tổ chức và các chính sách, chiến lược của doanh nghiệp.
- Quản trị doanh nghiệp: gồm phương pháp và biện pháp quản lý, xây
dựng thương hiệu cho sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực,…
- Sự sẵn sàng của các nhân tố đầu vào.
- Trình độ và nhận thức của người lao động trong doanh nghiệp: trình
độ tay nghề, sự hiểu biết về luật pháp và chính sách của Nhà nước, nhận thức
về văn hóa tổ chức, về lao động, nhận thức về thị trường, về cạnh tranh,…
4.2. Nhóm các yếu tố bên ngoài:
4.2.1 Các yếu tố môi trường vĩ mô:
Môi trường vĩ mô là một môi trường lớn bao gồm các nhân tố ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Các nhân tố này
thường doanh nghiệp không kiểm soát được nhưng có thể tận dụng được
những thuận lợi và khó khăn do nó gây ra để có thể biến nó thành những cơ


13

hội kinh doanh riêng của mình. Các nhân tố quan trọng trong môi trường vĩ
mô ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm:

- Các yếu tố kinh tế: Đây là nhóm các nhân tố ảnh hưởng quan trọng
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi
suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, lạm phát là những nhân tố kinh tế thường
xuyên tác động đến hoạt động của mọi tổ chức. Riêng đối với các doanh
nghiệp sản xuất nhân tố tác động thường xuyên nhất là tốc độ tăng tưởng nền
kinh tế và lãi suất ngân hàng.
Nếu như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập
của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng, dẫn tới sức mua các loại
hàng hoá tăng lên. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả
năng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ
thành công và có khả năng cạnh tranh cao. Trái lại khi nền kinh tế suy thoái
các khoản thu nhập của dân chúng giảm sẽ kéo theo giảm chi tiêu, khi đó áp
lực cạnh tranh gia tăng và tạo ra nhiều nguy cơ cho doanh nghiệp.
Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhất là những doanh nghiệp hoạt động
trong tình trạng thiếu vốn. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của
doanh nghiệp sẽ tăng lên do phải trả lãi cao, khi đó năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ kém đi nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
- Các nhân tố về chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, pháp luật
rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho
các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Luật
thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh
bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giữa các thành phần kinh tế, chính sách của
nhà nước về xuất nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu hay khuyến khích nhập
khẩu ... cũng sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.


14

- Yếu tố văn hóa, xã hội: Đây là nhóm yếu tố quan trọng tạo nên nhân

cách, sở thích lối sống của con người. Đặc biệt ở đây được hiểu là những biến
đổi về các yếu tố và đặc điểm của nó cũng có thể tạo ra những khó khăn hay
thuận lợi cho các doanh nghiệp, tuy rằng những diễn biến xã hội thường chậm
và khó nhận biết. Bao gồm các yếu tố sau:
+ Chất lượng cuộc sống của dân cư, sở thích vui chơi giải trí của các
tầng lớp xã hội;
+ Chuẩn mực về đạo đức, phong cách lối sống;
+ Tình hình về nhân lực như: lực lượng lao động, lực lượng dự trữ lao
động;
+ Trình độ văn hoá, nghề nghiệp của dân cư và người lao động;
+ Truyền thống văn hoá và các tập tục xã hội;
+ Các tôn giáo và vai trò của các tôn giáo, các xung đột tôn giáo;
+ Tình hình nhân khẩu: tỉ lệ tăng dân số, cơ cấu dân cư.
4.2.2 Các yếu tố môi trường vi mô:
- Đối thủ cạnh tranh:
Đối thủ cạnh tranh là nhân tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến
doanh nghiệp. Trong một ngành nào đó mà tồn tại một hoặc một số doanh
nghiệp thống lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn và doanh nghiệp thống lĩnh
đóng vai trò chỉ đạo giá. Trong trường hợp này nếu doanh nghiệp không ở vị
trí thống lĩnh thì sức cạnh tranh là rất kém. Nhưng nếu tồn tại nhiều doanh
nghiệp có thế lực và quy mô tương đương nhau thì cạnh tranh trong ngành sẽ
rất gay gắt. Cần phải coi trọng lợi thế so sánh của mình và biến nó thành lợi
thế cạnh tranh, doanh nghiệp nào có nhiều lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp
đó có năng lực cạnh tranh cao hơn. Như vậy khi phân tích cạnh tranh, doanh
nghiệp cần xác định:


15

- Ai là đối thủ cạnh tranh chủ yếu: người bán cần biết được quan điểm

của khách hàng về nhu cầu, ước muốn, đặc tính của sản phẩm và nhiều điều
khác nữa trong sự giới hạn về khả năng mua sắm của họ.
- Điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ: sản phẩm, hệ thống phân phối, giá
bán, quảng cáo, ..
- Đặc điểm thị trường cạnh tranh: để cạnh tranh có hiệu quả, doanh
nghiệp cần xem xét đặc tính của người tiêu dùng các hệ thống và việc cạnh
tranh, cả đặc điểm riêng của nó như một doanh nghiệp.
- Khách hàng:
Khách hàng là nơi bắt đầu và là nơi kết thúc quá trình tái sản xuất của
doanh nghiệp. Căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp đưa ra các
quyết định sản xuất và khi quá trình sản xuất kết thúc, sản phẩm của doanh
nghiệp lại được đưa ra thị trường để đáp ứng các nhu cầu đó. Số lượng của
khách hàng quyết định quy mô thị trường hàng hoá của doanh nghiệp. Nếu
quy mô thị trường lớn, doanh nghiệp có thể tăng đầu tư sản xuất sản phẩm,
chiếm lĩnh thị trường và tăng sản lượng bán.
Bên cạnh đó, khả năng thanh toán của khách hàng sẽ quyết định sức
mua hàng hoá của doanh nghiệp. Nếu khách hàng có khả năng thanh toán cao,
đó là một thị trường có nhiều tiềm năng, doanh nghiệp có thể tăng cường cải
tiến mẫu mã, tăng chất lương sản phẩm đẩy mạnh xúc tiến bán hàng để mở
rộng thị trường. Để lực chọn phương án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
luôn phải căn cứ vào nhu cầu và sức mua của thị trường. Đặc tính của nhu cầu
có vai trò quyết định hình thành đặc tính của sản phẩm và tạo ra những áp lực
để nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị sử dụng và phát triển sản phẩm mới.
Khách hàng hoặc người mua của mỗi doanh nghiệp có thể là người tiêu
dùng, có thể là các doanh nghiệp, tổ chức (nếu sản xuất nguyên vật liệu, máy
móc thiết bị,…), có thể là các chủ đầu tư (nếu doanh nghiệp nhận thầu các dự


16


án, công trình,…). Mặc dù đối tượng có thể khác nhau song người mua nói
chung có xu hướng muốn tối đa hóa lợi ích của mình với chi phí thấp nhất nên
họ luôn tìm mọi cách gây áp lực để doanh nghiệp giảm giá hàng hóa, mặc cả
để có chất lượng tốt hơn và được phục vụ nhiều hơn. Cơ sở để đưa ra quyết
định mua bán là bình đẳng, đôi bên đều có lợi nhưng do sức ép cạnh tranh
doanh nghiệp luôn phải đối mặt với những đòi hỏi của khách hàng. Để phòng
thủ trước những sức ép đó, việc phải xem xét lựa chọn nhóm khách hàng mục
tiêu là một quyết định rất quan trọng đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp.
Hơn nữa không chỉ đơn giản là đáp ứng tốt mọi nhu cầu khi khách hàng
cần. Doanh nghiệp cần xây dựng được mối quan hệ bền vững với khách hàng,
nhất là xây dựng quan hệ bạn hàng tin cậy với những khách hàng lớn, có nhu
cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp một cách ổn định và lâu dài. Việc
doanh nghiệp sử dụng linh hoạt các chính sách ưu đãi về giá cả, thời gian giao
hàng, phương tiện vận chuyển, khuyến mại,... với những khách hàng lớn,
khách hàng truyền thống rất có sức hấp dẫn và củng cố sự tin cậy lẫn nhau.
Nhờ vậy duy trì được thị phần hiện có và tăng khả năng mở rộng thị phần cho
doanh nghiệp. Giữ được khách hàng là một yếu tố thể hiện năng lực cạnh
tranh của mỗi doanh nghiệp.
- Nhà cung cấp:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp không thể thiếu
được các yếu tố đầu vào, đó là vật tư, máy móc thiết bị, vốn,…Vai trò của nhà
cung cấp đối với doanh nghiệp thể hiện ở áp lực về giá các yếu tố đầu vào.
Giữa nhà cung cấp và doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương lượng về
giá cả, chất lượng và thời gian giao hàng. Nhà cung cấp có nhiều cách để tác
động đến khả năng thu lợi nhuận của các doanh nghiệp như nâng giá, giảm
chất lượng vật tư kỹ thuật mà họ cung ứng, không đảm bảo tiến độ giao hàng
theo yêu cầu, gây ra sự khan hiếm giả tạo.


17


Nếu trên thị trường có nhiều nhà cung cấp thì doanh nghiệp có thể lựa
chọn nhà cung cấp, điều đó tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường yếu tố đầu
vào, có tác dụng làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp. Thế mạnh của
nhà cung cấp tăng lên nếu số lượng nhà cung cấp ít, không có hàng thay thế,
doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung cấp hoặc
loại vật tư được cung ứng là yếu tố đầu vào quan trọng quyết định chất lượng
sản phẩm hoặc hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, nhà
cung cấp nói chung có ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
- Đối thủ tiềm ẩn:
Trong thị trường tự do cạnh tranh, gần như không có rào cản gia nhập
thị trường, luôn có các đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng tham gia thị trường bất cứ lúc
nào. Sự xuất hiện của đối thủ mới có thể gây ra những cú sốc mạnh cho các
doanh nghiệp hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có nhiều
căn cứ cho việc ra quyết định hơn và các chiêu bài của họ thường có tính bất
ngờ.
Để chống lại các đối thủ tiềm ẩn, doanh nghiệp phải thường xuyên
củng cố năng lực cạnh tranh của mình bằng cách không ngừng cải tiến, hoàn
thiện sản phẩm, bổ sung những đặc tính mới ưu việt hơn cho sản phẩm, luôn
phấn đấu giảm chi phí để sẵn sàng tham gia các cuộc cạnh tranh về giá.
- Sản phẩm thay thế:
Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế tạo nên sức ép cạnh tranh lớn cho
các doanh nghiệp, là mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng
cạnh tranh và mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Thông thường người mua
quan tâm đến giá bán, chất lượng, mẫu mã sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu
một trong những yếu tố trên kém cạnh tranh hơn sản phẩm thay thế, họ sẽ
quay lưng sang sản phẩm thay thế, do đó làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu



18

thụ sản phẩm, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng sẽ giảm theo.
Đặc biệt có những sản phẩm có khả năng thay thế hoàn toàn sản phẩm của
doanh nghiệp khi đó nguy cơ bị đe doạ đến sự tồn tại của doanh nghiệp là
không tránh khỏi.
5. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Có rất nhiều chỉ tiêu dùng để dánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên sau khi xem xét, nghiên cứu và phân tích cụ thể tình hình
của mỗi lĩnh vực hoạt động sẽ còn có thể sử dụng các tiêu chí khác mà phạm
vi nghiên cứu chưa thể bao quát dầy đủ. Dưới đây là một số yếu tố chủ yếu
thường được xem xét khi đánh giá về năng lực cạnh tranh của mọi doanh
nghiệp
5.1. Nguồn nguyên liệu đầu vào:
Nguồn nguyên liệu đầu vào ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và giá
cả của sản phẩm. Riêng đối với lĩnh vực phân bón và giống cây trồng thì
nguồn nguyên liệu đầu vào ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Đây là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.
5.2 Chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu đầu vào và
công nghệ sản xuất.
Để tồn tại và đứng vững trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị
trường, chất lượng sản phẩm là vấn đề luôn được coi trọng. Vì vậy vấn đề
quản lý chất lượng tại doanh nghiệp không được xem nhẹ, cần phải được thể
hiện một cách chặt chẽ, từng khâu một nhằm đưa đến cho khách hàng các sản
phẩm nổi bật, ưu thế riêng và phù hợp với phong cách riêng so với các đối thủ
khác nhằm thu hút khách hàng.



19

5.3 Giá bán của sản phẩm:
Giá bán của sản phẩm cũng là một trong những tiêu chí dùng để đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh tốt là doanh nghiệp biết hoạt động, biết tổ chức sản xuất kinh
doanh tốt, giảm thiểu chi phí, giá bán sản phẩm hạ mà vẫn có lãi. Ngược lại,
cũng trong điều kiện như vậy nếu doanh nghiệp tổ chức hoạt động không tốt,
giá bán sản phẩm cao sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Giá bán của sản phẩm phụ thuộc chủ yếu vào giá nguyên liệu, giá vật
liệu phụ, giá nhân công, lãi vay ... ngoài ra những chi phí như: điện nước, chi
phí thuê mặt bằng, nhà xưởng, văn phòng .... cũng ảnh hưởng đến giá thành
sản phẩm.
5.4 Thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp:
Việc xây dựng và phát triển thương hiệu là một nhu cầu bức bách của
các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Thương hiệu mạnh sẽ giúp các
doanh nghiệp cũng cố vị trí và sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Để xây
dựng và phát triển thương hiệu các doanh nghiệp cần phải tập trung vào các
giải pháp sau:
+ Một là, doanh nghiệp phải phát triển sáng tạo nhãn hiệu. Nhãn hiệu
phải có tính chuyên nghiệp và cá tính để cho người tiêu dùng ghi nhớ và nhận
ra sản phẩm của mình.
+ Hai là, Thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng .
+ Ba là, Doanh nghiệp phải coi trọng thương hiệu như công cụ bảo vệ
lợi ích của mình, do đó việc đăng ký bảo hộ thương hiệu là rất cần thiết và
doanh nghiệp cũng cần nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của
mình, nhãn hiệu là tài sản của doanh nghiệp.
5.5. Thị phần của doanh nghiệp.



20

Thị phần của doanh nghiệp so với các đối thủ khác nói lên sức mạnh
mà doanh nghiệp có thể giành được trong cạnh tranh. Để so sánh về mặt quy
mô kinh doanh và vị thế trên thị trường, thì việc so sánh thị phần các sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp là chỉ tiêu quan trọng mà doanh nghiệp cần
phải so sánh, phân tích, đánh giá. Thị phần của doanh nghiệp thường được
xác định về khối lượng sản phẩm và doanh thu.
Trong cùng một môi trường doanh nghiệp có thị phần lớn là biểu hiện
cụ thể về năng lực cạnh tranh cũng như: ưu thế vượt trội về khả năng giành
thắng lợi trong cạnh tranh. Cùng một thị trường đang tăng trưởng, việc duy trì
tăng thị phần sẽ làm tăng doanh thu cùng với tốc độ tăng trưởng thị trường.
Trong một môi trường trì trệ hoặc xuống dốc việc tăng doanh thu đòi hỏi phải
tăng thị phần.
5.6. Thiết bị và công nghệ.
Mục tiêu của cạnh tranh là khẳng định mình và giành chổ đứng vững
chắc trên thị trường. Thiết bị và công nghệ tốt sẽ tạo ra nhiều sản phẩm tốt
đáp ứng nhu cầu khách hàng sẽ tạo điều kiện cho việc tạo ra lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp. Do vậy một doanh nghiệp biết ứng dụng công nghệ mới,
kỹ thuật mới thường xuyên cho ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ mới,
những tiện ích ngày càng cao hơn cho khách hàng sẽ là những doanh nghiệp
có năng lực cạnh tranh tốt và ngược lại.
5.7 Nguồn lực của doanh nghiệp:
Phân tích và đánh giá chính xác các nguồn lực của doanh nghiệp là cơ
sở quan trọng để các doanh nghiệp hiểu rõ nguồn lực tiềm năng của mình,
những điểm mạnh, điểm yếu so với đối thủ cạnh tranh để từ đó chủ động thực
hiện, việc đào tạo, tái đào tạo cho nhân viên, ra quyết định về đầu tư, về sản
xuất phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
5.8 Chất lượng dịch vụ và kênh phân phối:



21

Chất lượng dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp. Chất lượng dịch vụ tốt sẽ làm cho khách hàng
an tâm, tin tưởng vào sản phẩm của doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng đạt
được mục đích là bán được hàng và xây dựng được uy tín đối với khách hàng.
Do đó các doanh nghiệp cần tăng cường hoạt động dịch vụ trước, trong và sau
bán hàng như dịch vụ chào hàng, dịch vụ cung ứng, dịch vụ hậu mãi ....
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thế giới.
Cạnh tranh kinh tế không còn là vấn đề mới mẻ với thế giới, trong bộ
“Tư bản” và những tác phẩm trước đó, Các Mác đã nói đến cơ sở ra đời và
tồn tại của cạnh tranh, các tiêu thức phân loại, những mặt tích cực và tiêu cực
của canh tranh. Vấn đề này cũng được Lê nin nhắc đến khi phân tích giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền (6), nhất là từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trở lại
đây, các lý thuyết về cạnh tranh đã được phát triển thành những chiến lược
cạnh tranh trong quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô ở nhiều quốc gia.
2. Việt Nam.
Trước thời kỳ đổi mới, các khái niệm doanh nghiệp, năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp hầu như không được sử dụng ở nước ta. Trong thời kỳ đổi
mới, nhất là khi đất nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, các khái niệm doanh nghiệp, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp ngày càng được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực
khoa học, kinh tế… và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Cùng với đường lối đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế, Luật đầu
tư nước ngoài. Luật doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ… đi
vào cuộc sống thực sự thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế ra đời và ngày càng phát triển nhanh về số lượng, rộng về quy mô, phong

(6)

C. Mác (2004) : Mác- ăng ghen tuyển tập- NXB chính trị quốc gia, Hà Nội


22

phú về các loại hình và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Đến nay, cả nước đã
có khoảng hơn 240.000 doanh nghiệp, gần 3 triệu hộ kinh doanh, trên 200
ngành kinh doanh với hàng triệu doanh nhân và hàng chục triệu người lao
động

(7)

Các doanh nghiệp đã nhanh chóng tiếp cận thị trường trong và ngoài

nước, từng bước thích nghi với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
tích cực áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất
kinh doanh, cải tiến công tác quản lý. Như vậy, mặc dù mới ra đời và phát
triển nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện tính năng động, linh
hoạt thích ứng với điều kiện hội nhập, sự tự tin và ý chí kinh doanh cao… và
kết quả hoạt động là tích cực rất đáng khích lệ. Trong đó, một số doanh
nghiệp đã khẳng định được uy tín, chất lượng, hiệu quả và thương hiệu của
mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoàn toàn có cơ sở khẳng định
rằng, các doanh nghiệp Việt Nam đang và sẽ trở thành đội quân chủ lực trong
sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh của toàn cầu hóa, nhất là khi Việt Nam là
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải
đối mặt với các đối thủ mới như các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có
tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao, phải

cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới thị trường toàn cầu với những
nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc tế. Nói
cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức thật sự to lớn.
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện
còn rất hạn chế.
Trong điều kiện quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn ít các doanh nghiệp
Việt Nam lại gặp một thách thức rất lớn đó là chất lượng nhân lực của doanh
(7)

TTXVN: Thông tin tư liệu - 146 (842), ngày 07-12- 2006, tr 5


23

nghiệp thấp. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý doanh nghiệp còn rất
thiếu kiến thức quản trị và kỹ năng kinh nghiệm quản lý. Kết quả điều tra hơn
63.000 doanh nghiệp trên cả nước cho thấy: 43,3% lãnh đạo doanh nghiệp có
trình độ học vấn dưới trung học phổ thông, số chủ doanh nghiệp có trình độ
thạc sỹ trở lên chỉ có 2,99%

(8)

. Có thể nói, đa số các chủ doanh nghiệp và

giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến
thức kinh doanh, quản lý, kinh tế – xã hội, văn hóa, luật pháp… và kỹ năng
quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc
tế. Điều đó được thể hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa chấp hành
tốt các quy định về thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng

hóa, sở hữu công nghiệp…
Thứ hai, sự lạc hậu về khoa học – công nghệ của các doanh nghiệp
Việt Nam.
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc
hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, 76% máy móc, dây
chuyền công nghệ được sản xuất từ những năm 1950 – 1960, 75% số thiết bị
đã hết khấu hao, 50% số thiết bị là đồ tân trang… Tóm lại, máy móc, thiết bị
đang được sử dụng ở các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có 10% hiện đại, 38%
trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới
chỉ có 2% (tỷ lệ này ở Thái Lan là 31%, Ma-lai-xi-a là 51% và Xin-ga-po là
73%). Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ta đầu tư cho đổi mới công nghệ
rất thấp, chi phí khoảng 0,2% – 0,3% tổng doanh thu(8)
Thứ ba, hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu
các doanh nghiệp.

Trương Thị Hiền. “Việt Nam gia nhập WTO - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Phát triển nhân
lực, số 1(1) - 2007
(8)
Trương Thị Hiền. “Việt Nam gia nhập WTO - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Phát triển nhân
lực, số 1(1) - 2007
(8)


24

Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho
sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản
phẩm có sự tăng trưởng cao đều phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu bán thành
phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, giá cả các loại nguyên vật liệu
này trên thế giới có xu hướng gia tăng, làm cho nhiều nhóm sản phẩm có tỷ

trọng chi phí nguyên vật liệu khá cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm(9)
Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được
thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín chất lượng và năng lực cạnh
tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Trên thực tế, trong nhiều sản phẩm
của Việt Nam yếu tố cấu thành của tri thức, công nghệ thấp, trong khi yếu tố
sức lao động và nguyên vật liệu cao… Điều đó làm cho sức cạnh tranh thấp,
chất lượng sản phẩm không có ưu thế rõ rệt trên thị trường.
Thứ tư, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến
thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ nên hạn chế
tầm hoạt động và mạng lưới phân phối sản phẩm. Trong khi đó, hoạt động
xúc tiến thương mại còn giản đơn, sơ lược và không có hiệu quả thiết thực.
Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến, giới thiệu một
cách bài bản về sản phẩm cho khách hàng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa
nhận thức đúng được giá trị và ý nghĩa của xúc tiến thương mại, quảng
cáo…Vì vậy, chi phí cho quảng cáo rất thấp, chỉ dưới 1% doanh thu trong khi
đó tỷ lệ này của các doanh nghiệp nước ngoài chiếm khoảng 10% đến 20%
doanh thu(9)
Nguyễn Thế Nghĩa - Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế
24/12/2007 –Tạp chí cộng sản đảng - www tapchicongsandang.org.vn
(9)

Nguyễn Thế Nghĩa - Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế
24/12/2007 –Tạp chí cộng sản đảng - www tapchicongsandang.org.vn
(9)


×