Tải bản đầy đủ (.pdf) (0 trang)

Giải pháp góp phần cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn vào các doanh nghiệp trên địa bàn huyện quỳnh lưu, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 0 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tại trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, theo
chương trình đào tạo Cao học Khoá 19 (2011-2013), chuyên ngành Kinh tế
Nông nghiệp tôi xây dựng đề cương, đi nghiên cứu và thực tập với nội dung
"Giải pháp góp phần cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn vào các
doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh lưu, tỉnh Nghệ An" nay đã hoàn
thành Luận văn tốt nghiệp cho khoá học.
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận
được sự quan tâm và giúp đỡ tận tình về nhiều mặt của các cá nhân, tổ chức,
tập thể trong và ngoài trường.
Cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu trường
ĐHLN, ban Giám đốc cơ sở 2 – ĐHLN, Khoa sau đại học - Trường ĐHLN đã tạo
điều kiện tốt cho tôi suốt quá trình học tập tại trường. Cảm ơn các Thầy giáo, cô
giáo đã nhiệt tình giảng dạy truyền đạt kiến thức và tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Đặc biệt cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn đã
tạo điều kiện, chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập
và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan: Phòng tài chính kế hoạch,
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Chi cục Thống kê huyện Quỳnh Lưu,... đã
tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực tập thu được kết quả tốt.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2012

Hồ Thị Hường


2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa được sử dụng để công bố công trình khoa học nào, các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Hồ Thị Hường


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

TT

Chữ đầy đủ

1

CBKS


Chế biến khoáng sản

2

CN – TM

Công nghiệp – thương mại

3

DL – DV

Du lịch - dịch vụ

4

DN

Doanh nghiệp

5

ĐT

Đầu tư

6

ĐVT


Đơn vị tính

7

KCN

Khu công nghiệp

8

KD

Kinh doanh

9

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

10

NSNN

Ngân sách nhà nước

11

SXKD


Sản xuất kinh doanh

12

SXNN

Sản xuất nông nghiệp

13

TĐPTBQ

Tốc độ phát triển bình quân

14

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

15

TTHC

Thủ tục hành chính

16

UBND


Uỷ ban nhân dân

17

VĐT

Vốn đầu tư

18

VLXD

Vật liệu xây dựng

19

XDCB

Xây dựng cơ bản


1

DANH MỤC CÁC BẢNG


2

DANH MỤC CÁC HÌNH



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1- Tính cấp thiết của đề tài
Vốn đầu tư là một nhân tố cực kỳ quan trọng và cần thiết cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở bất kỳ một nước hay một nền kinh tế đang
phát triển nào. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà xu hướng mở cửa
hội nhập quốc tế đã trở thành phổ biến.
Ngày nay, một trong những vấn đề chủ yếu của nền kinh tế là làm sao cải
thiện được môi trường đầu tư để thu hút được nhiều vốn cho công cuộc phát triển
đất nước, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu.
Quỳnh Lưu là huyện địa đầu của tỉnh Nghệ An - một tỉnh miền Trung rộng
lớn và giàu tiềm năng cho sự phát triển. Hơn 35 năm sau ngày đất nước giải
phóng, bằng tất cả những nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân Huyện, đến nay Quỳnh
Lưu đang trở thành một trong những Huyện phát triển nhất Nghệ An, có vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của Nghệ An nói riêng, của miền
Trung nói chung và đang là điểm đến của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Với vị trí thuận lợi về mặt địa lý, có đường biên giới dài 122km trong
đó đường biên giới đất liền 88km và 34 km đường bờ biển, cũng như có rất
nhiều doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Quỳnh Lưu có đầy đủ tiềm năng để
phát triển đa chiều trên các lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Trong những năm qua việc thu hút vốn đầu tư vào các doanh nghiệp trên địa
bàn huyện Quỳnh Lưu đã có nhiều dấu hiệu tích cực, lượng vốn đầu tư vào
hoạt động phát triển ngày càng tăng, chất lượng vốn ngày càng được cải
thiện,... Có nhiều dự án lớn về phát triển của các doanh nghiệp đã và đang
góp phần cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân trong Huyện. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực thì công tác này còn bộc lộ rất nhiều hạn chế và
khó khăn cần được tháo gỡ. Đó là cơ chế quản lý việc thu hút vốn đầu tư vào
các doanh nghiệp chưa thật sự thông thoáng, thủ tục đầu tư còn rườm rà gây

trở ngại cho các nhà đầu tư, việc thực hiện các chính sách còn kém hiệu quả


2

và phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các địa phương khác trong thu
hút vốn,… Do vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm cải thiện môi
trường đầu tư để thu hút vốn vào các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu
trong giai đoạn tới là vấn đề có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
Để góp phần chủ động khai thác, sử dụng tối đa các nguồn lực trên địa
bàn Huyện nhằm xây dựng một nền kinh tế - xã hội tiên tiến. Cũng như nhận
thức được tầm quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư vào các doanh nghiệp
trên địa bàn Huyện trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp góp
phần cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn vào các doanh nghiệp trên
địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An”.
2- Mục tiêu nghiên cứu
2.1- Mục tiêu tổng quát
Góp phần cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn cho phát triển các
doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
2.2- Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư và môi
trường đầu tư.
- Đánh giá được thực trạng đầu tư vốn vào các doanh nghiệp trên địa bàn
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Làm rõ được những nhân tố của môi trường đầu tư ảnh hưởng tới sức thu
hút vốn vào các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất được một số giải pháp chủ yếu góp phần cải thiện môi trường
đầu tư để thu hút vốn vào các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về môi trường đầu tư và hoạt động đầu tư vốn vào các
doanh nghiệp mới thành lập trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.


3

3.2- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi về nội dung:
Đề tài chỉ nghiên cứu đối với các nội dung sau đây:
- Môi trường đầu tư tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
- Hoạt động đầu tư vào các doanh nghiệp mới trên địa bàn huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
+ Phạm vi không gian: Huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2012
4- Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư và môi trường đầu tư.
- Thực trạng môi trường đầu tư và hoạt động đầu tư vốn vào các doanh
nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Những nhân tố của môi trường đầu tư ảnh hưởng tới sức thu hút vốn vào
các doanh nghiệp trên địa bàn Huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Giải pháp góp phần cải thiện môi trường đầu tư để đẩy mạnh thu hút vốn
vào các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư và môi trường đầu tư

1.1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư
Đầu tư theo nghĩa rộng có nghĩa là quá trình ứng ra các nguồn lực ở
hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các
kết quả nhất định trong tương lai với hy vọng kết quả này lớn hơn các chi phí
về các nguồn lực đã bỏ ra.
Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên, là tài sản vật chất hoặc sức
lao động.
Những kết quả của đầu tư đem lại là sự tăng thêm tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, của cải vật chất khác), tài sản trí tuệ
(trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật),... Các kết quả đạt được
của đầu tư đem lại góp làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư là những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở
hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, đầu tư là những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện có để
làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và trí tuệ để cải thiện mức
sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của các tài sản và nguồn
lực sẵn có. [3, tr. 32- 35]
1.1.1.2. Các hình thức đầu tư
Luật đầu tư của Việt nam quy định có các hình thức đầu tư chủ yếu là
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
 Đầu tư trực tiếp


5

+ Đầu tư trực tiếp bao gồm các hình thức sau đây:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc
100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.

- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng
BTO, hợp đồng BT.
- Đầu tư phát triển kinh doanh.
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
+ Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế bao gồm các hình thức sau đây:
- Doanh nghiệp và tổ chức hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và
các tổ chức tài chính khác theo quy định của pháp luật.
- Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các cơ sở
dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi.
- Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật
- Các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo Luật
hợp tác xã; hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật.
 Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp tại Việt Nam có các hình thức sau đây:
- Đầu tư thông qua mua bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ
có giá khác của các tổ chức, cá nhân.
- Đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán.
- Đầu tư thông qua các định chế tài chính trung gian khác.


6

Thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo quy định của pháp
luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
1.1.2. Cơ sở lý luận về môi trường đầu tư

1.1.2.1. Khái niệm môi trường đầu tư
Theo Wim P.M Vijverberg, khái niệm môi trường đầu tư được hiểu là
bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến kinh tế, chính trị, hành chính, cơ
sở hạ tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. [3, tr. 53 - 55].
Có rất nhiều các vấn đề ảnh hưởng tới đầu tư đối với các doanh nghiệp
nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách như tài chính, tín dụng, chính sách
thương mại, chính sách thị trường lao động, các quy định, cơ sở hạ tầng, các
vấn đề liên quan đến thu mua và tiêu thụ, chính sách thuế, chính sách phát
triển các khu công nghiệp và các vấn đề liên quan đến hỗ trợ kỹ thuật và tài
chính khác. Với khái niệm này, môi trường đầu tư được hiểu khá rộng.
Một cách hiểu khác về môi trường đầu tư đó là tổng hợp các yếu tố:
điều kiện về pháp luật, kinh tế, chính trị-xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng,
năng lực thị trường và cả các lợi thế của một quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư tại một quốc gia.
Như vậy, các khái niệm môi trường đầu tư dù tiếp cận ở góc độ nào
cũng đề cập đến môi trường tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh, các
yếu tố có ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Do vậy, có thể khẳng định: Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố có
ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư của các nhà đầu tư ở quốc gia hay địa
phương nhận đầu tư. Nó bao gồm các yếu tố chính như: tình hình chính trị,
chính sách – pháp luật, vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển
kinh tế, đặc điểm văn hoá – xã hội, nguồn lao động và mức độ hội nhập kinh


7

tế quốc tế,… Các nhóm yếu tố này có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi
ro cho các nhà đầu tư.
1.1.2.2. Các yếu tố hình thành nên môi trường đầu tư

Môi trường đầu tư được hình thành từ các yếu tố sau đây:
 Các yếu tố tự nhiên
+ Vị trí địa lý.
Một quốc gia được cho là có thế mạnh về kinh tế khi nằm trong khu
vực phát triển kinh tế sôi động, có đường giao thông quốc tế (đường biển,
đường hàng không). Yếu tố vị trí địa lý có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới
môi trường đầu tư.
+ Tài nguyên thiên nhiên
Quốc gia nào được thiên nhiên ưu đãi một nguồn tài nguyên dồi dào
phong phú thì có thể dựa vào việc khai thác nguồn tài nguyên phong phú đó
nhằm tích luỹ vốn cho phát triển. Đây là một yếu tố quan trọng tuy nhiên
không phải là yếu tố sống còn. Ví dụ như Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài
nguyên khoáng sản song nền kinh tế Nhật phát triển thuộc hàng đầu thế giới.
 Các yếu tố kinh tế, xã hội
+ Lao động và dân số.
Lao động quyết định đến sự tăng trưởng của 1 quốc gia. Nhân tố tác
động tới chất lượng môi trường đầu tư là chất lượng lao động và nhân tố chất
lượng lao động ngoài việc phụ thuộc vào yếu tố văn hoá truyền thống nó còn
phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
của quốc gia đó. Như vậy, giáo dục đào tạo có vai trò trọng tâm làm tăng chất
lượng nguồn vốn nhân lực, cải thiện môi trường đầu tư.
Yếu tố dân số có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng môi trường đầu
tư. Một quốc gia có dân số đông là thị trường tiêu thụ sản phẩm đầy tiềm
năng và để xem xét thị trường tiêu thụ sản phẩm cần tìm hiểu kết cấu của dân
số (ví dụ dân số trẻ hay già, nhiều nam hay nữ,...)


8

+ Cơ sở hạ tầng

Bao gồm mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống cảng biển,
cảng hàng không,…
Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư. Cơ sở hạ tầng
tốt là yếu tố làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, ngược lại việc cơ sở
hạ tầng yếu kém làm tăng chi phí sản xuất của nhà đầu tư và tạo ra những rào
cản với môi trường đầu tư.
Môi trường đầu tư và cơ sở hạ tầng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau. Môi trường đầu tư tốt sẽ góp phần cải thiện kết cấu hạ tầng và cơ sở hạ
tầng tốt là yếu tố quan trọng cải thiện môi trường đầu tư. Phát triển cơ sở hạ
tầng là yếu tố hết sức cần thiết đối với việc phát triển kinh tế, làm cho môi
trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn, tiềm năng hơn trong việc thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài.
+ Các ngành công nghiệp phụ trợ
Ngành công nghiệp phụ trợ là những ngành mà doanh nghiệp có thể
phối hợp và chia sẻ trong chuỗi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
chúng có tính chất bổ trợ ở các khâu của quá trình sản xuất.
Ngành công nghiệp phụ trợ bao gồm sản xuất chi tiết linh kiện, các
công nghệ sản phẩm đầu vào để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong ngành phụ trợ càng mạnh thì tiềm năng
cạnh tranh của doanh nghiệp mũi nhọn càng lớn, cơ hội thành công trong
cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao.
Các nhà đầu tư thường quan tâm tới hoạt động và sự phát triển của các
ngành công nghiệp phụ trợ. Sự hiện diện của các cụm công nghiệp phụ trợ là
một lợi thế cho nhà đầu tư, giúp họ giảm thiểu chi phí sản xuất và quốc gia
nào có một ngành công nghiệp phụ trợ phát triển cũng có lợi thế trong thu hút
nguồn vốn đầu tư.


9


 Các yếu tố môi trường thể chế kinh tế, chính trị, pháp luật
Các nhà đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường đầu tư với mức độ ổn định
về kinh tế và chính trị. Sự ổn định về chính trị và tiềm lực kinh tế vững chắc,
dồi dào, bền vững là cơ sở cho an toàn tài chính.
An toàn tài chính là một trạng thái tài chính ổn định không bị nguy
hiểm từ các tác động bên ngoài hay bên trong, không tự gây hại cho mình
đồng thời ngăn chặn được sự tấn công phá hoại từ bên ngoài. Chỉ khi có sự
đảm bảo an toàn về tài chính thì các nhà đầu tư mới có thể yên tâm khi mang
vốn đi đầu tư.
+ Thể chế kinh tế
Theo nghĩa rộng, thể chế kinh tế là những quy tắc, cơ chế thực hiện và
tổ chức gắn liền được hình thành một cách tất yếu nhằm điều chỉnh hành vi
ứng xử của các chủ thể hoạt động tìm kiếm lợi nhuận cùng các lợi ích xã hội
khác trong một nền kinh tế nhất định, phản ánh trình độ phát triển của nền
kinh tế tương ứng.
Theo nghĩa hẹp, thể chế kinh tế thường được đề cập như là thể chế kinh
tế chính thức. Về phương diện này thể chế kinh tế được hiểu là những quy
định được thể hiện thành văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan tổ chức
có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế nói chung.
Khi đặt thể chế kinh tế trong mối quan hệ với môi trường đầu tư thì thể
chế được phân loại thành:
Thể chế kinh tế đối với việc giảm thiểu chi phí đầu tư: bao gồm các thể
chế về tài chính như chính sách về thuế và tín dụng
Thể chế kinh tế giảm thiểu rủi ro của hoạt động đầu tư: bao gồm mức
độ ổn định của chính sách hay thể chế đảm bảo quyền tài sản của nhà đầu tư.


10

Thể chế kinh tế đối với tăng cường cạnh tranh: thuộc nhóm thể chế này

là những quy tắc hay quy định luật pháp về việc thừa nhận việc điều tiết đối
với việc gia nhập hay rút lui khỏi thị trường.
Các ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến môi trường đầu tư thể hiện trên
các khía cạnh sau đây:
+ Ảnh hưởng của thể chế liên quan tới chi phí hoạt động sản xuất của
nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư
- Thể chế thuế và môi trường đầu tư: tác động của thuế đối với tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư thường được nhìn thấy một cách trực tiếp. Trên
thực tế cho thấy một sự tác động ngược chiều giữa mức thuế suất cao và tính
hấp dẫn của môi trường đầu tư, với mức thuế cao thường làm giảm sức hấp
dẫn của môi trường đầu tư và do đó làm mức tăng trưởng kinh tế giảm. Thể
chế thuế ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường đầu tư song môi trường đầu tư tốt
phải đảm bảo lợi ích của cả nhà đầu tư và doanh nghiệp, do đó để nhà đầu tư
có cơ sở hạ tầng thuận lợi thì cần phải đánh đổi giữa thuế và lợi nhuận.
- Thể chế thị trường tài chính và tác động tới môi trường đầu tư: thể
chế này có quan hệ mật thiết với chi phí của doanh nghiệp và do đó sẽ thúc
đẩy hoạt động đầu tư nếu như tính hoàn thiện cao. Ngược lại, nếu thể chế này
làm tăng chi phí đầu tư sẽ làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Tác
động của thị trường tài chính với hiệu quả thấp, tính thiếu ổn định cao thường
làm chi phí đầu tư cao.
+ Ảnh hưởng của nhóm thể chế liên quan tới rủi ro trong hoạt động
đầu tư đối với môi trường đầu tư
Nhóm thể chế này chịu tác động mạnh mẽ của chính phủ do vậy những
quy tắc do chính phủ đặt ra liên quan tới vấn đề này sẽ có tác động rất lớn với
tính hấp dẫn của môi trường đầu tư:


11

- Sự ổn định của thể chế kinh tế: sự bất ổn định luôn đóng vai trò trung

tâm trong những cân nhắc về đầu tư, bất ổn định trong chính sách là những
nhân tố cản trở lớn nhất đối với các quyết định đầu tư. Khi những chính sách,
thể chế kinh tế không ổn định hoặc thiếu minh bạch sẽ làm giảm sức hấp dẫn
của môi trường đầu tư. Những lo ngại về sự không ổn định của chính sách có
thể bắt đầu từ tính chất mơ hồ của chính sách hoặc thể chế hiện hành. Thậm
chí ngay cả khi chính sách được thể hiện một cách rõ ràng trên giấy tờ thì
chưa hẳn đã hết quan ngại về việc các chính sách đó được thực thi như thế
nào trên thực tế. Một môi trường đầu tư được coi là hấp dẫn khi và chỉ khi các
thể chế loại trừ hay hạn chế tối đa những bất định đối với nhà đầu tư.
- Thể chế đảm bảo quyền tài sản bao gồm hiến pháp, những quy định
về chế độ sở hữu, hệ thống luật pháp và các quy định về cấp giấy chứng nhận
quyền tài sản,… Việc đảm bảo quyền tài sản có ý nghĩa hai mặt đối với việc
tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. Việc đảm bảo quyền tài sản bảo đảm cho
nhà đầu tư thu được thành quả từ công cuộc đầu tư của mình. Khi các quyền
tài sản được bảo vệ bởi một thể chế phù hợp, minh bạch thì các nhà đầu tư
yên tâm hơn khi đem vốn đi đầu tư và làm tăng tính hấp dẫn của môi trường
đầu tư. Thể chế đảm bảo quyền tài sản cải thiện môi trường đầu tư rõ rệt qua
các chức năng cụ thể như xác lập quyền về đất đai, tạo sự thuận lợi trong việc
thực hiện hợp đồng. Đối với các tài sản trí tuệ như bằng sáng chế, phát minh,
thương hiệu, bản quyền tác giả,… để có được chúng phải đòi hỏi rất nhiều chi
phí. Do vậy trong hoạt động của các tập đoàn, doanh nghiệp phát triển luôn có
sự hiện diện của các thể chế đảm bảo việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Như
vậy một môi trường đầu tư được coi là hấp dẫn khi cơ chế đảm bảo quyền tài
sản trí tuệ mạnh.
+ Ảnh hưởng của nhóm thể chế liên quan tới cạnh tranh đối với môi
trường đầu tư


12


- Thể chế điều tiết đối với việc gia nhập hay rút lui khỏi thị trường. Thể
chế điều tiết có thể tác động đến môi trường đầu tư qua những ảnh hưởng của
nó đối với cạnh tranh, cạnh tranh đóng vai trò quan trọng đối với môi trường
đầu tư bằng cách tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mới và mang lại động lực
để các nhà đầu tư tiến hành đổi mới và nâng cao năng suất. Việc dỡ bỏ những
cản trở từ hoạt động điều tiết phi lý của chính phủ là một trong những cách
thức làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Những hồ sơ và thủ tục
cồng kềnh là biểu hiện tính rối của thể chế điều tiết. Việc làm thủ tục đầu tư
kinh doanh rắc rối làm mất thời gian và làm gia tăng chi phí của nhà đầu tư do
đó làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Việc loại bỏ hay giảm bớt
các rào cản thể chế là để tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường và tạo ra một môi
trường đầu tư thông thoáng hơn.
1.1.3. Lý luận về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư
1.1.3.1. Vốn đầu tư
Ở mỗi thời kỳ của lịch sử, vốn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng
chung quy lại có hai khái niệm về vốn như sau:
Hiểu theo nghĩa rộng, vốn là toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa
vào luân chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền, tài sản như máy móc thiết bị,
vật tư, tài nguyên, mà còn bao gồm cả giá trị của những tài sản vô hình như
các thành tựu khoa học kỹ thuật, các phát minh sáng chế, các lợi thế so sánh.
Hiểu theo nghĩa trực tiếp, vốn là phần giá trị tài sản quốc gia được tích
luỹ dưới dạng tiền, giá trị của tài sản hữu hình và vô hình nhằm mục đích sinh
lợi được chuyển đổi thông qua các hình thức đầu tư thành những tư liệu sản
xuất cần thiết khác để sử dụng vào quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường quan niệm vốn được mở rộng với các đặc
trưng cơ bản sau: vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản; vốn được
biểu hiện bằng tiền, nhưng không phải tất cả mọi nguồn tiền đều là vốn; vốn còn


13


là một hàng hoá đặc biệt; vốn còn thể hiện dưới dạng tiềm năng và lợi thế vô hình.
Như vậy, sự biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để thực
hiện đầu tư gọi là vốn đầu tư. Để có thể tạo được những tài sản vật chất cụ
thể, nhất thiết phải sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư.
1.1.3.2. Nguồn vốn đầu tư
Bản chất của nguồn vốn đầu tư:
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm
hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản
xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác Lê nin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, một
đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định: “Tiết
kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích
lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng
không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan
hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề có liên quan trực
tiếp đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai
khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu
dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (C+V+M) trong đó
C là phần tiêu hao vật chất, (V+M) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó,
điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã
hội phải đảm bảo (V +M) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vặt chất (C) của khu
vực II, tức là:
(V+M)I > CII
Hay nói cách khác:
(C+ V + M)I > CII + CI


14


Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không
chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà
còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình
sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(C+V+M)II < (V+M)I + (V+M)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ
đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô
đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng
thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải
tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu
dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác,
con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát
triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng, hay nói
cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng
do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà
kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã
chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển
vào tiêu đùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra
của thu nhập so với tiêu dùng, tức là:


15


Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập - Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Hay: (I) = (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính
chất song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là
người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán
hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản
xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác.
Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới
trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà
người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất
mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư
nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem
xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng
một cá nhân hoặc doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một
thời điểm nào đó có tích lũy nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi
đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích
luỹ chưa đủ. Khi đó, thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc
điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người
có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu
(nếu đáp ứng được một số điều kiện nhất định và tuân thủ quy trình thủ tục
nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án đầu tư nào đó từ các doanh
nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân - người dư thừa hoặc tạm thời dư thừa vốn.



16

Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể
lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang
nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể
ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước
ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được
thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội
bộ của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn
đầu tư từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành
một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ
của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư
tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho
nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.


Các nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn
đầu tư

Nguồn vốn
trong nước

NSNN

Nguồn vốn

nước ngoài

DN

Dân

trong



FDI

ODA

nước
Hình 1.1: Sơ đồ về các nguồn vốn đầu tư

NGO


17

- Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn trong nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các
nguồn lực được đưa vào vòng chu chuyển của nền kinh tế. Nó không chỉ bao
gồm tiền vốn biểu hiện bằng tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động,
đất đai, tài nguyên,... mà nó còn bao gồm giá trị của những tài sản vô hình
như vị trí địa lý, thành tựu khoa học công nghệ, bản quyền phát minh sáng
chế. Các bộ phận cấu thành nguồn vốn trong nước gồm có nguồn vốn ngân
sách Nhà nước (bao gồm cả vốn của doanh nghiệp nhà nước) và nguồn vốn tư

nhân (bao gồm cả vốn của các doanh nghiệp dân doanh).
- Nguồn vốn nước ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là vốn của các doanh nghiệp và
cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý quá trình
sử dụng nhằm mục đích thu lợi nhuận và thu hồi số vốn đã bỏ ra.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là vốn đầu tư của các
Chính phủ nước ngoài được thực hiện dưới hình thức viện trợ hoàn lại hoặc
viện trợ không hoàn lại hay cho vay ưu đãi.
Nguồn vốn viện trợ phi chính phủ nước ngoài (NGO) là vốn viện trợ
của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
1.1.3.3. Một số phương pháp tạo lập nguồn vốn đầu tư
+ Khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân
Trên cơ sở giả thiết một nền kinh tế cạnh tranh thuần tuý, các nhà kinh
tế cổ điển Anh thế kỷ 19 cho rằng sự can thiệp của Chính phủ vào quyết định
đầu tư và tiết kiệm của tư nhân có thể làm giảm tính hiệu quả kinh tế.
Tiết kiệm của các hộ gia đình đã trở thành một nguồn lớn hình thành
cung vốn đầu tư. Ngoài ra, khoản thu nhập giữ lại của một đơn vị kinh doanh
cũng là một nguồn quan trọng hình thành nên vốn đầu tư. Tiết kiệm của các
đơn vị kinh doanh bao gồm tiết kiệm từ lợi nhuận.


18

Lãi suất làm cân bằng cung tiết kiệm với cầu đầu tư kinh doanh. Một lãi
suất cao hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm dẫn đến đường cong cung tiết kiệm đi lên.
Một lãi suất thấp hơn sẽ giảm chi phí tiền vay kinh doanh, cầu đầu tư dốc xuống.
Giao điểm của cung tiết kiệm và cầu đầu tư sẽ xác định mức lãi suất.
Tuy nhiên theo các nhà kinh tế trường phái Keynes cho rằng, lãi suất
phải được xác định theo cung và cầu tiền tệ. Do vậy chương trình tiết kiệm
của các hộ gia đình và chương trình đầu tư của các doanh nghiệp thường

không trùng hợp với nhau vì họ là những nhóm khác nhau, hành động theo
các suy xét khác nhau.
Tiết kiệm phụ thuộc vào thu nhập, còn đầu tư lại là một hàm số của tỷ
suất lợi nhuận kỳ vọng. Hiện thời các nước kém phát triển ít có thiên hướng
chấp nhận các quyết định tiết kiệm của các hộ gia đình và đơn vị kinh doanh
trên cơ sở thị trường tự do vì thấy rằng, Chính phủ có vai trò tích cực trong
việc tăng tỷ lệ hình thành vốn bằng việc tạo ra tỷ lệ tiết kiệm cao.
+ Khai thác các nguồn lực nhàn rỗi
Lao động dư thừa, theo Ragnar Nurkse, Chính phủ nên sử dụng số lao
động dư thừa có năng suất cận biên thấp hoặc bằng “0” trong nông nghiệp để
thực hiện các dự án đầu tư cơ bản như các công trình giao thông công cộng,
bệnh viện, trường học hay nhà ở công nhân. Như vậy, sự hình thành vốn mới, hay
tiết kiệm được tạo lập mà thật sự không phải mất chi phí hoặc chi phí thấp.
Một số vấn đề khác của cách tiếp cận Nurkse là việc sử dụng lao động
nông nghiệp dư thừa sẽ kích thích các nguồn lực với các chi phí thay thế cao.
Công nhân trong các dự án đầu tư cơ bản sẽ cần một số tư liệu (như các dụng
cụ thô sơ) để làm đường bộ, đường sắt, nhà cửa và nhà máy. Ngoài ra, nếu
công nhân chuyển vào sinh sống tại thành phố, sẽ phải xây dựng thêm nhà
cửa, đường giao thông, trường học, bệnh viện và các dịch vụ khác.
+ Năng lực vốn chưa dùng


19

Hiện tượng sử dụng vốn kém hiệu quả còn khá phố biến ở các quốc gia
đang phát triển. Các phương tiện vận chuyển bị bỏ quên do chưa được sửa
chữa hoặc thiếu phụ tùng thay thế, các công trình nhà cửa bỏ hoang, các
mương tưới tiêu khô nước, các nhà máy sử dụng dưới công suất do hư hỏng
về mặt cơ khí, thiếu vật tư hoặc thiếu thị trường tiêu thụ.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một cách có hiệu quả vì nhiều lý do:

công nghệ do các nước phát triển chuyển giao không thích hợp với nhu cầu.
Hơn nữa, nhiều nước đang phát triển có thể chỉ thu hút có hiệu quả con số hạn
chế về vốn đầu tư.
1.1.4. Vai trò của vốn đầu tư
1.1.4.1. Vai trò của VĐT tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh
tế
Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc
gia. Riêng đối với các nước kém phát triển, để đạt được tốc độ tăng trưởng
cao và ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Điều này càng được
khẳng định chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng
và phát triển của mọi đất nước.
- Vai trò của vốn trong nước: Theo kinh nghiệm phát triển thì đây là
nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển
trong nước. Trong lịch sử phát triển các nước và trên phương diện lý luận chung,
bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện bổ sung
từ bên ngoài chỉ là tạm thời, chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước
có hiệu quả mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được các mục tiêu
quan trọng đề ra của quốc gia, nguồn vốn trong nước bao gồm:
+ Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: Đây là một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ khối lượng đầu tư. Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra
môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh


×