Lời cảm ơn
Để hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn các
thầy giáo, cô giáo trong khoa Kinh tế - Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo,
tiến sĩ Vũ Văn Yên. Cảm ơn thầy đã nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn
em trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện khóa
luận
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới UBND, Sở Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, Sở thống kê tỉnh Nghệ An đã giúp đỡ tôi
trong quá trình điều tra, thu nhập số liệu phục vụ cho việc hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp:
“Phát triển kinh tế trang trại theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”.
Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Thị Phương Mai
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Nguyên nghĩa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH
Công nghiệp hóa
HTX
Hợp tác xã
KHCN
Khoa học công nghệ
KTTT
Kinh tế trang trại
TLSX
Tư liệu sản xuất
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ sự phát triển tất yếu về kinh tế, mục tiêu và con đường đi
lên CNXH mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn, tiến hành CNH, HĐH đất
nước trở thành một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược. Tháng 9 năm 1960, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng đề ra chủ trương CNH xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Tháng 7 năm 1991, chủ trương này được mở rộng trên
phạm vi cả nước. Từ đây, Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đồng tâm
hiệp lực thực hiện CNH, HĐH với một quyết tâm cao độ.
Mặc dù có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, nhưng nước ta vẫn là
một nước nông nghiệp truyền thống lạc hậu, kinh tế chậm phát triển.Việc
giải quyết những vấn đề trọng tâm trong nông nghiệp, nông thôn trở thành
điều tất yếu của quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Nhận thức được vai trò đó,
trong suốt hơn 20 năm Đổi mới cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là mặt trận hàng đầu trong toàn bộ nội
dung của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, nông nghiệp nông
thôn nước ta đã có những đổi mới và phát triển vượt bậc, trước hết là ở sự
đổi mới về tư duy kinh tế nông nghiệp.
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa 4 (tháng 1/1981)
với nội dung cải tiến và mở rộng công tác khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong HTX nông nghiệp đã bắt đầu khẳng định vai trò làm
chủ của hộ nông dân. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4/1988) một lần
nữa nhấn mạnh tính tự chủ của người nông dân trong phát triển kinh tế hộ
với quan điểm “ Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Thành tựu đạt được
của công cuộc Đổi mới (1986) đã thúc đẩy nông nghiệp nước ta có những
bước tiến đáng kể, nhiều hộ nông dân bắt đầu có tích lũy vốn. Đặc biệt, sự ra
1
đời của Luật đất đai năm 1993 đánh dấu hộ nông dân từ đây có quyền tự
chủ, sử dụng ruộng đất lâu dài và ổn định trên ruộng đất của mình; có thể
thừa kế, chuyển đổi, cho thuê, thế chấp ruộng đất mình sở hữu. Những chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về khuyến nông, tín dụng, quy
hoạch đất đai,…đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát
triển; thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng CNH, HĐH. Diện mạo nông nghiệp nước ta đã có nhiều thay
đổi. Đặc biệt những năm gần đây, nhiều nhân tố và mô hình tổ chức sản xuất
mới trong nông nghiệp hình thành và phát triển, đem lại hiệu quả thiết thực.
Sự hình thành và phát triển của KTTT ở nước ta là một trong những biểu
hiện chứng minh cụ thể.
Sự ra đời của KTTT trên nền tảng kinh tế hộ gia đình là một tất yếu
của nền kinh tế hàng hóa, góp phần phát huy những tiềm năng của đất nước
trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH
Nghệ An là một tỉnh miền Trung, có diện tích rộng nhất cả nước,
nguồn lao động dồi dào, chủ yếu làm nông nghiệp. Với điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội khá thuận lợi, Nghệ An có khả năng phát triển kinh tế nông
nghiệp cao, đặc biệt là mô hình KTTT. Trong nhiều năm qua, KTTT ở Nghệ
An đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, có ý nghĩa đối với sự
phát triển kinh tế của tỉnh nhà, sớm khẳng định vai trò và triển vọng phát
triển của nó trong tương lai. KTTT ở Nghệ An hiện nay đang phát triển theo
hướng chuyển mình cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước. Do đó, việc áp
dụng KHCN mới vào sản xuất trở thành một trong những điểm sáng cần
phát huy hơn nữa đối với trang trại ở Nghệ An.
Mặc dù Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ An đã nhận thức được vai trò
quan trọng của KTTT đối với sự phát triển nông nghiệp, song việc phát huy
lợi thế đó vẫn còn hạn chế. Các trang trại quy mô lớn, phương thức tổ chức
2
sản xuất hiện đại còn ít, chủ yếu là nhỏ lẻ, phân tán. Việc giải quyết các vấn
đề về ruộng đất, quy hoạch, tín dụng, thị trường, ứng dụng KHCN…vẫn còn
tỏ rõ sự lúng túng, thiếu kinh nghiệm.
Nguyên nhân nảy sinh những vấn đề đó là từ đâu? Làm thế nào để có
những giải pháp phù hợp giải quyết những vấn đề còn tồn tại? Làm thế nào
để người nông dân Nghệ An ngày càng gắn bó và tâm huyết với KTTT?
Làm thế nào để đưa KTTT ở Nghệ An trở thành một bộ phận không thể
thiếu của nông nghiệp tỉnh nhà? Mong muốn trả lời được những vấn đề trên,
tìm ra giải pháp đưa KTTT ở Nghệ An phát triển hơn nữa là lý do khiến tôi
suy nghĩ và mạnh dạn lựa chọn một đề tài cũ mà không cũ, đó là: “Phát triển
kinh tế trang trại theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1 Trên thế giới
KTTT đã xuất hiện từ lâu, trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển.
KTTT là đối tượng được nhiều chuyên gia kinh tế, học giả nghiên cứu, được
in thành sách, trên các tạp chí, tài liệu khoa học, góp phần bổ sung vào hệ
thống lý luận về KTTT những nội dung quan trọng, có ý nghĩa trong thực
tiễn đời sống. Điển hình là các tác phẩm:
- FAO (1989), “Farming Systems Development”, Rome, nghiên cứu
về sự phát triển hệ thống của trang trại.
- New Letter West Bengal (9/1990), “Farming systems research and
extension”, Ấn Độ
- FAO (1990), “Ways forward for farming systems Approach is Asia
and the Pacific”, Rome đã nghiên cứu về sự xuất hiện và xu hướng phát triển
KTTT ở Châu Á – Thái Bình Dương…
3
Ngoài ra, có hàng loạt đề tài, tổng kết, báo cáo về KTTT ở từng địa
phương trong phạm vi vùng, khu vực, quốc gia cung cấp thông tin chính xác,
khoa học cho các nhà lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách quốc gia
làm căn cứ đưa ra chủ trương, chính sách kinh tế phù hợp thúc đẩy KTTT
phát triển.
2.2 Ở Việt Nam
KTTT đã xuất hiện từ lâu, nhưng việc nghiên cứu khoa học về nó
chưa thực sự được quan tâm, nhất là thời điểm trước chủ trương CNH,
HĐH. Từ khi Đảng, Nhà nước tiến hành đổi mới, thực hiện chủ trương đẩy
mạnh CNH, HĐH, KTTT bắt đầu được nói đến nhiều. KTTT trở thành một
trong những nội dung quan trọng được thừa nhận và khẳng định trong các
văn kiện, Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều tập thể, cá
nhân các nhà nghiên cứu, chuyên gia kinh tế,…bắt đầu hướng đến đối tượng
là KTTT với nhiều công trình tiêu biểu xuất hiện:
- Phạm Quang Lê, 1999, “Kinh tế trang trại đột phá mới trong nông
nghiệp”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 12.
- GS. TS. Nguyễn Thế Nhã, 1999, “Thực trạng phát triển kinh tế trang
trại ở nước ta”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 257.
- Nguyễn Điền, Trần Đức, 1993, Kinh tế trang trại gia đình trên thế
giới và châu Á, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
- Trần Đức, 1995, Trang trại gia đình ở Việt Nam và trên thế giới,
NXB chính trị quốc gia, 1995.
Ở Nghệ An, KTTT được lãnh đạo cũng như các cá nhân đặc biệt quan
tâm, làm xuất hiện một số công trình nghiên cứu khá công phu dưới nhiều
góc độ. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế chính trị và quản lý kinh tế thì chưa
có một công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện. Trên cơ sở khảo sát
thực tiễn phát triển KTTT ở Nghệ An, kế thừa những thành tựu mà các nhà
4
khoa học, các chuyên gia đã nghiên cứu, khóa luận: “Phát triển kinh tế trang
trại theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay” sẽ đi sâu nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
KTTT, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển
KTTT ở Nghệ An thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận về KTTT và thực tiễn đặt ra trong quá trình
phát triển KTTT ở Nghệ An, khóa luận đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm
phát triển KTTT tương xứng với tiềm năng của tỉnh cũng như phù hợp với
định hướng CNH, HĐH mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu, khóa luận cần thực hiện những nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về KTTT
- Đánh giá tình hình phát triển KTTT theo hướng CNH, HĐH ở Nghệ
An trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy sự phát triển KTTT theo
hướng CNH, HĐH ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy sự phát triển KTTT theo hướng CNH, HĐH ở Nghệ An làm
đối tượng nghiên cứu
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ kinh tế chính trị và quản lý kinh tế, đề tài nghiên cứu tình
hình phát triển KTTT theo hướng CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay ở
Nghệ An trên quy mô toàn tỉnh. Từ đó đặt ra phương hướng, mục tiêu, giải
pháp phát triển mô hình kinh tế này ở tỉnh Nghệ An
5
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm phương pháp nghiên cứu của đề tài. Bên cạnh đó,
còn vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu khác: lôgic kết hợp
với lịch sử, thống kê, phân tích tổng hợp, bảng biểu…để làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn phát triển KTTT ở Nghệ An.
6. Những đóng góp mới của khóa luận
- Khóa luận làm sáng rõ hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về
sự phát triển KTTT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta.
- Đánh giá tổng thể về sự phát triển KTTT theo hướng CNH, HĐH ở
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay. Từ đó phát hiện ra những hạn chế đang
tồn tại hoặc sẽ nảy sinh cần giải quyết
- Đưa ra được một số giải pháp khoa học, khả thi thúc đẩy sự phát
triển KTTT ở Nghệ An trong thời gian tới.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về KTTT
Chương 2: Thực trạng phát triển KTTT trong nông nghiệp ở tỉnh Nghệ An
Chương 3: Mục tiêu, phương hướng và giải pháp phát triển
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
KINH TẾ TRANG TRẠI
6
1.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam
về kinh tế trang trại
1.1.1 Quan điểm của Mác, Ăng - ghen, Lênin
Qúa trình CNH tư bản chủ nghĩa diễn ra khá sớm trên thế giới. Anh là
nước đầu tiên thực hiện quá trình đó. CNH dẫn đến sự ra đời các ngành công
nghiệp mới, các xí nghiệp tập trung với quy mô lớn, đông đảo lao động làm
thuê. CNH tác động mạnh mẽ đến nhiều ngành kinh tế khác nhau trong cơ
cấu kinh tế, đặc biệt là công nghiệp. Sự tác động đó đã khiến cho nhiều
người lầm tưởng rằng, để có thể trụ được trong nền kinh tế hàng hóa đang
diễn ra sôi động như vậy thì bản thân nông nghiệp cũng phải xây dựng như
công nghiệp theo hướng tập trung có quy mô lớn. Vì thế người ta đã có
nhiều biện pháp khác nhau để tích tụ, tập trung ruộng đất, xây dựng hàng
loạt xí nghiệp nông nghiệp tư bản. Đồng thời xóa bỏ hệ thống các trang trại
gia đình với hy vọng mô hình sản xuất nông nghiệp này sẽ cho hiệu quả cao
hơn nhiều lần so với mô hình trang trại gia đình cũ trước đó.
Thực tế, đối tượng của nông nghiệp là cây trồng và vật nuôi khác với
công nghiệp. Đặc điểm này không phù hợp với hình thức sản xuất tập trung
quy mô lớn và sử dụng nhiều nhân công của ngành công nghiệp. C.Mác
cũng đã từng lầm tưởng vấn đề này. Mác nhận thấy một trong những con
đường tất yếu của ngành nông nghiệp trong quá trình CNH tư bản chủ nghĩa
là xây dựng xí nghiệp nông nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn. Sau
đó, bằng thực tiễn phát triển của ngành nông nghiệp, C.Mác khẳng định
quan điểm đó là sai. Với nền công nghiệp phát triển như Anh, hình thức sản
xuất nông nghiệp có lợi nhất lại là các trang trại gia đình không dùng lao
động làm thuê. Thực ra, chủ nghĩa tư bản cũng không thích thú đầu tư nông
nghiệp vì đó là ngành phụ thuộc vào thiên nhiên, kinh doanh nhiều rủi ro,
7
mà tỷ suất lợi nhuận và giá trị lao động thấp. Điều đó chứng tỏ trang trại gia
đình là mô hình kinh tế phù hợp với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Cuối thế kỷ 20, mô hình sản xuất phổ biến trong nền nông nghiệp thế
giới vẫn là trang trại gia đình - có sức chống đỡ lớn trong các cuộc khủng
hoảng. Đến nay, KTTT vẫn được đánh giá cao và là lựa chọn đúng đắn của
nhiều gia đình muốn làm giàu từ nông nghiệp.
Khi đưa ra quan điểm về KTTT, Mác so sánh với kinh tế tiểu nông.
Điểm cơ bản của trang trại gia đình là sản xuất hàng hóa, khác với kinh tế
tiểu nông là tự cấp tự túc, giống nhau là lấy gia đình làm nòng cốt. Sự tồn tại
của KTTT gia đình trước hết phù hợp với một trong những đặc điểm cơ bản
của sản xuất nông nghiệp là lấy sinh vật làm đối tượng. Người chủ trực tiếp
tác động vào cây trồng, vật nuôi với trách nhiệm và tình cảm của mình
KTTT có khả năng dung nạp các hình thức sở hữu khác nhau (cá thể,
HTX, quốc doanh); qui mô sản xuất khác nhau; trình độ KHCN khác nhau
(từ thô sơ đến hiện đại). C.Mác nhấn mạnh việc phát triển KTTT là một tất
yếu. KTTT bán đại bộ phận nông sản được sản xuất ra thị trường, còn hộ
nông dân thì bán ra càng ít bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Cùng quan điểm
này, Lê nin nói: “Người chủ trang trại bán ra thị trường hầu hết các sản
phẩm làm ra, còn người tiểu nông thì dùng đại bộ phận sản xuất được, mua
bán càng ít càng tốt”. Như vậy, kinh tế hộ chỉ dừng lại ở sản xuất tự cung tự
cấp. Để có nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, phải chuyển kinh tế hộ
sang KTTT. Quan điểm của Mác, Lê nin về KTTT đã chỉ ra bản chất KTTT
là hộ nông dân nhưng còn ở dạng khái quát, nhiều vấn đề chưa được đề cập
như vị trí của chủ trang trại trong quá trình tái sản xuất sản phẩm, cách thức
tổ chức quản lý sản xuất…Tuy nhiên, những quan điểm này đã khẳng định
tính tất yếu của phát triển KTTT, manh nha sự quan tâm nghiên cứu cho
những người muốn tìm hiểu về KTTT hiện nay.
8
1.1.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Suốt hơn 20 năm Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn coi CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn là mặt trận hàng đầu trong toàn bộ nội dung của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, đặc biệt nhấn mạnh phát triển mô hình KTTT.
Nước ta đã có nhiều chính sách tạo điều kiện cho KTTT phát triển nhất là từ
năm 2000 đến nay. Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương (31/10/1981)
đánh dấu việc coi trọng sự phát triển KTTT. Chỉ thị về khoán sản phẩm đến
người lao động, giúp hộ gia đình chủ động sử dụng lao động và thu nhập
của mình để phát triển kinh tế. Đây là cơ sở cho sự phát triển KTTT ở nước
ta. Tháng 4/1988, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị nâng cao hơn nữa mức tự
chủ kinh doanh của xã viên trên cả ba mặt. Về TLSX, giao khoán ruộng đất
từ 15 năm trở lên, không hạn chế việc mua sắm TLSX khác. Các xã viên trở
thành chủ thể chính trong sản xuất nông nghiệp. Đảng và Nhà nước thừa
nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ tạo môi trường thể chế thuận lợi
cho kinh tế hộ tự do phát triển sản xuất, bình đẳng trong quan hệ kinh tế.
Ngày 14/7/1993, Luật đất đai được Quốc hội thông qua thực hiện giao
đất lâu dài cho nông dân, thừa nhận năm quyền sử dụng đất của nông dân.
Nghị quyết 03/2000/NQ - CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về KTTT đã
đưa ra nhiều nội dung phát triển KTTT lâu dài: khuyến khích phát triển và
bảo hộ KTTT; giao và cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
ổn định, lâu dài theo pháp luật; khuyến khích phát triển KTTT sử dụng ít
đất, nhiều lao động, thâm canh gắn với chế biến và thương mại, dịch vụ…
Đảng và Nhà nước ta thấy được sự xuất hiện, tồn tại và phát triển tất
yếu của KTTT theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
KTTT ở nước ta có vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo, khai
thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực góp phần phát triển nông nghiệp bền
9
vững, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến
trình CNH nông nghiệp, nông thôn.
Quan điểm của Mác, Lê nin cũng như của Đảng và Nhà nước ta đã
chứng tỏ vị trí và xu thế phát triển của KTTT đối với sự phát triển nông
nghiệp của các quốc gia trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng.
Trên cơ sở những quan điểm đó, chúng ta có cái nhìn khách quan, khoa học
để tìm hiểu KTTT dưới góc độ kinh tế chính trị và quản lý kinh tế.
1.2 Kinh tế trang trại – đặc trưng và tiêu chí nhận dạng
1.2.1 Khái niệm
KTTT ở nước ta phát triển chứng tỏ sự ra đời của nó đã đáp ứng yêu
cầu khách quan của nền nông nghiệp, chứng tỏ chủ trương đưa nông nghiệp
nước ta tiến lên nền sản xuất lớn theo hướng CNH, HĐH là đúng đắn. Sự
phát triển KTTT là một bước đột phá quan trọng trong phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn. Những năm gần đây, nhiều cơ quan nghiên cứu,
quản lý Nhà nước, các nhà khoa học đã tìm hiểu, nghiên cứu KTTT. Cách
thức tiếp cận, phương pháp phân tích khác nhau, nên vẫn chưa có thống nhất
trong xác định khái niệm KTTT. Việc làm rõ khái niệm KTTT là vấn đề cần
thiết, có ý nghĩa trong nghiên cứu KTTT mà khóa luận này phải giải quyết.
KTTT là một khái niệm không mới với nhiều quốc gia. Sự ra đời, tồn
tại và phát triển KTTT ở mỗi quốc gia, khu vực quy định đặc điểm KTTT ở
mỗi nơi là khác nhau. Việc hình thành một khái niệm chung về KTTT còn
khá khó khăn. Trên thế giới, người ta dùng thuật ngữ Fermer (tiếng Pháp),
Farm (tiếng Anh) để chỉ trang trại, nông trại,…Ở các nước tư bản phát triển
và một số vùng lãnh thổ châu Á quan điểm trang trại là loại hình sản xuất
nông lâm ngư của hộ gia đình nông dân sau khi phá vỡ vỏ bọc sản xuất tự
cấp tự túc của hộ tiểu nông, vươn lên sản xuất nông sản hàng hóa, tiếp cận
với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh. Quan điểm
10
này thể hiện đặc trưng của KTTT là sản xuất nông sản hàng hóa nhưng chưa
nói được đặc điểm lao động và cách thức tổ chức sản xuất của KTTT
Trong từ điển kinh tế, khi trình bày khái niệm kinh tế nhiều ngành của
nông trang tập thể, Côdơlốp và S.P Pêrơvusưn đã chỉ ra đặc điểm của KTTT:
“Nền kinh tế kết hợp đúng đắn các ngành khác nhau của sản xuất nông
nghiệp, trước hết là ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi nhằm đảm bảo đạt
được sản lượng nông nghiệp tối đa trên một héc ta ruộng đất và năng suất
lao động được nâng lên mức cao hơn(…). Kinh tế nhiều ngành cũng thúc
đẩy việc sử dụng tốt hơn kỹ thuật, ruộng đất và tư liệu sản xuất của nông
trang tập thể (…). Kinh tế nhiều ngành đòi hỏi các nông trang tập thể tiến
hành chuyên môn hóa theo các ngành chủ đạo, các loại cây trồng và súc vật
nhằm lợi dụng được hết mọi điều kiện tự nhiên và kinh tế của từng nông
trang tập thể, cũng như các nguồn lao động và kinh nghiệm sản xuất của
từng nông trang”. [1, 259].
Ở nước ta cũng có nhiều khái niệm khác nhau về KTTT. Nhóm tác
giả Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng: “Trang trại gia đình là loại
hình cơ sở sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân, hình thành và phát
triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường từ khi phương thức sản xuất
tư bản thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến, khi bắt đầu cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất ở các nước châu Âu” [2, 5]. GS.TS Nguyễn
Đình Hương, tập thể các cán bộ khoa học của trường Đại học Kinh tế quốc
dân: “Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư
nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa. TLSX thuộc quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành
trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách
thức tổ chức và quản lý tiên tiến, trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và
luôn gắn với thị trường” [3, 19]. Khái niệm đã chỉ ra được KTTT là hình
11
thức tổ chức sản xuất cơ sở, trực tiếp tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của
xã hội, các khâu trong quá trình tái sản xuất của trang trại (sản xuất, phân
phối, trao đổi, tiêu dùng) và một số đặc điểm của trang trại (mục đích sản
xuất, TLSX, phương thức sản xuất).
Dưới góc độ xã hội, trang trại được coi là một tổ chức cơ sở xã hội,
trong đó các quan hệ xã hội đan xen nhau giữa các thành viên của trang trại,
giữa chủ trang trại và người lao động làm thuê, giữa người làm thuê cho chủ
trang trại với nhau.
Dưới góc độ môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong
đó diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại
quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng trực tiếp hệ sinh thái của vùng
Dưới góc độ pháp luật, KTTT là “hình thức sản xuất hàng hóa trong
nông nghiệp, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy
sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản”
Qua phân tích một số khái niệm về KTTT cho thấy mỗi khái niệm đều
đưa ra được những vấn đề khá hợp lý, tương quan với nhau. Tuy nhiên, một
số nội dung chưa phù hợp tình hình phát triển KTTT nước ta hiện nay. Dưới
góc độ kinh tế chính trị, KTTT được định nghĩa: “Kinh tế trang trại là một
hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp, ra đời phổ
biến từ kinh tế hộ, phát triển dựa trên cơ sở nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất
được tiến hành trên cơ sở sự tập trung đủ lớn về vốn, đất đai, lao động và các
yếu tố sản xuất khác với các hình thức tổ chức quản lý tiến bộ, trình độ kỹ
thuật cao phù hợp với cây trồng vật nuôi. TLSX thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng của một người chủ độc lập, hoạt động tự chủ, sản xuất và
kinh doanh theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận” [5]. Định nghĩa này
đề cập khá trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa khoa học về lý luận và thực tiễn. Đồng
12
thời phản ánh bản chất, đặc điểm, mục đích KTTT phù hợp với giai đoạn
hiện nay. Dù ở góc độ nghiên cứu nào, KTTT cũng có bản chất và đặc điểm
không đổi. Đi sâu nghiên cứu bản chất, đặc điểm đó góp phần quan trọng về
lý luận, thực tiễn cho khóa luận
1.2.2 Đặc trưng
C.Mác là người đầu tiên chỉ ra đặc trưng cơ bản của KTTT so với
kinh tế tiểu nông. Chủ trang trại sản xuất và bán tất cả, kể cả thóc giống.
Tiểu nông sản xuất và tự tiêu thụ sản phẩm làm ra, mua bán càng ít càng tốt.
Như vậy, đặc trưng cơ bản của KTTT là ở mục đích sản xuất. KTTT sản
xuất nông sản hàng hóa theo nhu cầu thị trường. Đặc trưng này chi phối các
đặc trưng khác của KTTT. Tính chất và trình độ sản xuất hàng hóa của
KTTT đã thu hẹp tính tự cấp tự túc của kinh tế hộ. Mục đích sản xuất hàng
hóa được đánh giá thông qua một số tiêu chí như tổng giá trị sản xuất hàng
hóa sản xuất trong năm, sản lượng nông sản hàng hóa sản xuất trong năm, tỷ
suất hàng hóa của trang trại,…
KTTT còn có một số đặc trưng khác như sau:
- Nhu cầu lao động của trang trại vượt quá khả năng về nguồn lao
động của hộ gia đình, làm xuất hiện tình trạng thuê mướn lao động. Thuê
mướn lao động gồm hai hình thức thuê thường xuyên và thuê thời vụ. Việc
lựa chọn hình thức nào là phụ thuộc vào qui mô và trình độ sản xuất của
trang trại.
- TLSX trong trang trại thuộc về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
của một người chủ độc lập. Chủ trang trại hoàn toàn có quyền tự chủ quyết
định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Sự hoàn toàn quyết
định đó không có nghĩa là phân lập, là tách biệt mối quan hệ liên kết mật
thiết với các HTX, các tổ chức nông nghiệp, các trang trại khác. Mối quan
hệ giữa các đối tượng này vẫn ngày càng được thiết lập chặt chẽ.
13
- Chủ trang trại là người trực tiếp sản xuất và quản lý, có ý chí và
năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất và những
hiểu biết nhất định về kinh doanh nông nghiệp. Đây là những tố chất cần
thiết để tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Nó
không có ở những chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Những tố chất mà
chủ trang trại có được là kết quả của quá trình lao động nghiêm túc, những
khó khăn mà trang trại đã từng vấp phải làm cho họ đúc kết thành những
kinh nghiệm thực tiễn quí báu. Những đặc điểm này đã chứng tỏ sự trưởng
thành có ý nghĩa mang tính chất bước ngoặt trong tư duy kinh tế cũng như
phương thức sản xuất kinh doanh của chủ trang trại so với chủ nông hộ. Đó
là một sự thay đổi phát triển, vươn lên một tầm cao mới của nền kinh tế
nông nghiệp hàng hóa so với nền kinh tế tự cung, tự cấp
- Sản xuất mang tính chuyên môn hóa cao, áp dụng nhiều tiến bộ khoa
học kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất, thường xuyên tiếp cận thị trường và
điều hành sản xuất một cách hợp lý do đó, giá trị sản phẩm thu nhập và giá
trị sản phẩm hàng hóa ngày càng tăng. Chuyên môn hóa sản xuất của trang
trại gắn liền với việc chuyển hướng sản xuất từ đa canh, đa dạng về sản
phẩm sang hướng sản xuất tập trung chủ yếu ở một hoặc một vài nông sản
hàng hóa nhằm phát huy được những lợi thế so sánh của trang trại cũng như
đạt được mục tiêu lợi nhuận cao. Thâm canh tăng năng suất thể hiện ở hiệu
quả đầu tư trên một đơn vị sản xuất. Có nhiều hình thức thâm canh, thay thế
nhau cùng với quá trình phát triển kinh tế (thâm canh truyền thống, thâm
canh kết hợp truyền thống và hiện đại, thâm canh hiện đại). Việc tiếp cận
thường xuyên thị trường thể hiện ở việc chủ trang trại thường quan tâm đến
diễn biến của thị trường, quen thuộc dần với các phạm trù kinh tế hoặc có
những chiến lược marketing tìm kiếm thị trường (quảng cáo, giới thiệu sản
phẩm,…).
14
- KTTT có sự tập trung tích tụ cao hơn so với mức bình quân của hộ
kinh tế ở từng vùng về điều kiện sản xuất. Qúa trình tích tụ và tập trung các
yếu tố sản xuất này ở một giới hạn nhất định, diễn ra trước và trong quá trình
sản xuất kinh doanh của trang trại.
1.2.3 Phân loại
Có nhiều loại KTTT khác nhau căn cứ vào đặc điểm, điều kiện cụ thể
của từng nước, từng vùng trong từng giai đoạn nhất định. Khóa luận này đề
cập đến bốn cách phân loại KTTT:
1.2.3.1 Phân loại theo cơ cấu sản xuất
Trang trại kinh doanh tổng hợp: sản xuất kinh doanh nhiều sản phẩm
kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp, nông
nghiệp với lâm nghiệp, phổ biến ở nhiều nước châu Á và Bắc Âu.
Trang trại sản xuất theo hướng chuyên môn hóa: sản xuất một loại sản
phẩm nhất định, như trang trại chăn nuôi bò sữa, chuyên trồng cây ăn quả,
trang trại chăn nuôi thủy sản,…và khá phổ biến ở các nước phát triển như
Mỹ, Ca-na-đa, Tây Âu,…
Trang trại chuyên sản xuất nông sản hoặc lâm sản làm nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến: có khi còn kết hợp sản xuất với chế biến nông,
lâm sản ở trình độ sơ chế hoặc tinh chế
1.2.3.2 Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
Dựa theo hình thức sở hữu TLSX, trang trại được chia theo ba loại
hình. Chủ trang trại sở hữu toàn bộ TLSX: gồm đất đai, máy móc, chuồng
trại, kho bãi,…Đối với từng TLSX khác nhau, ở mỗi nước có một tỷ lệ sở
hữu khác nhau. Tỷ lệ sở hữu hoàn toàn ruộng đất của chủ trang trại ở Mỹ
năm 1982 là 59.0%, nhưng Thụy Điển lại chỉ có khoảng 30%.
15
Chủ trang trại sở hữu một phần TLSX, còn một phần đi thuê của
người khác. Có những trang trại, chủ sở hữu có đất đai nhưng phải thuê máy
móc, nhà xưởng,…để sản xuất
Chủ trang trại thuê toàn bộ TLSX: chủ sở hữu trang trại hoàn toàn
không có TLSX, phải thuê toàn bộ cơ sở của một trang trại nào đó để sản
xuất
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì vấn đề về sở hữu
TLSX không phải là yếu tố quyết định đến sự thành đạt của một trang trại.
Trong thực tế, có rất nhiều chủ trang trại đi thuê mà vẫn thu được lợi nhuận
cao không thua kém các chủ trang trại có sở hữu về TLSX.
1.2.3.3 Phân loại theo qui mô đầu tư
Gồm trang trại có qui mô lớn, trang trại có qui mô vừa và trang trại có
qui mô nhỏ. (Qui mô đầu tư gồm vốn đầu tư, sử dụng lao động, diện tích đất,
…)
1.2.3.4 Phân loại theo hình thức tổ chức quản lý
Trang trại gia đình: là loại hình trang trại sản xuất kinh doanh độc lập
của từng gia đình, có tư cách pháp nhân, do chủ hộ hay một người thay mặt
gia đình quản lý, các thành viên khác trong gia đình tham gia sản xuất. Đây
là loại hình trang trại phổ biến nhất ở các nước. Riêng ở Mỹ, hiện nay có
86% trang trại gia đình trong tổng số trang trại của cả nước
Trang trại liên doanh: là loại hình trang trại do 2 đến 3 gia đình hợp lại
trên cơ sở tự nguyện liên doanh với nhau thành một trang trại lớn nhằm tăng
năng lực về vốn và TLSX, tạo sức cạnh tranh lớn hơn. Hoặc cũng có thể là
do chủ trang trại có đất nhưng thiếu vốn hoặc ngược lại nên đã liên doanh
với người có vốn để sản xuất kinh doanh chung. Trong đó, mỗi trang trại
thành viên vẫn có quyền tự chủ sản xuất. Đối tượng liên doanh chủ yếu là
anh em, họ hàng hay bạn bè thân thiết. Ở châu Á, qui mô trang trại thường
16
nhỏ, nên số trang trại theo loại hình này có rất ít. Ở Mỹ, Anh cũng chỉ chiếm
một tỷ lệ thấp, xấp xỉ 10% tổng số trang trại.
Trang trại hợp doanh theo cổ phần: là loại hình trang trại được tổ chức
theo nguyên tắc cổ phần, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, và tiêu
thụ nông sản. Loại trang trại này thường có qui mô lớn, thực hiện chuyên
môn hóa sản xuất, sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu. Có hai loại hợp
doanh là hợp doanh gia đình và hợp doanh phi gia đình (là loại hình xí
nghiệp nông nghiệp lớn nhất ở Mỹ). Loại trang trại này chiếm từ 3 đến 5%
trong tổng số trang trại hiện nay, phổ biến nhất là ở Mỹ.
Cách phân loại thứ nhất là phổ biến ở nhiều nước, trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển KTTT ở
nước ta, các nhà quản lý kinh tế, nhà nghiên cứu đã phân loại lại dựa vào
tính chất và qui mô sở hữu của trang trại. Theo đó, ở nước ta có ba loại hình
trang trại chủ yếu sau:
- Trang trại gia đình: sử dụng lao động gia đình là chủ yếu
- Trang trại tiểu chủ: sử dụng lao động thuê mướn là chính
- Trang trại tư nhân: sử dụng hoàn toàn lao động làm thuê.
Ở nước ta hiện nay, cần ưu tiên khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển
KTTT gia đình. Đó là con đường tất yếu, quan trọng nhằm đưa KTTT ở
nước ta tiến lên sản xuất hàng hóa, góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn. Nghệ An là một tỉnh có KTTT khá phát triển. Trang
trại gia đình là loại hình trang trại chủ yếu, quy mô vừa và nhỏ. Quy hoạch
đất đai gặp khó khăn ảnh hưởng đến việc mở rộng quy mô trang trại. Các
chủ trang trại ở Nghệ An chủ yếu là nông dân tự vay vốn làm ăn, không có
hoặc ít người có trình độ quản lý, kiến thức hạn chế, thiếu kinh nghiệm,
không có những ý tưởng đầu tư táo bạo hướng vào phát triển KTTT mà chỉ
áp dụng mô hình quen thuộc là trang trại gia đình vừa đủ sức, ít nhiều có
17
kinh nghiệm. Sự quan tâm đến KTTT hiện nay ở Nghệ An là một việc làm
đúng đắn của lãnh đạo tỉnh, khẳng định con đường phát triển đúng đắn, hợp
lý của địa phương theo hướng CNH, HĐH
1.2.4 Tiêu chí nhận dạng
1.2.4.1 Về mặt định tính
KTTT phải là mô hình kinh tế sản xuất nông sản hàng hóa.
1.2.4.2 Về mặt định lượng
Thông qua các chỉ tiêu cụ thể để nhận dạng cơ sở sản xuất nào được
coi là trang trại, loại nào không được coi là trang trại. Các chỉ tiêu chủ yếu
thường dùng để nhận dạng gồm tỷ suất hàng hóa, khối lượng và giá trị nông
sản hàng hóa, qui mô đất trồng trọt, qui mô vốn đầu tư, qui mô lao động sử
dụng, thu nhập trên một đơn vị đất đai, vốn đầu tư,…
Trên thế giới:
Người ta thường sử dụng tiêu chí định tính để nhận dạng trang trại.
Chỉ có một số ít nước sử dụng tiêu chí định lượng, như Mỹ và Trung Quốc.
Ở Mỹ qui định một cơ sở sản xuất được coi là trang trại khi có giá trị sản
lượng nông sản hàng hóa từ 250 USD trở lên, và hiện nay là 1000 USD trở
lên. Ở Trung Quốc, tỷ suất hàng hóa của các trang trại) là 70% đến 80% trở
lên, giá trị sản lượng hàng hóa cao gấp 2 đến 3 lần bình quân của các hộ
nông dân
Ở Việt Nam:
Kết hợp cả hai mặt định tính và định lượng để nhận dạng trang trại.
Mặt định tính là một mô hình kinh tế sản xuất nông sản hàng hóa. Mặt định
lượng được xác định thông qua một số chỉ tiêu như tỷ suất hàng hóa, gía trị
sản lượng hàng hóa so với hộ nông dân trung bình trong nước, vùng và
ngành, qui mô các yếu tố sản xuất của trang trại…Do chưa có quy định
thống nhất của các Bộ, ngành Trung ương về tiêu chí trang trại nên các địa
18
phương tự đặt ra những tiêu chí về trang trại dựa vào tính chất sản xuất hàng
hoá, quy mô yếu tố sản xuất,... để thống kê số liệu KTTT của địa phương. Vì
vậy, số liệu thống kê chưa thật chuẩn xác, ranh giới giữa kinh tế hộ nông dân
và KTTT không rõ ràng, khó khăn trong đánh giá thực trạng, xây dựng chính
sách đối với KTTT. Ngày 02/02/2000, Chính phủ có Nghị quyết
03/2000/NQ-CP về KTTT. Liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Tổng cục Thống kê đã thi hành Nghị quyết của Chính phủ, quy định hướng
dẫn tiêu chí về xác định KTTT như sau:
- Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét xác định là KTTT
gồm hộ nông dân, công nhân viên Nhà nước, lực lượng vũ trang đã nghỉ
hưu, các hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất hoặc sản xuất nông nghiệp
là chính, kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn
- Các đặc trưng chủ yếu của KTTT: sản xuất nông sản hàng hoá với
quy mô lớn. Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các yếu tố sản xuất
cao hơn so với sản xuất nông hộ. Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm
trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng khoa học kỹ thuật; sử dụng lao
động gia đình và bên ngoài, hiệu quả cao, thu nhập vượt trội so với kinh tế
hộ.
- Tiêu chí định lượng xác định KTTT:
+ Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt cả hai tiêu chí định lượng: Giá trị sản lượng
hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải
miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên và từ 50 triệu đồng trở lên với các tỉnh
phía Nam và Tây Nguyên. Quy mô sản xuất tương đối lớn, vượt trội so với
kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế
+ Đối với trang trại trồng trọt: Trang trại trồng cây hàng năm từ 2 ha
trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung, từ 3 ha trở lên
19
đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Trang trại trồng cây lâu năm từ 3
ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung, từ 5 ha trở lên
đối với ở các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Riêng trang trại trồng hồ tiêu từ
0,5 ha trở lên. Trang trại lâm nghiệp từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong
cả nước.
+ Đối với trang trại chăn nuôi: Chăn nuôi đại gia súc là sinh sản, lấy
sữa thường xuyên từ 10 con trở lên, lấy thịt thường xuyên từ 50 con trở lên.
Chăn nuôi gia súc sinh sản thường xuyên có từ 20 con trở lên, đối với dê và
cừu từ 100 con trở lên, lợn thịt thường xuyên từ 100 con trở lên, dê thịt từ
200 con trở lên. Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng,…thường xuyên từ
2.000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
+ Đối với trang trại nuôi trồng thuỷ sản có diện tích mặt nước để nuôi
trồng từ 2 ha trở lên (riêng tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
+ Đối với sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản có tính chất
đặc thù như hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy sản thì tiêu chí
xác định là giá trị sản lượng hàng hoá.
1.3 Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại
1.3.1 Vai trò của kinh tế trang trại
KTTT là một hình thức tổ chức sản xuất quan trọng. Ở các nước đang
phát triển, trang trại gia đình có vai trò quyết định trong sản xuất nông
nghiệp. Ở những nước phát triển, đại bộ phận nông sản cung cấp cho xã hội
được sản xuất ra từ các trang trại gia đình. Ở Mỹ, KTTT gia đình tạo ra khối
lượng nông sản chiếm 70% giá trị sản lượng nông nghiệp của cả nước.
Ở Việt Nam, KTTT thể hiện vai trò tích cực của mình trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, biểu hiện trên ba mặt
1.3.1.1 Về kinh tế
20
KTTT thúc đẩy quá trình sản xuất nông sản hàng hóa, nâng cao năng
suất lao động nông nghiệp. Trang trại sản xuất một khối lượng hàng hóa
nông sản lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt
phải kể đến trang trại cà phê, hồ tiêu, cao su, chè, chăn nuôi bò sữa, gia súc,
gia cầm cung cấp hàng hóa với số lượng lớn. KTTT đang ngày càng được
chú trọng đầu tư KHCN và ứng dụng thành công, đem lại hiệu quả bất ngờ.
KTTT đang đi vào quá trình hiện đại hóa sản xuất. Hàng hóa nông sản ngày
càng có sức cạnh tranh trên trị trường trong nước, khu vực và thế giới
KTTT góp phần tạo nên những vùng chuyên môn hóa cao và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. KTTT thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến, dịch vụ
sản xuất nông nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn tạo ra
nhiều vùng sản xuất nông lâm ngư nghiệp hàng hóa tập trung, tạo điều kiện
cho công nghiệp chế biến nông sản phát triển, đa dạng các ngành dịch vụ phi
nông nghiệp. KTTT sản xuất ra những nông sản có chất lượng, tạo nên
thương hiệu, thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường nông sản thế giới. Từ đó,
KTTT góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc dân
1.3.1.2 Về xã hội
KTTT đã góp phần làm tăng số hộ giàu trong nông thôn. Hiệu quả mà
KTTT đem lại làm tăng sự tin tưởng của người nông dân, trên cơ sở đó có
điều kiện thuận lợi huy động nguồn vốn dân cư xây dựng kết cấu tầng, đầu
tư mở rộng sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
KTTT có vai trò quan trọng trong giải quyết vấn đề lao động và việc
làm đang bức thiết hiện nay ở nước ta. Năm 2000, nước ta có khoảng
113.000 trang trại, giải quyết việc làm cho khoảng 30 vạn lao động, thuê
mướn 30 triệu ngày công lao động mỗi năm. Đây là động lực quan trọng góp
phần thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, làm giàu cho
gia đình và đất nước. Phát triển KTTT đem lại bài học cho các chủ trang trại
21
về cách thức tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh, phát huy quyền tự chủ,
tính sáng tạo, năng động, độc lập trong kinh doanh.
1.3.1.3 Về môi trường
KTTT khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn lực
TNTN. Quá trình đó có tác dụng tận dụng và sử dụng hiệu quả đất trống đồi
trọc, vùng đất hoang hóa,…Năm 2000, diện tích đất sử dụng của cả nước lên
đến con số 20-30 vạn ha. Phát triển KTTT góp phần quan trọng vào việc
trồng và bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, sử dụng hiệu quả các loại
TNTN nhằm cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái. Nguyên nhân là do các
chủ trang trại sản xuất kinh doanh vì lợi ích thiết thực lâu dài của mình nên
cũng khá chú ý đến vấn đề môi trường
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại
1.3.2.1 Nhân tố bên trong
Sự phát triển KTTT chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bên trong như
sau:
Một là, vị trí và vai trò của ngành sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu
kinh tế nông thôn:
Nhận thức vị trí, vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
trong giai đoạn mới của CNH, HĐH đất nước có liên quan đến nhận thức,
thái độ và trách nhiệm cuả toàn xã hội đối với nông nghiệ,p nông thôn. Để
tạo nên sự chuyển biến căn bản của nông nghiệp nông thôn theo hướng sản
xuất hàng hóa lớn, trước tiên phải dựa trêncơ sở sự nỗ lực của bản thân
người nông dân. Phát triển nông nghiệp trước hết là vì cuộc sống và tương
lai của bản thân dân cư nông thôn và trên cơ sở đó góp phần vào việc thực
hiện sự nghiệp CNH, HĐH chung của cả nước. Đây là một nhân tố bên
trong, lấy nội lực của nông nghiệp tạo ra sự phân công lao động mới.Chính
sự nỗ lực của người nông dân và nền sản xuất nông nghiệp sẽ góp phần tích
22
cực và trực tiếp vào việc phát triển nông nghiệp. Vì vậy, trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển các
ngành sản xuất nông,, lâm thủy sản; phải xây dựng những mô hình KTTT
sản xuất hàng hóa lớn và đề cao trách nhiệm của bản thân những người nông
dân
Hai là, nhân tố con người:
Vai trò của nhân tố con người là điều đã được khẳng định – con người
thực sự trở thành nhân tố bao trùm và quyết định nhất của các nhân tố hợp
thành, qui định thành bại của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn
Với tư cách chủ thể trực tiếp thực hiện quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn, con người được xem xét ở đây phải đảm bảo những
yêu cầu toàn diện sau:
- Có nhận thức đúng đắn về vai trò và trách nhiệm với quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp và nông thôn
- Có tri thức và kỹ năng cần thiết tương xứng với yêu cầu áp dụng và
phát triển KHCN
- Xóa bỏ tư duy kiểu tiểu nông, có tư duy và phương pháp lao động
mới, gồm cả phương pháp tổ chức quá trình lao động và quá trình quản lý
đáp ứng yêu cầu phát triển theo hướng CNH, HĐH
- Có sức khỏe tốt, thích ứng với yêu cầu của sự phát triển
Ba là nhân tố thể chế:
Thể chế cần được xem xét đến như một mảng phạm trù rộng lớn, bao
gồm các luật lệ, chủ trương, chính sách, tổ chứ, quy chế, điều lệ, tập tục…
được qui định, qui ước thành văn bản để thực hiện phát triển kinh tế xã hội.
Thể chế phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là các hành vi tác động
qua lại giữa ba chủ thể: nhà nướ, dân cư và thị trường, trong đó nhà nước có
23