Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Giá trị thơ ca phạm nguyễn du qua tập thơ đoạn trường lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.72 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********

ĐẶNG THỊ HỒNG NHUNG

GIÁ TRỊ THƠ CA PHẠM NGUYỄN DU
QUA TẬP THƠ ĐOẠN TRƯỜNG LỤC

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********

ĐẶNG THỊ HỒNG NHUNG

GIÁ TRỊ THƠ CA PHẠM NGUYỄN DU
QUA TẬP THƠ ĐOẠN TRƯỜNG LỤC

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoá luận

TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG


HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô trong Khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ
văn học Việt Nam và đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS.
Nguyễn Thị Việt Hằng, đã giúp đỡ chỉ bảo tận tình và hướng dẫn em thực
hiện khoá luận này.Bước đầu nghiên cứu khoa học khoá luận chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô
và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Đặng Thị Hồng Nhung


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đề tài khoá luận dưới đây là kết quả nghiên cứu của
bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả nghiên
cứu không trùng với bất cứ tác giả nào. Nếu sai sót, em xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Đặng Thị Hồng Nhung



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 3
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 4
7. Đóng góp của khoá luận............................................................................ 4
8. Cấu trúc của khoá luận .............................................................................. 4
NỘI DUNG ....................................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................... 5
1.1. Tình hình lịch sử - xã hội thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX ................ 5
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.............................................................. 8
1.2.1.Cuộc đời ............................................................................................... 8
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Phạm Nguyễn Du .......................................... 9
1.2.3. Tập thơ Đoạn trường lục .................................................................. 11
Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ ĐOẠN TRƯỜNG
LỤC ................................................................................................................. 13
2.1. Tiếng khóc vợ bi ai, thống thiết của Phạm Nguyễn Du ....................... 13
2.2. Nỗi cô đơn trống vắng khi xa vợ của Phạm Nguyễn Du……………..25
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT CỦA ĐOẠN
TRƯỜNG LỤC ................................................................................................ 36
3.1. Thể loại................................................................................................. 36
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................ 39
3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật..................................................... 42



KẾT LUẬN ..................................................................................................... 47

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Không phải ngẫu nhiên PGS.TS Nguyễn Đăng Na trong Phần mởđầu Chương
1Khái quát văn học Việt Nam thời trung đạilại nhấn mạnh “Văn học trung đại
Việt Nam giữ vị trí cực kỳ quan trọng” [14,tr.9]. Thành tựu mà giai đoạn văn
học này đạt được vẫn luôn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam với những
đỉnh cao như Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Nôm của Hồ Xuân Hương,
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều…Với ý nghĩa như vậy nghiên
cứu văn học trung đại là một lựa chọn hấp dẫn.
Trong kho tàng văn học trung đại đồ sộ, bên cạnh những trước tác quen
thuộc được khai thác sâu rộng vẫn còn rất nhiều những giá trị chưa được phổ
biến rộng rãi. Phạm Nguyễn Du với Đoạntrường lục là một ví dụ. Đây là một
tập thơ đặc sắc bởi tác giả đã dành tất cả tâm huyết và tình cảm của mình viết
nên một tập thơ “khóc vợ” dày dặn và gợi lên nhiều cảm xúc mạnh mẽ trong
lòng người đọc, nhưng lại ít người biết đến và hiểu hết được giá trị đích thực
của tác phẩm. Bên cạnh đó xu hướng nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật
tuy không mới nhưng là nguyên tắc tối ưu để nắm bắt và hiểu rõ tác phẩm.
Nên từ việc tìm hiểu đề tài chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào bao
quát cả nội dung và nghệ thuật của tập thơ Đoạn trường lục.Đây là lí do thôi
thúc chúng tôi thực hiện đề tài khoá luận này. Với một tác phẩm vẫn còn xa lạ
thì đây sẽ là mảnh đất màu mỡ để khám phá và bổ sung thêm hứng thú cho
việc tìm tòi, nghiên cứu giống một chiếc cầu nối, một sự bổ sung cho văn học
Việt Nam nói chung và văn học trung đại Việt Nam nói riêng.
Mặt khác là một sinh viên khoa Ngữ Văn, ngành Văn học nghiên cứu sâu

về văn chương cũng như giảng dạy về văn học nên việc nắm bắt về văn học
trung đại là công việc quan trọng, nghiên cứu để bổ sung kiến thức cho riêng

1


mình. Chọn đề tài này người viết mong muốn được trình bày những vấn đề
khái quát về nội dung cũng như nghệ thuật của Đoạn trường lục để từ đó có
cách nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của tác phẩm.
Từ những lí do trên, cùng với tinh thần học hỏi, nghiên cứu khoa học tác
giả khoá luận chọn đề tài:“Giá trị thơ ca Phạm Nguyễn Du qua tập thơ Đoạn
trường lục”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Có thể nhận định rằng tài liệu đầu tiên quan tâm tới tác giả Phạm
Nguyễn Du là Nghệ An Kí bộ sách địa chí có tiếng ở Việt Nam do Hoàng giáp
Bùi Dương Lịch biên soạn đầu thế kỉ XIX, đây là bộ sách được biên soạn khá
công phu, phản ánh đầy đủ về lịch sử, núi sông, nhân vật, thơ văn của con
người ở trấn Nghệ An. Gồm hai quyển, quyển 1 gồm thiên chí và địa chí,
quyển 2 chỉ có một chương nhân chí viết về người ở trấn Nghệ An, phần văn
nhân viết về 150 nho sĩ ở trấn Nghệ An trong số đó có Phạm Nguyễn Du.
Tiếp đó là tài liệu Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp gồm hai
tập: tập I xuất bản lần 1 năm 1971, lần 2 năm 1984. Tập II xuất bản năm
1990, bộ thư mục này đã giới thiệu trên 300 tác giả Việt Nam với tiểu sử rõ
ràng và 470 bộ sách Hán Nôm được chọn lọc và phân tích kĩ lưỡng. Bộ sách
là nguồn tư liệu văn học, sử học có tiếng, trong tập một của bộ thư mục có
nghiên cứu về tác giả Phạm Nguyễn Du và các tác phẩm thơ ca.
Năm 1997, có một cuốn khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Từ Tâm
nhan đề là Đoạn trường lục– Phạm Nguyễn Du - khảo cứu và phiên dịch, ở
đây tác giả đã khảo cứu và phiên dịch tác phẩm của Phạm Nguyễn Du ra tiếng
việt.

Gần đây nhất là tậpĐoạn trường lục do Phan Văn Các dịch chú và giới
thiệu, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội năm 2001. Tập thơ đã giới thiệu về tác
gia và tác phẩm Hán Nôm. Bằng tình cảm chân thực sâu sắc, bằng cái nhìn

2


đầy tính nhân đạo và tài năng văn học Phạm Nguyễn Du đã có nhiều trước tác
chủ yếu đề cập đến các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn học, quân là tập thơ
đặc sắc của ông khóc người vợ trẻ là bà Nguyễn Thị Đoan Hương khi bà tạ
thế. Đoạn trường lục ghi chép nỗi đau xé lòng là tập thơ đặc sắc của Phạm
Nguyễn Du khóc người vợ trẻ của mình. Nội dung gồm 14 bài văn tế, 49 câu
đối phúng viếng và 34 bài thơ tả nỗi nhớ thương được sắp xếp theo trình tự
thời gian như một tập nhật kí đầy đau thương của tác giả.
Đây là một tác giả còn khá xa lạ nên những công trình nghiên cứu về
ông chưa được nhiều đó chính là lí do thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài
khoá luận này.
3. Mục đích nghiên cứu
Hoàn thành một cách khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ
Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về thời đại Phạm Nguyễn Du sống.
- Trình bày về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Phạm Nguyễn Du,
những yếu tố cơ bản khiến tác giả viết nên tác phẩm Đoạn trường lục.
- Tìm hiểu các khía cạnh về nội dung của tập thơ Đoạn trường lục.
-Tìm hiểu các khía cạnh về nghệ thuật của tập thơ Đoạn trường lục để
thấy được những thành công và hạn chế.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứucủa khoá luận là tập thơ Đoạntrường lục của
Phạm Nguyễn Du.Tác phẩm gồm có14 bài văn tế,49 câu đối và phúng viếng,

34 bài thơ tả cảnh.
Ở đây chúng tôi chọn văn bản do Phan Văn Các dịch chú và giới thiệu
Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 2001.
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là giá trị nội dung và nghệ thuật của
tập thơ Đoạn trường lục qua các tác phẩm thơ.

3


6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu văn học sử
Phương pháp liên ngành
Phương pháp so sánh
Thao tác thống kê, phân loại
7. Đóng góp của khoá luận
Thông qua triển khai đề tài khoá luận, đóng góp vào kho tư liệu một
nghiên cứu riêng, khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm
Đoạntrường lục của Phạm Nguyễn Du
8. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung của
khoá luận gồm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung
- Chương 2:Giá trị nội dung của tập thơ Đoạn trường lục
- Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật trong Đoạn trường lục

4


NỘI DUNG


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Tình hình lịch sử- xã hội thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX
Lịch sử xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX nổi bật với
hai đặc điểm lớnđó là sự khủng hoảng triền miên của chế độ phong kiến dẫn
tới việc thay đổi liên tiếp các triều đại và phong trào quật khởi của nhân dân
mà kết tinh là phong trào Tây Sơn.
Phạm Nguyễn Du sống trong bối cảnh lịch sử Việt Nam bước vào nửa
cuối thế kỉ XVIII, chiến tranh diễn ra liên miên, đầu tiên là nội chiến Đàng
Trong, Đàng Ngoài (1545-1592), rồi xung đột Trịnh- Nguyễn (1627- 1672)
tranh chấp chính quyền giữa vua Lê, chúa Trịnh thời Lê trung hưng. Nỗi đau
khổ đè nặng lên nhân dân,khi chế độ phong kiến đã đến giai đoạn khủng
hoảng trầm trọng, kinh tế suy sụp,nông nghiệp đình đốn nghiêm trọng bởi
những chính sách bóc lột thậm tệ phục vụ những cuộc chiến tranh giành
quyền đoạt lợi giữa các tập đoàn phong kiến và bởi thiên tai mất mùa xảy ra
liên tiếp khiến cho “…nhân dân bỏ cày cấy, trong làng xóm không còn nhà
nào có thóc gạo dự trữ…Dân lưu vong bồng bế dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy
đường, giá gạo tăng vọt, dân phần nhiều sống nhờ rau cỏ, đến nỗi ăn cả chuột,
rắn, người chết đói ngổn ngang, người sống không còn được một phần mườiLàng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn năm, ba hộ mà thôi”[21,tr1756]điều
này đã được ông thể hiện trong tập thơ Nam hành kí đắc tập của mình.
Công thương nghiệp bị kìm hãm nặng nề bởi chính sách ức thương và
chế độ thuế khoá quá mức tàn tệ “Vì trưng thu quá mức, vật lực cạn kiệt
không thể nộp nổi, đến nỗi người ta thành ra bần cùng mà phải bỏ nghề

5


nghiệp. Có người vì thuế sơn sống mà phải chặt cây sơn. Có người vì thuế vải
lụa mà phải phá khung cửi. Cũng có kẻ vì phải nộp gỗ cây mà phải bỏ rìu búa,

vì phải nộp cá tôm mà xé lưới chài, vì phải nộp mật đường mà không trồng
mía nữa, vì phải nộp bông chè mà bỏ hoang vườn tược. Làng xóm náo
động...”[5,tr266].
Nền chính trị thì lộ rõ khủng hoảng khi đất nước liên tiếp bị chia cắt
nặng nề. Ở Đàng ngoài, vua Lê thực tế chỉ còn là bù nhìn, không quyền hành
không thế lực. Quyền binh tập trung cả vào Chúa chuyên quyền độc đoán, các
đời Chúa thi nhau ăn chơi hưởng lạc, mưu toan hãm hại lẫn nhau hơn là lo trị
việc nước. Ở Đàng trong thì Chúa Nguyễn ra sức xây dựng chế độ chuyên chế
nhằm phục vụ mưu đồ cát cứ lâu dài.Những cung điện nguy nga lộng lẫy của
vua chúa đều xây dựng bằng mồ hôi, xương máu của nhân dân. Nạn mua
quan bán tước phổ biến ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, có tiền thì dẫu dốt
nát cũng có quan tước, phạm tội cũng được vô can, kỉ cương xiêu đổ, chuẩn
mực đạo đức rạn vỡ, không còn tam cường, ngũ thường, chỉ toàn cảnh tôi giết
vua, con hại cha, em phản anh vì ngai vàng châu báu và mạng sống ươn
hènThời đại Phạm Nguyễn Du là thời đại hết sức sôi động trong lịch sử dân
tộc các tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong
đang lên cơn sốt trầm trọng, ý thức hệ Nho giáo khủng hoảng sâu sắc. Trên
bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, khi chế độ phong kiến đến
giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Dưới tác động của các biến cố xã hội long
trời lở đất ấy tầng lớp nho sĩ phong kiến bị phân háo rõ rệt. Lý tưởng“tu tề trị
bình”bị khủng hoảng, hầu hết các nho sĩ có tài năng, đạo đức chân chính đều
bế tắc, trong tâm trạng mông lung, hoang mang như Lê Hữu Trác từng than:
Tìm đường về Hán chưa xong,
Sang Tần thì việc đã không nên rồi.
Bể hồ trôi giạt đôi nơi,
Cho người tráng trí ra người cuồng ngông

6



Một số người xa lánh cuộc đời, xa lánh công danh phú quý để“độc
thiện kì thân” hoặc lảng tránh chính trị, vùi đầu vào y nghiệp mong thiết thực
cứu nhân độ thế tiêu biểu như Lê Hữu Trác có người thì theo nhà Lê một lòng
trung thành khi nhà Lê mất luôn mang tâm sự hoài cổ như Nguyễn Hành bà
huyện Thanh Quan… có những người lại theo Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích…Lại có những người tuy chưa dứt khoát đứng hẳn về phía
nhân dân nhưng chính hiện thực xã hội đã giúp họ viết nên những tác phẩm có
sức tố cáo chế độ phong kiến, bằng tình cảm chân thực, sâu sắc bằng cái nhìn
đầy tính nhân đạo và bằng tài năng văn học của mình Phạm Nguyễn Du thuộc
số này.Đội ngũ tri thức nho sĩ đứng trước một lựa chọn riêng, một cách định
hướng cuộc đời riêng, nằm trong số đông theo sự an bài của số phận, Phạm
Nguyễn Du không mấy băn khoăn về sự khác biệt giữa vua Lê và chúa Trịnh
ông chỉ một lòng đèn sách, hăm hở lập công danh.
Văn học giai đoạn này đã phát triển theo hướng theo hướng dân tộc hoá
rõ rệt, đã bắt rễ vào những vấn đề thiết cốt trong cuộc sống đương đại như
chiến tranh phong kiến và tai hoạ của nó, sự thối nát của giai cấp thống trị và
cuộc sống cơ cực của nhân dân, thân phận người phụ nữ, tình yêu đôi lứa và
những ràng buộc khắc nghiệt của đạo đức phong kiến. Tố cáo những bất công
cơ bản của xã hội và thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống lầm
than của người lao động, khẳng định giá trị chân chính của con người, phê
phán những thế lực đen tối chà đạp lên con người, khát vọng chính đáng của
con người trên mọi lĩnh vực, nhất là tình cảm. Tuy nhiên văn học giai đoạn
này vẫn mang những hạn chế và tiêu cực bởi lẽ phản ánh và khái quát chưa
đầy đủ sự áp bức, bóc lột nặng nề của giai cấp phong kiến thống trị và nỗi đau
khổ cùng cực của nhân dân, những yêu cầu cơ bản của nhân dân về một cuộc
sống ấm no, tự do và công bằng. Tuy cũng có đề cập trong các tác phẩm
nhưng còn mờ nhạt thế giới quan của tác giả còn nhiều mâu thuẫn, có những

7



tác phẩm còn đầy tiếng thở than, thể hiện một tâm hồn uỷ mị, một thái độ sợ
hãi trước thực tại xã hội.
Phạm Nguyễn Du là một Nho sĩ sớm được triều đình trọng dụng, đồng
thời là một học giả có công phu nghiên cứu Nho học, đặc biệt là Tống Nho
Phạm Nguyễn Du đã thấm nhuần sâu sắc những tín điều cơ bản của Nho Giáo.
Tư tưởng tôn quân đã chi phối cả quãng đời làm quan và trước tác của ông
khiến ông không thấy hết được hiện thực lớn lao trong thời đại mà ông đang
sống đó là sự thối nát suy vong của giai cấp phong kiến nói chung và ý nghĩa
xã hội cùng sứ mệnh lịch sử của phong trào nông dân khởi nghĩa. Trước tác của
ông đề cao nhà Lê, ca ngợi chính sự Đàng ngoài, phê phán chỉ trích chúa
Nguyễn và chính sự Đàng trong. Ông thương cảm luyến tiếc khi triều đại Lê
Trịnh bị ngọn triều vĩ đại của phong trào Tây Sơn nhấn chìm, ông không công
nhận nhà Tây Sơn. Tuy nhiên không vì thế mà phủ nhận mặt tích cực trong
sáng tác của ông. Phạm Nguyễn Du vẫn trung thành với dòng chính thống nhà
Lê, song những biến chuyển dồn dập của xã hội đã lôi cuốn ông phần nào thoát
ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của tư tưởng giai cấp xuất thân khi sáng tác đã giúp
ông phản ánh thực tại một cách trung thực và khách quan hơn.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.2.1.Cuộc đời
Phạm Nguyễn Du sinh năm 1739, mất vào khoảng năm 1786-1787
nguyên tên là Phạm Vĩ Khiêm, tự là Hiếu Đức và Dưỡng Hiên, tên hiệu là
Thạch Động. Ông là người làng Đặng Điền, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An
(nay là xã Nghi Thạch, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An).
Tổ tiên ông vốn họ Mạc, quê gốc ở Hải Dương chạy loạn vào Nghệ An
sau thay tên đổi họ theo dòng họ Phạm. Lớn lên trong một gia đình nho học
cha ông thi Hương không đậu trở về sống thanh bần, hiền lành, trung hậu, hoà
thuận với mọi người ở quê nhà. Mẹ ông người họ Nguyễn là người phụ nữ rất

8



cần cù, tiết kiệm, mến khách là người con dâu hiếu thảo, được lớn lên trong
bầu không khí gia đình ấm cúng và nề nếp là điều kiện tốt cho Phạm Nguyễn
Du sớm phát triển đầy đủ tài năng tính cách của mình.
Về bản thân Phạm Nguyễn Du ông là người học giỏi, có tiếng hay chữ
từ thuở trẻ.
+ Năm 1773, ông dự thi Hương, đỗ Giải Nguyên được Triều Đình Lê
Trịnh tuyển dụng vào chức Nhật giảng, sau đó bổ chức Huyện tự văn lang
Thiêm phó tiến triều cai đạo.
+ Năm 1779 ông thi đỗ Hoàng giáp khoa Kỉ hợi, được thăng chức
Thiêm sai tri Hình Phiên, Hàn lâm viện hiệu thảo kiêm Quốc sử toản du và
làm Đốc đồng Nghệ An.
Khoảng năm 1786 -1787, nghe tin quân Tây Sơn đã chiếm được thành
Phú Xuân, ông chạy lên vùng Thanh chương- Nam Đàn định chiêu mộ quân
sĩ để chống lại Tây Sơn, việc chưa thành thì ông bị bệnh và mất tại đó.
Có thể hậu thế không hoàn toàn tán thành cách ứng xử của Phạm
Nguyễn Du nhất là kết cục bi kịch của đời ông nhưng những gì Phạm Nguyễn
Du đã để lại trong các tác phẩm Nam hành kí đắc tập và Đoạn trường lục mãi
luôn được sự đón nhận và ủng hộ của độc giả.
Hiện nay Phạm Nguyễn Du được ghi nhận là danh nhân của tỉnh Nghệ
An và được xếp trong danh sách các tác gia Việt Nam. Nhà thờ và mộ ông
cũng đã được ghi nhận là Di tích lịch sử- văn hoá cấp quốc gia.
1.2.2.Sự nghiệp sáng tác của Phạm Nguyễn Du
Tuy có cuộc đời khá ngắn ngủi nhưng Phạm Nguyễn Du đã để lại cho
hậu thế số lượng tác phẩm không hề nhỏ, đề cập tới nhiều lĩnh vực như chính
trị, kinh tế, văn học, quân sự, xã hội, lịch sử. Để làm sáng tỏ đạo lí trong nền
học vấn Nho Gia ông soạn Luận ngữ ngu án, viết các bài tựa Tiên, Trung Hậu
cho sách Luận ngữ, chia nội dung sách thành bốn mục: Thánh, Học,Sĩ, Chính,
có ngọn ngành rõ ràng và sau mỗi đề mục đều có lời bàn của ông.


9


Sáng tác của ông nhất là thơ, chứa đựng một cái nhìn hiện thực và nhân
văn khá rõ nét, thơ ông còn phản ánh tâm trạng hoang mang, bế tắc của một
nho sĩ phong kiến trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII. Ông có tới
hơn 700 bài, ông chủ yếu sáng tác bằng chữ Hán, các tập thơ tiêu biểu:
+ Đoạn trường lục: là tập thơ khóc vợ được Phạm Nguyễn Du làm từ
khi đưa linh cữu vợ xuống thuyền về quê cho đến khi trở lại Thăng Long các
bài thơ có lời lẽ chân thực, thống thiết, đi vào chuyện riêng tư, tình cảm vợ
chồng, nỗi nhớ thương, đánh dấu bước phát triển của thơ trữ tình Việt Nam.
+ Nam hành kí đắc tập: Gồm các bài thơ do ông làm và sưu tầm. Phần
thơ do ông làm khi vào ở Thuận Hoá, đều là những bài phản ánh tình cảnh
cùng cực nhân dân ở Đàng Trong thời chúa Nguyễn, vạch trần những chuyện
thối nát, bất công trong xã hội lúc bấy giờ, vì thế ông được xem là nhà thơ
hiện thực nổi tiếng ở thế kỉ XVIII. Phần thơ do ông sưu tầm giới thiệu các
sáng tác của Nguyễn Cư Trinh, Mạc Thiên Tứ, Ngô Thế Lân, Trần Thuỵ
Phạm Lam Anh…
+ Độc sử si tưởng: là tập thơ vịnh sử, gồm 164 bài, vịnh 150 nhân vật
lịch sử Trung Quốc từ vua chúa, công khanh, trung thần, nghĩa sĩ đến bọn
gian nịnh.
+ Thạch động văn sao: gồm 191 bài văn của Phạm Nguyễn Du, văn tế
(tế Chu Công, tế thần, cầu mưa), kí lục (sự tích và lai lịch họ Phạm), thư tín
(trao đổi với Phạm Lập Trai, Ngọ Phong công, Trần Danh Án), khải (xin mộ
thuỷ thủ, xin đóng thuyền canh phòng bờ biển), tựa, bạt, văn bia, bàn về kinh
nghĩa…
+ Thạch động thi saovà Thạch Động tiên sinh thi tập gồm trên 400 bài
thơ vịnh cảnh núi sông, di tích lịch sử, danh thắng đền chùa, miếu mạo –
mừng tặng, thù tạc với bạn bè…

Nhìn chung các tác phẩm của Phạm Nguyễn Du, nhất là thơ được người
đương thời và người đời sau đánh giá cao nhưng bản thân ông vẫn rất khiêm

10


nhường khi nói về thơ mình“Thơ phải đâu dễ nói. Tôi làm bạn với Ninh Hi
Chi đến nay đã mấy chục năm rồi, mỗi lần xách bầu vung bút, ngâm vịnh hào
hứng, góp dần thành tập, hay hoặc dở là điều mà tôi và Ninh chưa thể tự tin,
nên chưa dán đem thơ ra vấn thế”[4,tr152].
Theo ông“thơ xuất phát ở tình, tình là sự ham muốn của tính. Sự ham
muốn của tính không thể có hai dạng thiên lệch và đúng đắn…Đạo đức có
chứa chất ở bên trong thì mới tràn đầy ra bên ngoài, biểu hiện ra ngôn ngữ
ngâm nga, tự nhiên hợp thanh luật nên ý thức sâu xa. Thưởng thức nó đủ
hưng khởi những ý nghĩ tốt đẹp, gột sạch những ý nghĩ xấu xa”[4,tr152].Vì
vậy ông làm thơ là nhằm giữ cho tính của mình được “đúng đắn” chứ không
phải là để “ngâm vịnh than vãn”, đem cái khó của nghề để cầu tiếng với
thời”[4,tr152]. Thơ ông đã thể hiện cụ thể, sinh động quan niệm đó.
Thơ văn của ông được tuyển chọn vào các thi văn tập như Hoàng Việt
văn tuyển, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích. Ngoài ra ông còn viết một
số thư,trát, văn tế, bài nghị luận, cùng với Ngô Thì Sĩ, Ninh Tốn biên soạn
sách Đại Việt sử kí tục biên.
1.2.3.Tập thơ Đoạn trường lục
Tập thơ Đoạn trường lục được sáng tác trong khoảng thời gian hơn một
tháng kể từ ngày đưa linh cữu người vợ trẻ xuống thuyền về quê như lời trăng
trối của nàng,cho đến khi trở lại kinh đô.Vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh
Hưng (1772) khi ông đang làm quan ở Bộ Lại ở xa, nghe tin vợ mất giờ Dậu
ngày 9 tháng 3 tại Hữu Pha đường.Vợ ông là bà Nguyễn Thị Đoan Hương,
người làng Đông Hải, cùng huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An (nay là huyện
Nghi Lộc, tỉnh nghệ An) là chị ruột của danh sĩ Nguyễn Hữu Chỉnh bà là một

người phụ nữ tài sắc. Làm vợ Phạm Nguyễn Du từ năm mười sáu tuổi sinh
sáu bận nuôi được hai con, đến hai mươi chín tuổi thì mất. Cái chết quá trẻ
của nàng đã gây nên nỗi đau thương lớn cho những người thân, đặc biệt là
Phạm Nguyễn Du.

11


Văn bản Đoạn trường lục hiện còn tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm mang kí hiệu A.2826 là một tập sách viết tay bằng bút lông trên giấy
bản gồm 86 trang, có nhiều chỗ đã rách nát nên rất khó đọc.
Căn cứ vào tiêu đề ghi ở đầu sách “Chân Phúc huyện Đặng Điền xã
Phạm Hoàng giáp quan Đoạn trường lục” sau một lời chú “Hoàng giáp quan,
đương thời thiên hạ chi danh sĩ”, có thể thấy văn bản do một người khác chép
lại.
Đoạn trường lục là một tiếng khóc lạ trên thi đàn Văn học Việt Nam
trung đại. Đó không phải là một tiếng khóc thường mà là tiếng kêu đứt ruột,
những dòng lệ tuôn trào vì sự đau đớn, mất mát quá sức chịu đựng.Nó đặc sắc
ở chỗ nó là một tập thơ gồm nhiều thể loại, 14 bài văn tế, 49 câu đối cúng và
phúng viếng, 34 bài thơ tả nỗi nhớ thương được sắp xếp theo trật tự khác nhau
làm nên một tập nhật kí đau thương. Thể loại nào cũng có cái hay và thành
công riêng. Tập thơ được bắt đầu từ ngày rằm tháng Ba với bài Vọng chúc
văn(Văn cúng rằm) ở Thăng Long và kết thúc với bài Thành phần văn (Bài
văn đắp xong mộ) ở quê nhà ngày 28 tháng Năm.
Không chỉ vậy tập thơ còn như một tập nhật kí ghi chép lại những câu
chuyện, những dòng tâm sự,cảm xúchay để bày tỏ nỗi lòng của người chồng
trẻ trên suốt đường đưa linh cữu vợ về quê nhà. Là tiếng khóc bi ai thống
thiết, đau thương xót xa của người thân, là tình cảm chân thành của người
chồng dành cho người vợ tài sắc đảm đang, là sự trân trọng nâng niu biết ơn
những công sức người vợ đã gây dựng, hi sinh. Là nỗi niềm cô đơn hiu quạnh

trong những tháng ngày tiếp theo không có vợ, là tình nghĩa vợ chồng trước
sau như một và là một điều hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, hơn
nữa đây được coi là tác phẩm đánh dấu cho bước phát triển của thơ trữ tình
Việt Nam.

12


Chương 2
GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ ĐOẠN TRƯỜNG LỤC

2.1. Tiếng khóc vợ bi ai, thống thiết của Phạm Nguyễn Du
Viết về vợ không phải là hiện tượng lạ trong Văn học trung đại Việt
Nam, hầu hết các tác giả nổi bật của giai đoạn văn học này đều có những
dòng thơ, bài thơ, thậm chí cả một tập thơ bày tỏ tình cảm dành cho người bạn
đời của mình. Có thể điểm qua một số tác giả như Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát,Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Theo đó, Phạm Nguyễn Du
không phải hiện tượng lạ, có chăng là tiếng lòng của ông thể hiện trong tập
thơ có những sắc thái riêng đưa đến xúc động mạnh mẽ trong lòng độc giả.
Một trong những sắc thái cảm xúc đó chính là nỗi lòng bi ai, thống thiết khi
ông khóc vợ.
Như đã nói ở trên, vợ Phạm Nguyễn Du lấy ông từ năm 16 tuổi, bà đã
cùng ông vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, đến khi ông
thành danh thì người vợ tao khang ấy lại vội ra đi. Cảm xúc của người đàn
ông chưa kịp làm gì đền đáp tấm chân tình, sự hi sinh của vợ trở thành tiếng
nấc nghẹn, cứ mỗi lúc một dồn nén, dồn nén để rồi bật thành tiếng thơ ai oán
bi thương. Trong nỗi ai oán, bi thương ấy là các cung bậc cảm xúc nửa như
quá tỉnh táo để nhận biết sự thật đau lòng rằng cái chết đã chia lìa đôi lứa, nửa
như điên dại, đớn đau:
Ta ngã hoà nương nhị nhất nhân,

Như hà tương hợp cự tương phân?
Nương huề nhất bán thanh hương khứ,
Lưu ngã si cuồng nhất bán thân.
(Đề minh tinh hậu diện nhất tuyệt)

13


(Ôi, ta với nàng là một người,
Cớ sao vừa hợp lại đã vội phân chia?
Nàng mang đi một nửa thơm tho trong trẻo,
Để lại ta một nửa si dại điên cuồng).
Yêu vợ đến mức coi vợ với mình là một, nhớ thương vợ trong những
khoảnh khắc trong trẻo nhất để rồi si dại, điên cuồng, để rồi chỉ thấy đời rặt
một niềm đau. Trong câu đối khóc vợ ông viết:
Vị tri tử giả lạc, đãn kiến sinh giả bi,
Do kí hợp thời nan, bất thị li thời dị.
(Chẳng hay người chết yên lạc, chỉ thấy người sống rặt niềm đau,
Còn nhớ khi hợp khó khăn, phải đâu khi li là chuyện dễ).
Đau đớn, tiếc nuối vì những ngày tháng còn sống đã khó gặp nhau nói
chi giờ đây chia li lại càng khó.Ngô Thì Sĩ một tác giả cùng thời với Phạm
Nguyễn Du cũng từng viết tập thơ Khuê ai lụckhóc người vợ chết trẻ qua đời
(29 tuổi) trong lúc sinh nở mà ông vì bận việc quan không về kịp,bài thơ Chu
trung độc tạ hữuhoài(Ngồi một mình trong thuyền tưởng nhớ I)cũng cất lên
câu hỏi thống thiết, cũng tiều tuỵ vì nhớ thương:
Bất thức sản linh thuỳ cố phủ,
Hình thần tiều tuỵ vị tư khanh.
(Chẳng biết linh hồn nàng có đoái tưởng đến ta chăng
Ta thì hình thần tiều tuỵ chỉ vì nhớ nàng)
Có yêu thì mới có nhớ, nhớ vợ mà chẳng thể gặp chỉ có thể xem mặt

con gái, vì con gái giống mẹ, con gái là những gì còn lại của vợ trên cõi đời
nên càng xem lại càng đau lòng, càng khó tin vào sự thật, nhớ thương vợ bằng
cả tấm lòng,cả tấm chân tình nhưng bất lực:
Nương bất khả cầu, khan nữ diện, đãn khan nữ diện dũ trường toan
Thiên chân nan tín, tận ngô tâm, dục tận ngô tâm hiềm lực bạc

14


(Chẳng thể tìm nàng, chỉ xem mặt con gái, xem mặt con gái những
đau lòng
Thật khó tin trời, dốc hết tấm lòng ta, hết tấm lòng ta hiềm đuối sức)
Yêu quý vợ, trân trọng vợ đến mức coi vợ như viên ngọc quý mà mình
có được. Để rồi phải bật khóc luyến tiếc khi bị tạo hoá cướp đi mất, nỗi ấm ức
đau xót mà chẳng thốt nên lời, điều này cũng được thể hiện qua câu đối:
Chưởng thượng trân châu bị Đại Tạo đoạt chi, thành khả khốc
Hung trung cẩm tú vi hiền khanh loạn hĩ, bất kham ngôn.
(Viên ngọc quý trên tay bị tạo hoá cướp đi, thật đáng khóc,
Câu gấm thêu trong dạ, vì hiền khanh mà rối, chẳng nên lời).
Trong tiếng khóc đó còn hằn sâu muôn ngàn nỗi sầu bi, nỗi buồn nơi
đất khách không ai thấu hiểu lại thêm sầu muộn trước miệng lưỡi thế gian reo
rắt:
Tha hương bất dục cao thanh khốc
Muộn tứ nhưng phùng tục khẩu huyên
(Sơ ngũ nhật trị Đoan Ngọ tiết, tể sinh vi lễ, nhân
thành tam luật)
(Ở nơi đất khách chẳng muốn to tiếng khóc
Dạ sầu vẫn gặp phải những cái miệng trần tục quen ầm ĩ).
Suốt hơn một tháng trời hành trình nỗi sầu luôn bủa vây, như trên là nỗi
sầu đời do con người tác động thì đây là sầu tình, ngay trong tâm can “cửu

khúc sầu”(chín khúc ruột sầu) lòng sầu của kẻ si tình mà lay động cả thiên
nhiên vô tri, trong bài Châu tại kinh tiêu đãi ngã triều ngẫu thành.Ngay cả
thiên nhiên tươi đẹp chiều lòng người cũng không giải được nỗi sầu, sông núi
dẫu rộng lớn mênh mông cũng không thể lấp đi sầu hận, hận đất trời dè sẻn
niềm vui:

15


Giang sơn bất khả mai sầu hận,
Thiên địa hà như kiệm lạc ngu.
(Sơ ngũ nhật trị đoan ngọ tiết, tể sinh vi lễ, nhânthành
tam luật)
(Sông núi không thể chôn lấp được sầu hận,
Đất trời sao lại dè sẻn những niềm vui)
Để át đi sầu muộn ông phải tìm đến rượu, nhưng rượu cạn mà tâm sự vẫn
đầy. Dùng rượu giải quyết nỗi sầu khó ngủ,để thoả ước nguyện của ông mong
gặp được vợ trong mơ nhưngrồi cũng khó thành:
Dục tương tửu áp lại sầu cường.
Trú mộng yêm yêm vị kiến nương.
(Sơ cửu nhật ngộ vũ)
(Muốn đem hơi rượu để át đi nỗi sầu mạnh
Trong giấc mơ ban ngày mê mệt, chưa gặp được nàng).
Những tâm sự, muộn phiền giờ đây chỉ còn biết gửi gắm vào thơ, dùng
thơ làm bức tường thành chống đỡ, chống chọi lại thời gian và nỗi nhớ.Các
cung bậc cảm xúc thay đổi liên hồi, cũng có khi ông nhớ lại những kỉ niệm
vui lúc còn bên vợ, niềm vui của người chồng là mỗi khi ngắm vợ cười nói,
nấu nướng, thêu thùa, không chỉ lúc mất đi mới thấy yêu thấy nhớ mà từ trước
đến nay luôn đong đầy, trong Tịnh hữu vãn thi tam tuyệtông có nhắc tới:
Nương tử bình sinh quả ngôn tiếu

Ngôn tiếu tằng năng giải ngã phiền
(I)
(Bình sinh nàng vốn ít nói cười,
Nhưng giọng nói, tiếng cười của nàng từng giải toả được nỗi ưu
phiền của ta).

16


Nương tử bình sinh xảo châm tuyến,
Châm tuyến tằng năng xứng ngã tâm.
(II)
(Bình sinh nàng vốn giỏi thêu thùa vá may,
Đường kim mũi chỉ từng làm vui lòng ta).
Nương tử bình sinh thiện cam chỉ
Cam chỉ tằng năng sử ngã ham.
(III)
(Bình sinh nàng vốn khéo tay nấu nướng,
Miếng ngọt miếng bùi từng làm ta ham thích).
Ông may mắn khi có một người vợ vừa yêu thương gia đình, vừa giỏi
việc nữ công gia chánh, bà là hiện thân của tứ đức công dung ngôn hạnh, công
coi vợ như nguồn sống của đời mình, không chỉ yêu thương ông còn hết lời ca
ngợi vợ từ giọng nói, tiếng cười của vợ như liều thuốc tinh thần tiêu tan mọi
sầu ưuđến những đường kim mũi chỉ, đến những món ăn vợ làm ông đều ham
thích say mê. Nghĩ đến những kỉ niệm vui trong lòng bỗng chộn rộn lên
nhưng nó chỉ le lói trong giây lát, ông lại nhanh chóng nhận ra sự thật đau đớn
không còn vợ nữa, mọi thứ cũng không còn tồn tại chỉ là kí ức xưa:
Nhất biệt mang mang hà xứ thị
Như kim bất chỉ diệc vô cam
(Từ phen xa cách mịt mù [nàng] ở nơi đâu

Mà nay chẳng có miếng ngọt cũng chẳng có miếng bùi).
Những kí ức đẹp trong quá khứ giờ trở thành nỗi buồn của hiện tại và
tương lai khi thiếu vắng bóng dáng vợ trên cõi đời, mất vợ là mất đi người
bầu bạn sớm khuya, không còn người chăm lo cho từng miếng cơm, manh áo,
chi phối và điều hoà hết mọi mặt trong cuộc sống, hình ảnh người chồng bỗng
nhiên trở nên nhỏ bé, đáng thương hơn bao giờ hết. Để rồi lại hụt hẫng bâng

17


khuâng khi nhớ lại quãng thời gian vợ chồng từng chung sống, được thể hiện
trên những con số cụ thể, mười ba năm không phải là con số quá lớn nhưng
tấm ân tình mà người vợ để lại quá nhiều, bao nhiêu cảm xúc, tâm sự rối bời
cứ trở đi trở lại, nhớ vợ đến nỗi một tỉnh mười mơ để rồi chỉ biết than trách
duyên phận, và bản thân qua câu đối:
Tâm sự loạn như ti, tằng mộng lí kiến nương, vị cập tố thời tiên
đả tỉnh;
Nhân duyên khinh tự diệp, khách khởi trung ngộ nhĩ, bất năng
mưu xứ toại thành không.
(Tâm sự rối bằng tơ, từng thấy nàng trong mơ,chưa kịp đôi hồi đà
tỉnh giấc
Nhân duyên nhẹ như lá, há hại nàng đất khách,chẳng hay bàn bạc
bỗng thành không).
Duyên trần ngắn ngủi đến duyên mộng cũng bị cấm ngăn, mối tâm sự
rối bằng tơ không người gỡ bỏ gặp vợ trong mơ chưa kịp giãi bày đã đà tỉnh
giấc. Tinh thần lúc nào cũng mụ mị nhưng dung mạo vợ vẫn luôn rõ ràng
trong tâm trí, nhớ thương vợ đến nỗi khi xa rồi bên gối cũ vẫn bất giác gọi tên
vợ.
Cảm xúc đau đớn đến tột cùng là khi nhớ lại lời hẹn ước cùng chung
một huyệt, nên giờ đây không thể cam lòng trước giây phút chia ly cách biệt

nàyxót xa đến mức phải thốt lên tiếng lòng:
Khanh quy sử ngã tứ hà kham
Hà cố thuyền quyên bạc hảo nam.
(Thần phù tạm trú thư hoài)
(Nàng về khiến lòng ta không sao chịu nổi
Cơ sao thuyền quyên lại bạc tình với trang nam nhi?).
Dẫu một trang nam nhi đối diện với nhiều sóng gió cuộc đời nhưng
trước nỗi đau mất mát quá lớn này cũng không thể chịu đựng, bởi lẽ mối

18


lương duyên này là tình cảm chân thành từ cả hai, là tình nghĩa vợ chồng
trước sau như một để rồi thương vợ đến mức nguyện đổi phận vợ chồng nếu
phận vợ phải ra đi trước để chết thay vợ, với người chồng việc giờ đây phải
đối diện với nó còn đau khổ gấp bội.
Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên nếu một người đàn ông khóc vợ trong thời
đại một vợ một chồng, điều đáng nói là Phạm Nguyễn Du sống ở giai đoạn
mà đàn ông có quyền “năm thê bẩy thiếp”, tình cảm với người vợ tao khang
chưa chắc là duy nhất, có thể kể đến Ngô Thì Sĩ người đã có tập thơ riêng
dành cho người vợ tao khang nhưng bà cũng không phải là người vợ duy nhất
của ông hay Nguyễn Công Trứmột người đàn ông đa tình, đến ngoài bẩy
mươi tuổi ông vẫn cưới vợ:
Bảy chục về hưu còn ở trọ
Tám tuần goá vợluống trở già!
Còn với riêng Phạm Nguyễn Du được xếp vào số những người đàn ông
hiếm hoi trong xã hội lúc bấy giờ khi chung thuỷ một vợ, một chồng, điều đó
càng chứng tỏ tình yêu, tình cảm của ông dành cho vợ to lớn đến nhường nào
những dòng thơ đều chan chứa tình cảm.Khóc thương người vợ tao khangcủa
mình phải chịu đựng nhiều vất vả hi sinh đáng lẽ đến ngày chồngđỗ đạt thì

phải “võng anh đi trước, võng nàng theo sau” phải được cùng chồng hưởng
thụ sung túc vinh hoa, nhưng vội ra đi để rồi người chồng chỉ còn biết trách
cứ số phận:
Nhất kỉ khuông cùng cấp hoá thân.
Vị tử phu năng thư bản truyện,
Bất tri khách diệc tích giai nhân.
Thử sinh nhân trái ta hà cập,
(Tịnh hữu vãn thi nhất thủ)
(Một kỉ giúp ta trong cảnh nghèo, nay vội hoá thân

19


×