Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.03 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI SAU 1985

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI SAU 1985

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học

TS. LA NGUYỆT ANH

HÀ NỘI - 2017



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô giáo trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, các Thầy Cô giáo khoa Ngữ văn và các Thầy Cô giáo trong tổ Văn
học Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường và tạo
điều kiện cho tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Cô giáo, TS.La Nguyệt
Anh-Người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành khóa luận với đề tài: “NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN KHẢI SAU 1985”.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi gặp không ít khó khăn và hạn chế về
mặt tài liệu, kinh nghiệm, kinh tế... nên đề tài chưa được như ý muốn của
người thực hiện. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy Cô
giáo và toàn thể các bạn đọc quan tâm để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “NHÂN VẬT NỮ
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI SAU 1985” hoàn thành dưới sự
hướng dẫn của TS.La Nguyệt Anh là công trình nghiên cứu riêng của tôi, đề
tài không trùng lặp với bất cứ một công trình khoa học nào khác. Đề tài được
thực hiện tại khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2017
Sinh viên


Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC
_Toc481151279

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 4
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4
6. Đóng góp của khóa luận.......................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận .................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG ........................................................ 6
1.1. Khái niệm và cách phân loại nhân vật văn học .......................................... 6
1.1.1. Khái niệm nhân vật ........................................................................... 6
1.1.2. Cách phân loại nhân vật văn học ..................................................... 7
1.1.2.1. Nhân vật chính, nhân vật phụ .................................................. 7
1.1.2.2. Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện ............................. 8
1.1.2.3. Nhân vật nữ .............................................................................. 9
1.2. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Khải.......................... 11
1.2.1. Khái quát cuộc đời .......................................................................... 11
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác .......................................................................... 13
1.2.2.1. Giai đoạn trước năm 1978 ..................................................... 14
1.2.2.2. Giai đoạn sau năm 1978......................................................... 15
1.2.2.3. Khảo sát những truyện ngắn sau 1985 của Nguyễn Khải...... 16
CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI SAU 1985 .......................................................................... 19

2.1. Cách lựa chọn và thể hiện nhân vật nữ của Nguyễn Khải ....................... 19
2.1.1. Phẩm chất của nhân vật nữ ............................................................. 20


2.1.2. Nhân vật nữ với những khát vọng hằng thường ............................. 27
2.2. Nhân vật nữ trong các mối quan hệ ......................................................... 30
2.2.1. Nhân vật nữ trong mối quan hệ gia đình........................................ 31
2.2.2. Nhân vật nữ trong mối quan hệ xã hội............................................ 34
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI SAU 1985 ........................................... 37
3.1. Ngôn ngữ .................................................................................................. 37
3.1.1. Ngôn ngữ nhân vật .......................................................................... 37
3.1.2. Ngôn ngữ người kể chuyện ............................................................. 40
3.2. Giọng điệu ................................................................................................ 42
3.2.1. Giọng điệu xót xa, cảm thông chia sẻ ............................................. 43
3.2.2. Giọng điệu hài hước, hóm hỉnh ...................................................... 44
KẾT LUẬN .................................................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nhà văn nổi tiếng với lí thuyết tình thương V.Huygo đã nói rằng:
“Người phụ nữ cảm và nói theo trực giác của con tim nên chẳng bao giờ sai
lầm. Không ai biết nói những lời sâu sắc và êm ái cho bằng người phụ nữ.
Êm ái và sâu sắc, đó chính là con người họ”. Nhân vật nữ là hình tượng nhân
vật văn học nhận được nhiều sự quan tâm của người nghệ sĩ từ cổ chí kim. Ở
mỗi thời kì người phụ nữ được nhìn nhận, đánh giá dưới những góc độ khác
nhau. Viết về nhân vật nữ chính là đi sâu vào tìm hiểu về con người họ, ở họ
có cả những cái đẹp, cái chưa đẹp và còn có cả nhưng cái cao cả nhưng cũng

rất đỗi đời thường.
Sau 1985 cùng với sự mở rộng đề tài trong văn học, phụ nữ trở thành
đề tài thu hút sự chú ý của người nghệ sĩ. Nhân vật nữ được khám phá ở nhiều
chiều khác nhau đó là hình ảnh người phụ nữ giữa bộn bề lo toan cuộc sống,
là khát vọng được yêu thương trọn vẹn, là hành trình tìm kiếm hạnh phúc đời
thường... Mỗi người có một số phận riêng, hoàn cảnh riêng, không ai giống ai.
Qua mỗi trang viết, mỗi thân phận là bức thông điệp thú vị về cuộc sống dù
có đau đớn, mất mát nhưng vẫn thấm đẫm chất nhân văn. Trong văn học Việt
Nam đề tài về người phụ nữ là một mảng đề tài lớn đã thu hút rất nhiều tác
giả văn học quan tâm trong đó phải kể đến Nguyễn Khải - một trong những
cây bút tiêu biểu của dòng văn học Việt Nam hiện đại.
Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải, chúng tôi nhận thấy đề tài viết về
nhân vật nữ xuất hiện khá nhiều trong các sáng tác của ông, đặc biệt là ở các
sáng tác sau năm 1985. Nếu như ở truyện ngắn giai đoạn trước, nhân vật của
ông hầu hết là trẻ tuổi, tự tin khẳng định tương lai của mình thì đến giai đoạn
này, ông viết nhiều về những người lớn tuổi, những người thất bại “lạc thời”,
đơn độc: một người mẹ cả đời hi sinh vì con cái, lúc tuổi già phải sống vạ vật

1


vỉa hè để con không bị “mất thể diện” trước bạn bè (Mẹ và các con), một
người vợ sống như nô lệ bên ông chồng gia trưởng ích kỉ và thực chất vô tích
sự mà lúc nào cũng mang mặc cảm mình không xứng đáng với chồng (Đời
khổ)... Như vậy, cùng với quan niệm sống, kinh nghiệm thẩm mĩ của nhà văn
cũng có nhiều sự thay đổi. Nguyễn Khải đo cái đẹp bằng nhãn quan văn hóa
mà tiêu biểu là cái đẹp nữ tính (Mẹ và con, Người vợ, Đời khổ, Một người Hà
Nội...). Từ góc độ văn hóa, ông đặt ra những vấn đề rất có ý nghĩa như nhu
cầu hạnh phúc của người già (Nắng chiều), sự công bằng đối với con trẻ
(Người vợ)...

Nghiên cứu đề tài“Nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau
1985” giúp chúng tôi nhận thức rõ hơn về hình ảnh của người phụ nữ Việt
Nam nói chung và người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Khải từ sau 1985
nói riêng. Đề tài này sẽ là nguồn tư liệu phục vụ cho việc học tập và giảng
dạy sau này.
Với tất cả những lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Nhân vật nữ trong
truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1985” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
Chúng tôi hi vọng rằng đây sẽ là một tài liệu bổ ích giúp bạn đọc có nhu cầu
tìm hiểu về thế giới nhân vật nữ vô cùng phong phú và hấp dẫn trong truyện
ngắn Nguyễn Khải sau 1985. Đồng thời, giúp cho độc giả cũng như bản thân
người thực hiện đề tài thêm lòng kính yêu, quý trọng những tinh hoa nghệ
thuật của Nguyễn Khải cũng từ đó giúp cho việc học tập và nghiên cứu về
Nguyễn Khải được dễ dàng hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Là cây bút đều đặn, miệt mài và thành công hơn cả ở thể loại truyện
ngắn, Nguyễn Khải và các tác phẩm của ông đã thu hút được sự chú ý của
giới nghiên cứu, phê bình. Nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Khải nói
chung và truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1985 đã có rất nhiều công trình, bài
viết như:

2


Tác giả Bích Thu trong bài viết Giọng điệu trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Khải những năm 80 đến nay trên Tạp chí Văn học số 10, 1997
đã nêu khái quát những vấn đề có liên quan đến giọng điệu trong các sáng tác
của Nguyễn Khải sau 1985.
Tác giả Nguyễn Văn Long với Nguyễn Khải và sự đổi mới quan niệm
về con nguời trong Một nguời Hà Nội đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội đã
chỉ ra những chuyển biến ngày càng mạnh mẽ triệt để trong tư tưởng và nghệ

thuật của Nguyễn Khải. Bên cạnh đó, tác giả cũng có những khái quát về
nhân vật nữ, đó là những nhân vật có cá tính, thông minh, sắc sảo nhưng lại
rất khéo léo [6].
Tác giả Đào Thủy Nguyên trong bài viết Thế giới nhân vật Nguyễn
Khải trong cảm hứng nghiên cứu phân tích đã đưa ra nhận xét: Những người
phụ nữ trong Người vợ, Chút phấn ở đời, Nếp nhà, Một người Hà Nội… đều
là những con người biết giữ gìn phẩm giá và nhân cách bằng chính nghị lực
và lòng tự trọng của mình. Lí trí luôn là những người bạn đường dẫn dắt và
mách bảo và mách bảo để họ có thể sống tốt hơn và người hơn, trong bất kì
cảnh ngộ nào” [11,151].
Bàn về Thế giới nhân vật Nguyễn Khải theo dòng thời gian, tác giả
Đào Thủy Nguyên nhận định: “Người phụ nữ trước đây trong Mùa lạc,
Chuyện người tổ trưởng máy kéo, Một cặp vợ chồng… dường như đi từ bóng
tối ra ánh sáng. Còn bây giờ, người phụ nữ trong Đời khổ, trong Người vợ lại
đi trong sự giao hòa của những khoảng sáng tối. Cái dấu ấn một thời của họ
dường như được hòa tan trong cái vĩnh viễn của mọi thời. Qua đó, người vợ,
người mẹ cụ thể được đưa lên tầm người phụ nữ Việt Nam mà không cần một
lời bình luận văn vẻ hay một sự khoa trương nào” [11,76].
Có thể nói, người phụ nữ luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận trong
sáng tác văn chương. Nhân vật nữ được khám phá dưới nhiều chiều kích khác

3


nhau, chính vì thế chân dung người phụ nữ hiện lên nguyên vẹn trên từng
trang viết. Qua mỗi trang viết, mỗi thân phận, mỗi mảnh đời là thông điệp thú
vị về cuộc sống: dù có đau đớn mất mát nhưng vẫn thấm đẫm chất nhân văn.
Số lượng các bài viết, các ý kiến đánh giá về Nguyễn Khải và các tác
phẩm của ông rất phong phú. Mặc dù có nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến
phong cách sáng tác của Nguyễn Khải nhưng vẫn chưa có một chuyên luận

nào đi sâu tìm hiểu nhân vật nữ trong các sáng tác của Nguyễn Khải sau 1985.
Trên tinh thần tiếp thu, phát trển ý kiến của những người đi trước, chúng tôi
mạnh dạn góp phần nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề: Nhân vật nữ trong sáng
tác Nguyễn Khải sau 1985.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau
1985 người viết muốn làm rõ những đóng góp của nhà văn trong việc xây
dựng hình tượng nhân vật và đặc biệt trong việc xây dựng hình tượng nhân
vật nữ trong văn học Việt Nam sau thời kì đổi mới đất nước. Đây là hình thức
nghệ thuật độc đáo, qua đó khẳng định vị trí của nhà văn Nguyễn Khải đối
với nền văn học hiện đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu hệ thống nhân vật nữ trong các sáng tác của Nguyễn Khải sau
năm 1985.
Tìm hiểu phương thức xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong truyện
ngắn Nguyễn Khải sau năm 1985 để thấy được nét đặc sắc, cái “tôi” rất riêng
của tác giả.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hệ thống nhân vật nữ trong
truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1985.
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Do giới hạn của đề tài khóa luận
chủ yếu đi sâu nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Khải được đưa vào Tuyển
tập Nguyễn Khải tập III ( Nhà xuất bản Văn học Hà Nội - 1996).

4


6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài này, khóa luận góp phần làm rõ hơn phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Khải trong việc xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong thời kì

đổi mới.
Khóa luận cũng là một tư liệu thiết thực và có ý nghĩa trong học tập và
giảng dạy những tác phẩm có liên quan đến Nguyễn Khải ở môn Ngữ văn
THPT.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của khóa luận được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1985
Chương 3: Phương thức thể hiện nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải
sau 1985

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Khái niệm vàcách phân loại nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm nhân vật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán chủ biên) nhân vật văn
học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Đó chính là nơi
“tác giả gửi gắm thông điệp và độc giả tiếp nhận,“giải mã” những vấn đề
hiện thực cốt yếu đặt ra trong tác phẩm” [5,235], nhân vật văn học là một đơn
vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật
trong đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách
của con người. Nhân vật văn học còn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí
tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật luôn gắn chặt với
chủ đề của tác phẩm.
Theo cuốn Lí luận văn học (tập 2) (Trần Đình Sử chủ biên) nhân vật
văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác

phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các
phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ [8,114].
Nhân vật văn học luôn hiện hữu trong các tác phẩm văn học. Đó là
những nhân vật có tên như Tấm, Cám, bà Hiền, chị Bơ... hay những nhân vật
không tên như chị vợ của Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân, thằng bán tơ
trong Truyện Kiều, nhân vật bà cô trong Nếp nhà của Nguyễn Khải... Nhân
vật có thể được thể hiện bằng những hình thức khác nhau nhất. Đó có thể là
những con người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính
cách, có tiểu sử như một khách thể thường thấy trong tác phẩm tự sự, kịch.
Đó có thể là những người thiếu hẳn những nét đó, nhưng lại có tiếng nói,
giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi
niềm, ý nghĩ, cảm nhận như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình.
6


Nhân vật do đó không chỉ là hình thức cơ bản thể hiện quan niệm nghệ
thuật về con người mà còn là hình thức cơ bản để khái quát những qui luật
của đời sống và là nơi tập trung mọi giá trị - tư tưởng của nghệ thuật. Qua
nhân vật, người đọc có thể hiểu được tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm và cá
tính sáng tạo của nhà văn. Nhân vật là đứa con tinh thần, là sản phẩm, là vốn
sống trực tiếp của nhà văn, là nơi thể hiện rõ nhất quan điểm nghệ thuật cũng
như quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người.
1.1.2. Cách phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tượng đa dạng cho nên các phương diện
loại hình của nhân vật cũng hết sức đa dạng. Căn cứ vào những tiêu chí khác
nhau, có thể phân chia thành các loại hình nhân vật khác nhau. Chẳng hạn,
căn cứ vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân
vật văn học được chia thành nhân vật chính, nhân vật phụ; căn cứ vào đặc
điểm của tính cách, việc truyền đạt lí tưởng của nhà văn, nhân vật văn học
được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện,…

1.1.2.1. Nhân vật chính, nhân vật phụ
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ
vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người liên can
đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ
bản của mình. Nhân vật chính trong Một người Hà Nội của Nguyễn Khải là
bà Hiền, nhân vật tôi,… đó là những người tham gia vào những sự kiện chính
trong tác phẩm.
Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể nhận thấy nổi lên
những nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm về mặt ý nghĩa, đó là nơi quy
tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác
phẩm. Chẳng hạn như bà Bơ trong Nắng chiều, chị Khuê trong Người vợ, bà
Hiền trong Một người Hà Nội.

7


Ngoài nhân vật chính, trong tác phẩm văn học còn có nhân vật phụ.
Các nhân vật có tính cách, tình tiết như nhân vật “tôi” trong Một người Hà
Nội, người vợ trong Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức, bà Xuân Thái trong
Chuyện tình của mỗi người... Bên cạnh đó, còn có nhân vật phụ chỉ thấp
thoáng trong các tình tiết như: Huy, Thành, Đồi trong Một thời gió bụi. Nhân
vật phụ mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ trợ, bổ sung, họ
chẳng những là một bộ phận không thể thiếu trong bức tranh chung, mà nhiều
khi, nhân vật phụ hàm chứa những tư tưởng quan trọng của tác phẩm.
1.1.2.2. Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện
Xét về phương diện hệ giá trị, về quan hệ đối với lí tưởng, các nhân vật
lại có thể chia ra thành nhân vật chính diện (còn gọi là nhân vật tích cực) và
nhân vật phản diện (còn gọi là nhân vật tiêu cực). Sự phân biệt nhân vật chính
diện và nhân vật phản diện gắn liền với những mâu thuẫn đối kháng trong đời
sống xã hội, hình thành trên cơ sở đối lập về quan điểm tư tưởng và lí tưởng

sống. Nhân vật chính diện mang lí tưởng, quan điểm tư tưởng, đạo đức tốt
đẹp của thời đại. Ngược lại, nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất
xấu xa, trái với đạo lí và lí tưởng, đáng lên án và phủ định. Hai loại nhân vật
này luôn đối kháng nhau như nước với lửa và nó thường được in dấu rõ nét
trong hệ thống các truyện cổ tích, truyền thuyết...
Trong văn học hiện thực, nhiều khi không dễ dàng tách bạch nhân
vật chính diện và phản diện. Theo Bakhtin “cần phải thống nhất trong bản
thân mình vừa các đặc điểm chính diện lẫn đặc điểm phản diện, vừa cái
tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc” [9,132].
Nhân vật phản diện trong văn học hiện thực nhiều khi không phải là do làm
việc xấu, thiếu đạo đức, mà chủ yếu là do thiếu tính người, thiếu ý thức
người.

8


1.1.2.3. Nhân vật nữ
Phụ nữ từ lâu được xem là biểu tượng của cái đẹp, hiện thân của sự
sinh tồn và luân chuyển sự sống. Hình tượng người phụ nữ luôn là một đề tài
quen thuộc nhất và dường như phụ nữ là một nguồn cảm hứng vô tận mà văn
học muôn đời vẫn chưa khai thác hết.
Văn học truyền thống Việt Nam mọi thời đều dụng công khám phá đề
tài người phụ nữ. Trong văn học dân gian, nhân vật nữ đại diện cho lí tưởng
thẩm mĩ của nhân dân hiện lên trong các câu chuyện cổ tích thường có sốphận
bi thảm nhưng luôn tỏa sáng những nét đẹp: hiền lành, chăm chỉ, giàu đức hi
sinh, giàu lòng nhân ái và cuối cùng chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc.
Người phụ nữ trong ca dao lại mang vẻ đẹp đằm thắm ý nhị, dịu dàng và kín
đáo nhưng đồng thời cũng là hiện thân cho những bi kịch, phải gánh chịu số
phận bất hạnh, không có quyền tự quyết định cho cuộc đời mình.
Đến văn học trung đại đã có biết bao tiếng nói xót xa, thương cảm cho

thân phận người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập trong xã hội phong kiến. Trong
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là hình ảnh những người phụ nữ
đức hạnh, đẹp người, tốt nết luôn khát khao một cuộc sống bình yên, hạnh
phúc nhưng bị những thế lực cường quyền và cả thế lực phong kiến khắc
nghiệt xô đẩy đến những cảnh ngộ éo le, ngang trái bất hạnh.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 tiếp tục khai thác đề tài về
người phụ nữ. Sáng tác của Tự Lực Văn Đoàn, đặc biệt là của Nhất Linh đã
xuất hiện hình ảnh những người phụ nữ mới, đòi quyền tự do yêu đương vượt
lên mọi lễ giáo phong kiến như Nhung trong Lạnh lùng (Nhất Linh), Loan
trong Đoạn tuyệt (Nhất Linh),… Văn học hiện thực phê phán giai đoạn này đi
tìm hiểu những bi kịch khác nhau trong cuộc đời của người phụ nữ. Đó là
cuộc đời đầy cơ cực, lắm đắng cay của chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố,
Tám Bính trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, hay thân phận của một “dị nữ” như

9


Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Người phụ nữ trong các tiểu
thuyết, truyện ngắn của các nhà văn hiện thực hiện lên như một biểu tượng
trong văn học về nỗi khổ đau, bất hạnh chồng chất của kiếp người và cuộc đời
họ bao giờ cũng kết thúc trong sự tuyệt vọng, bế tắc.
Đến văn học giai đoạn 1945 - 1975, nhân vật nữ tiếp tục được phản ánh
và được làm nổi bật trong mối quan hệ với các vấn đề chung của thời đại.
Tắm mình trong bầu không khí hào hùng của dân tộc, người phụ nữ góp phần
không nhỏ làm nên những chiến thắng vẻ vang. Đó là chị Sứ trong Hòn đất
của Anh Đức, chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Nguyệt
trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu. Có thể thấy, nhân vật
nữ trong giai đoạn này là con người của cộng đồng, của xã hội, gắn với cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc được soi rọi dưới cái nhìn lí tưởng mang tính sử thi.
Sau năm 1985, văn học có xu hướng trở về cái đời thường muôn mặt,

cảm hứng sử thi nhạt dần thay thế vào đó là cảm hứng thế sự - đời tư. Vấn đề
các nhà văn quan tâm không phải là cuộc sống chiến đấu dũng cảm vì dân vì
nước của người phụ nữ nữa mà là những lo toan thường nhật, nỗi đau đớn mất
mát của họ. Nhân vật nữ xuất hiện đa dạng, phong phú và mỗi nhà văn tìm
thấy cho mình một hướng đi riêng.
Qua đây, chúng ta thấy hình tượng nhân vật nữ là hình tượng xuyên suốt
và nổi bật trong nền văn học Việt Nam, gắn liền với sự vận động trong quan
niệm nghệ thuật về con người qua các giai đoạn văn học. Có một đặc điểm là
người phụ nữ luôn là hình ảnh tích cực, được nhà văn gửi gắm nhiều tình cảm
thương yêu trân trọng: nhẫn nại, đa cảm, thua thiệt và chủ động, đó dường như
là nét tiêu biểu của nhân vật nữ trong văn học Việt Nam ở mọi thời.
Có thể thấy, nhân vật nữ trong các tác phẩm văn học luôn mang trong
mình thiên tính nữ. Theo tác giả Nguyễn Xuân Kháng “Thiên tính nữ đơn
thuần là tính mềm mại, tính nhu, uyển chuyển của người phụ nữ” [3,164].

10


Thiên tính nữ trong văn học trước hết được biểu hiện là tinh thần của cái đẹp,
đó là tấm lòng bao dung hào phóng với tất cả mọi người, đó là thiên tính làm
mẹ, tình cảm hồn nhiên muốn đùm bọc, che chở, cứu giúp. Thiên tính nữ còn
được thể hiện ở tấm lòng bao la sẵn sàng cảm thông với mọi người. Nhìn
chung, khi xây dựng các nhân vật nữ, các nhà văn khai thác và ngợi ca vẻ đẹp
nữ tính của người phụ nữ trên cơ sở kế thừa và phát huy quan điểm thẩm mỹ
và giá trị truyền thống. Đó là vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, sự độ lượng, tấm
lòng khoan dung, trắc ẩn và đức hy sinh của người phụ nữ.
1.2. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Khải
1.2.1. Khái quát cuộc đời
Tác giả Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ngày
03/12/1930 ở phố Hàng Cót - Hà Nội trong một gia đình quan lại phong kiến.

Quê cha ở phố Hàng Nâu (Nam Định), quê mẹ ở xã Hiến Nam, huyện Tiên
Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông nội của Nguyễn Khải là tri phủ, bố Nguyễn Khải là
tri huyện nhưng Nguyễn Khải lại chịu số phận của cảnh “vợ lẽ con thêm”.
Trong xã hội phong kiến trước đây, “vợ lẽ con thêm” là những thân phận bèo
bọt bị rẻ rúng thậm chí là bị từ bỏ, cha và mẹ cả đã đối xử rất bất công với mẹ
của ông. Suốt thời thơ ấu, Nguyễn Khải phải sống trong cảnh buồn tủi, lúc ở
với mẹ đẻ, lúc ở với mẹ cả, khi sống đậu ở nhà anh (cùng cha khác mẹ) ở Hải
Phòng. Nhiều lần bị lăng nhục, bị đổ oan là “thằng ăn cắp” Nguyễn Khải đã
có một tuổi thơ đầy cay đắng và nhiều nước mắt. Cha ông đã không nhìn nhận
đứa con do chính mình sinh ra vì thế khi nghĩ về cha đối với Nguyễn Khải là
một quá khứ nhiều đau buồn.
Năm 12 tuổi, Nguyễn Khải từ Hải Phòng lên Hà Nội trú trong căn gác
chật hẹp. Ba mẹ con sống chật vật, đã có lúc bà mẹ nghĩ đến việc chết với hai
đứa con cho đỡ khổ. Mãi về sau này nhà văn vẫn không sao quên được cảm
giác bị tổn thương và nỗi hờn giận đã gặm nhấm tâm hồn ông những năm

11


tháng sau đó: “Tưởng là con cha cháu ông hóa ra không phải, chỉ là con thêm
con thừa” [9,125]. Bao nhiêu mơ mộng của tuổi thơ chốc lát mất sạch, cái sự
thật về thân phận qua mỗi tháng lại tuột ra một lớp vỏ, rút lại cái lõi của nó
không đáng một xu. Nhưng chính trong hoàn cảnh cay đắng ấy đã làm bùng
cháy ở ông về ý thức thân phận và ý chí sống để khẳng định mình: “Vậy thì
phải sống, sống bằng cái nhẫn nhục, cái chịu đựng chịu thương chịu khó,
không giây phút nào được buông lơi, không giây phút nào được huyễn hoặc.
Sống cho hết cái có thể của mình rồi đời sẽ giúp mình sau” [9,201].
Cách mạng tháng Tám đến với ông như một ân huệ lớn, ông đã tìm được
niềm hạnh phúc lớn nhất đời mình, được trả lại tư cách làm người, được chọn
con đường viết văn để thực hiện cách sống, tạo dựng uy tín, danh dự. Đây là

con đường để ông đền đáp ơn nghĩa cách mạng và rửa sạch nỗi hờn tủi bị
chính những người ruột thịt hắt hủi. Đầu năm 1947, ông tham gia kháng chiến
ở Hưng Yên, gia nhập đội quân tự vệ ở thị xã rồi trở thành chiến sĩ một đơn vị
bộ đội ở địa phương. Một thời gian làm y tá, sau đó ông lại trở thành phóng
viên báo của tỉnh Hưng Yên. Từ đây Nguyễn Khải một lòng dùng cuộc đời
mình để đền đáp cách mạng và ông đã chọn văn chương để trả ơn cách mạng.
Từ cuối năm 1950, Nguyễn Khải được cử đi tham dự lớp nghiên cứu văn
nghệ do Hội văn nghệ Trung ương và chi hội văn nghệ Khu IV tổ chức tại
Vĩnh Lộc - Thanh Hóa.
Bước ngoặt lớn nhất vào tháng 5/1951, ông được cử đi dự trại viết của
hai chi đội văn nghệ Liên khu III và Liên khu IV tổ chức tại Kim Tân - Thanh
Hóa. “Đó là mốc quan trọng trên đường dẫn đến nghề văn của tôi” Nguyễn
Khải đã nói như vậy về lớp học mà nhờ đó lần đầu tiên ông được tiếp xúc với
các thần tượng văn học của ông: Nguyễn Tuân; Xuân Diệu... cuối khóa học
Nguyễn Khải bắt đầu có truyện ngắn đăng báo.
Năm 1955, ông trở về dự trại toàn quân để viết truyện anh hùng Mạc Thị
Bười. Kết thúc trại viết ông có tác phẩm Người con gái quang vinh.

12


Năm 1956, ông chuyển công tác về Tạp chí Văn nghệ quân đội, làm việc
cùng nhiều nhà văn nổi tiếng như: Thanh Tịnh, Chính Hữu,...
Năm 1957 ông trở thành một trong những thành viên trẻ nhất tham gia
thành lập Hội nhà văn Việt Nam. Tại đây ông đã phát biểu quan niệm nghệ
thuật của mình như sau: “Nghệ thuật là khoa học thể hiện lòng người, là lịch
sử của lòng người”. Quan niệm này đã chi phối trực tiếp phương hướng tiếp
cận hiện thực của ông trong các sáng tác: lấy thế giới tinh thần, tư tưởng các
lối sống và một nghệ thuật giàu màu sắc chính luận. Từ đại hội lần thứ hai,
Nguyễn Khải trở thành Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên thường vụ về sau

ông còn giữ nhiều trọng trách quan trọng đối với quá trình phát triển của Hội
nhà văn.
Sau năm 1975, ông đã cùng gia đình chuyển vào sinh sống ở Sài Gòn.
Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, “cái lí lịch đặc biệt của anh khiến anh
hình như có hai con người trong một con người, có hai vùng thẩm mĩ trong
một thế giới nghệ thuật” [9,201]. Trong ông có sự pha trộn giữ hai dòng máu
“Dòng máu của lớp cùng dân từng bị dày xéo, lăng nhục” sẽ in dấu vào những
lời văn “khi thì uất hận, khi thì xót xa - một thứ văn như để đòi nợ, như để trả
thù, như để giải oan”. Còn dòng máu của tầng lớp thượng lưu lại sinh ra một
Nguyễn Khải thích nói chuyện sang, thích nói giọng sang, dùng văn chương
để phô bày cái hoàn hảo, lịch lãm.
Với những đóng góp cho nền văn học nước nhà, năm 2000 Nguyễn Khải
đã được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật và Giải thưởng
ASEAN cùng năm đó.
Năm 2008 nhà văn qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Trong một lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Khải tự chia sáng tác của
mình thanh hai giai đoạn: “từ 1955 đến 1977 tôi sáng tác theo một cách, từ

13


1978 đến nay theo một cách khác” [9,203]. Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn
Khải chúng tôi phần nào hiểu rõ cơ sở của sự phân chia này. Tuy nhiên, theo
quan sát chủ quan của chúng tôi, quá trình sáng tác của Nguyễn Khải có thể
chia thành hai gia đoạn: giai đoạn trước năm 1985 và giai đoạn sau năm 1985
1.2.2.1. Giai đoạn trước năm 1985
Ở giai đoạn này, các trang văn của Nguyễn Khải tập trung và hai mảng
đề tài trung tâm: đề tài nông thôn và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề
tài chiến tranh cách mạng.

Với đề tài nông thôn và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tác giả tập trung
khẳng định vẻ đẹp của những con người lao động mới, những con người gắn
kết cộng đồng trở thành nhu cầu máu thịt của mỗi cá nhân như cô Đào (Mùa
lạc); Tấm (Đứa con nuôi);... Nguyễn Khải đã miêu tả bộ mặt đầy sức sống
của nông thôn miền Bắc với những vẻ đẹp mới mẻ trong các mối quan hệ đầy
tin cậy giữa tập thể với cá nhân, giữa cấp trên và cấp dưới, tình đồng chí, tình
bạn bè,... vừa tỏ thái độ không khoan nhượng với những biểu hiện tiêu cực
không mang tinh thần chủ nghĩa xã hội như lối làm ăn kiểu phường hội: Tuy
Kiền (Tầm nhìn xa); Mơ (Chủ tịch huyện)…
Ở đề tài chiến tranh và cách mạng, Nguyễn Khải đã khắc họa nổi bật vẻ
đẹp của con người Việt Nam: lòng yêu nước, tinh thần kỉ luật, niềm khát khao
khẳng định phẩm giá trước kẻ thù, tỉnh táo trong nhận thức, thông minh tháo
vát trong hành động và đức tính kiên nhẫn, khiêm nhường. Ông ít diễn tả khía
cạnh mất mát hay mặt trái của chiến tranh mà khám phá sức mạnh tinh thần
tiềm ẩn trong mỗi con người, đặt họ vào các tình huống thử thách để bắt họ
bộc lộ tài trí, nhân cách. Các tác phẩm đều ít nhiều tạo được không khí nhờ
các chi tiết đặc sắc và nhờ giọng kể sôi nổi, hóm hỉnh giàu màu sắc hùng biện.
Tuy nhiên, nhiệt hứng ngợi ca khẳng định rõ ràng đã làm cho các trang viết về

14


chiến tranh thiếu cái chân thực, góc cạnh, cái dữ dội khốc liệt của những số
phận làm nên chiều sâu đời sống.
Con mắt nghệ sĩ đằm thắm và mối dây đồng cảm của một người tuổi
thơ bị sỉ nhục đã giúp Nguyễn Khải tìm được cách khám phá riêng về hiện
thực. Ông đặc biệt nhạy cảm với những thân phận nhỏ bé, những tính cách
khiêm nhường, nhưng khao khát thầm lặng về hạnh phúc. Đồng thời, thói háo
danh, sự ích kỉ, dù có ngụy trang kĩ lưỡng đến đâu, cũng bị ông vạch ra thật
sắc sảo. Nguyễn Khải nồng nhiệt khẳng định vẻ đẹp của những người lao

động kiểu mới - những con người làm cho sự gắn kết cộng đồng trở thành nhu
cầu máu thịt của mỗi cá nhân. Các tác phẩm tiêu biểu ở chặng này: Hãy đi xa
hơn nữa (tiểu thuyết, 1963) Người trở về (1964); Họ sống và chiến đấu
(1966); Hòa vang (1967); Đường trong mây (tiểu thuyết, 1970); Ra đảo (tiểu
thuyết, 1970); Chủ tịch huyện (truyện, 1972); Chiến sĩ (tiểu thuyết, 1973);...
1.2.2.2. Giai đoạn sau năm 1985
Do đòi hỏi của hoàn cảnh lịch sử và thị hiếu công chúng, văn học sau
năm 1985 có nhiều biến đổi, chủ nghĩa đề tài mất ý nghĩa khi quan niệm về
hiện thực được mở rộng. Thay vì coi trọng biến cố lịch sử, văn học lấy con
người làm tâm điểm khám phá, ngòi bút Nguyễn Khải trẻ lại với niềm say mê
“cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn”. Ông chiếm lĩnh nhiều vùng đất mới mà
vùng đất nào cũng để ông không ngừng trăn trở về số phận con người, về giá
trị làm người. Bên cạnh đó thì cái “tôi” tiểu sử của tác giả cũng xuất hiện đậm
đặc đem lại hiệu quả thẩm mĩ cao góp phần vào việc đổi mới văn học. Tiểu
thuyết và truyện ngắn là hai thể loại tiêu biểu cho sáng tác ở giai đoạn này của
Nguyễn Khải.
Ở giai đoạn này, truyện ngắn của Nguyễn Khải có nhiều khởi sắc. Đó là
thế giới phong phú những cảnh ngộ cá biệt, những hành trình sống đầy nhọc
nhằn do bao hệ lụy thường tình, những cuộc vật lộn kiên cường của con người

15


với hoàn cảnh để bảo vệ một niềm tin cá nhân, những cá nhân với bảng giá trị
tự nó xác lập cho nó. Ông đặt con người vào các mối quan hệ đời thường. Có
thể nói, truyện ngắn Nguyễn Khải chặng này chứa đựng nhiều chiêm nghiệm
về nhân thế. Cuộc sống mưu sinh đầy hỗn tạp, ba động, con người cũng dễ
đổi thay, Nguyễn Khải đã thực hiện hành trình riêng “đãi cát tìm vàng”, nâng
niu những hạt bụi vàng của cuộc sống.
Các tác phẩm tiêu biểu ở chặng này: Cha con và... (tiểu thuyết 1979);

Thời gian của người (tiểu thuyết, 1985); Một nguời Hà Nội (tập truyện ngắn,
1990); Một thời gió bụi (truyện ngắn, 1993), Sống ở đời (truyện ngắn, 2002);
Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, 2004);...
Với số lượng tác phẩm đồ sộ, Nguyễn Khải xứng đáng trở thành một
trong những cây bút hàng đầu của văn xuôi Việt Nam từ sau cánh mạng tháng
Tám 1945. Ông đã đóng góp những tiếng nói mới mẻ, những khám phá về
chiều sâu của cuộc sống cho sự đổi mới của văn học. Hành trình sáng tác của
Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá trình vận động của văn học từ thời kháng
chiến sang thời hòa bình.
1.2.2.3. Khảo sát những truyện ngắn sau 1985 của Nguyễn Khải
Sau năm 1985, sáng tác của Nguyễn Khải có đổi mới rõ rệt, ông quan
tâm đến những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống. Đặc biệt hình tượng nhân
vật nữ được Nguyễn Khải quan tâm và thể hiện một cách chân thực nhất.
Bảng: Khảo sát nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1985
STT

Tên tác phẩm

Nhân vật nữ chính

1

Đời khổ

Chị Vách

2

Ông cháu


3

Đổi đời

Nhân vật nữ
phụ
Bà vợ ông Cậy
Bà chủ quán
cơm

Chị Tần

16

Cô con gái


4

5

Một thời gió bụi

Vợ Tú

Cặp vợ chồng ở chân động

Con gái Tú
Cô con dâu


Vợ Toàn

Từ Thức

6

Chuyện tình của mỗi người

Ngoạn - vợ Dụ

7

Một người Hà Nội

Cô Hiền

8

Nếp nhà

Bà cô

9

Chúng tôi và bọn hắn

Vợ Phúc

10


Tiền

Hiền

11

Người của nghề

Bà Tuất

12

Chút phấn ở đời

Mẹ Tuấn

13

Người vợ

14

Nắng chiều

Chị Quê,
Bà Xuân Thái

Cô con dâu - vợ
Lộc


Liên-con dâu bà
Tuất

Chị Khuê - vợ ông
Trần Dần
Bà Bơ

Bà Đại

Qua khảo sát, chúng ta có thể nhận thấy hình tượng nhân vật nữ xuất
hiện khá nhiều trong các sáng tác của Nguyễn Khải đặc biệt là truyện ngắn
sau 1985. Nhân vật nữ đóng vai trò là cầu nối gắn kết các nhân vật, sự kiện
trong truyện. Trong những trang viết của Nguyễn Khải những con người,
những nhân vật trải qua bao sóng gió để khẳng định được giá trị sống, ông đã
miêu tả người phụ nữ với một sự quan tâm, niềm trăn trở của một tâm hồn
nhạy cảm và cái nhìn mang tính nhân đạo.
Những nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Khải ở thời kì này xuất
hiện khá đa diện. Họ có thể là nhân vật chính, có thể là nhân vật phụ nhưng

17


đều được miêu tả khá đa diện. Phẩm tính của nhân vật nữ được miêu tả khách
quan. Họ vừa mang vẻ đẹp truyền thống nhưng cũng rất hiện đại. Trong mọi
cảnh huống họ lại tỏ ra là con người bản lĩnh, luôn làm chủ cuộc đời, làm chủ
hoàn cảnh. Trong cảm nhận của độc giả họ vừa đáng yêu, đáng trân trọng và
cũng có lúc đáng ghét. Chân dung họ được khắc họa ở cự li gần nhất. Người
đọc cảm thấy như gặp họ đâu đó ở ngoài đời…
Nguyễn Khải đã tìm được chỗ dựa cho sự bình yên của các “tổ ấm”
hạnh phúc ở những người phụ nữ. Ông vẫn sẵn sàng tôn vinh những người

phụ nữ “là vàng mười, là kim cương, là báu vật, là sự may mắn lớn nhất mà
chồng con họ có được ở cõi đời này”.

18


CHƯƠNG 2
THẾ GIỚI NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI SAU 1985
Từ sau 1975, đặc biệt sau 1985, diện mạo nền văn học Việt Nam có
những biến đổi sâu sắc trên nhiều bình diện trong đó có yếu tố nhân vật.
Nếu ở giai đoạn trước đó, con người xuất hiện với tư thế con người
cộng đồng được lí tưởng hóa cao độ bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng
mạn thì nay nó được khám phá dưới góc độ đời tư thế sự trong mối quan hệ
với biết bao sự ngổn ngang, phức tạp của các vấn đề đời sống. Đây là đặc
điểm chung bao trùm lên các sáng tác văn học thời kì này trong đó có truyện
ngắn Nguyễn Khải. Do vậy, theo dõi truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau
1985 ta thấy thế giới nhân vật nữ hiện ra phong phú, sinh động như chính bản
thân đời sống. Có thể bắt gặp đủ mọi loại người với nhiều cảnh ngộ và thân
phận khác nhau.
2.1. Cách lựa chọn và thể hiện nhân vật nữ của Nguyễn Khải
Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống, là sản phẩm tuyệt diệu của tạo hóa,
là biểu tượng của cái đẹp, là hiện thân của sự sinh tồn và luân chuyển sự sống.
Hình tượng người phụ nữ ở mỗi thời kì được xây dựng theo một dụng ý
nghệ thuật, họ mang theo những vẻ đẹp riêng. Trước 1975, nhất là trong
kháng chiến, nhân vật nữ thường mang những phẩm chất lí tưởng như Nguyệt
(Mảnh trăng cuối rừng), chị Chiến (Những đứa con trong gia đình) hay
những nhân vật được đổi đời như Mị, Đào… Sau 1975, người phụ nữ lại hiện
lên một cách đa diện hơn, ở họ có cả những cái tốt - xấu, cao cả - thấp hèn,
cao thượng… Nhân vật nữ xuất hiện đa dạng, phong phú, mỗi nhà văn tìm

thấy cho mình một phong cách riêng khi khai thác đề tài này. Nguyễn Huy
Thiệp khai thác thiên tính nữ qua một loạt các truyện ngắn Chảy đi sông ơi,

19


×