Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Thời gian nghệ thuật trong ca dao thề nguyền của người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.64 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====o0o=====

PHÙNG THỊ HIÊN

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
CA DAO THỀ NGUYỀN NGƯỜI VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====o0o=====

PHÙNG THỊ HIÊN

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
CA DAO THỀ NGUYỀN NGƯỜI VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN

HÀ NỘI, 2017



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan, cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Phùng Thị Hiên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận: Thời gian nghệ thuật trong ca dao thề
nguyền người Việt là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Khóa luận không sao
chép từ một tài liệu, công trình nghiên cứu nào đã công bố. Nếu sai tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Phùng Thị Hiên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7

6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CA
DAO THỀ NGUYỀN ....................................................................................... 8
1.1. Khái niệm thời gian và thời gian nghệ thuật .............................................. 8
1.2. Biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong ca dao thề nguyền ................... 14
1.2.1. Công thức miêu tả thời gian .................................................................. 15
1.2.2. Từ ngữ biểu thị thời gian....................................................................... 22
Chương 2. CÁC SẮC THÁI BIỂU ĐẠT CỦA THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG CA DAO THỀ NGUYỀN NGƯỜI VIỆT ........................................ 30
2.1. Thời gian biểu đạt sự gắn kết tình yêu ..................................................... 30
2.2. Thời gian biểu đạt tình yêu vĩnh hằng, bất diệt ....................................... 33
2.3. Thời gian biểu đạt khát vọng tình yêu chung thủy .................................. 39
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ca dao Việt Nam được xem là tấm gương phản ánh trung thực hình ảnh
thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam. Đó là kho tài liệu phong phú về
phong tục, tập quán trong đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao
động. Trong đó, những câu hát thề nguyền trong hệ thống ca dao giao duyên
chiếm vị trí quan trọng trong kho tàng ca dao của dân tộc. Tìm hiểu ca dao thề
nguyền, ta sẽ thấy những biểu hiện độc đáo và sâu sắc của đời sống tâm hồn
con người Việt Nam qua bao thế hệ. Thời gian được diễn tả trong những câu
hát thề nguyền là thời gian nghệ thuật. Mỗi thể loại văn học đều mang nét đặc
thù riêng về thời gian nghệ thuật. Nếu như trong sử thi là thời gian “khuyết
sử”, mang đậm chất thần thoại; thời gian trong cổ tích là thời gian của quá
khứ không xác định, mang tính hoang đường thì thời gian nghệ thuật trong ca

dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng có nghĩa là “thời gian của tác
giả và thời gian của người đọc (người thưởng thức) hòa lẫn với thời gian của
người diễn xướng”. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt
nào về yếu tố thời gian trong ca dao thề nguyền. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn:
Thời gian nghệ thuật trong ca dao thề nguyền người Việt làm đề tài nghiên
cứu của khóa luận tốt nghiệp.
Xuất phát từ thực tế, chúng tôi nhận thấy ca dao chiếm một số lượng khá
lớn so với các thể loại văn học dân gian khác trong chương trình Ngữ văn ở
nhà trường phổ thông. Lựa chọn đề tài này, người viết bước đầu được làm
quen với các thao tác tư duy trong nghiên cứu khoa học, mặt khác đây chính
là cơ hội tốt để trau dồi kiến thức về văn học dân gian, phục vụ tốt cho công
tác giảng dạy sau này.
Đồng thời khi tìm hiểu nhóm ca dao thề nguyền, ta có thể nhận ra vẻ
đẹp tâm hồn của người bình dân xưa. Lời ca giản dị nhưng chứa đựng những

1


tình cảm rất đời, rất người, mang giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, hơn thế,
nó còn nói lên được những quy luật có tính phổ quát muôn đời của lòng
người. Chính các yếu tố đó đã tạo niềm say mê muốn khám phá, tìm hiểu của
chúng tôi.
2. Lịch sử vấn đề
Qua việc khảo sát, chúng tôi nhận thấy ca dao có chủ đề “thề nguyền” từ
lâu đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu.
Năm 1973 trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam Đinh Gia Khánh,
Chu Xuân Diên, khi viết về mảng ca dao tình yêu đã khái quát: “Ca dao - dân
ca trữ tình về tình yêu nam nữ có nội dung phản ánh được mọi biểu hiện của
tình yêu trong tất cả các chặng đường của nó: giai đoạn gặp gỡ ướm hỏi, giai
đoạn gắn bó trao đổi những lời thề nguyền, những tặng vật cho nhau, giai

đoạn hạnh phúc với những niềm ước mơ…” [8]. Đây là những ý kiến chính
xác, song còn dừng lại ở những thông tin sơ lược.
Năm 1978 trong cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (tái bản lần thứ
8) Vũ Ngọc Phan khi nói về tình yêu lứa đôi cũng đã khẳng định:“Có thể nói
ca dao đã ghi lại tất cả các chặng đường của tình yêu, các khía cạnh của tình
yêu, các trạng thái tình cảm của nam nữ thanh niên với những trắc trở khó
khăn do đời sống và chế độ phong kiến gây nên… trong cảnh lầm than, tình
yêu của nhân dân lao động Việt Nam vẫn thắm thiết, có khi còn gắn bó bằng
lời keo sơn, cho nên trong sinh hoạt khó khăn và gian khổ, họ vẫn hăng hái và
bền bỉ. Những câu biểu hiện ý chí sắt đá của những người bạn tình có rất
nhiều trong ca dao Việt Nam” [14]. Trong cuốn sách này, nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu mang tính chất dẫn dắt, khơi gợi
mà chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu, xem xét nội dung biểu hiện của câu hát thề
nguyền trong ca dao tình yêu một cách cụ thể.
Năm 1991, trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, tác giả

2


Hoàng Tiến Tựu căn cứ vào chủ đề đã chia ca dao tình yêu thành bốn bộ phận
chính: ca dao tỏ tình, ca dao tương tư, ca dao thề nguyền và ca dao hận tình
[18]. Ở đây tác giả chỉ dừng lại ở việc phân loại mà chưa đi vào phân tích các
phương diện biểu hiện của ca dao thề nguyền.
Năm 1992, với chuyên luận Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân Kính đã có
những phân tích chuyên sâu về các vấn đề ngôn ngữ, hình tượng, kết cấu, thể
thơ, thời gian và không gian nghệ thuật của ca dao truyền thống. Theo tác giả:
“Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản
ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian
nghệ thuật, không gian nghệ thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt
khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả,

từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật” [9;28].
Năm 1992, tác giả Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Bình giảng ca dao [19]
có những phát hiện chính xác, độc đáo về nội dung biểu hiện câu hát thề
nguyền trong ca dao tình yêu thông qua một đơn vị cụ thể:
Rủ nhau lên núi đốt than
Anh đi Tam Điệp, em mang nón Trình
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên
Đó là lời nhắn nhủ giữ vững tình yêu thủy chung. Tác giả đã cụ thể hóa
nội dung này qua việc phân tích câu chữ “rủ nhau”, “chớ quên”, “nhem
nhuốc”, “lời vàng đá”. Tuy nhiên đây cũng chỉ mới là bài viết được trình bày
dưới dạng cảm nhận chứ chưa thực sự là công trình nghiên cứu chuyên biệt.
Năm 1994, Nguyễn Thị Quỳnh Liên trong luận văn thạc sĩ Sự thể hiện
của trạng thái nghệ thuật trong ca dao trữ tình [10] qua việc tìm hiểu các
cụm từ cố định, đã nhận diện được một số công thức thường được sử dụng
trong câu hát thề nguyền như: Dẫu... cũng chờ, Dù... cũng thương... Đây là

3


công thức điều kiện giả thiết. Công thức này nêu lên một điều kiện không
thuận lợi, bất thường nhằm khẳng định, nhấn mạnh rằng điều kiện được nói
đến (chờ đợi, thương) vẫn xảy ra, vẫn đúng ngay cả trong điều kiện đó. Trong
quan hệ với trạng thái nghệ thuật, công thức biểu đạt một lời thề chung thủy.
Đấy mà xử ngãi vuông tròn
Dẫu ngàn năm li biệt đây vẫn còn đợi trông
Hay một công thức khác: duyên... đợi chờ cũng biểu đạt lời thề, lời
khẳng định lòng chung thủy:
Trăm năm tượng rách còn thờ
Lỡ duyên chịu lỡ cũng chờ đợi anh

Đó là những kết quả nghiên cứu bước đầu, mang lại những gợi ý quan
trọng cho chúng tôi trong việc triển khai đề tài.
Năm 1998, trong Những thế giới nghệ thuật ca dao, tác giả Phạm Thu
Yến đề cập vấn đề “Thời gian và không gian nghệ thuật trong ca dao”. Viết về
vấn đề này tác giả khẳng định mỗi thể loại văn học mang nét đặc thù về thời
gian nghệ thuật, trong đó thời gian trong ca dao là phương tiện biểu đạt trạng
thái tâm hồn của con người. Khi khảo sát thời gian nghệ thuật, tác giả nhận
định thời gian nghệ thuật trong ca dao có thể phân thành hai mảng: thời gian
sự kiện và thời gian tâm lý. Đồng thời, đưa ra một số công thức miêu tả thời
gian: công thức chỉ thời điểm, thời gian để chỉ các trạng thái tình cảm thay
đổi thường được miêu tả đối lập quá khứ và hiện tại, thời gian là phương tiện
biểu hiện lời thể nguyền, ước hẹn hoặc ước mơ cháy bỏng của tình yêu hoặc
lời đùa vui đố hỏi...[23]
Năm 1998 trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam (sách Cao đẳng sư
phạm) tác giả Hoàng Tiến Tựu căn cứ vào đề tài và chủ đề chia ca dao tình
yêu thành bốn bộ phận chính: ca dao tỏ tình, ca dao tương tư, ca dao thề
nguyền và ca dao hận tình [20]. Nếu như ở cuốn dành cho đại học sư phạm

4


chỉ dừng lại ở việc phân loại thì cuốn dành cho cao đẳng sư phạm tác giả nói
rõ hơn về ca dao thề nguyền với nội dung chủ yếu: “Khác với ca dao tỏ tình
và tương tư, ở bộ phận ca dao thề nguyền lại toát lên sức mạnh phi thường
của nghị lực và ý chí. Ở đây các chàng trai, cô gái thể hiện rõ sự tỉnh táo,
sáng suốt, dám nhìn thẳng vào thực tế khó khăn, chấp nhận mọi thử thách
vượt qua mọi trở lực để thực hiện tình yêu”. Sau khi đưa ra nhận định, tác giả
đưa ra các dẫn chứng để làm rõ vấn đề này:
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.

- Đôi ta đã quyết thi hành
Đã đốn thì vác cả cành lẫn cây
Năm 2003, trong báo cáo khoa học Một số phương thức nghệ thuật biểu
đạt nội dung thề nguyền trong ca dao trữ tình người Việt [7], tác giả Phùng
Thị Thanh Huyền tiến hành khảo sát một số phương thức nghệ thuật biểu đạt
như: thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, một số biện pháp như ẩn dụ,
biểu tượng, kết cấu, ngôn ngữ… Theo tác giả “Vẻ đẹp của mỗi bài ca dao kết
tinh ở nghệ thuật và nội dung, chính nghệ thuật là phương tiện hữu hiệu nhất
để chuyển tải nội dung và ta có thể khẳng định rằng nội dung đầy giá trị nhân
văn, nhân bản của ca dao thề nguyền đã được truyền tải qua những hình thức
thật đẹp, thật độc đáo, hấp dẫn”. Qua đó, tác giả đánh giá cao giá trị của ca
dao thề nguyền trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đây là một
trong những gợi ý quan trọng để chúng tôi giải quyết các vấn đề của đề tài
đang nghiên cứu.
Năm 2006, trong kỷ yếu Hội nghị khoa học sinh viên tác giả Vũ Thị Nga
có báo cáo Câu hát thề nguyền trong ca dao về tình yêu đôi lứa [13]. Với
dung lượng của một bài báo cáo, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu một
số bài ca dao thề nguyền tiêu biểu để từ đó khẳng định giá trị của ca dao thề
nguyền trong đời sống cũng như như vai trò của nó trong thể loại ca dao.

5


Năm 2008, khóa luận tốt nghiệp với đề tài Câu hát thề nguyền trong ca
dao tình yêu người Việt [12] của sinh viên Phạm Thu Minh khoa Ngữ văn
trường ĐHSP Hà Nội 2 đã có sự nghiên cứu khá hệ thống về câu hát thề
nguyền. Tác giả chủ yếu khảo sát câu hát thề nguyền trong hệ thống ca dao
tình yêu và nội dung biểu hiện của nó. Ở chương 3 của khóa luận, tác giả đã
chỉ ra một số phương thức nghệ thuật nổi bật trong việc biểu đạt nội dung “thề
nguyền” như: ẩn dụ, biểu tượng, yếu tố không gian và thời gian nghệ thuật….

Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại ở việc phát hiện, chưa đi sâu vào việc phân
tích, lí giải. Song đó vẫn là những gợi ý quan trọng để chúng tôi mở rộng vấn
đề nghiên cứu trong khóa luận của mình.
Qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu trên, ta thấy các bài viết,
giáo trình cũng đã có sự quan tâm tới yếu tố thời gian trong ca dao trữ tình
song chưa đi vào khảo sát yếu tố này trong một nhóm bài ca dao cụ thể - ca dao
thề nguyền. Vì vậy, đây là một vấn đề có ý nghĩa khoa học, cần được nghiên
cứu một cách cụ thể, kỹ lưỡng hơn nữa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích: Làm rõ biểu hiện của các dạng thời gian, lớp từ ngữ chỉ thời
gian và nội dung biểu đạt của nó trong ca dao thề nguyền.
+ Nhiệm vụ: Khảo sát yếu tố thời gian nghệ thuật trong ca dao thề
nguyền và phân tích các biểu hiện của nó thông qua các công thức, từ ngữ chỉ
thời gian; thấy được các nội dung biểu đạt của thời gian nghệ thuật trong việc
diễn tả các sắc thái tình cảm của con người.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng: Thời gian nghệ thuật – một trong những yếu tố thi pháp
nổi bật trong bộ phận ca dao thề nguyền người Việt.
+ Phạm vi:
- Về tư liệu: Chúng tôi tiến hành khảo sát một số công trình sưu tầm,

6


tuyển chọn ca dao người Việt đã được xuất bản và thống kê được 241 lời ca
dao có nội dung thề nguyền, trong đó 168 bài xuất hiện yếu tố thời gian.
- Về nội dung: Tìm hiểu yếu tố thời gian trong bộ phận ca dao thề
nguyền với các biểu hiện cụ thể: dạng thức, công thức miêu tả thời gian và nội
dung, ý nghĩa biểu đạt của nó trong ca dao thề nguyền. Trong quá trình triển
khai các nội dung khóa luận, chúng tôi có sự so sánh với ca dao dân ca của

một số dân tộc thiểu số.
5. Phương pháp nghiên cứu
Do đặc điểm, yêu cầu và mục đích của đề tài chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khóa luận được triển khai thành hai chương.
Chương 1. Giới thuyết về thời gian nghệ thuật trong ca dao thề nguyền
Chương 2. Các sắc thái biểu đạt của thời gian nghệ thuật trong ca dao
thề nguyền

7


NỘI DUNG
Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG CA DAO THỀ NGUYỀN
Trong thế giới khách quan, mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ
tọa độ không gian - thời gian xác định, nên những cảm nhận của con người về
thế giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Từ sự đổi thay
của không gian, thời gian, con người nhận ra sự đổi thay trong chính mình. Vì
vậy, bên cạnh không gian, thời gian trở thành một trong những đối tượng
phản ánh phổ biến của tác phẩm văn học, một phạm trù thẩm mỹ. Không có
hình tượng nghệ thuật nào lại không tồn tại trong không gian, thời gian của
chủ thể sáng tạo. “Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì
thời gian, không gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và
con người” [16]. Thời gian trong nghệ thuật cũng được coi là một hiện tượng

nghệ thuật. Thời gian gắn với những quan niệm về nghệ thuật, về con người,
về thế giới của chủ thể. Thời gian là sản phẩm của nghệ sĩ nhằm biểu hiện về
con người, về thế giới, đồng thời thể hiện quan niệm nhân sinh. Thời gian còn
là một yếu tố quan trọng làm nền cho tác phẩm, góp phần bộc lộ chủ đề tác
phẩm. Thời gian trong nghệ thuật có mô hình và ngôn ngữ riêng của mình vì
nó thể hiện quan niệm về trật tự thế giới, về sự lựa chọn của con người.
1.1. Khái niệm thời gian và thời gian nghệ thuật
Ngay từ thời xa xưa, con người đã hiểu rằng, bất kì khách thể vật chất
nào cũng chiếm một vị trí trong khoảng không gian, thời gian nhất định
A.JaGurevich trong cuốn Các phạm trù văn hóa trung cổ đã chỉ ra cách lý
giải của người trung cổ về khái niệm thời gian: “Thời gian và không gian có
tính chất khách quan, những phẩm chất của chúng độc lập với chất liệu được
chứa trong chúng” [4]. Chính vì vậy, thời gian đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội, trong đó có
thi pháp học.

8


Trong lịch sử triết học, thời gian (cùng với không gian) là một phạm trù
xuất hiện sớm. Cùng với không gian, thời gian gắn liền với vật chất và là
phương thức tồn tại của vật chất. Không có một dạng vật chất nào tồn tại ở
bên ngoài thời gian và không gian. Ngược lại, cũng không thể có thời gian và
không gian ở bên ngoài vật chất. Lê nin cho rằng: “Trong thế giới khách
quan không có gì khác tồn tại ngoài vật chất chuyển động và vật chất không
thể chuyển động ở đâu khác ngoài không gian và thời gian”. Ăng ghen cũng
khẳng định: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời
gian. Tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không
gian”[17]. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Duy vật, thời gian và
không gian tồn tại hoàn toàn khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con

người và là những khái niệm hoàn toàn độc lập với nhau.
Theo cuốn Hán Việt - giản yếu từ điển (Đào Duy Anh biên soạn):
“Thời gian chỉ ba trạng thái quá khứ, hiện tại và vị lai lưu chuyển với nhau
vô cùng” [2]
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa: “Thời gian là
hình thức tồn tại cơ bản của vật chất (cùng với không gian), trong đó vật chất
vận động và phát triển liên tục, không ngừng” [15].
Theo thi pháp học, thời gian là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật,
là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện
một quan niệm nhất định về cuộc sống. Thời gian nghệ thuật thể hiện quan
niệm về trật tự, thế giới và sự lựa chọn của con người.
Như vậy, mỗi ngành khoa học có một phương pháp, mục đích nghiên
cứu khác nhau nên có cách nhìn nhận, quan niệm không giống nhau về thời
gian. Thi pháp học xem xét thời gian trong tác phẩm văn học với tư cách là
một phạm trù nghệ thuật nên cũng sẽ có những đặc thù riêng. Bên cạnh thuộc

9


tính vật lý tự nhiên, thời gian trong tác phẩm văn học còn mang tính biểu
trưng và tính quan niệm.
Bàn về thời gian nghệ thuật, Giáo sư Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi
pháp học đã khẳng định: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể
nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với
nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian là hiện tại, quá khứ hay tương
lai” [16;77]. Trên thực tế không có hình tượng nghệ thuật nào không tồn tại
trong thời gian và bản thân người kể chuyện hay nhà thơ trữ tình cũng nhìn sự
vật bằng một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Khác với thời gian khách
quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược
quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một

khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô
tận. Thời gian nghệ thuật là hình tượng nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của tác
giả bằng phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người đọc thưởng thức, cảm
nhận được hoặc hồi hộp chờ đợi hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm chìm vào
quá khứ. Thiếu sự cảm thụ, tưởng tượng của người đọc thì thời gian nghệ
thuật là sáng tạo khách quan trong chất liệu. Nếu như mọi tác phẩm có thể
gây hiệu quả hồi hộp, đợi chờ thì đối với ai, lúc nào khi cảm thụ thời gian ấy
đều xuất hiện.
Như vậy, có thể thấy rằng thời gian nghệ thuật là một dạng tồn tại đặc
biệt, có quan hệ mật thiết với thời gian vật lý. Nếu như thời gian vật lý tồn tại
một cách khách quan bên ngoài ý thức của con người thì thời gian nghệ thuật
lại mang đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể sáng tạo. Đó là thời gian tinh thần
của con người, là thời gian sống mà con người cảm nhận. Hay nói cách khác,
thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ, nó gợi lên trong trí tưởng
tượng của chúng ta qua các tín hiệu ngôn từ và mang tính vận động rõ nét.

10


Ví dụ:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà...
Thời gian trong bài ca dao Tát nước đầu đình đều là thời gian mang tính
chất phiếm chỉ: hôm qua, đã lâu, mai, đến khi lấy chồng... mà tác giả dân gian
sử dụng làm phương tiện để giãi bày, thể hiện tình cảm của mình một cách ý
nhị, sâu sa, nhưng cũng vô cùng thông minh, dí dỏm. Để có dịp thổ lộ tình
yêu với cô gái, chàng trai mượn cớ quên áo, hỏi xin, nhân đó gợi chuyện làm
thân rồi lân la ngỏ ý cầu hôn. Câu chuyện bỏ quên áo trong bài ca dao Tát

nước đầu đình trên là hoàn toàn hư cấu. Hư cấu từ thời gian nghệ thuật cho
đến các tình tiết diễn ra trong bài ca dao. Nhưng cũng chính nhờ vào tài đặt
chuyện và dẫn chuyện một cách khéo léo, dí dỏm ấy mà chàng trai ở đây đã
bộc lộ được một sự thực, rất thực, là tình yêu trong sáng, thơ mộng, lãng mạn
và cũng rất trân trọng, đằm thắm của chàng đối với người bạn gái mà chàng
muốn cưới làm vợ. Có thể thấy bài ca dao trên đã rất thành công về nghệ thuật
dựng chuyện, cũng như nghệ thuật sử dụng những phương thức diễn đạt,
trong đó có thời gian nghệ thuật
Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ
điển thuật ngữ văn học cũng khẳng định thêm rằng: “Thời gian nghệ thuật là
hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó.
Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ
thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và
cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời
gian trần thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian
nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật” [5].

11


Tiến sĩ N.K. Gây đã nói về vai trò của thời gian nghệ thuật như sau:
“Tọa độ không gian và thời gian không chỉ ảnh hưởng đến khung tác phẩm
mà còn là một trong những phương tiện hoạt động của việc tổ chức nội dung
tác phẩm”[Dẫn theo tài liệu số 22]
Trong ca dao trữ tình, thời gian nghệ thuật là một yếu tố của chỉnh thể
nghệ thuật, Trần Thị An trên Tạp chí văn học số 6, 1990 đã viết về thời gian
nghệ thuật của ca dao như sau: “Dựa trên lối nói, lối nghĩ quen thuộc trong
cuộc sống hằng ngày của nhân dân ta, nó góp phần làm cho tâm trạng ấy
trở thành phổ biến cho tất cả mọi người, ở mọi thời điểm. Có thể nói thời
gian nghệ thuật là một tín hiệu thẩm mĩ quan trọng, giúp chúng ta có cái

nhìn toàn diện và sâu sắc về ca dao tình yêu nói chung và ca dao thề nguyền
nói riêng” [1].
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù thi pháp ngày càng quan trọng bởi
vì con người muốn cảm nhận toàn bộ thế giới qua thời gian và trong thời gian.
Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công cụ miêu tả, là sự ý thức và cảm
giác về sự vận động và thay đổi của thế giới trong các hình thức đa dạng của
thời gian và xuyên suốt toàn bộ nền văn hóa. Sự thụ cảm thời gian gắn liền
với ý thức về ý nghĩa của cuộc đời, với quan niệm về thế giới và lịch sử, với
ước mơ, lí tưởng và năng lực hoạt động của con người. Một cuộc đời có thể
trôi nhanh như một giấc mộng, một phút chờ đợi có thể dài như trăm năm, có
kẻ say sưa quên năm tháng, có người mãi mãi thiếu thời gian, lịch sử có khi
hàng trăm năm giẫm chân tại chỗ, có khi vùn vụt một ngày bằng hai mươi
năm…, ý thức về thời gian là ý thức về sự tồn tại của con người, phát hiện về
thời gian giúp con người nhận thức sâu sắc hơn về cuộc đời, về con người.
Mỗi thời kì văn học, mỗi dòng văn học, mỗi thể loại văn học khác nhau
lại có những cách cảm nhận và biểu hiện thời gian khác nhau. Song về cơ bản
có thể thấy thời gian nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với hình thức tổ chức

12


bên trong của hình tượng nghệ thuật. Nếu như ngòi bút chạy theo diễn biến sự
kiện thì thời gian trôi nhanh, khi nào dừng lại miêu tả chi tiết thì thời gian
chậm lại
Cùng với không gian nghệ thuật thì thời gian nghệ thuật là phạm trù cơ
bản trong thi pháp và thi pháp học. Thời gian nghệ thuật không đồng nhất với
thời gian trong cuộc sống mặc dù xuất phát điểm của nó là từ đời sống. Thời
gian nghệ thuật là sự phản ánh thời gian thông qua lăng kính chủ quan của
người nghệ sĩ . Nó phụ thuộc vào điểm nhìn nghệ thuật, quan niệm, sở thích,
ý muốn chủ quan của tác giả.

Ví dụ:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa
Cây đa, bến cũ còn lưa
Con đò năm ngoái, năm xưa đâu rồi?
“Năm ngoái” - thời gian mới đây, khi trở về, cô gái vẫn là của chàng trai.
Vậy mà cái “năm xưa” lại được đặt ở sau gây ra một nỗi buồn hun hút, một
sự hụt hẫng không diễn tả thành lời.
Tóm lại, qua một số ý kiến trên, có thể hiểu thời gian nghệ thuật là một
phạm trù của thi pháp học, thể hiện cái nhìn mang màu sắc tâm lý chủ quan
của người nghệ sĩ. Vì vậy nó mang tính chất đa dạng, phong phú, biểu hiện
chất sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ, cách cảm nhận, ứng xử đối với
cuộc sống theo quan điểm, ý đồ của tác giả. Trong thế giới nghệ thuật của nhà
văn thì thời gian là một trong những phương tiện hữu hiệu để tổ chức nội
dung của nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng
nghệ thuật, nó là thuộc tính tất yếu của hình tượng nghệ thuật. Vận động trên
cả ba chiều: quá khứ - hiện tại - tương lai, nhưng thời gian nghệ thuật không
nhất thiết phải theo trật tự vốn có của nó mà có thể đảo ngược trình tự thời
gian, thay đổi nhịp độ, thậm chí có thể bỏ qua một hay hai chiều vận động của

13


nó. Có nhiều cách chiếm lĩnh thời gian khác nhau. Như vậy, là một phạm trù
của thi pháp học, thời gian nghệ thuật là yếu tố quan trọng góp phần thể hiện
tư tưởng, tư duy, cái nhìn của tác giả về cuộc đời.
1.2. Biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong ca dao thề nguyền
Nếu như chúng ta quan niệm thơ là sự cảm thụ về thế giới và con người,
thì thời gian, không gian nghệ thuật chính là hình thức để con người cảm thụ
thế giới. Thời gian trong thơ ca cũng như trong các thể loại khác tuy có độ dài

ngắn, có quá khứ, hiện tại, tương lai nhưng đều là một phạm trù nghệ thuật.
Nó mang đầy tính ước lệ, chủ quan và thể hiện cách hiểu về thế giới con
người. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật của một hiện tượng văn học chính là tìm
hiểu cách cảm nhận cuộc sống một cách nghệ thuật và thẩm mĩ trong đó.
Thực tế ấy cho thấy ở mỗi nền văn hóa, mỗi hiện tượng văn học đều có các
hình thức biểu hiện thời gian đặc trưng. Để thấy hết cái đặc sắc của ca dao
cũng như tiếng lòng của người bình dân xưa trong ca dao chúng ta không thể
không tìm hiểu về các hình thức biểu hiện thời gian.
Nếu như thời gian trong sử thi là thời gian “khuyết sử”, thời gian lịch sử
đã được hư cấu, nhào nặn trở thành thời gian mang tính khái quát hàng trăm,
hàng nghìn năm đậm chất thần thoại. Thời gian trong truyền thuyết là thời
gian quá khứ xác định (“Vào thời An Dương Vương, vào thời Hai Bà
Trưng”…) Thời gian trong truyện cổ tích là thời gian quá khứ phiếm định
(“Ngày xửa ngày xưa”, “đã lâu lắm rồi”...). Còn trong ca dao, thời gian là
phương tiện biểu đạt trạng thái tâm hồn của con người nên mang tính phiếm
chỉ và nói chung nó vừa là thời gian hiện thực khách quan vừa là thời gian của
sự tưởng tượng, hư cấu mang tính chủ quan của nhân vật trữ tình. Sự có mặt
của thời gian nghệ thuật trong nhóm ca dao thề nguyền không tách rời đặc
điểm chung của thể loại, song nó còn mang nét riêng khác với các bộ phận ca
dao trong hệ thống.

14


1.2.1. Công thức miêu tả thời gian
1.2.1.1. Thời gian hiện tại
Trong thơ ca dân gian, thời gian của tác giả và thời gian của người đọc
hòa lẫn với thời gian diễn xướng. Thời gian ở đây là thời gian hiện tại. Đó
thời điểm, hay một khoảng thời gian xác định mà trạng thái nhân vật trữ tình
được bộc lộ. Thời gian hiện tại có thể là thời điểm bắt đầu của trạng thái hoặc

thời gian được tính đếm bằng con số cụ thể.
Qua khảo sát nhóm ca dao thề nguyền, chúng tôi thấy rằng thời gian hiện
tại có tần số xuất hiện ít, chỉ một vài câu. Ca dao nói chung và nhóm ca dao
thề nguyền nói riêng đều lấy thời gian hiện tại (tức là thời gian của tác giả và
thời gian của người đọc - người thưởng thức, hòa lẫn với thời gian của người
diễn xướng) làm thời gian nghệ thuật của mình. D.X. Likhatrôp trong cuốn
sách Thi pháp văn học Nga cổ [22] đã cho rằng đối với thơ ca dân gian, một
điều cần được chú ý đặc biệt khi nghiên cứu thời gian nghệ thuật đó là thời
gian diễn xướng. Tính chất độc đáo ở cách thể hiện thời gian là tác giả với tư
cách một cá thể, là một cái tôi trữ tình không được biểu lộ ra mà vai trò của
người diễn xướng rất quan trọng. Điều này cũng dễ hiểu, trước hết là vì lời ca
dao sáng tác là để diễn xướng trong một môi trường thời gian và không gian
nhất định. Người bình dân nhìn nhận thời gian như là phương tiện để bộc lộ
tình cảm. Cho nên, nhiều bài ca dao mà nhân vật trữ tình mượn thời gian như
một cái cớ để giãi bày, thổ lộ tình cảm.
Cái hiện tại của thời gian trong ca dao thề nguyền thường được đánh đấu
bằng các công thức, mô típ như: hôm nay, bây giờ, sáng ngày … Cũng có khi
nó là thời gian của quá khứ hoặc của tương lai, nhưng dù là lúc nào thì cũng
luôn được soi chiếu với hiện tại, do đó bài ca dao có cả sự vận động cảm xúc,
vận động thời gian:

15


Hôm nay sum họp trúc mai
Tình chung một khắc ngãi dài trăm năm
Vì ca dao là xúc cảm nên có lẽ trong cái hiện tại của thời gian nhiều lúc
nó lại chỉ là cái hiện tại của bề mặt ngôn từ. Khi nhìn nhận dưới góc độ của
tâm lý và cảm xúc, ta nên nhìn thời gian ở góc độ thời gian hiện tại (thời gian
gắn với các sự kiện) và thời gian tâm lý (thời gian ước lệ, thời gian trong tâm

tưởng, trong cảm xúc của con người). Thường thì trong ca dao cái gọi là thời
gian vật lý, thời gian sự kiện xuất hiện rất ít, sẽ là vô duyên nếu nó xuất hiện
chẳng để làm gì khác ngoài chức năng thông báo thời gian.
Ví dụ:
Hôm nay mười bốn mai rằm
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ
Trăm năm quyết đợi, quyết chờ
Dẫu mà tóc bạc như tơ cũng đành.
Thời điểm gặp gỡ đầu tiên hay thời điểm bắt đầu một tình yêu thường
khó quên. Đó cũng là thời điểm của sự lựa chọn.
Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết thương chàng cha mẹ nào hay
Tuy vậy “hôm nay” hay “từ khi” chỉ là những cụm từ mang tính chất
phiếm chỉ, diễn tả một quãng thời gian của hiện tại, của sự gặp gỡ và chia ly,
của những mối tình sống mãi với thời gian.
Cũng có khi thời điểm được liệt kê ra như một cái mốc của cuộc đời
những cái mốc của thời gian biểu thị sự chấp nhận:
Khi xưa gánh nặng anh chờ
Qua cầu em đợi, bây giờ quên nhau
Tuy nhiên, thời gian ở đây cũng không hoàn toàn là thời gian nào cụ thể
trong thực tại. Đó là do bản chất của tình yêu, tình yêu là cảm xúc mà cảm
xúc thì rất khó có thể nắm bắt được. Câu hát thề nguyền cất lên khi tình yêu

16


đã đạt đến độ chín muồi, vượt qua ranh giới của tình cảm nam nữ thông
thường, chính vì thế không thể có một giới hạn xác định nào về thời gian.
Như vậy có thể nói đặc điểm lớn nhất của thời gian nghệ thuật trong ca dao
tình yêu là ước lệ, nhằm diễn tả tâm lý và những diễn biến tình cảm nội tâm

của nhân vật.
1.2.1.2 Thời gian vĩnh hằng
Thời gian vĩnh hằng là thời gian trong sự kết hợp với con số phóng đại
hoặc trong cấu trúc giả thiết chỉ sự không giới hạn, để biểu đạt sự vĩnh cửu của
một trạng thái tình cảm nhân vật trữ tình. Thời gian vĩnh hằng được biểu thị
bằng các cụm từ: “ngàn năm”, “trăm năm”, “ngàn đời”, “một trăm năm”,…
Thời gian trong cấu trúc giả thiết chỉ sự không giới hạn được biểu hiện
bằng các cụm từ: “chín thu cũng..., mười năm cũng...”, “chín trăng cũng...,
mười năm cũng..., mấy trăng cũng...” thời gian vĩnh hằng thường được dùng
để biểu đạt lời thề thủy chung đợi chờ. Hầu hết các lời ca này đều nêu lên
điều kiện hay nguyên nhân đưa tới sự thề nguyền đó.
Thời gian ở đây vừa là một con số trừu tượng lại vừa cụ thể. Đó là “trăm
năm”- giới hạn của một đời người hay “ngàn năm”- cấp số nhân của thời
gian trăm năm ấy. Con số “trăm ngàn” bản thân nó đã chứa đựng số lượng
lớn, nhiều, tròn trịa, đầy đủ nên dùng là phương tiện biểu đạt thời gian, thước
đo sự son sắt, bền chặt của tình cảm.
Trong ca dao nguời Việt, thời gian vĩnh hằng được coi là phương tiện
hữu hiệu để biểu đạt lời thề thủy chung, chờ đợi:
Trăm năm ước nguyện chung tình
Trên trời dưới đất có mình có ta
Đôi khi nó cũng thể hiện tình cảm không thay đổi:
Trăm năm nát đá phai vàng
Nghìn năm ai có quên ai bao giờ

17


Câu ca dao trên có ba lần yếu tố thời gian xuất hiện, làm nên cấu tứ của
tác phẩm. Ở đây trăm năm, nghìn năm không còn là con số đơn thuần như
trong toán học, mà nó trở thành phương tiện để khẳng định sự thủy chung

trong tình yêu. Qua thời gian trăm năm những sự vật vốn rất khó thay đổi
cũng phải “nát”, phải “phai”. Vậy mà trải qua “nghìn năm” lòng người vẫn
chung thủy, vẹn nguyên. “Nghìn năm” là vô hạn, phải lấy đơn vị thời gian lâu
dài thăm thẳm ấy mới có thể đo được sự thủy chung của con người. Thời gian
và tình yêu giống nhau ở sự vĩnh hằng, vĩnh cửu. Sự vĩnh cửu của thời gian đã
trở thành minh chứng cho những mối tình thủy chung. Nó trở thành thước đo
của lòng người. Nếu bỏ đi yếu tố thời gian, bài ca dao sẽ không còn ý nghĩa,
nó sẽ không diễn đạt hết được tâm tư tình cảm của người bình dân xưa.
Đồng thời tác giả dân gian còn sử dụng yếu tố thời gian để thể hiện sự
gắn bó, ước hẹn của lứa đôi:
Hỏi thử anh biết tình nhân ngãi
Em đâu có ngại sự đợi chờ
Một lời hứa căn vặt tóc tơ
Trăm năm cũng chẳng hững hờ dạ riêng
Hay
Trăm năm giữ trọn lời nguyền
Sóng xô mược sóng, đảo thuyền mược ai
Tình em nghĩa rộng lâu dài
Lòng em nào phải hoa lài trôi sông.
Trong cách cảm, cách nghĩ và cách thể hiện của tác giả dân gian, những
cụm từ thời gian ngàn năm, trăm năm thường diễn đạt khái niệm trường cửu.
Vì vậy yếu tố thời gian vĩnh hằng xuất hiện tương đối phổ biến trong ca dao
thề nguyền.

18


- Trăm năm quyết đợi quyết chờ
Dẫu mà tóc bạc như tơ cũng đành.
Sông dài cá lội biệt tăm

Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.
- Trăm năm ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim...
- Trăm năm dạ ở đinh ninh,
Nào ai phụ ngãi quên tình mặc ai.
Ngoài ra còn có những từ, cụm từ dùng để chỉ tính vững bền dài lâu, có
khi vô hạn của thời gian cũng xuất hiện khá nhiều.
- Con đò với gốc đa
Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò.
- Mục bất kiến nhĩ tằng văn
Thấy em có nghĩa mấy trăng anh cũng chờ.
- Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
- Dây tơ hồng ai khéo vấn vương
Gặp nhau một bữa mà thương đời đời.
- Muối ba năm, muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Ca dao thường dùng các khoảng thời gian mặc dù mang tính cụ thể, định
lượng rõ ràng nhưng trên thực tế chỉ là những hình ảnh bóng bảy, đầy tính ẩn
dụ nhằm mục đích biểu đạt suy nghĩ, tình cảm của người bình dân. Quãng
thời gian ba năm, chín tháng, ba vạn sáu ngàn ngày hay chín trăng, mười
thu… nhằm khắc họa một khoảng thời gian có tính chất lâu dài, bền vững, ẩn
dụ cho tình cảm con người bền chặt, khó phai. Việc sử dụng các từ ngữ chỉ
thời gian kết hợp với các từ ngữ chỉ thuộc tính bền vững, hiển nhiên của sự

19



vật như: muối mặn, gừng cay và khoảng thời gian được tính bằng độ dài đời
người được sử dụng như khẳng định chân lý về sự thủy chung, son sắc trong
tình cảm con người.
Tình yêu trong những câu ca thề nguyền dường như muốn vượt ra ngoài
sự hữu hạn của thời gian. Các chàng trai, cô gái thiết tha khẳng định tình cảm
son sắt không bao giờ thay lòng đổi dạ của mình. Họ khao khát trường tồn
hóa, bất tử hóa tình yêu của mình trong thời gian vĩnh cửu của vũ trụ. Tầm
vóc tư tưởng con người trong tình yêu bỗng trở nên lớn lao và đẹp vô cùng.
Những cụm từ khi đăng đối, luyến láy, khi tăng tiến tiếp nối không ngừng vừa
nhấn mạnh mức độ sâu sắc của tình cảm lứa đôi, vừa khẳng định sự bền vững
lâu dài của nó giữa sự dòng chảy vô cùng, vô tận của thời gian cuộc đời. Cũng
có khi thời gian ấy còn được đo bằng tuổi tác:
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ tham phú quý, chớ cầu trăng hoa
Dẫu cho tuổi già có đến với con người theo quy luật sinh - lão -bệnh – tử
không gì có thể cưỡng nổi, nhưng tình yêu sẽ mãi trong sự nồng nàn, đằm
thắm, thủy chung. Đó là sức sống vĩnh hằng của tình yêu, là giá trị sâu sắc mà
ca dao thề nguyền đã đem đến cho chúng ta.
Như vậy dù dùng khái niệm thời gian vĩnh hằng để thề nguyền và khẳng
định sự vĩnh cửu của tình yêu, dân gian đã lấy thời gian làm thước đo của tình
cảm. Khẳng định tình yêu và lòng chung thủy không chỉ là thề mà còn là nhu
cầu được giãi bày, được khẳng định và mong ước về sự thủy chung của những
đôi lứa yêu nhau.
1.2.1.3. Thời gian lặp lại
Thời gian lặp lại là thời gian biểu thị dòng chảy diễn ra liên tục và lặp lại
nhiều lần của những khoảng thời gian trong một ngày. Ví dụ như sáng, trưa,
chiều, tối, đêm. Nếu như khoảng thời gian ngày ngày thường gắn với những

20



×