Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Các bài viết học tập TT Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.78 KB, 35 trang )

Bác Hồ rất quan tâm đến hoạt động hè và công tác Đội ở địa bàn dân cư
Bên cạnh công tác giáo dục trong nhà trường, công tác vận động và giáo dục
thiếu nhi ngoài nhà trường diễn ra sôi nổi nhất là vào dịp hè, tác động đến tất cả trẻ
em thuộc mọi đối tượng khác nhau: Trẻ em học sinh, trẻ em thất học, trẻ em lang
thang cơ nhỡ, mồ côi, không nơi nương tựa, trẻ em làm thuê, trẻ em tật nguyền hoặc
bị ảnh hưởng chất độc màu da cam…Ngoài giờ học ở trường, trẻ em thuộc về gia
đình, xã hội và được giáo dục trong môi trường gia đình, xã hội. Giáo dục thiếu nhi
ngoài nhà trường chiếm dung lượng rất lớn trong tổng thể công tác giáo dục, có ảnh
hưởng quyết định tới sự hình thành nhân cách của trẻ em. Trong thư gửi thiếu nhi
nhân ngày khai trường năm học độc lập đầu tiên tháng 9 năm 1945, Bác Hồ khuyên
thiếu nhi: “Các cháu, ngoài giờ học ở trường cũng nên tham gia vào các Hội nhi
đồng cứu quốc để tập luyện cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài
việc nhẹ nhàng trong cuộc giữ gìn đất nước”.
Khi gặp gỡ phát biểu với thiếu nhi, người luôn nhắc nhở thiếu nhi phải biết lao
động và tham gia các hoạt động xã hội. Theo Người, giáo dục thiếu nhi không phải
chỉ là giáo dục trong nhà trường mà còn là việc học tập, rèn luyện trong gia đình,
ngoài xã hội, tuổi nhỏ làm việc nhỏ miễn là có ích cho xã hội. Tháng 2-1948 Người
đề xướng phong trào hành động cách mạng của thiếu nhi lấy tên là “Phong trào
Trần Quốc Toản” nâng cao ý thức trách nhiệm công dân của thiếu nhi đối với xã
hội. Người căn dặn thiếu nhi “Trước giúp các nhà chiến sĩ, thương binh, lần lượt
giúp các nhà ít người… Sức các cháu làm được việc gì thì giúp việc ấy. Thí dụ:
quét nhà, gánh nước, lấy củi, xay lúa, giữ em, dạy chữ quốc ngữ”. Người nhìn nhân
lao động ở mục tiêu xa hơn, cao hơn “Các cháu nên hiểu rằng giúp đỡ đồng bào
nghĩa là tham gia kháng chiến. Và do đó các cháu sẽ luyện tập cái tinh thần siêng
năng và bác ái để sau này thành người công dân tốt của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”.
Vận đông, giáo dục thiếu nhi được người xem xét ở góc độ khoa học, tâm lý
học, dựa trên các quy luật phát triển và luôn tôn trọng nhu cầu chính đáng của thiếu
nhi. Người chỉ ra: “Học gắn liền với vui chơi, vui chơi lành mạnh là một bộ phận
trong sự sinh hoạt của thiếu nhi. Trong vui chơi cũng có giáo dục” và Người căn
dặn “Phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của


chúng. Chớ nên làm cho chúng hóa ra những người “già sớm”. Đặt vấn đề vui
chơi của thiếu nhi, gìn giữ sự hồn nhiên, trong sáng trẻ thơ ở đúng vị trí thì mới có
thể xây dựng được các nội dung, phương pháp giáo dục thiếu nhi đúng đắn, phù hợp,
hiệu quả…
Với cán bộ phụ trách thiếu nhi-lực lượng chính thực hiện công tác vận động,
giáo dục thiếu nhi ngoài nhà trường, Hồ Chí Minh đã căn dặn kỹ trong thư gửi Hội
nghị cán bộ phụ trách thiếu nhi tháng 11-1949 “Giáo dục thiếu nhi là một khoa học.
Vậy các bạn phải cố gắng học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm để tiến bộ mãi”
và cán bộ phụ trách thiếu nhi cần phải “Liên lạc mật thiết với cha mẹ và thầy giáo
của thiếu nhi”. Nổi lên trong phương pháp giáo dục thiếu nhi của Người là vấn đề
đa dạng hóa các hoạt động giáo dục thiếu nhi, gắn học tập với các sinh hoạt bình
thường của tuổi thiếu nhi, dạy thiếu nhi mọi kiến thức liên quan đến cuộc sống đời
thường “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thương đồng bào,
chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa”. Nghĩa là “Dạy chữ” phải
đi đôi với “Dạy người”, “Dạy người” là quan trọng nhất, cần thiết nhất.
Mặc dù đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh nhưng trung thu năm nào Bác
Hồ cũng vui Tết cùng thiếu nhi. Người lưu ý do đối tượng thiếu nhi ngoài nhà
trường đa dạng và phức tạp hơn so với thiếu nhi học sinh, các lực lượng xã hội phải
quan tâm đem lại cho tất cả các em cơ hội phát triển bình đẳng và động viên, giúp đỡ
thiếu nhi bị thiệt thòi. Để làm việc đó, Hồ Chí Minh yêu cầu “Chính phủ, các đoàn
thể và tất cả các đồng bào có trách nhiệm giúp sức vào việc giáo dục thiếu nhi.
Công việc ấy, phụ nữ và thanh niên phải là người phụ trách chính, nhất là thanh
niên”. Nói cách khác, công tác giáo dục thiếu nhi trên địa bàn dân cư phải được xã
hội hóa toàn diện và sâu sắc mới đạt kết quả.
Hiện nay càng ngày thiếu nhi nước ta càng được hưởng thụ những thành tựu
của sự nghiệp đổi mới, hoạt động hè và công tác đội trên địa bàn dân cư ngày càng
phong phú, hiệu quả hơn. Mặt khác công tác giáo dục thiếu nhi trên địa bàn dân cư
còn có nhiều bất cập về cơ sở vật chất, trang thiết bị dành cho hoạt động thiếu nhi.
Năng lực của cán bộ phụ trách thiếu nhi, cán bộ chăm sóc thiếu nhi chưa theo kịp
yêu cầu. Phương pháp, nội dung vận động và giáo dục thiếu nhi ở nhiều nơi chưa

đáp ứng sự chuyển biến về nhận thức, tâm lý thiếu nhi còn lạc hậu so với sự phát
triển đa dạng của đời sống xã hội. Thực tế trên đòi hỏi các cấp, các ngành cần có sự
đánh giá, nhìn nhận lại công tác tập hợp, vận động và giáo dục thiếu nhi ngoài nhà
trường trong tổng thể công tác chăm sóc, giáo dục thiếu nhi, trong tương quan giáo
dục trong nhà trường và ngoài nhà trường, trong điều kiện đổi mới giáo dục hiện nay
để có phương hướng đầu tư cho xứng đáng, ngang tầm với nhiệm vụ.
Tình cảm của Bác dành cho thanh niên
Sinh thời, Bác Hồ luôn quan tâm đến thanh niên, học sinh, sinh viên. Trong
Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết Nguyên đán năm 1946,
Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ
là mùa xuân của xã hội”. Bác đánh giá cao vai trò của thanh niên, học sinh, sinh viên
với tư cách là một lực lượng hăng hái trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
“Thanh niên sẽ làm chủ nước nhà. Phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh
niên” và “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết hợp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt
đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ”. Cách mạng Tháng
Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời. Trong thư gửi cho học
sinh nhân ngày khai trường mùa thu năm 1945, Bác Hồ đã dạy: “Từ giờ phút này trở
đi, các cháu được hưởng một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam… Non sông Việt
Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các
cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu”.
Trong những ngày đêm ác liệt, bộn bề công việc lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp nhưng khi được tin học sinh Vũ Chí Thành, đội viên đội cảm
tử quân, hy sinh ở Hà Nội ngày 20-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh liền viết thư chia
buồn với bác sĩ Vũ Đình Tụng, cha của liệt sĩ với những lời cảm động và đầy khích
lệ: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là
gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên
thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng
cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống
nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi: vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn

sống mãi với non sông Việt Nam…”.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, vừa mới trở về Thủ đô Hà
Nội, tuy bận trăm công nghìn việc, Bác Hồ vẫn theo dõi các hoạt động của tuổi trẻ
và phong trào học sinh, sinh viên. Ngày 18-12-1954, Bác đã đến thăm các thầy, cô
giáo và học sinh các trường Nguyễn Trãi, Trưng Vương, Chu Văn An. Bác dạy:
“Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên
cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng thì thanh niên mới được tự do. Vì vậy, thanh
niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc… Ngày nay ta đã được độc
lập, tự do, thanh niên mới thật là người chủ tương lai của nước nhà. Muốn xứng
đáng vai trò người chủ thì phải học tập”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn được triệu tập từ 25-10-
1956 đến 04-11-1956 tại Hà Nội, Bác Hồ đã đến dự. Tại Đại hội, Người ân cần căn
dặn đoàn viên, học sinh, sinh viên là: “Muốn đoàn kết củng cố và phát triển thì tất cả
đoàn viên phải làm gương mẫu:
- Phải giữ vững đạo đức cách mạng: phải khiêm tốn, cần cù hăng hái, dũng
cảm. Phải tránh tư tưởng kiêu ngạo, công thần, tự tư, tự lợi.
- Phải xung phong trong mọi công tác; xung phong là phải đi trước, làm trước
để lôi cuốn quần chúng, chứ không phải là xa rời quần chúng.
- Phải cố gắng học tập chính trị, văn hóa, nghề nghiệp để tiến bộ mãi, để sẵn
sàng trở thành cán bộ tốt, đảng viên tốt.
- Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh, khỏe mạnh thì mới đủ sức để tham
gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”.
Sự quan tâm chăm sóc và những lời dạy bảo ân cần, sâu sắc của Bác Hồ kính
yêu đã làm các đại biểu hết sức xúc động và thấm thía. Đại hội đã hứa với Bác sẽ ra
sức thực hiện tốt những lời Bác dạy, quyết phấn đấu không mệt mỏi cho lý tưởng
độc lập, tự do, thống nhất nước nhà và xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Bác đã chỉ cho
thanh niên, học sinh, sinh viên nước ta.
Bước sang năm 1960, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III được tổ chức từ ngày
23 đến 25-3-1961 tại Hà Nội. Đại hội đã vinh dự được đón Bác Hồ và đồng chí
Tổng bí thư Lê Duẩn đến thăm và nói chuyện. Người ân cần chỉ ra cho toàn thể cán

bộ, đoàn viên và thanh niên phương hướng tu dưỡng rèn luyện về mọi mặt công tác
của Đoàn: Thanh niên “cần phải làm đầu tàu, làm gương mẫu trong phong trào thi
đua yêu nước. Phải thực hiện khẩu hiệu: “Đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì
khó có thanh niên làm”. Bác dạy: “Thanh niên phải cố gắng học… Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần
phải học lý luận Mác-Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày… Học đi
đôi với hành”. Những lời dạy bảo quý báu của Bác Hồ tại Đại hội thể hiện sự quan
tâm đặc biệt của Bác đối với vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hậu bị cho Đảng.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thanh niên, học sinh, sinh
viên miền Bắc thực hiện phong trào “Ba sẵn sàng”. Bác Hồ luôn theo dõi sự phát
triển của phong trào “Ba sẵn sàng”, Người kêu gọi thanh niên, học sinh, sinh viên:
“Các cháu thanh niên, gái cũng như trai, hãy thực hiện tốt “Ba sẵn sàng”, xung
phong dâng tất cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội”. Khi tuổi trẻ lập được chiến công, Bác khen
ngợi: “Bác rất vui lòng khen ngợi các cháu thanh niên trong cả nước… các cháu là
thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng. Bác mong các cháu đều xứng đáng là
những anh hùng trong sự nghiệp cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc và xây dựng
xã hội mới”. Tại lễ kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn (26-3-1966), Bác Hồ và
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước (Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng)
… đã đến với tuổi trẻ. Bác Hồ dạy: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên
cường chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Bác rất tự hào, sung sướng và thấy mình trẻ
lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”. Tuân theo lời Bác
dạy, nhân ngày truyền thống vẻ vang của Đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn
đã ra lời kêu gọi đoàn viên, thanh niên phát huy khí thế “Ba sẵn sàng”, hăng hái tiến
lên hàng đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
quyết tâm đem lá cờ trăm trận trăm thắng của Đảng và Bác Hồ vĩ đại đi tới đích
thắng lợi cuối cùng.
Năm 1969, dù sức khỏe đã yếu, Bác Hồ vẫn thường xuyên theo dõi tin tức hoạt
động học tập và lao động tại các nhà trường. Người rất vui khi biết học sinh Việt

Nam trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt vẫn cố gắng học tập và lao động sản xuất.
Chiều 19-5-1969, sau khi các thầy thuốc kiểm tra xong sức khỏe, Bác Hồ viết thư
khen các cháu học sinh thôn Phú Mẫn, Yên Phương, Bắc Ninh. Bức thư có đoạn:
“Bác rất vui lòng biết các cháu vừa học tập tốt vừa tham gia sản xuất tốt… Các cháu
là những người chủ tương lai của nước nhà. Bác mong các cháu luôn luôn cố gắng
hơn nữa. Bác cũng mong các cháu thiếu niên ở những địa phương khác làm theo các
bạn nhỏ ở hợp tác xã măng non Phú Mẫn”.
Ngày Quốc khánh 2-9 năm 1969 là ngày toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và
thanh niên, học sinh, sinh viên cả nước chịu một tổn thất lớn lao, không thể bù đắp:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam qua đời. Vĩnh biệt
chúng ta, Bác Hồ đã để lại cho thanh niên, học sinh, sinh viên Việt Nam “Muôn vàn
tình thân yêu”. Người đánh giá: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi
việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ” và căn dặn:
“Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Trải qua hơn 76 năm đấu tranh oanh liệt, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và
đoàn viên, thanh niên Việt Nam luôn được sự lãnh đạo chăm sóc trực tiếp của Đảng
và Bác Hồ. Đánh giá đúng đắn khả năng cách mạng to lớn của thanh niên, học sinh,
sinh viên, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu đặc biệt quan tâm tổ chức, bồi dưỡng đoàn
viên, thanh niên, học sinh, sinh viên thành đội quân xung kích của cách mạng, lực
lượng hậu bị của Đảng nhằm kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của giai cấp
và dân tộc. Từ “Bức thư tâm huyết” gửi thanh niên Việt Nam hồi đầu thế kỷ đến lời
“Di chúc” cuối cùng, Bác Hồ luôn dành cho học sinh, sinh viên Việt Nam tình cảm
thương yêu trìu mến và sự chăm sóc ân cần lớn lao. Tình cảm của Bác Hồ đối với
thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên nước ta như cha đối với con, Bác đối với cháu. Công
ơn của Người và của Đảng đối với học sinh, sinh viên nước ta như trời cao biển
rộng. Tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người mãi mãi khắc sâu trong
muôn triệu trái tim của các thế hệ học sinh, sinh viên nguyện chiến đấu và chiến
thắng dưới ngọn cờ vẻ vang của Người.

Bác Hồ với tết kháng chiến đầu tiên
Xuân Đinh Hợi 1947 đến giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược vừa bùng nổ trên phạm vi cả nước. Tình hình trong Nam ngoài Bắc hết sức
căng thẳng. Với âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh, giặc Pháp điên cuồng tấn công ta
ở nhiều nơi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ sáng suốt đề ra
đường lối kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Vừa kiên
quyết bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, Bác Hồ vừa nỗ lực tìm kiếm các giải pháp
hòa bình. Chỉ riêng năm 1947, Bác đã trực tiếp viết hàng chục lá thư gửi đến các vị
cầm đầu Chính phủ Pháp, nhằm tìm cách thương lượng, tránh gây đổ máu cho cả hai
bên. Ngày 1-1 (1947), Người viết thư gửi cho Chính phủ, Quốc hội và nhân dân
Pháp, nêu rõ: “Nhân dân Việt Nam chỉ muốn hòa bình, một nền hòa bình thực sự để
kiến thiết quốc gia với sự cộng tác của những người Pháp chân chính”.
Tiếp đó, ngày 10-1, Người lại viết lời kêu gọi gửi Chính phủ Pháp, khẳng định:
“Chúng tôi bao giờ cũng muốn độc lập… chúng tôi bao giờ cũng muốn kiến thiết lại
đất nước. Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và người Việt ngừng
chảy. Những dòng máu đỏ, chúng tôi đều quý như nhau”.
Đến ngày 18-1, Người lại gửi một bức thư cho Tổng thống Pháp Vanh Xay
Ôrion. Bức thư có đoạn: “Chúng ta có thể và chúng ta phải đi tới hòa bình để cứu
sống cho bao thanh niên Pháp-Việt… Chúng tôi xin đề nghị cùng Ngài lập ngay một
nền hòa bình để tránh cho hai nước chúng ta khỏi bị hao người, thiệt của”.
Đúng một tháng sau, ngày 18-2, Bác lại gửi thư tiếp cho Chính phủ và nhân dân
Pháp khẳng định: “Nước Pháp nhất định tiếp tục một cuộc chiến tranh, nước Pháp sẽ
mất hết mà không thu được lợi gì, bởi vì chiến tranh chỉ đưa tới chỗ gây căm hờn,
thù oán giữa hai dân tộc chúng ta”.
Nhân dịp năm mới, Bác viết lời chúc mừng gửi đến đồng bào, chiến sĩ cả nước,
nêu rõ ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, “Dù phải hy sinh 4 triệu hay 8 triệu
người mà nước ta được độc lập, dân ta được tự do, tổ tiên ta được vẻ vang, con cháu
ta được hạnh phúc cũng còn hơn chịu cúi đầu mà làm nô lệ cho thực dân Pháp muôn
đời”. Tết Đinh Hợi 1947 là tết kháng chiến đầu tiên của cả nước, Bác viết thư kêu

gọi đồng bào: “Tết năm nay là tết kháng chiến. Các chiến sĩ ở tiền phương đang chịu
đói rét, đem xương máu để giữ gìn Tổ quốc. Bác kêu gọi toàn thể đồng bào phải hết
sức tiết kiệm để dành tiền bạc, cơm gạo cho cuộc kháng chiến lâu dài”.
Bác còn viết thư chúc tết riêng đối với đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ-những
người đã đi tiên phong trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tối ngày 21-1-1947, tức 30 tết Đinh Hợi, Bác đi dự phiên họp tất niên của Hội
đồng Chính phủ, đến 22 giờ rưỡi, Bác đến Đài Tiếng nói Việt Nam đặt ở chùa Trầm
(Hà Tây) để đọc lời chúc mừng năm mới. Trên đường đi, trời mưa, đường trơn, xe
trượt xuống ruộng, phải nhờ nhân dân địa phương đến đẩy lên. Khi Bác đến chùa
Trầm thì đã gần 12 giờ đêm. Bác bước vào phòng phát thanh, đọc bài thơ chúc tết
gửi đồng bào cả nước:
Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
Tiếng kèn xung trận vang dội non sông
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập, nhất định thành công!
Sau đó, Bác nói chuyện và chúc tết cán bộ, nhân viên Đài Tiếng nói Việt Nam.
Gần 1 giờ ngày mồng 1 tết Đinh Hợi, trời vẫn mưa to, Bác và cả đoàn tùy tùng lên
xe trở về. Dọc đường, xe lại bị trượt xuống ruộng và chết máy. Anh lái xe hì hục sửa
hồi lâu vẫn không được. Cả đoàn đành cuốc bộ trở về (chỉ để người tài xế ở lại trông
xe).
Đến tờ mờ sáng, Bác mới về tới nhà. Chợp mắt được một lát, mọi người đã thấy
Bác trở dậy, chăm chú ngồi làm việc!
Bác Hồ đấu trí với kẻ thù

Nhân dân ta giành được chính quyền chưa được bao lâu, thực dân Pháp quay
lại xâm lược nhằm áp bức bóc lột nhân dân ta một lần nữa. Trước ngày toàn quốc

kháng chiến bùng nổ, tình hình nước ta vô cùng phức tạp. Lão nghệ sĩ nhiếp ảnh-
quay phim Kim Côn nguyên phóng viên nhiếp ảnh phủ Thủ Tướng nay đã ở tuổi
ngót 80, kể cho tôi vài chuyện Bác Hồ đấu trí trong giao tiếp trước những xảo quyệt
của kẻ thù thực dân Pháp ngày ấy.
Ngày 17-3-1946, Đác-giăng-li-ơ (D’Argenlieu-một thầy tu khoác áo lính) là
Đô đốc Tổng chỉ huy quân đội Pháp toàn Đông Dương trình lên Chủ tịch Hồ Chí
Minh lá thư ngỏ xin được gặp Chủ tịch vào ngày 24-3-1946 tại tuần dương hạm “Đô
đốc Ê-min Bec-tanh” (Emile Bertin) để chuyển Quốc thư của Chính phủ Pháp chính
thức mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp với tư cách là Thượng khách
của nước Pháp.
Đúng 9 giờ ngày 24-3-1946, Bác Hồ đến. Lễ đón theo nghi thức Quốc gia rất
“trọng thể”. Thật ra là chúng ngầm ý biểu dương sức mạnh. Bác Hồ duyệt đội quân
danh dự hải quân Pháp tại quân cảng Hải Phòng rồi ung dung bước xuống chiếc ca-
nô bọc thép chăng đèn kết hoa ra tuần dương hạm đậu ở hang Đầu Gỗ.
Ống kính, máy ảnh, quay phim nhăm nhăm chờ giây phút Đô đốc Đác-giăng-li-
ơ từ trên boong đưa tay xuống “đỡ” Bác Hồ lên Boong. Như bước vào nơi không
người. Bác Hồ thản nhiên nhìn xuống đôi dép cao su. Khi đã ở tư thế đàng hoàng
trên boong tàu, Bác mới đưa tay ra bắt tay viên Đô đốc cáo già. Ba binh chủng Hải-
Lục-Không quân đồng loạt hô to: Vi-vơ Hồ Chí Minh (Vive Ho Chi Minh: Hoan hô
Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Các chiến hạm nối nhau diễn quanh tuần dương hạm “để bảo vệ” (Thật ra là
chúng ngầm ý biểu dương sức mạnh). Bác Hồ chỉ tay xuống nói với viên Đô đốc:
“Những tàu chiến này không thể vào sông ngòi nước chúng tôi được!”.
Theo lệnh của viên Đô đốc, các sĩ quan ngồi vây quanh Bác Hồ thành hình một cái
khung. Viên Đô đốc ỡm ờ nói: “Thưa Chủ tịch, ngài đã bị Hải-Lục-Không quân
Pháp đóng khung” (Hàm ý đã bị bao vây). Mắt Bác Hồ ánh lên nét giễu cợt, nói:
“Cái khung càng làm nổi bật bức tranh”.
Hơn 2 tháng sau, sáng 31-5-1946, 2 máy bay Đakôta mà nhân dân ta thường
giễu là máy bay “bà già” chở Phái bộ ta và Bác Hồ cất cánh từ sân bay Gia Lâm
sang Pháp. Một chiếc dành chở Bác là thượng khách của nước Pháp. Tháp tùng Bác

có Đại tá-Thư ký Vũ Đình Huỳnh. Phía Pháp có tướng Sa-lăng. Một chiếc chở Phái
bộ ta sang đàm phán với Chính phủ Pháp tại Phông-ten-nơ-blô (Fontainebleau).
Đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu Phái bộ.
Những ngày làm thượng khách của nước Pháp, bên cạnh chỉ đạo Phái bộ ta,
Bác Hồ tranh thủ mọi cơ hội để gây dư luận và tranh thủ cảm tình nhân dân Pháp và
Quốc tế đồng tình, ủng hộ cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa của nhân dân Việt
Nam.
Hội nghị Phông-ten-nơ-blô thất bại sau 5 tháng kéo dài giằng co, Bác Hồ và Phái bộ
ta về nước bằng đường biển (thâm ý của thực dân Pháp là kéo dài ngày lênh đênh
trên biển để chúng thực hiện âm mưu xâm lược). Sáng 20-10-1946 con tàu Đuy-
mông Đuếc-vin (Dumont D’urville) chở Bác và Phái bộ ta về tới Tổ quốc. Thuyền
trưởng báo cáo Bác Hồ: “Báo cáo Chủ tịch, tôi đã nhìn thấy đất liền Hải Phòng”.
Bác yêu cầu thuyền trưởng cho kéo Quốc kỳ Việt Nam lên cột tàu. Viên thuyền
trưởng “khôn khéo” nói: “Thật lấy làm tiếc! Vì không chuẩn bị trước cho sự kiện
này nên chúng tôi không đem theo cờ Việt Nam”. Bác Hồ quay lại nói với người
Thư ký của mình-đồng chí Đại tá Vũ Đình Huỳnh: “Chú Huỳnh, trước ngày lên
đường… Bác đã nhắc chú đem theo lá cờ Tổ quốc… Chính là để dùng vào lúc này
đấy!”. Bây giờ người thư ký mới vỡ lẽ và ngầm kính phục tầm nhìn xa của Bác.
Lá cờ đỏ sao vàng linh hồn của Tổ quốc từ từ kéo lên kỳ đài con tàu giữa biển
trời quê hương xanh ngắt trong những hồi còi tàu rúc lên thông báo tàu cập bến.
Trên đất liền, còi Nhà hát lớn Hải Phòng rền vang, 24 loạt sơn pháo gầm trời đón
chào và loan tin với đồng bào cả nước Bác Hồ đã đi đến nơi về đến chốn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Trong cuộc đời hoạt động Cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề
xây dựng đạo đức Cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người Cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía về
vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người, trong suốt cuộc đời, đã thực hiện một cách
mẫu mực những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức, những phẩm chất đạo đức được Người nêu ra là phù hợp với
từng đối tượng, có khi Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác nhằm

đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn nhất định. Từ
đó, Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người
Việt Nam trong thời đại mới là: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người;
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Trong những
phẩm chất đó thì phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được Người đề
cập nhiều nhất bởi phẩm chất này gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người,
gắn liền giữa lời nói và việc làm, giữa suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân trong
việc công cũng như đời tư, trong sinh hoạt cũng như công tác. Vậy cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích ý nghĩa và mối liên
quan của những từ này một cách đơn giản, rõ ràng và rất dễ hiểu.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai; lao động
với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Cần còn là làm việc một cách thông
minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học. Theo Bác, con người có đức cần thì việc gì,
dù khó khăn đến mấy, cũng làm được. Đúng như câu tục ngữ kiến tha lâu cũng đầy
tổ, nước chảy mãi đá cũng mòn. Bác lưu ý, kẻ địch của chữ Cần là lười biếng. Bác
cho rằng nếu có một người, một địa phương hoặc một ngành mà lười biếng thì khác
nào toàn chuyến xe đang chạy, mà có một bánh trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm
chậm trễ cả một chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng là có tội với đồng bào, Tổ
quốc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của dân,
của nước, của bản thân; phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái nhỏ, không phô trương hình
thức, không xa xỉ, hoang phí. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của
con người. Cần mà không Kiệm thì như gió vào nhà trống, như nước đổ vào cái
thùng không đáy, làm chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm và không phát triển được. Bác giải thích,
tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không đáng tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng
xu cũng không nên tiêu, nhưng khi có việc cần làm lợi cho dân, cho nước thì hao
bao nhiêu của, tốn bao nhiêu công cũng vui lòng, như thế mới là kiệm.
Liêm nghĩa là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân,
không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người

tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà
quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Bác đã nhắc lại một số ý kiến của các
bậc hiền triết ngày trước: Khổng Tử nói: “Người mà không Liêm thì không bằng súc
vật”; Mạnh Tử cho rằng: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”. Do vậy, Bác yêu cầu
mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện tốt chữ Liêm. Chữ Liêm và chữ
Kiệm phải đi đôi với nhau như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm thì mới
Liêm được, bởi xa xỉ ắt sinh tham lam, không giữ được Liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược
lại với chữ Liêm là tham ô, là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít
mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương
mình. Tham ô là trộm cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn Liêm thật sự thì phải
chống tham ô.
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Theo Bác, trên trái đất có hàng
muôn triệu người, trong số người đó chỉ có thể chia làm hai hạng là người thiện và
người ác. Trong xã hội, tuy có trăm nghìn công việc song những công việc ấy có thể
chia làm hai thứ là việc chính, việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là
người ác. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
Mỗi ngày cố làm một việc ích nước, lợi nhà. Bác khẳng định: cần, kiệm, liêm là gốc
rễ của Chính, như một cái cây cần có cành lá, hoa quả mới là một cây hoàn toàn.
Con người có cần, kiệm, liêm nhưng cần phải Chính thì mới hoàn chỉnh.
Chí công vô tư nghĩa là khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước,
khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Thực chất
của chí công vô tư ở đây chính là thể hiện mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi
ích tập thể, thể hiện thái độ, trách nhiệm của mỗi người đối với công việc được giao.
Chí công vô tư còn là ham làm những gì có lợi cho dân, cho nước, không ham địa vị,
không màng công danh, vinh hoa phú quý. Chí công vô tư thì lòng dạ thanh thản,
đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Đối lập với Chí công vô tư là chủ nghĩa cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra hàng trăm thứ bệnh con, hàng trăm thói hư, tật xấu.
Bác coi đó là thứ giặc ở trong lòng, tội cũng nặng như tội việt gian, mật thám vậy.
Thực hành Chí công vô tư là kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo
đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài viết, bài báo để phân tích, giải thích
sinh động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
đồng thời chỉ ra quan hệ giữa chúng với nhau. Bác coi đó không phải chỉ là phẩm
chất của cá nhân mà còn của cả tập thể, của cả dân tộc. Do vậy, Người yêu cầu mỗi
người dân Việt Nam đều phải rèn luyện, tu dưỡng theo các phẩm chất trên, đặc biệt
là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người vẫn
còn căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”. Thắng lợi của Cách mạng Việt Nam gần tám thập kỷ
qua có vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay nước ta đang bước vào
thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thì sự vận dụng đúng đắn và sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người
lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

LTS: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới thiếu niên nhi đồng.
Trong mỗi dịp lễ tết Người luôn dành cho các em thơ những món quà ấm áp tình
yêu thương. Cho đến nay, những lời Người căn dặn về việc quan tâm chăm sóc
thiếu niên nhi đồng luôn được Đảng và Nhà nước ta phấn đấu thực hiện tốt. Nhân
dịp tháng hành động vì trẻ em Việt Nam, tạp chí Người phụ trách trích giới thiệu
những lời dạy của Người.
Suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã dành tình thương yêu và sự
quan tâm đặc biệt cho trẻ em:
“Ai yêu các Nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh…”
Trong kho tàng di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta đã biết được hàng
trăm bài nói, bài viết của Bác Hồ dành cho thiếu niên nhi đồng cũng như công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Qua đó chúng ta đã hiểu được tình thương yêu
của Bác dành cho trẻ em thật vô bờ bến. Tình thương đó bắt nguồn từ lý tưởng của

Bác: Suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người,
mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Trong khi đất nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, chúng đã dùng chính sách “làm
cho u mê để thống trị”, không mở trường học cho con em các thuộc địa. Bác đã gửi
bài đăng trên báo L’Humanite’ ngày 5-2-1923 như sau:
“… Mỗi năm, cứ đến ngày khai trường các bậc cha mẹ dù có đi gõ cửa khắp
nơi, cầu xin mọi sự giúp đỡ, thậm chí xin nộp gấp đôi tiền ăn học mà họ vẫn không
gửi được con cái đến trường và những đứa trẻ này, có đến hàng nghìn, bị đày vào
cảnh ngu dốt chỉ vì không có đủ trường sở cho chúng đi học…”.
Sự quan tâm đặc biệt của Người dành cho trẻ em còn bắt nguồn từ tầm nhìn xa
trong chiến lược con người “vì lợi ích trăm năm”. Vì vậy trước khi Đảng ta ra đời,
Bác đã bồi dưỡng một nhóm thiếu nhi Việt Nam tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Ngày 22-7-1926 Người đã viết một bức thư gửi cho Ủy ban Trung ương thiếu nhi
Liên Xô và một bức gửi đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Pháp tại Quốc tế thanh
niên Cộng sản để gửi các em đến Matxcơva học tập.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước VNDCCH ra đời, dù
bận trăm nghìn công việc nhưng Bác đã viết một bức thư “Tết Trung thu với nền độc
lập” đăng trên báo Cứu quốc số 45 ngày 17-9-1945. Tiếp đó Bác lại viết “Thư gửi
thiếu nhi Việt Nam dân chủ cộng hòa” đăng trên báo Cứu quốc số 49 ngày 22-9-
1945. Đến ngày khai trường (9-1945) Bác lại có thư gửi các cháu học sinh. Từ đó trở
đi, dù ở căn cứ kháng chiến trong núi rừng Việt Bắc cũng như khi đã về Hà Nội,
hàng năm Bác đều có thư gửi cho các cháu thiếu niên nhi đồng vào dịp tết Trung thu
hoặc ngày khai trường.
Trong các bài nói, bài viết của Bác về vấn đề này, không chỉ chứa đựng những
tư tưởng, quan điểm cơ bản mà còn cả những lời chỉ bảo ân cần rất cụ thể và gần gũi
với thực tế công tác bảo vệ, chăm sóc về mọi mặt: Sức khỏe, học tập, vui chơi giải
trí và hoạt động Đoàn, Đội. Đặc biệt Người rất quan tâm đến ý kiến, sáng kiến của
chính các em và đặt niềm tin yêu vào các em.
“… Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính

là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em…”
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Đội thiếu niên tiền phong
(15/5/1941-15/5/1961), Bác đã có thư gửi Thiếu niên nhi đồng toàn quốc đăng trên
báo Nhân dân số 2610 ngày 14-5-1961. Trong thư Bác đã đề ra 5 điều cho các cháu
thực hiện. Từ đó “Năm điều Bác Hồ dạy” được các thế hệ thiếu niên nhi đồng cả
nước tiếp nhận làm nội dung cơ bản để phấn đấu rèn luyện trở thành “cháu ngoan
Bác Hồ”.
Thấm nhuần tư tưởng của Bác “Chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân”, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thường xuyên quan
tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Năm 1991 Quốc hội đã thông
qua “Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Ngày 30-5-1994 Ban bí thư Trung
ương Đảng (khóa VII) đã ra Chỉ thị số 38CT/TW “về công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em”. Ngày 30-7-1998, Thường vụ Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ra thông
tri số 04-TT/TW “về việc tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em”. Đây là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng, nó đòi hỏi “Các Đảng ủy, Ủy
ban thiếu niên nhi đồng, Đoàn thanh niên, ngành Giáo dục và các ngành, các đoàn
thể phải có kế hoạch thật cụ thể chăm sóc các cháu ngày càng khỏe mạnh và tiến bộ.
Các Tỉnh ủy, Thành ủy cần phải phụ trách, đôn đốc việc này cho có kết quả tốt…”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em giờ
đây và mãi về sau vẫn giữ nguyên giá trị của nó và hoàn toàn phù hợp với quan điểm
của thời đại: “Trẻ em hôm nay-Thế giới ngày mai”.
Ngày xuân nghĩ về nếp sống giản dị, tiết kiệm của Bác Hồ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nếp sống hết sức giản dị, tiết kiệm. Sự
giản dị, tiết kiệm ấy mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho muôn thế hệ noi theo, nhất
là trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí hiện nay. Xin sưu tập những
mẩu chuyện hết sức tiêu biểu về tinh thần tiết kiệm của Bác phục vụ bạn đọc.
* Sau khi tiếp quản Thủ đô (10-1954), Trung ương bố trí Bác ở và làm việc
trong một ngôi nhà cao tầng, đồ sộ, vốn là nơi ở của viên Toàn quyền Đông Dương.
Bác không đồng ý và sau đó đã chọn một căn phòng nhỏ trước đây là nơi ở của
người thợ điện trong phủ toàn quyền, đồng thời bảo anh em phục vụ quét dọn ngôi

nhà đồ sộ ấy để làm nơi vui chơi cho các cháu thiếu nhi. Chỉ một việc ấy thôi, nhưng
đã có bao điều đáng nói: Không ham lầu son gác tía, gần gũi với nhân dân lao động,
dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em… Ấy vậy mà, ngày nay nhiều vị cán bộ có
chức quyền nỡ dùng công quỹ để mua sắm trang bị cho cá nhân mình và phòng làm
việc của mình phải hơn xa những người khác và khác hẳn các phòng khác trong cơ
quan!
* Thấy đôi dép cao su của Bác đã cũ, anh em phục vụ đề nghị cho thay dép
mới, nhưng Bác chưa đồng ý, vì thấy dép vẫn còn dùng được. Có người mạnh dạn
thưa với Bác là một đôi dép mới chỉ có hai đồng rưỡi, đâu nhiều nhặn gì mà phải
phân vân. Nhưng Bác đã giải thích: “Vấn đề không phải là hai đồng rưỡi mà phải
xem là đã cần thay dép mới chưa? Đôi dép của Bác còn dùng được thì chưa nên
thay!”.
Ôi! Một đôi dép chỉ có hai đồng rưỡi mà Bác vẫn cân nhắc là còn dùng được
thì chưa nên thay. Thế mà, bây giờ có nhiều cán bộ đi chiếc ô tô hàng tỷ đồng mà
thấy “hơi cũ cũ” là đã xuất công quỹ để sắm chiếc khác xịn hơn. cũng không ít
người mới lên chức “thủ trưởng cơ quan”, chưa làm được điều gì có ích cho tập thể
đã vội chi hàng chục triệu, hàng trăm triệu để thay bảng tên, chỉnh cửa phòng, đổi
kiểu cổng để “tạo dấu ấn”. Và còn biết bao chuyện xa hoa, phung phí mà có chép cả
nghìn trang giấy cũng không hết!
* Khi đi thăm các địa phương, Bác bảo anh em phục vụ chuẩn bị cơm mang
theo, hễ lúc nào thuận tiện thì dừng lại ăn cơm. Theo Bác, xuống thăm các địa
phương, đơn vị là để nắm tình hình thực tế và góp ý, nhắc nhở về các công việc, chứ
không phải xuống dự tiệc tùng, gây tốn kém. Bác còn nói vui: “Để tỉnh chiêu đãi thì
họ cho mình ăn một nhưng sẽ hết cả con bò. Nếu Bác đến thăm bốn tỉnh như vậy thì
kinh tế sẽ lạm phát”. Có tỉnh nọ mặc dù đã được báo trước là Bác có mang cơm
theo, nhưng vẫn sắm sửa cỗ bàn thịnh soạn. Khi được mời, Bác kiên quyết không ăn
mà còn phê bình rất nghiêm.
Ngẫm về việc Bác Hồ mang cơm theo khi xuống thăm các địa phương và liên
hệ với thực tế hiện nay, cảm thấy thật là xót xa! Rất nhiều cán bộ cấp trên chưa đi đã
cho điện xuống trước để cấp dưới chuẩn bị cỗ, thậm chí còn gợi ý sếp thích những

món gì. Đến khi xuống, chỉ làm việc đâu chừng chưa hết buổi sáng, rồi đưa nhau ra
nhà hàng, ngồi cà kê nâng lên đặt xuống suốt từ trưa đến tối…
Chính vì vậy, vừa qua Bộ Chính trị đã ra Quyết định số 35-QĐ/T.Ư thành lập
Ban chỉ đạo T.Ư cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí
Minh” là hết sức cần thiết, để những lời dạy, những việc làm cụ thể của Bác về vấn
đề tiết kiệm cần được ôn lại, soi lại và làm cho nó bừng sáng trong lòng từng cán bộ,
đảng viên.

×