LỊCH SỬ ĐỘI TNTP HỒ CHÍ MINH
Mở đầu
TRUYỀN THỐNG “TUỔI NHỎ CHÍ LỚN” CỦA CON TRẺ VIỆT NAM
Trên thế giới hiếm có một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam ta, trong tâm
thức của mọi thế hệ từ đời này đến đời khác đều khắc sâu dấu ấn những hình
tượng truyền thuyết để cắt nghĩa cội nguồn và sức sống của dân tộc mình.
Dân ta luôn tâm niệm công ơn mở nước của vua Hùng được tôn phong là
Quốc tổ. Dân ta còn sùng kính thần tượng Bà mẹ trong tín ngưỡng dân gian "thờ
Mẫu" rất gần với lòng yêu kính người mẹ trong đời thường. Nét đặc sắc nữa là dân
ta còn có người anh hùng làng Gióng lên ba đánh giặc được vua phong là Thiên
vương còn dân phong là đức Thánh, được hiển thánh, muôn thuở tôn vinh trong sử
sách và trong lòng người.
Chuyện kể rằng; về đời vua Hùng thứ sáu, đất nước đang yên bình, thì giặc
Ân từ phương Bắc tràn xuống mưu toan xâm lược. Được thần linh mách bảo, vua
Hùng bèn sai sứ đi khắp nơi kêu cầu hiền tài ra giúp nước. ở làng Phù Đổng (xưa là
huyện Võ Ninh, nay là Võ Giàng) có cậu bé lên ba, chưa biết nói và vẫn còn phải ẵm
ngửa, nghe lời sứ rao bỗng bật thành lời sai sứ về tâu với vua đúc ngựa sắt, rèn roi
sắt, nón sắt nhận lời đánh giặc... Vua lập tức sai rèn đúc vũ khí, còn dân thì góp
gạo, góp vải chu tất cho kịp sức lớn vùn vụt của cậu bé làng Gióng. Khi giặc Ân kéo
đến núi Châu Sơn (nay thuộc Tiên Du, Bắc Ninh) cậu bé nay thân cao đã hai
trượng, đội mũ, cầm roi, leo lên mình ngựa rồi vươn mình ngửa mặt lên trời mà
xưng lớn "Ta là thiên tướng nhà trời cứu dân cứu nước".
Rồi ngài phóng ngựa, ngựa sắt hí ra lửa cháy cả một vùng nay còn di tích tên
gọi Làng Cháy. Ngài vung roi xông vào trại giết giặc đến mức gãy roi thì nhổ những
bụi tre để đánh giặc, đến nay di tích vẫn còn là loại tre Đằng ngà... Đánh tan giặc
nước, đến núi Ninh Sóc, ngài cưỡi ngựa bay lên trời... Từ đây, giặc ngoại xâm khiếp
sợ mà không dám xâm phạm bờ cõi nước ta. Nhớ công ơn người anh hùng, vua
Hùng phong ngài làm Phù Đổng Thiên vương, đến đời vua Lý lại phong làm Sung
Thiên Thần vương... xây dựng đền miếu thờ phụng và tôn đức Thánh Gióng làm
một trong "tứ bất tử" phù trợ cho dân tộc Việt Nam. Còn dân gian mộc mạc gọi ngài
là Ông Gióng, vào tháng tư âm lịch hàng năm lại mở hội để tưởng nhớ đến người
anh hùng đã khởi đầu cho một truyền thống vẻ vang "tuổi nhỏ chí lớn" của con trẻ
Việt Nam.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, hình bóng lớp con
trẻ Việt Nam vẫn thấp thoáng trong những trang sử đầy máu lửa của cuộc chiến
tranh giữ nước và đẫm mồ hôi của công cuộc khai phá dựng xây đất nước: Trí
thông minh của Đinh Bộ Lĩnh trong các cuộc "tập trận cờ lau" khi còn nhỏ giúp ta
hiểu được công trạng dẹp loạn sứ quân, thống nhất bờ cõi để lập nên triều đại nhà
Đinh thời đầu tự chủ, cuối thế kỷ thứ X. ý chí cường tráng của trang thiếu niên Trần
Quốc Toản bóp nát trái cam để đòi ra trận ghi trên lá cờ thêu sáu chữ vàng "Phá
cường địch báo hoàng ân" đã trở thành hình tượng "cả nước đồng lòng" không thể
nào quên trong pho sử oai hùng ba lần đánh thắng giặc Nguyên - Mông của triều đại
nhà Trần thế kỷ XIII. Tài học thần đồng của Nguyễn Hiền, đỗ trạng khi tuổi còn thiếu
niên, 13 tuổi, cách nay đã hơn nửa thiên niên kỷ, mãi mãi trở thành biểu tượng trí
tuệ của sự nghiệp hun đúc hiền tài, bồi dưỡng nguyên khí quốc gia...
Nhưng chúng ta sẽ hiểu hơn về lớp thiếu niên Việt Nam trong lịch sử, nếu
chúng ta ghi nhận những gương mặt rất trẻ đã làm rạng rỡ lịch sử nước nhà. Bà
Trưng Trắc khi "phất cờ nương tử thay quyền tướng quân" nổi dậy đánh giặc Hán,
giải phóng 65 thành quách ở đầu Công nguyên này (năm 40) tuổi chưa đến hai
mươi; Bà Triệu khởi binh ở căn cứ Ngàn Nưa (Thanh Hóa) mang ý chí "quyết cưỡi
gió, đạp sóng, chém cá Kình biển Đông..." mới 20 tuổi; đại anh hùng Nguyễn Huệ
lúc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ mới 18 tuổi.
Còn ở thế kỷ XX này, Phan Bội Châu 17 tuổi đã viết bài hịch "Bình Tây thu
Bắc" để hưởng ứng chiếu Cần Vương, lập đội "sĩ tử Cần Vương" phần lớn toàn
những thiếu niên trai trẻ mưu sự vũ trang đánh Pháp, còn ông vua Duy Tân mới 16
tuổi đã từ bỏ ngai vàng kết liên với các nhà cách mạng định làm cuộc binh biến
chống thực dân. Khi phát động phong trào Đông Du Phan Bội Châu cũng đã gửi
những con em của mình sang Nhật học hỏi, về lâu dài là để chuẩn bị cho cuộc vận
động cách mạng đã đặt hoài bão vào ngày trở về Tổ quốc "thì những thiếu niên
nước ta sẽ bay nhảy hô vang, khua cá sấu mà chống lại rồng trời, non sông gấm
vóc của ta sẽ rực rỡ tốt tươi, uy sấm sét sẽ đuổi hết lũ quỷ ma..." (Phan Bội Châu
toàn tập).
Trong số lớp chiến sĩ Đông Du này chúng ta biết đến những tên tuổi như Trần
Văn Yên, Trần Văn Thu và Hoàng Vĩ Hùng ở Nam Kỳ (trong Phan Bội Châu toàn
tập) nêu trên ghi rằng đó là "ba tên bé con"; còn Lương Ngọc Quyến, con trai của
nhà ái quốc nổi tiếng Lương Văn Can, người sau này đã đứng ra làm cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên (1917), lúc vượt biển Đông Du cũng chỉ tròn 15 tuổi.
Và cũng chính vào thời điểm phát động phong trào Đông Du, Phan Bội Châu
cũng có ý định gửi người con trai của người bạn đồng hương và đồng chí của mình,
cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Sinh Cung sang Nhật. Nguyễn Sinh Cung
năm đó đã sắp bước vào tuổi thanh niên, nhưng con người trai trẻ này đã từng thuật
lại rằng: "Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do - Bình
đẳng - Bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn
tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy... và tôi đã vượt biển ra nước ngoài".
Người thiếu niên Nguyễn Sinh Cung ấy đã từ chối con đường Đông Du và khi
đến tuổi trưởng thành đã chọn một con đường hoàn toàn khác, Nguyễn Tất Thành
đã rời Sài Gòn năm 1911 để thực hiện những hoài bão được nhen nhóm từ độ thiếu
niên.
Nói đến độ tuổi thiếu nhi, thiếu niên là nói đến buổi khởi đầu cho sự hình
thành những nhân cách và nuôi dưỡng những hoài bão sẽ được phấn đấu khi đến
tuổi trưởng thành. Thế hệ thiếu nhi đầu tiên của thế kỷ XX, những người sau đó sẽ
trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng Việt Nam, cũng là những chiến sĩ tiên
phong của Đảng, của lớp người sẽ tập hợp và đào tạo các thế hệ thanh thiếu niên
Việt Nam đi theo lý tưởng yêu nước và cộng sản đã được tiếp nhận từ trong truyền
thống xa xưa của dân tộc những tân phong của Thánh Gióng, Đinh Bộ Lĩnh, Trần
Quốc Toản, Nguyễn Hiền... bằng cả một nền giáo dục truyền thống thấm đẫm tình
yêu nước và khát vọng tự do.
Hãy đọc "bài thứ nhứt" mở đầu cho một tác phẩm của cụ Phan Bội Châu dùng
để giáo dục con trẻ Việt Nam ở đầu thế kỷ XX, chúng ta sẽ hiểu được trong tiềm
thức của mỗi con người Việt Nam từ thời ấu thơ đã chứa đựng những nguồn lực
tiềm ẩn được tích tụ từ trong dòng máu của một dân tộc sớm có truyền thống "tuổi
nhỏ chí lớn".
"Bài thứ nhứt:
- Trò là người nước nào?
- Thưa: tôi là người nước Nam.
- Tên nước Nam gọi bằng gì?
- Thưa gọi bằng nước Việt Nam...
- Trò đã là người Việt Nam thì nước Việt Nam là chi của trò?
- Thưa là bào thai mẹ tôi đẻ ra tôi.
- Vậy thì trò gọi nước Việt Nam bằng chi?
- Thưa, gọi bằng nước Mẹ...
- Vì sao nước Việt Nam lại được thương yêu kính trọng nhất?
- Thưa, là bởi vì có nước Việt Nam mới có cha mẹ, anh em, chị em, thầy và
bạn tôi và tôi. Nếu không có nước Việt Nam thời cha mẹ tôi, anh em tôi, chị
em tôi, thầy bạn tôi tất là không có cả...".
Chí lớn có ở tuổi nhỏ bắt nguồn từ đó.
CHƯƠNG I
NHỮNG TRANG ĐẦU TRONG LỊCH SỬ ĐỘI TA
Trong đêm đen nô lệ lầm than dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp
và phong kiến, thiếu nhi nước ta cũng như cha anh mình đã bị tước mất quyền
sống, quyền làm người, lớn lên trong đói khổ, chịu chung cảnh nước mất nhà tan.
Uất hận tràn đầy, chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã phải thốt lên:
Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột
Vạch trời cao mà tuốt gươm ra!
Cho đến đầu thế kỷ XX, nhiều lớp cha ông chúng ta đã "tuốt gươm ra" vùng
lên trong các cuộc khởi nghĩa quyết giành lại độc lập, tự do cho dân tộc nhưng đều
bị đế quốc, phong kiến dìm trong biển máu. Nguyên nhân cơ bản của mọi thất bại ấy
là do chưa có đường lối đúng, chưa có một tổ chức chặt chẽ đảm đương vai trò
lãnh đạo.
Giữa lúc đó, vào năm 1911, ở tuổi 20, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành - Bác Hồ kính yêu của chúng ta xuống tàu thủy tại Bến Nhà Rồng (thành phố
Sài Gòn) đi ra nước ngoài với ý thức tìm hiểu các nước, kể cả nước Pháp rồi sẽ
"Trở về nước đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức, đoàn kết và huấn luyện để
đưa họ đấu tranh giành quyền tự do, độc lập".
Bác đã đến Pháp, đi qua nhiều nước châu Phi, đến Mỹ, Anh rồi trở lại Pháp
vào cuối năm 1917 lấy tên mới là Nguyễn ái Quốc. Tại Paris, Người kết bạn với
nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa... nổi tiếng. Người lập ra các tổ chức
yêu nước của người Việt Nam và các thuộc địa khác của Pháp, xuất bản báo
"Người cùng khổ" gửi về nước để thức tỉnh đồng bào và thực hiện cuộc đấu tranh
bằng nhiều hình thức chống lại chính sách cai trị khắc nghiệt của đế quốc Pháp.
Sau khi được đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa" của Lênin, Bác Hồ hoàn toàn tin theo Lênin. Tại Đại hội Đảng xã hội
Pháp, tháng 12-1920, Bác đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III, trực tiếp
tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu
tiên.
Một ngày đẹp trời cuối tháng 6 năm 1923, Bác Hồ đặt chân lên đất nước
Lênin, chuẩn bị dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 5 sẽ khai diễn tại Matxcơva.
Trong thời gian chuẩn bị, Bác đi thăm nhiều nơi để tìm hiểu xã hội Liên Xô về các
mặt trong đó Người rất chú ý đến vấn đề thiếu niên, nhi đồng.
Tác giả Trần Dân Tiên trong tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch" có đoạn kể lại: "...Vì ông Nguyễn rất yêu trẻ con nên ông nghiên
cứu kỹ vấn đề nhi đồng ở Liên Xô. Lúc mới đẻ, mỗi đứa trẻ được giúp tiền may
quần áo, được uống sữa lọc trong chín tháng không mất tiền. Mỗi tuần thầy thuốc
đến thăm nhiều lần... Nhờ sự săn sóc như thế, trẻ em lớn lên tươi đẹp như hoa
hồng mùa xuân. Đến tám tuổi trẻ em bắt đầu đi học. Học sinh mỗi buổi sáng được
ăn một bữa không mất tiền... Ngoài trường học thì có Đội thiếu nhi chăm sóc các
em. Nói tóm lại, cái gì tốt nhất đều dành cho trẻ em. Nếu nước Nga chưa phải là
thiên đường cho tất cả mọi người thì nước Nga đã là một thiên đường của trẻ em.
Thiên đường của trẻ con này làm cho ông Nguyễn không quên Tổ quốc Việt Nam.
Ông cũng muốn làm cho chúng sung sướng, mạnh khỏe như trẻ em Liên Xô...".
Cuối năm 1924, Bác Hồ đến Quảng Châu (Trung Quốc) với trách nhiệm nặng
nề đối với phong trào cách mạng ở Đông Dương và châu á. Người khẩn trương tìm
hiểu tình hình và tìm cách bắt liên lạc với những thanh niên Việt Nam yêu nước
đang có mặt tại đây.
Giữa năm 1925, Bác Hồ sáng lập ra tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên
và cùng các đồng chí khác mở nhiều lớp huấn luyện chính trị đưa thanh niên trong
nước ra học. Bác kể rằng: "Năm 1925, Hội thanh niên cách mạng đồng chí thành
lập nhằm chuẩn bị điều kiện để tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay sau khi
thành lập, Hội đã lo đến việc tổ chức và lãnh đạo đoàn thể riêng của thanh niên
cách mạng. Hội đã chọn 8 em Việt kiều ở Xiêm (nay là Thái Lan) đưa sang Quảng
Châu để bồi dưỡng thành hạt nhân của Đoàn thanh niên sau này". Đây là sự kiện
có ý nghĩa đặc biệt đối với sự ra đời của Đoàn và của Đội ta. Bác Hồ vừa giao trách
nhiệm cho Tổng bộ Việt Nam cách mạng thanh niên vừa trực tiếp cử người về nước
và cử đồng chí Hồ Tùng Mậu sang Xiêm (tức Thái Lan ngày nay). Khi đến vùng
Trung Bộ nước Thái, đồng chí Hồ Tùng Mậu bắt liên lạc với một sĩ phu yêu nước là
cụ Đặng Thúc Hứa mà bà con Việt kiều ở Thái lúc này thường gọi là cụ Tú Đặng.
Mọi việc được thu xếp nhanh chóng. Nhóm thiếu niên được chọn do một cơ sở của
cụ Tú Đặng bí mật đưa về Băng Cốc. Tất cả đều được hóa trang thành người Hoa
kiều. Người dẫn đường cùng 8 thiếu niên xuống chiếc tàu biển mang tên Di Hòa
thuộc một công ty thương mại của Anh quốc. Họ nói tiếng Hoa và tiếng Anh khá trôi
chảy vì trước đây họ đã học ở Hoa Anh học hiệu Phi Chít. Hai ngày sau cả đoàn
đến Quảng Châu và liền được gặp Bác. Tám thiếu niên ấy người ít tuổi nhất 12,
người lớn tuổi nhất là 15. Để giữ bí mật và xác định mối quan hệ họ hàng với Bác
Hồ, tất cả đều lấy họ Lý, theo họ của Bác lúc này với tên họ mới là Lý Thụy, hoặc
gọi Bác bằng bí danh là đồng chí Vương. Tám thiếu niên họ Lý gồm:
1. Lý Tự Trọng tên thật là Lê Văn Trọng.
2. Lý Văn Minh " Đinh Chương Long
3. Lý Thúc Chất " Vương Thúc Thoại
4. Lý Anh Tợ " Hoàng Tự
5. Lý Nam Thanh " Nguyễn Sinh Thản
6. Lý Trí Thông " Ngô Trí Thông
7. Lý Phương Đức " Ngô Hậu Đức
8. Lý Phương Thuận " Nguyễn Thị Tích.
Hai thiếu niên sau cùng (thứ 7 và thứ 8) là nữ.
Từ giữa năm 1925 cho đến giữa năm 1926, tám thiếu niên này được Bác Hồ
tổ chức thành một lớp học riêng vừa để tiếp tục nâng cao trình độ văn hóa vừa học
chính trị theo một chương trình phù hợp.
Ngày 22-7-1926, từ Quảng Châu, Bác đã viết thư gửi ủy ban Trung ương Đội
Thiếu niên Tiền phong Lênin (Liên Xô) nói rõ: "Chúng tôi có tại đây (Quảng Châu,
Trung Quốc) một nhóm thiếu niên Việt Nam. Tuổi các em từ 12 đến 15. Đó là các
thiếu niên cộng sản đầu tiên của nước Việt Nam. Khi chúng tôi nói với các em về
cuộc cách mạng Nga, về Lênin và về các bạn, những người Lêninnít Nga trẻ tuổi thì
các em rất sung sướng và đòi hỏi được đến với các bạn để thăm các bạn, học với
các bạn và cũng như các bạn để trở thành những người Lêninnít trẻ tuổi chân
chính. Chúng tôi đã hứa với các em là sẽ viết thư cho các bạn về vấn đề này. Và
giờ đây tôi đã làm việc ấy. Chúng tôi hy vọng rằng các bạn sẽ không từ chối tiếp
nhận 3 hay 4 bạn nhỏ Việt Nam của các bạn có phải không?..." Đề nghị trên của
Bác Hồ đã được Trung ương Đoàn TNCS Lênin và ủy ban Trung ương Đội Thiếu
niên Tiền phong Lênin (Liên Xô) đáp ứng một cách nồng nhiệt. Tuy nhiên, liền sau
đó tình hình chính trị ở Quảng Châu diễn biến phức tạp nên chủ trương gửi các
thiếu niên Việt Nam sang Liên Xô học tập không thực hiện được.
Phái phản động trong Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã thi
hành chính sách đàn áp, khủng bố những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.
Tám thiếu niên Việt Nam cùng nhiều đồng chí khác dần dần bị bắt. Đảng Cộng sản
Trung Quốc tích cực giúp họ mời luật sư nổi tiếng Tạ Anh Bá bảo vệ cho họ. Nhờ
vậy, sau nhiều tháng thẩm vấn, phái phản động buộc phải thả các đồng chí Việt
Nam bị bắt cùng tất cả các thiếu niên nêu trên. Lúc này, các thiếu niên đều đã trở
thành đoàn viên TNCS. Trước tình hình hết sức khó khăn do phái phản động tăng
cường khủng bố, tám đoàn viên TNCS theo hướng dẫn của các đảng viên đã tùy
hoàn cảnh, điều kiện thực hiện nhiệm vụ cách mạng của mình. Một số về nước hoạt
động như Lý Tự Trọng (1929-1931) và sau này là Lý Phương Thuận. Một số di
chuyển về nông thôn hoặc vào các nhà máy tham gia công tác vận động quần
chúng trên đất nước bạn. Một số tìm đường sang Liên Xô tiếp tục học tập theo chủ
trương của Bác Hồ trước đây.
Khi khởi nghĩa Quảng Châu (còn gọi là Quảng Châu công xã) nổ ra, các đồng
chí Việt Nam và các đoàn viên TNCS thuộc lớp đầu tiên này đã tích cực tham gia
vào các đơn vị tự vệ công nhân của bạn làm nhiệm vụ bảo vệ nhà máy, chống đàn
áp và tuyên truyền, vận động quần chúng phản ánh tình cảm cách mạng gắn bó
giữa nhân dân hai nước Việt - Trung và lý tưởng quốc tế chủ nghĩa trong sáng của
những người cộng sản trẻ tuổi.
Năm 1929, Lý Tự Trọng về nước hoạt động. Anh đã bắn chết tên mật thám
Pháp ngay trên đường phố Sài Gòn để bảo vệ đồng chí mình và trở thành tấm
gương tiêu biểu cho tinh thần bất khuất với lời nói đanh thép trước tòa án đế quốc
Pháp: "Tôi hành động có suy nghĩ, tôi hiểu việc tôi làm. Con đường của thanh niên
chỉ là con đường cách mạng, không có con đường nào khác". Theo dõi hành động
anh hùng của Lý Tự Trọng, ngày 21-2-1931 Bác Hồ đã gửi thư cho Bộ Phương
Đông Quốc tế cộng sản báo tin này và đề nghị Bộ Phương Đông yêu cầu Đảng
Cộng sản Pháp tổ chức các hoạt động, kể cả biểu tình đòi trả tự do cho Lý Tự
Trọng. Song bất chấp mọi sự phản đối của dư luận bọn đế quốc vẫn sát hại anh. Lý
Tự Trọng hi sinh kiên cường giữa tuổi 17 để lại cho chúng ta bản "Tuyên ngôn" bất
diệt về con đường cách mạng của các thế hệ trẻ Việt Nam.
Vào thời gian này, Bác Hồ trở lại Hương Cảng để chủ trì hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Do một sơ suất từ bên ngoài, Bác bị mật thám
Anh bắt giữ. Cùng bị bắt với Bác có Lý Phương Thuận (một trong tám thiếu niên đã
giới thiệu ở trên) đang hoạt động tại đây với tên gọi là Lý Tam (hoặc cô Ba). Lý
Phương Thuận đã giữ vững tinh thần cách mạng, không hề khai báo gì với cảnh sát
Anh. Vụ án Tống Văn Sơ (tên mới của Bác Hồ lúc này) làm chấn động dư luận tại
Hương Cảng và cả ở Anh, Pháp (mật thám Pháp vận động nhà cầm quyền Anh trao
Bác cho chúng). Luật sư nổi tiếng Lôdơbai đã vượt qua nhiều khó khăn cứu thoát
Bác Hồ ra khỏi nhà tù và vợ chồng ông đã hết lòng giúp Bác trở lại Liên Xô.
Đại chiến thế giới lần thứ hai nổ ra. Phát xít Đức tập trung binh lực tấn công
Liên Xô hòng tiêu diệt nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Sư đoàn quốc tế chống
phát xít thành lập ở Matxcơva bao gồm những người cộng sản trẻ tuổi ở nhiều nước
đang học tập, công tác tại Liên Xô.
Lý Nam Thanh, Lý Thúc Chất, Lý Anh Tợ... cùng các đồng chí Việt Nam khác
tình nguyện tham gia Sư đoàn quốc tế bảo vệ Liên Xô. Đó là ba trong số "tám cháu
hiếm hoi từ bước đầu ấy" do Bác Hồ giáo dục, rèn luyện giờ đây đã trở thành cán
bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoan cường vì nghĩa vụ Quốc tế cao cả. Cả ba đồng chí đã
vĩnh viễn nằm lại trên quê hương V.I. Lênin vĩ đại tại trận địa phía Nam Matxcơva.
Nhà nước Liên Xô đã tặng thưởng ba đồng chí huân chương cao quý: Huân
chương Vệ quốc hạng Nhất.
Trang đầu trong cuốn biên niên sử của Đội ta mở ra như thế đó. Từ "Các thiếu
niên cộng sản đầu tiên" Bác Hồ và các đồng chí của Người đã bồi dưỡng, rèn luyện
trở thành "Tám đoàn viên hiếm hoi buổi ban đầu". Đó là những mầm non của cách
mạng, là những tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam, mãi mãi là niềm tự
hào của chúng ta. Những thiếu niên cộng sản và đoàn viên thanh niên cộng sản vẻ
vang ấy mãi mãi xứng đáng với lòng tin yêu và sự tôn vinh của các thế hệ thanh
thiếu niên nước ta cũng như cả dân tộc ta.
Tại buổi lễ trọng thể kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Đoàn, Bác Hồ dạy: "Là
người theo dõi tổ chức thanh niên từ bước đầu hiếm hoi chỉ có tám cháu, ngày nay
trông thấy có hàng triệu đoàn viên, thanh niên, hàng triệu cháu bé nhi đồng phát
triển mơn mởn như hoa nở mùa xuân. Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên
cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Bác rất tự hào, sung sướng và thấy mình
như trẻ lại, thấy tương lai của Tổ quốc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang...".
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đảm đương sứ mệnh cao cả
lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân ta đấu tranh giành giải phóng dân
tộc và giai cấp. Từ đó, phong trào thanh thiếu nhi nước ta ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Tổ chức Đội từng bước được hình thành. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ nhất (khóa I) tháng 10 năm 1930 đã ban hành một văn kiện hết
sức quan trọng về công tác thanh niên trong đó đã đề cập đến việc tập hợp thiếu nhi
vào các tổ chức Thiếu niên cách mạng, Hồng nhi đoàn... và giao cho Đoàn phụ
trách.
Sau khi Đảng ta ra đời, từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1930, cả nước nổ ra nhiều
cuộc đấu tranh lớn mà tiêu biểu là phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh. Các chi bộ Đảng
ở hai tỉnh này đã tập hợp được 513 đội viên thiếu niên cách mạng. Các đội viên chia
thành từng tổ dưới sự hướng dẫn của các đảng viên và đoàn viên làm nhiệm vụ
giao thông liên lạc, canh gác. Riêng ở Phong Nẫm (huyện Thanh Chương - Nghệ
An) có hơn 20 đội viên thiếu niên cách mạng hoạt động dưới sự hướng dẫn của
đồng chí Lê Cảnh Nhượng, Bí thư chi bộ Đoàn địa phương. Ngoài việc canh gác,
làm giao liên, các đội viên còn tham gia học tập quân sự do các "xích vệ đội" tổ
chức, hướng dẫn và hăng hái thực hiện các công việc như rải truyền đơn, treo cờ
Đảng. ở xã Nam Trung (huyện Nam Đàn) đã ra đời tổ chức thiếu nhi lấy tên là Đội
Đồng Tử quân. Ngày 12-9-1930, các đội viên Đồng Tử quân đã cùng cha anh tham
gia thành lập chính quyền Xô viết ở địa phương. Cũng vào thời gian này tại Thái
Bình, Đội Đồng Tử quân huyện Tiền Hải được thành lập. Các đội viên đã tham gia
tích cực vào hàng ngũ những bà con nông dân đi đấu tranh đòi giảm thuế, chống địa
chủ cướp đất.
Đến thời kỳ 1936-1939, thực hiện chủ trương chuyển hướng hoạt động của
Đảng, Đoàn Thanh niên Dân chủ đã tổ chức nhiều lớp học chữ quốc ngữ cho thiếu
nhi qua đó tập hợp thiếu nhi vào các hình thức tổ chức văn hóa, văn nghệ như các
Đội kịch, Đội ca nhạc, Đội bóng... Hai tờ báo công khai của Đoàn ở Hà Nội và Sài
Gòn là "Thế giới" và "Mới" đã có nhiều bài viết về công tác vận động thiếu nhi.
Trước sức mạnh đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, theo lệnh chính phủ
Pháp, toàn quyền Đông Dương đã phải ra một nghị định nêu rõ kể từ ngày 1-11-
1936 "Cấm bắt đàn bà, trẻ em làm việc ban đêm". Vào thời gian này ở một số tỉnh
như Hà Đông, Nam Định, Hải Phòng,v.v... nhiều tổ chức Hồng nhi đoàn được thành
lập, nhiều đội viên hoạt động rất hăng hái trong các đội kịch, đội múa, hoặc các ban
đồng ca do tổ chức Đoàn Thanh niên Dân chủ hướng dẫn.
Bước sang năm 1941, tình hình thế giới và trong nước diễn biến ngày một
khẩn trương và phức tạp. Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân Đông
Dương chịu cảnh "một cổ hai tròng" dưới ách thống trị tàn bạo của Nhật - Pháp nên
ngày một bần cùng, đói khổ... do vậy ngày càng nhanh chóng giác ngộ cách mạng.
Tháng 1 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc bí mật về nước ở vùng Pác Pó
(Cao Bằng) để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Đây là một sự
kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Tháng 5
năm 1941, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc với
tư cách là đại diện của Quốc tế cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị chủ trương tổ
chức ra các đoàn thể cứu quốc và thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là
Việt minh). Hội nhi đồng cứu quốc ra đời ở Nà Mạ (vùng Pác Bó) và được gia nhập
Mặt trận Việt Minh.
Ngày ấy là 15-5-1941, ngày lịch sử vẻ vang của Đội ta. Vào dịp này, Bác Hồ
kính yêu viết bài "Kêu gọi thiếu nhi" thể hiện tình cảm yêu thương và sự chăm sóc
ân cần của Người đối với các cháu. Bài "Trẻ con" mở đầu bằng một đoạn đầy xúc
động:
"Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan,
Chẳng may vận nước gian nan,
Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng"...
Bác khẳng định:
"Kẻ lớn cứu quốc đã đành
Trẻ em cũng phải ra giành một vai.
Bao giờ đuổi đuổi Nhật, Tây,
Trẻ em ta sẽ là bầy con cưng"
Và trong bài "Trẻ chăn trâu" Bác đã kêu gọi thiếu nhi:
"Cùng nhau đánh đuổi Nhật, Tây.
Anh em ta mới có ngày vinh hoa.
"Nhi đồng cứu quốc" Hội ta,
ấy là lực lượng, ấy là cứu sinh.
ấy là bộ phận Việt Minh,
Dân mình khắc cứu dân mình mới xong.
Ai nghe mà chẳng động lòng,
Khá thương con trẻ mục đồng Việt Nam".
Những lời thơ thật giản dị nhưng chứa chan tình yêu nước, nghĩa đồng bào đã
được nhanh chóng lan truyền trong thiếu nhi Nà Mạ và cả vùng Hà Quảng. Từ các
em biết chữ đến các em chưa biết chữ được bè bạn trong tổ chức truyền miệng cho
đã thuộc lòng bài thơ "Kêu gọi thiếu nhi" của Bác.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, đội ngũ cán bộ cách mạng do Bác Hồ và
Đảng ta đào tạo, bồi dưỡng trước đó được phân công toả về các địa phương trong
cả nước để cùng các cán bộ, đảng viên vận động phong trào cách mạng với một
quyết tâm rất cao: "Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể
quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được" (Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8
tháng 5 - 1941).
Trong số cán bộ nói trên anh Đức Thanh được Bác Hồ giao cho nhiệm vụ tổ
chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Quảng và Hội Nhi đồng Cứu quốc. Anh là
người trực tiếp soạn thảo Điều lệ Đoàn và Hội Nhi đồng trình Bác cho ý kiến sửa
chữa rồi tổ chức in ngay trong hang Cốc Bó, nơi Bác Hồ đặt cơ quan của Đảng và
Tổng bộ Việt Minh. "Máy in" là những phiến đá, một kiểu in theo cách viết chữ
ngược bằng mực lên các phiến đá được mài nhẵn. Giấy in là loại giấy được làm
bằng bột cây dó gọi là giấy dó sản xuất tại địa phương.
Anh Đức Thanh tuyên truyền, giác ngộ được một số thanh niên trong vùng
như các anh Phục Hưng, Phục Quốc, Bát Ngư... bồi dưỡng các đồng chí này trở
thành những đoàn viên rồi giao nhiệm vụ cho các anh tìm các thiếu niên dũng cảm,
tin cậy để tổ chức vào Hội Nhi đồng Cứu quốc.
Vào giữa năm 1941, ở Nà Mạ có nhiều người được vào Hội bí mật. Họ kín
đáo kể cho nhau nghe về một "Ông già cách mạng" có tên là Thu Sơn. Đôi khi họ
còn gọi ông với tên gọi rất thân mật như người trong họ tộc là "Ông Ké". Cụ Thu
Sơn hay Ông Ké, Ông già cách mạng, chính là Bác Hồ kính yêu đang có mặt ở vùng
này.
Nhận nhiệm vụ của anh Đức Thanh giao cho, nhiều lần anh Bát Ngư nói chuyện với
Nông Văn Dền, một thiếu niên hoạt bát, chịu khó và dũng cảm rất căm thù tội ác của
giặc Pháp và bọn lính trên đồn. Dền rất căm giận và tỏ ý muốn theo giúp anh Bát
Ngư. Dền đoán là anh Bát Ngư đang làm việc gì đó để đánh Tây, chống bọn thống
lý, phìa tạo. Đôi lần anh Bát Ngư nhờ Dền đưa lá thư cho anh Phục Quốc, anh Phục
Hưng... bảo là phải đi ngay mặc dù đêm đã xuống. Dền chẳng ngần ngại gì cả. Anh
Bát Ngư rất ưng ý và quyết tâm đưa Dền đến gặp anh Đức Thanh để nghe anh ấy
nói thêm về những điều mới lạ, về "Ông già cách mạng", về Đoàn thanh niên.
Và rồi, đúng một tháng sau, Dền đã chép lại bản Điều lệ Hội Nhi đồng Cứu
quốc và trao cho bốn bạn thân thiết nhất cùng có nguyện vọng gia nhập Hội. Thế là
tất cả đã sẵn sàng. Hôm nay mỗi người một con dao cài ở thắt lưng, một bó dây,
một mo cơm. Như thường lệ, họ rủ nhau vào rừng đào củ, kiếm củi. Ai mà biết được
họ đi đâu? Anh cán bộ đã gặp Dền, đưa Dền đến trước cái hang dơi bí ẩn, nơi anh
dựng cái lán nhỏ để ăn ở và làm việc cách mạng khi cần, còn hàng ngày anh vẫn ở
với dân, sinh hoạt với dân, cuốc đất với các anh thanh niên. Hang dơi bí ẩn chính là
nơi anh cất giấu tài liệu và chưa một lần nào Dền được vào.
Chiếc lán nhỏ nép mình dưới tán cây rậm rạp đây rồi, nó là cái chòi để giữ ngô
hoặc là nơi dừng chân của người đi săn thú, kiếm củi... khó mà nghĩ rằng đây là
"Trụ sở", là "Hội trường" mà anh Đức Thanh cùng các đồng chí của mình đã nhiều
lần cùng nhau khai hội bàn về các công việc của đoàn thể. Còn cái hang dơi bí ẩn
kia, nơi trú ngụ của vô vàn chú dơi lại là cái kho lưu giữ tài liệu, lương thực mà cái
miệng của nó lúc nào cũng được che lấp bởi các bụi cây rậm rạp có lẽ chỉ có anh
Thanh mới đi lại dễ dàng không hề lo ngại rắn rết.
Bây giờ trăng đã lên cao, chung quanh tĩnh mịch lạ thường. Tháng năm rồi mà
đêm vẫn còn sương và se lạnh... Dền tiến đến và chuyển cho anh Đức Thanh
phong thư nhỏ dán kín của anh Bát Ngư. Anh Đức Thanh gom một ít củi khô và đốt
lên ngọn lửa, tất cả ngồi quây quanh. Trên chiếc hòm gỗ, anh đặt cuốn Điều lệ Hội
Nhi đồng Cứu quốc và lá cờ đỏ sao vàng.
- Các em đã đọc Điều lệ, còn chỗ nào chưa hiểu?
Các bạn thay nhau hỏi, anh trả lời rành rọt cho từng câu hỏi. Trả lời xong, anh
đặt cuốn Điều lệ lại chỗ cũ và cầm lá cờ mở rộng trước mặt các em nói:
- Đây là lá cờ Tổ quốc. Màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh chiến đấu, truyền
thống quật cường của ông cha, ngôi sao vàng là ngôi sao dẫn đường chỉ lối cho
chúng ta đấu tranh đi đến cuộc đời hạnh phúc, ấm no.
Từ nay trở đi chúng ta chiến đấu dưới lá cờ này, không sợ gian khổ, không sợ
hy sinh, mọi người đều gắng sức làm sao cho nước nhà được độc lập, tự do. Dân ta
được ấm no, hạnh phúc...
Trước khi các hội viên tự mình đọc lời thề trong lễ kết nạp, anh Đức Thanh đề
nghị mỗi bạn chọn cho mình một tên mới, tên cách mạng nhằm đảm bảo nguyên tắc
bí mật.
Thật là một việc mới lạ, các bạn nhỏ cứ nhìn nhau lúng túng. Anh Đức Thanh
hiểu ý bèn nói ngay:
- Thôi được, anh sẽ giúp các em, chọn cho mỗi người một "bí danh" nhé, bí
danh là tên bí mật đấy, nói thế cho dễ hiểu. Bây giờ anh đề nghị tìm bí danh cho các
bạn gái trước.
- Nhà hai em ở gần suối, thế thì hai em mỗi người lấy một tên suối, một tên
hoa; Xậu là Thanh Thủy. Thanh Thủy là nước suối trong xanh; còn Nì là Thủy Tiên.
Thủy Tiên hiểu là hoa tiên bên suối.
Tất cả đều reo lên:
- Tên cách mạng hay thật!
Anh Đức Thanh cùng cười rất vui, tiếp tục đặt bí danh cho các bạn trai. Hai
bạn ngồi cạnh Dền, anh Thanh đặt cho Thàn bí danh là Cao Sơn và Tinh bí danh là
Thanh Minh.
Đến lượt Nông Văn Dền, anh Đức Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: Dền sẽ lấy
tên nói lên một tinh thần gan dạ, tính cứng rắn của em. Vậy tên em là Kim Đồng.
Kim Đồng có thể hiểu là một chú bé gang thép. Nào các bạn thấy có được không?
Bốn bạn nhỏ, trừ Dền, đều đồng thanh:
- Phải đấy, Dền giỏi lắm, tên đó đúng với Dền.
Anh Đức Thanh khơi cho đống lửa cháy bùng lên, soi tỏ gương mặt trang
nghiêm của mọi người. Anh đứng dậy, hai tay từ từ nâng cao lá cờ Tổ quốc. Lá cờ
đỏ thắm càng thắm đỏ hơn lên trước ánh lửa. Năm bạn nhỏ đứng dậy, từng người,
từng người đọc lời thề.
Đó là năm Hội viên Hội Nhi đồng Cứu quốc đầu tiên (sau này gọi là đội viên)
của Đội ta, năm bông hoa tươi đẹp được Bác Hồ kính yêu và Đảng Cộng sản Việt
Nam trực tiếp chăm lo ân cần, được Đoàn Thanh niên Cứu quốc do các anh Đức
Thanh, Bát Ngư, Phục Quốc... dìu dắt hàng ngày.
Chẳng bao lâu sau, cả Nà Mạ, Hà Quảng và cả tỉnh Cao Bằng, số lượng đội
viên lên đến hàng trăm. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và các Nghị quyết
của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về những nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ
cách mạng mới đầy khó khăn, thử thách nhằm tới đích là giành lại chính quyền về
tay nhân dân trong đó có việc xây dựng, phát triển tổ chức Đội được triển khai rộng
khắp như ở huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc ngày nay) vào cuối năm 1941 đã xuất
hiện nhiều cơ sở Hội nhi đồng. Riêng ở Nà Mạ năm đội viên đầu tiên hoạt động rất
tích cực, anh Đức Thanh tổ chức lớp học văn hoá cho các bạn theo lời căn dặn của
Bác Hồ. ít lâu sau hầu hết các đội viên đều biết chữ, đều thuộc lòng bài "Lịch sử
nước ta" do Bác Hồ soạn bằng văn vần giản dị dễ nhớ, để khơi dậy lòng yêu nước
nồng nàn của nhân dân ta trước hết là của thanh thiếu nhi.
"... Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oan trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
Một chiều thu tháng 8, Kim Đồng vừa đi đưa bức thư sang bên Pài Cốc về
thấy anh Ngư Mạn đã đợi dưới chân cầu thang nhà sàn. Anh ghé sát vào tai Kim
Đồng:
- Có một ông già cho gọi em lên đấy.
- Anh có biết ai không?
Anh Ngư Mạn ra hiệu và nói:
- Bí mật, không hỏi, không nói được.
Kim Đồng hồi hộp theo anh Ngư Mạn leo lên ngọn đồi rậm rạp sau bản. Đến
trước cửa hang Nục én, anh dặn Kim Đồng chờ đó. Lát sau Kim Đồng thấy anh Đức
Thanh tới, anh dẫn Kim Đồng vào một lối tắt... Bỗng Kim Đồng thấy một "Ông Ké"
đang ung dung ngồi trên tảng đá xem sách. Trên khuôn mặt gầy, đôi mắt sáng lên
trông thật hiền. Vẫn đang còn lúng túng vòng tay trước ngực chưa kịp chào, Kim
Đồng đã nghe "Ông Ké" hỏi:
- Cháu là Kim Đồng, thiếu nhi cứu quốc ở đây phải không?
Kim Đồng khẽ đáp "Vâng ạ". Ông Ké vẫy tay Kim Đồng lại ngồi bên rồi hỏi:
- Đọc chữ được chưa cháu?
- Thưa được rồi ạ.
Ông Ké bảo Kim Đồng kể chuyện hoạt động của Đội cho ông nghe rồi có lời
khen làm cho Kim Đồng bạo dạn hơn lên. Ông dặn phải chăm học, biết đọc chữ
nhưng còn phải biết làm toán. Ông còn dặn học cũng phải giữ bí mật vì Tây và cai
Tổng biết nó bắt ngay, nó nghi cách mạng tổ chức dạy học, chúng muốn dân mình
ngu dốt để áp bức, cai trị mãi.
Khi mặt trời đã lặn, Kim Đồng thấy một người lạ xuất hiện với chiếc tay nải.
Người đó dọn ra một "mâm cơm". Cơm gói trong lá chuối khô và một cái hộp sắt
đựng thức ăn, đó là thịt rang mặn với ít ớt cay. Ông Ké xoa đầu Kim Đồng bảo cách
mạng thành công thì đi học tiếp mới trở thành cán bộ như các anh này, này. Ông chỉ
vào anh Đức Thanh, anh Ngư Mạn và người mới mang cơm đến.
Sẩm tối, anh Đức Thanh dặn Kim Đồng:
- Bây giờ chúng ta chuẩn bị đưa đường cho "Ông già cách mạng". Lúc này
Kim Đồng mới thấy bàng hoàng vì rằng nãy giờ mình đã được ở bên "Ông già cách
mạng" mà lâu nay đã nghe thấy...
Anh Đức Thanh giao cho anh Ngư Mạn cái súng ngắn, chiếc đèn pin và bảo
Kim Đồng cùng anh Ngư Mạn dẫn đường. Hai người phải đi cách nhau mười bước.
Lúc nào anh Ngư Mạn bấm đèn ra đằng sau, tức thì Kim Đồng phải quay lại nhanh
chóng báo cho anh biết... Đi sau cùng là người mang cơm đến lúc chiều.
Tất cả im lặng lên đường. Kim Đồng len lỏi bám theo anh Ngư Mạn, căng mắt
trong đêm đen để khi có động nhìn được ánh đèn của anh Ngư Mạn.
Chuyến đưa đường cho "Ông già cách mạng" yên ổn hoàn toàn. Sau này, anh
Đức Thanh nói với Kim Đồng:
- Chúng ta đã hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng.
- Kim Đồng sung sướng nhìn anh và thốt lên:
- Em mong được gặp "Ông già cách mạng" lần nữa.
Nhưng, người anh hùng nhỏ tuổi, người đội viên thuộc lớp đầu tiên ấy chẳng
bao giờ được gặp ông nữa. Anh đã hy sinh anh dũng để hoàn thành một nhiệm vụ
quan trọng khác. "Anh Kim Đồng ơi! Khi anh qua đời, gương anh sáng ngời!".
Từ 5 đội viên đầu tiên năm 1941, đến thời gian trước Cách mạng Tháng Tám,
tổ chức Đội đã được xây dựng ở những trung tâm chính trị, kinh tế lớn trong cả
nước.
Tại Hà Nội, vào khoảng tháng 8 năm 1943, được ảnh hưởng của phong trào
yêu nước trong các trường học, một tổ chức thiếu niên yêu nước Trần Hưng Đạo
được thành lập (trên địa bàn quận Ba Đình hiện nay). Đội gồm hơn 10 đội viên do
anh Tô An làm đội trưởng. Đội Trần Hưng Đạo đã tổ chức nhiều hoạt động như rải
truyền đơn tố cáo tội ác của thực dân Pháp, kêu gọi đồng bào đứng lên đấu tranh,
treo cờ đỏ gây thanh thế cho cách mạng...
Vào mùa xuân năm 1944, Ban Việt Minh xã Hoàng Động, huyện Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam tổ chức ra Đội Thiếu nhi Cứu quốc bí mật Ngọc Động. Hình thức bên ngoài
là các đội đá bóng, đá cầu, đội ca hát... nhưng bên trong là hoạt động cách mạng,
tuyên truyền, cổ động cho Việt Minh. Anh Phong Nhã, đoàn viên thanh niên cứu
quốc được giao nhiệm vụ phụ trách Đội. Lãnh đạo Việt Minh cấp trên lúc này là các
đồng chí Phạm Văn Hoan, Trần Quyết...
Đến tháng 4 năm 1945, khi phong trào cứu quốc do mặt trận Việt Minh thành
phố lãnh đạo phát triển mạnh, nhiều cơ sở của Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hoàng
Diệu (tức Hà Nội) ra đời cũng như sự phát triển của các đoàn thể Công Hội, Hội Phụ
nữ... anh Tô An được trao nhiệm vụ phụ trách Đội Thiếu nhi Cứu quốc Nguyễn Thái
Học. Trong Ban phụ trách Đội Nguyễn Thái Học còn có các anh Huy Du, Quân Sỹ,
Đỗ Anh Dũng, Đỗ Mạnh Thường, Phong Nhã (lúc này anh Phong Nhã đã lên Hà Nội
hoạt động). Đội Thiếu nhi Cứu quốc Nguyễn Thái Học hoạt động rất mạnh, ngoài
việc tuyên truyền cách mạng còn giúp lực lượng du kích nội thành, giúp Đội danh dự
phát hiện bọn tề ngụy gian ác, bọn mật thám... để cảnh cáo, răn đe nhằm hạn chế
những hoạt động phá hoại cách mạng của chúng.
Dưới ngọn cờ của Đảng, phong trào cách mạng trong cả nước ngày càng phát
triển mạnh mẽ, rộng khắp. Đến cuối năm 1944, để chuẩn bị xây dựng quân đội cách
mạng của nước ta, Bác Hồ đã chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân và giao cho đồng chí Văn, tức Đại tướng Võ Nguyên Giáp phụ trách. Ngày 22-
12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chính thức thành lập ở Cao
Bằng. Trong số 34 chiến sĩ trẻ tuổi ấy có các anh mới qua tuổi thiếu niên như anh
Liên, anh Thế Hậu... Sau ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân đã lập chiến công tiêu diệt hai đồn địch là Phai Khắt và Nà Ngần.
Trong chiến công đầu này có sự góp phần tích cực của một đội viên thiếu niên
đó là Bé Hồng làm nhiệm vụ trinh sát.
Đồn Phai Khắt nằm chênh chếch phía Tây cách nhà Hồng non nửa cây số.
Sáng nào, chiều nào, nhìn lên, Hồng cũng thấy lính xếp hàng trước sân. Tên đồn
trưởng cầm roi gõ lên lưng, lên đầu từng người, rồi hô giật một tiếng; tất cả lính
đứng im phăng phắc; xong, bồng súng chào, rồi giải tán.
Thằng quan Tây ác hiểm có tiếng. Giữa ban ngày, nó ra chợ, đi ngông
nghênh, xem có chị nào đẹp, bắt ngay về đồn... Nó vào nhà ai thì y như là có tai vạ
đến đó; ít nhất cũng mất với nó đấu nếp, con gà.
Hồng ghét cay ghét đắng thằng đồn, nhưng mỗi lần gặp nó, vẫn thấy sợ. Hai
tên cai, một tên mặt mày như cú mèo, hai con mắt xanh lẻo, đi đâu cũng nhìn soi
mói. Một tên mặt thuổng dài như mặt ngựa, chưa có một đám cúng, giỗ nào ở trong
làng mà vắng hắn...
Đồn Phai Khắt có từ bao giờ Hồng không biết, chỉ nhớ là lúc Hồng biết chạy ra
khỏi hàng giậu trước nhà, đã thấy nó lù lù trước mặt. Từ đó, mỗi lúc Hồng khóc vòi
mẹ, mẹ doạ:
- Nín đi, thằng tây đồn xuống nó bắn chết!
Hồng lớn lên, bắt đầu biết được nhiều chuyện thì cũng biết thêm tội ác của cái
đồn Tây.
Năm Hồng mười ba tuổi, anh Đạo, anh của Hồng bị bắt lên đồn. Mẹ lo quá,
phát ốm. Hồng nghe loáng thoáng là anh Đạo bị bắt vì chúng nghi anh Đạo vào Hội
cứu quốc. Hồng hỏi mẹ mãi "Cứu quốc" là gì, mẹ không nói. Sau lúc anh Đạo được
thả về, mẹ mới bảo:
- Thằng Đạo nó vào Hội Cứu quốc để cùng với anh em bắt hết bọn đồn để cho
dân khỏi khổ.
ít lâu sau anh Đạo giới thiệu Hồng vào Hội Nhi đồng Cứu quốc và đưa Hồng gặp
một anh giải phóng quân.
Anh giải phóng quân dặn dò tỉ mỉ, giao nhiệm vụ xong xuôi, rồi ôm Hồng vào
lòng.
Anh cầm lấy tay Hồng:
- Bao giờ không còn đồn Phai Khắt nữa, anh sẽ về nhà Hồng chơi. Hồng sẽ
được gặp rất nhiều anh bộ đội.
Từ hôm ấy, ngày nào Hồng cũng đi lên đồn bán bánh hai ba lần.
Đồn Phai Khắt đối với Hồng không còn xa lạ gì nữa. Bây giờ thì Hồng có thể
làm nhiệm vụ của anh giải phóng quân giao cho rồi. Bọn đồn đã tin Hồng. Qua con
mắt của chúng, Hồng chỉ là một đứa trẻ con bán bánh nghèo đói, ngốc nghếch,
không biết gì.
Hôm đó, một loạt súng nổ ran trên đồn Khai Phắt, tin truyền về bộ đội ta đã
chiếm xong đồn.
Bà con tập hợp, hoan hô bộ đội giải phóng quân. Đồng bào hân hoan đứng
nghe đồng chí chỉ huy nói chuyện. Đồng chí giải thích chính sách của Mặt trận Việt
Minh, hô hào đồng bào đoàn kết cứu nước...
Mẹ Hồng cảm động, sung sướng nhìn con. Hồng gọi to:
- Mẹ ơi! Anh giải phóng quân của con đây này!
Anh bộ đội tung mũ lên trời hoan hô bà con quanh vùng đến mừng chiến
thắng với bộ đội. Bỗng như sực nhớ ra điều gì, Hồng kéo tay anh giải phóng quân
chạy về phía đồng chí chỉ huy:
- Anh cho em đi theo bộ đội! Anh hứa rồi mà!
Anh giải phóng quân gật đầu, kéo Hồng cùng chạy tới.
- Phải báo cáo với đồng chí Văn đã.
Hồng không rõ đồng chí Văn là ai nhưng không dám hỏi.
Anh giải phóng quân đứng nghiêm báo cáo:
- Thưa đồng chí! Bé Hồng đây là người đã giúp đỡ chúng ta rất đắc lực trong
việc điều tra đồn này, như đã báo cáo với đồng chí trước đây... Nay bé Hồng có
nguyện vọng xin đi theo bộ đội! Xin báo cáo để đồng chí xét...
Lúc anh bộ đội báo cáo, Hồng đứng cạnh anh và nhìn không chớp mắt đồng
chí Văn. Đồng chí Văn mặc áo tây, quần bó ống gọn gàng, đội mũ phớt và đeo súng
lục. Khác với điều lo lắng của Hồng, đồng chí Văn nhìn Hồng bằng cặp mắt hiền từ
âu yếm. Rồi đồng chí đến bên Hồng, đặt hai bàn tay lên hai vai bé nhỏ của Hồng:
- Em rất đáng khen! Ban chỉ huy đã đồng ý nhận em vào đơn vị.
Đồng chí Văn ra lệnh cho bộ đội rút đi, sau khi đã bố trí kế hoạch khai báo kỹ
càng cho nhân dân.
Gần đến ngày Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, Đội Thiếu nhi Nguyễn Thái
Học phát triển cơ sở ra nhiều địa bàn trong thành phố Hà Nội. Cùng với Đội Nguyễn
Thái Học đã hình thành thêm nhiều Đội Thiếu nhi Cứu quốc khác như Đội Hoàng
Văn Thụ, Đội Mai Hắc Đế... Ngày 19-8-1945, thiếu nhi Cứu quốc Hà Nội đã cùng
cha anh góp phần tham gia chiếm các công sở, trong đó có trại Bảo an binh.
Ngày 2-9-1945 đã cùng nhân dân Thủ đô dự mít tinh lịch sử, nghe Bác Hồ đọc
Tuyên ngôn độc lập. Tháng 11 -1945 nhiều đội viên đã được vào thăm Bác Hồ tại
Bắc Bộ phủ, được Bác tặng hai câu thơ:
"Bác khuyên các bạn nhi đồng - Sao cho xứng mặt con rồng cháu tiên"
Năm 1945, tình hình trong nước và trên thế giới chuyển biến hết sức nhanh
chóng. Hồng quân Liên Xô đại thắng quân phát xít Đức và tiến thẳng đến Béclin và
chỉ trong thời gian ngắn sau đã tiêu diệt toàn bộ đội quân Quan Đông của phát xít
Nhật.
Trước tình hình khẩn cấp đó, từ ngày 13 đến ngày15 - 8 -1945, Hội nghị toàn
quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định: "Cơ hội rất tốt
giành quyền độc lập cho ta đã tới" và quyết định phát động toàn dân vùng lên Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trước khi quân Đồng minh tiến vào
Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.
Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội Quốc dân cũng họp tại Tân
Trào vào ngày 16-8-1945 thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thông qua
lệnh Tổng khởi nghĩa và bầu ra ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương tức Chính
phủ lâm thời do Bác Hồ kính yêu làm Chủ tịch. Đồng chí Vũ Oanh (sau này trở
thành ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng) và anh Vũ Quang (sau này trở thành
Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn và ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng) đại
diện cho thanh niên ta dự Đại hội Quốc dân Tân Trào.
Chiều ngày 16-8-1945, đoàn đại biểu nhân dân Tân Trào đem gạo, bò, gà...
đến mừng Đại hội. Đồng bào bị đế quốc, phong kiến bóc lột đến tận xương tủy nên
ai nấy đều tiều tụy, rách rưới. Đáng thương nhất là các em thiếu nhi đi theo đoàn.
Tất cả đều gầy gò, vàng vọt. Nhớ lại hồi còn ở Pác Bó, Bác thường đến nhà đồng
chí Dương Đại Lâm. Nhà có nhiều cháu nhỏ bị chốc lở, tanh tưởi mà không có
thuốc chạy chữa. Bác đun nước ấm, rửa sạch chỗ lở rồi lấy tro bếp nóng gói lại ấp
lên đầu cho các cháu. Được rửa sạch và làm theo cách đó, ít lâu sau các cháu đều
khỏi. Dân bản gọi "Ông Ké" là thầy thuốc. Bác Hồ chữa bệnh cho các cháu bằng cả
tấm lòng thương yêu và luôn mong cho các cháu khỏe mạnh, khôn lớn. Tại Đại hội
Tân Trào hôm ấy, Bác đến gần các cháu đi cùng với đoàn đại biểu nhân dân, chỉ
vào chúng và nói với các đại biểu Đại hội "Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao
cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này".
Chúng tôi đều cảm động. Câu nói ấy về sau này Bác thường nhắc nhở luôn.
Mệnh lệnh khởi nghĩa được truyền đi từ Tân Trào. Đảng Cộng sản Đông
Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời hiệu triệu đồng bào và chiến sĩ cả nước
nổi dậy giành chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta".
Hơn hai mươi triệu đồng bào cả nước ta đã đứng lên tiến hành cuộc Tổng
khởi nghĩa long trời lở đất giải phóng toàn bộ đất nước, giành chính quyền về tay
nhân dân.
Hàng triệu thiếu niên, nhi đồng từ Bắc đến Nam cùng cha anh rầm rộ xuống
đường giương cao cờ đỏ sao vàng, khua vang tiếng trống, cất lên những bài ca
cách mạng hào hùng, phấn khởi chào đón cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại thành
công.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) trước cuộc mít tinh của
một biển người, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố trước nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới: Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
Sau khi giành được độc lập, biết bao khó khăn, thách thức hết sức to lớn đặt
ra cho nhân dân và Chính phủ ta. ở miền Nam, ngày 23-9, thực dân Pháp nổ súng
đánh chiếm Sài Gòn nhằm thực hiện âm mưu xâm lược và cai trị nước ta một lần
nữa. ở miền Bắc và miền Trung, nạn đói khủng khiếp đã làm cho hơn 2 triệu đồng
bào trong đó gồm mấy chục vạn thiếu niên, nhi đồng (chủ yếu là ở Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ) bị chết đói một cách thảm thương. 50% ruộng đất ở đồng bằng Bắc Bộ
phải bỏ hoang, sản xuất công nghiệp đình đốn, tài chính khánh kiệt, kho bạc trống
rỗng, thuốc men, hàng hoá và cả vũ khí cho quân đội... tất thảy đều vô cùng thiếu
thốn, 95% nhân dân mù chữ do chế độ cai trị khắc nghiệt của đế quốc, phong kiến
để lại.
Trước tình hình đó, ngày 3-9-1945, Bác Hồ triệu tập phiên họp đầu tiên của
Chính phủ và nêu lên 6 việc cấp bách phải làm ngay. Bác kêu gọi toàn dân hãy ra
sức "Chống giặc ngoại xâm, chống giặc đói và chống giặc dốt", trong tình hình vận
mệnh Tổ quốc như "nghìn cân treo trên sợi tóc".
Mặc dù bận rộn trăm công nghìn việc lớn lao của đất nước, của nhân dân, đối
nội và đối ngoại... nhưng Đảng và Bác Hồ luôn dành cho thiếu nhi sự quan tâm đặc
biệt. Nhân ngày khai trường đầu tiên dưới chế độ Dân chủ Cộng hoà, Bác đã gửi
bức thư tâm huyết cho các cháu học sinh trong cả nước. Mở đầu bức thư Bác viết:
"Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Bác đã tưởng tượng thấy trước mắt Bác tất cả cảnh nhộn nhịp, tưng bừng của ngày
mở trường khắp nơi... Các cháu được hưởng sự may mắn đó là nhờ sự hy sinh của
biết bao đồng bào. Vậy các cháu nghĩ sao? Các cháu phải làm thế nào để đền bù lại
công lao to lớn của những người đã không tiếc thân và tiếc của để giành lại nền độc
lập cho nước nhà". Với tất cả tình cảm của người bác, người ông, Bác Hồ ân cần
căn dặn: "Các cháu hãy nghe lời Bác, lời của một người lúc nào cũng ân cần mong
mỏi cho các cháu được giỏi giang... Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay
không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu
được hay không, chính là nhờ một phần rất lớn ở công học tập của các cháu". Và
Bác khuyên nhủ: "Ngoài giờ học ở trường các cháu nên tham gia vào Hội Nhi đồng
Cứu quốc để tập luyện cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc
nhẹ nhàng trong cuộc giữ gìn đất nước". Bức thư của Bác Hồ đã được thiếu nhi cả
nước học tập và tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi. Hàng vạn bức thư của các
cháu từ Cà Mau, Đồng Tháp Mười đến Lạng Sơn, Bắc Cạn... kính gửi lên "Già Hồ"
hứa tuân theo lời Bác dạy.
Tết Trung thu năm 1945 là Tết Trung thu phấn khởi, tưng bừng nhất của thiếu
nhi nước ta trong không khí độc lập, tự do. Nhớ đến các cháu, Bác Hồ lại viết thư
cho các cháu: "Hôm nay Tết Trung thu là của các cháu, mà cũng là một cuộc biểu
tình của các cháu để tỏ lòng yêu nước và để ủng hộ nền độc lập... Các cháu phải
thương yêu nước ta. Mong các cháu mai sau lớn lên thành những người dân xứng
đáng với nước độc lập, tự do.
Ba má các cháu đã sắm cho các cháu nào đèn, nào trống, nào hoa và nhiều
đồ chơi khác, các cháu vui vẻ nhé!
Cái cảnh trăng tròn, gió mát, hồ lặng, trời xanh của trung thu lại làm cho các
cháu vui cười, hớn hở. Các cháu vui cười, hớn hở, Bác Hồ cũng vui cười, hớn hở
với các cháu".
Thực hiện chỉ thị của Bác Hồ, năm ấy các cấp Đảng, chính quyền và Đoàn
thanh niên trong cả nước, kể cả nhiều địa phương bị giặc Pháp tạm chiếm đóng ở
Nam Bộ đã tổ chức một đêm rằm rất vui vẻ, rất náo nhiệt cho thiếu nhi. ở Hà Nội,
tiếng trống ếch vang lên khắp nơi quanh hồ Hoàn Kiếm, trước Phủ Chủ tịch, tại ấu
trĩ viên (Cung thiếu nhi ngày nay)... Đài phát thanh "Tiếng nói Việt Nam" truyền đi
nhiều lần trên làn sóng thư gửi thiếu nhi của Bác Hồ.
Để giúp các cháu thiếu niên, nhi đồng thực hiện tốt việc xây dựng Đội, Bác Hồ
đã cho gọi anh Phong Nhã là người phụ trách thiếu nhi của Hà Nội đến gặp Người.
Bác hỏi: - Các cháu thiếu nhi Hà Nội hoạt động như thế nào?
- Dạ thưa, chúng con đang tổ chức các cháu lại, hướng dẫn các cháu vui chơi,
ca hát, tập thể dục, tập quân sự...
- Như thế là tốt. Thế các chú đã lo cho các cháu học tập như thế nào?
Anh lúng túng, chưa biết phải báo cáo thế nào. Bác nói ngay:
- Các chú cần chăm lo cho các cháu học tập, chớ cho các cháu đi tuần hành
nhiều vừa bêu nắng vừa bị bụi bặm.
Anh Phong Nhã hứa với Bác sẽ tích cực thực hiện lời Bác căn dặn. Bác tỏ ý
bằng lòng rồi hỏi tiếp:
- Thế các chú đã tổ chức cho các cháu bán báo, đánh giày, đánh mũ vào Đội
chưa?
- Dạ thưa, gần đây chúng con có ý định tổ chức trẻ em mồ côi ở hai nơi là Dục
Anh đường và Bảo Anh đường. Nghe vậy, Bác nói:
- Tổ chức Đội ở mấy nơi đó là cần thiết, song chưa cấp bách bằng việc tổ
chức Đội cho trẻ em bán báo, đánh giày, đánh mũ, các cháu này đang sống tự lập,
cần được dìu dắt...
Thực hiện lời chỉ bảo của Bác, ít lâu sau Đội Thiếu nhi bán báo Hoàng Văn
Thụ thu hút thêm nhiều em nghèo khổ, lang thang, bán báo, đánh giày, mũ, bán quà
vặt để sinh nhai và giúp đỡ gia đình đồng thời làm nhiệm vụ theo dõi địch, bảo vệ
cách mạng, làm liên lạc. Sau này chính đội bán báo đó là nòng cốt của đội giao
thông liên lạc dũng cảm mang tên Hoàng Cường của Thủ đô ta.
Tháng 11 năm 1945, sau khi tiếp đoàn đại biểu thanh niên cứu quốc từ Nam
Bộ ra Hà Nội do đồng chí Huỳnh Tấn Phát dẫn đầu, Bác Hồ ủy nhiệm cho đồng chí
Phạm Văn Đồng thay mặt Đảng và Tổng bộ Việt Minh giao nhiệm vụ cụ thể để xây
dựng, củng cố, phát triển tổ chức Đoàn, Đội để tham gia công cuộc kháng chiến,
kiến quốc.
Thực hiện lời kêu gọi chống giặc ngoại xâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thanh thiếu niên Sài Gòn, Chợ Lớn và cả
Nam Bộ không sợ hy sinh xương máu đã nhất tề đứng lên anh dũng bước vào cuộc
kháng chiến lâu dài, gian khổ.
Đêm 23-9-1945, một đơn vị thanh niên cảm tử Sài Gòn trong đó có một số
thiếu niên gan dạ làm nhiệm vụ liên lạc đã bảo vệ các đồng chí cán bộ của Trung
ương Đảng, Xứ ủy và ủy ban rút ra khỏi thành phố an toàn để tiếp tục chỉ đạo cuộc
kháng chiến.
Tấm gương Lê Văn Tám tẩm xăng vào người làm cây đuốc sống đốt cháy kho
xăng giặc được các cơ quan thông tin của ta phổ biến rộng rãi gây xúc động lớn và
cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của nhân dân, nhất là thanh thiếu niên Sài Gòn,
Chợ Lớn cũng như Nam Bộ trong phong trào yêu nước chống giặc ngoại xâm.
Những tin tức về các trận đánh ở Tân Định (ngày 24-9-1945) diệt trên 100 tên địch;
trận tấn công bất ngờ trại lính Pháp trên đường Divuê (Hùng Vương ngày nay); trận
đột kích phá Khám lớn Sài Gòn giải phóng tù chính trị còn lại; trận đột nhập nhà tên
Dờlinhông diệt nhiều sĩ quan giặc... gây nên thanh thế lớn cho quân dân ta. Đặc biệt
trận phục kích tại cầu chữ Y của Đội Thanh niên xung phong cảm tử do hai anh em
Đoàn Tiến và Đoàn Dũng chỉ huy ngày 30-9-1945 diệt 2 xe vận tải chở đầy lính
Pháp làm cho đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn và nhân dân cả nước thêm nức lòng,
làm cho kẻ thù thêm nao núng tinh thần.
Sách "Miền Nam giữ vững thành đồng" của tác giả Trần Văn Giàu kể lại câu
chuyện: Tại đầu đường Galiêni một tổ du kích đánh lựu đạn diệt 10 tên địch, ta có 2
chiến sĩ hy sinh. Một thiếu niên đi rải truyền đơn kêu gọi lính địch nổi lên phản đối
chẳng may bị bắt. Viên sĩ quan Anh hỏi:
- Mày không sợ chết à?
Thiếu niên đó trả lời:
- Người sung sướng là được chết cho Tổ quốc.
Suy nghĩ một lúc, cảm phục tinh thần yêu nước nồng nàn của em, viên sĩ quan
Anh liền ra lệnh thả em. ở Biên Hoà, được sự giúp đỡ của các anh thanh niên cảm
tử, một nhóm thiếu niên gồm gần 30 người cùng nhau tập hợp thành lập Đội Thiếu
niên xung phong cảm tử Biên Hoà. Các đội viên tổ chức các nhóm nhỏ làm công tác
liên lạc, trinh sát, giúp đỡ du kích trừ gian, diệt ngụy.
Hướng về Nam Bộ kháng chiến, cả miền Bắc và miền Trung tổ chức rầm rộ
những "Ngày Nam Bộ", "Vũ khí cho Nam Bộ...". Phong trào "Nam tiến" để sát cánh
cùng tuổi trẻ và nhân dân Nam Bộ đánh giặc sôi nổi khắp nơi. Tỉnh nào, thành phố
nào cũng thành lập các đơn vị "Nam tiến". Tại Hà Nội, tấm gương người thiếu niên
dũng cảm trốn trong toa chở than của đoàn tàu "Nam tiến" để cùng các anh Vệ quốc
quân tham gia giết giặc đã hy sinh oanh liệt với chiếc bát sắt luôn đeo bên mình đã
được truyền đi khắp các đơn vị và nhanh chóng đến với tuổi trẻ và đồng bào Thủ
đô. Đồng đội gọi người chiến sĩ thiếu niên ấy là "Chiến sĩ Bát Sắt". Sau này, trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, thiếu niên Hà Nội đã lập Đội thiếu niên tình báo
chiến đấu trong lòng địch với tên gọi "Đội Bát Sắt" để noi gương anh.
Trên mặt trận "Chống giặc đói", thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu:
"Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa; đó là khẩu hiệu
của chúng ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do,
độc lập", thanh thiếu niên cả nước ra sức khai hoang vỡ đất, tận dụng mọi diện tích
để trồng các loại cây lương thực ngắn ngày. Học sinh các trường, kể cả tiểu học lập
các đội "Tăng gia tự túc", "Tăng gia và tiết kiệm", "Đội trồng khoai", "Đội trồng sắn"...
cứ sau giờ học là tiến thẳng đến mảnh đất tăng gia. Đi đôi với việc sản xuất cây
lương thực ngắn ngày là phong trào chăm sóc đàn gia cầm của thiếu nhi khắp các
tỉnh miền Bắc. Thiếu niên tích cực tham gia cuộc vận động "Ngày đồng tâm cứu đói"
(tức là mỗi tuần chọn 1 ngày để cả nhà dành một bơ gạo bỏ vào hũ gạo cứu đói).
Trên mặt trận chống giặc dốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: "Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ".
Người nhắc nhở toàn dân hăng hái tham gia dạy và học chữ quốc ngữ. "Những
người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ", những người chưa biết
chữ hãy gắng sức mà học cho biết" và Người giao nhiệm vụ này cho tuổi trẻ. "Công
việc này mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp đỡ". Thực hiện lời dạy của Bác
Hồ kính yêu, tổ chức Đoàn các cấp đã tập trung huy động lực lượng thầy, cô giáo
trẻ, học sinh, sinh viên (từ lớp lớn cấp tiểu học cho đến trung, đại học) tham gia vào
đội ngũ những chiến sĩ diệt dốt. Trên khắp đất nước ta, các lớp bình dân học vụ
được tổ chức từ thành phố, thị xã đến các vùng nông thôn xa xôi. Đêm đến, ở các
làng mạc, bà con đốt đuốc, thắp đèn đến lớp; ở các thành phố, thị xã điện bừng
sáng trong các trường, ở các trụ sở của các cơ quan (dành địa điểm cho nhân dân
đến học). Học viên gồm các lứa tuổi khác nhau từ cụ già đến thiếu niên. Thầy giáo,
cô giáo cũng gồm các lứa tuổi khác nhau. Có không ít những thiếu niên được các
anh cán bộ phân công dạy chữ cho các bác, các cô chú trong thôn xóm. Riêng ở Hà
Nội, tháng 10 năm 1945 đã có ngay hơn 2000 học sinh, sinh viên, thiếu niên tình
nguyện tham gia làm "Chiến sĩ diệt dốt" thường xuyên. Sau một năm (tháng 10 năm
1945 đến tháng 10 năm 1946), ở Hà Nội đã có 95.665 người tham gia làm "Chiến sĩ
diệt dốt" trong đó phần lớn vẫn là thanh, thiếu niên; cả nước tổ chức được 74.957
lớp học, kết quả giúp cho 2.500.000 người biết đọc, biết viết. Tại Nam Bộ, ở những
địa phương giặc Pháp chưa đánh chiếm được, theo sự hướng dẫn của cán bộ,
phong trào thiếu nhi chống mù chữ phát triển rất mạnh. Bài hát "Gieo ánh sáng"
được phổ biến rộng rãi trong các em. Trước hết các em lo xoá mù chữ cho chính
mình. Sau khi đã được "Sáng mắt, sáng lòng" các em lại lo gieo ánh sáng cho
người khác. Kết quả to lớn trên mặt trận diệt dốt nêu trên có sự đóng góp đắc lực
của hàng vạn thiếu niên từ Bắc đến Nam.
Cuối năm 1945, đội thiếu nhi Mai Hắc Đế do anh Nguyễn Hữu Lâm phụ trách
đã tổ chức một cuộc diễu hành lớn để chống lại các hoạt động chống phá cách
mạng của bọn Việt Cách, Việt Quốc. Đi đầu cuộc diễu hành là đội trống ếch rất oai
hùng xuất phát từ đường Bà Triệu tiến đến vườn hoa Chí Linh. Hoà với tiếng trống
là tiếng hô đả đảo bọn phản động. Nhiều bậc cao niên ở Hà Nội lúc ấy gọi tiếng
trống của đội Mai Hắc Đế là tiếng trống cách mạng của thiếu nhi Việt Nam. Có một
đội viên rất hăng hái trong đội trống sau này trở thành đại tá nhạc sĩ nổi tiếng trong
quân đội, đó chính là nhạc sĩ Huy Thục, đội viên đội thiếu nhi Mai Hắc Đế.
Đầu năm 1946, mặc dù tình hình chiến sự ngày càng phức tạp, nhất là ở Nam
Bộ và cực Nam Trung Bộ do thực dân Pháp ra sức thực hiện chiến tranh xâm lược
nước ta lần nữa, nhưng để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và đập tan sự
xuyên tạc của kẻ thù, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tổ chức tổng
tuyển cử trong cả nước để bầu ra Quốc hội đầu tiên của đất nước và xây dựng Hiến
pháp của nước Việt Nam độc lập.
Hàng triệu thiếu niên tay cầm cờ, hoa tham gia cổ động cho cuộc bầu cử hết
sức rầm rộ này. Với băng, cờ, biểu ngữ và tiếng trống ếch khua vang, từng đoàn
thiếu nhi xuống đường đầu đội mũ ca lô bằng vải và cả bằng giấy cất cao tiếng hát
những bài ca cách mạng vận động đồng bào đi bỏ phiếu. Đặc biệt ở các tỉnh Nam
Bộ, mặc dù việc vận động nhân dân đi bầu cử gặp khó khăn nhưng nhiều thiếu niên
đã luồn lách sâu vào các vùng bị giặc tạm chiếm phân phát truyền đơn kêu gọi đồng
bào tham gia bầu cử. Tại Bến Tre, hàng trăm đội thiếu nhi kéo đi cổ động cho ngày
bầu cử khắp các xóm, ấp từ sáng đến chiều (Bến Tre được Trung ương cho tranh
thủ thời gian tổ chức bầu cử sớm để sẵn sàng chuẩn bị chống giặc). Thiếu nhi Nam
Bộ còn tích cực tham gia cuộc vận động "Tuần lễ vàng". Lời cổ động mộc mạc từ
các em làm xúc động lòng người:
Có vàng đổi súng đánh Tây
Cùng nhau quyên góp hỡi ai có vàng.
Sau "Tuần lễ vàng" đến "Tuần lễ đồng thau", thiếu nhi các tỉnh Nam Bộ chia ra
thành từng nhóm nhỏ lặn lội khắp nơi để thu gom đồng thau của bà con đóng góp vì
các em hiểu rằng các công binh xưởng của ta đang rất cần đồng để đúc đạn.
Ngày 6-1-1946 là ngày hội lớn của nhân dân và thanh thiếu niên nước ta.
Sáng sớm tinh mơ, tiếng trống ếch và tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu của các Đội
thiếu niên đã vang lên nhịp nhàng khắp các địa phương trong cả nước. Đồng bào
theo chân các Đội thiếu niên đến các địa điểm bỏ phiếu để làm nhiệm vụ công dân
của một nước độc lập sau hơn 80 năm mất nước. Bác Hồ kính yêu ứng cử ở Thủ
đô Hà Nội được cử tri tín nhiệm cao nhất với 98,4% số phiếu bầu. Đại biểu Quốc hội
trẻ nhất là anh Nguyễn Đình Thi mới bước vào tuổi 21, là nhà thơ, nhạc sĩ, là một
cán bộ Đoàn đã từng hoạt động và rất gắn bó với phong trào thanh thiếu nhi.
Đảng, Bác Hồ kính yêu và Chính phủ ta rất hoan nghênh những đóng góp tích
cực của phong trào thiếu nhi nước ta vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc, góp
phần không nhỏ vào công cuộc chống giặc ngoại xâm, chống giặc đói, chống giặc
dốt cũng như xây dựng chính quyền cách mạng qua các hoạt động trong cuộc bầu
cử Quốc hội.
Ngày 19-5-1946, mừng sinh nhật lần thứ 56 của Bác Hồ kính yêu, một cuộc
diễu hành lớn chưa từng có của thiếu nhi toàn thành phố Hà Nội thay mặt cho thiếu
nhi cả nước với trống rung, cờ mở và hát ca vang lừng từ nhiều địa điểm ở nội,
ngoại thành kéo về hội tụ tại Phủ Chủ tịch trong niềm hân hoan phấn khởi, vui tươi
to lớn.
Bác Hồ kính yêu đã dành những giờ phút hết sức quý hiếm của Người để gặp
mặt các cháu. Bác xuất hiện giữa rừng hoa, rừng cờ, giữa hàng vạn thiếu niên với
tình cảm thương yêu, trìu mến vô hạn. Bác căn dặn các cháu phải chăm học, vâng
lời bố mẹ, cố gắng giũp đỡ bố mẹ trong công việc gia đình và tùy theo sức của mình
góp phần vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Tiếng hô "Bác Hồ muôn năm",
"Việt Nam độc lập muôn năm" vang động không ngớt... Bác Hồ ân cần tặng thiếu
nhi Thủ đô một cây bách tán và dặn các cháu đem về trồng ở ấu Trĩ viên. Đây là
món quà đầy ý nghĩa của Bác không những với thiếu nhi Thủ đô mà còn đối với
thiếu nhi cả nước.
CHƯƠNG II
Bộ đội cố gắng,
Quyết chiến quyết thắng
Diệt giặc lập công.
Khắp nơi Nam, Bắc, Tây, Đông.
Đưa tin thắng trận cờ hồng tung bay.
Các cháu vui thay!
Bác cũng vui thay!
Thu sau so với Thu này vui hơn.
Bác đã dự đoán rất đúng như thực tiễn sau này đã diễn ra.
Ngày 20-11-1953, sau khi được tin quân ta tiến lên Tây Bắc, giặc Pháp vội
vàng cho 6 tiểu đoàn nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ. Đến đầu tháng 3-1954, địch
tăng quân ở Điện Biên Phủ lên 17 tiểu đoàn cùng với nhiều xe tăng, xe vận tải và cả
một phi đội không quân thường trực. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chủ trương xây
dựng Điện Biên Phủ thành một pháo đài không thể bị tấn công và sẵn sàng nghiền
nát đối phương bất cứ lúc nào.
Trước những lời lẽ huênh hoang và sự chuẩn bị tốn kém to lớn của giặc. Bộ
Chính trị Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định mở cuộc tiến công chiến lược vào
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trong thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh
chiến dịch, Bác viết: "Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những
về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế.
Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được". Các
chiến trường trong cả nước cũng đồng loạt ra quân đánh địch phối hợp với Điện
Biên Phủ.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục, mãnh liệt, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng Đờ Cáttơri và toàn bộ Bộ tham
mưu của giặc vào lúc 17 giờ 30 ngày 7-5-1954.
Lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng" của Bác Hồ tung bay trên Điện Biên Phủ. Ngày 21-
7-1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương kết thúc. Hội nghị thừa nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia. Quân đội
nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương và mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng
tuyển cử tự do. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng.
Trung thu năm 1954, như Bác đã dự đoán vào năm trước là sẽ vui hơn. Quả
đúng như vậy nên trong thư gửi các cháu, Bác viết: "Trung thu này là Trung thu hòa
bình đầu tiên, sau 8, 9 năm kháng chiến anh dũng của nhân dân ta... Trăng thu
trong đẹp, sáng rọi khắp nơi, từ Nam đến Bắc. Cũng như lòng Bác yêu quí tất cả
các cháu miền Bắc và miền Nam".
Bác còn nêu lên hy vọng thiết tha:
"Đến ngày Nam Bắc một nhà
Các cháu xúm xít, thì ta vui lòng".
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian khổ, hy sinh,
Đội ta và biết bao đội viên đã anh dũng hy sinh, nhiều đơn vị của Đội đã vinh dự
được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 1 huân chương quân công, 30 huân chương
chiến sĩ, 2 huân chương kháng chiến, hàng vạn bằng khen... Nhiều đội viên đã trở
thành chiến sĩ thi đua toàn quốc, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ,
đảng viên ưu tú xứng đáng với niềm tin yêu sâu sắc của Đảng, của Bác Hồ, Chính
phủ và nhân dân cả nước.
CHƯƠNG III
Trong chiến tranh ác liệt, mặc dù chưa đến tuổi cầm súng, nhưng chính sự tàn
bạo của kẻ địch buộc các em phải tìm cách tiêu diệt chúng để bảo vệ mình. Em Y
Noát, người dân tộc Êđê ở Buôn Đát, một làng chiến đấu nổi tiếng của Tây Nguyên,
trong một lần vào rừng sâu hái cây cơ búc, cơ ban về cho mẹ đốt tro hòa nước
chàm nhuộm quần áo thì gặp bọn biệt kích Mỹ, Ngụy. Chúng bắt em phải dẫn về
làng tìm bắt du kích, nếu không chúng sẽ bắn bỏ. Không còn cách nào khác Y Noát
phải dẫn chúng đi. Có Y Noát dẫn đường, bọn địch đều tránh được các bãi chông ở
ngoài. Ông Y Đung chỉ huy đội du kích của buôn là cha của Noát không khỏi ngạc
nhiên khi thấy con mình lại dẫn bọn Mỹ về buôn. Lại còn để chúng đi ngang nhiên
đến vậy. Ông không thể biết chính Y Noát cũng đang tính toán từng bước đi. Khi đi
đến cách cây kơ nia bên tay phải mấy bước chân, em bỗng dừng lại. Bọn địch cũng
dừng theo, co cụm lại một đám. Bất ngờ Y Noát đạp mạnh vào hòn đá nằm giữa
đường và nhanh chóng nằm rạp xuống. Hòn đá chính là nơi du kích đã cài chốt bẫy.
Chốt bẫy được mở. Như một ánh chớp, một cây tre dài xé gió phạt ngang qua đầu
Y Noát. Bọn biệt kích Mỹ, Ngụy chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì chiếc cần
bật bằng cây tre dài đã phạt ngang vào bụng 2 tên Mỹ, và toán đông đứng đầu, hất
chúng xuống hầm chông tẩm nhựa tang nang. Toán đi sau nhớn nhác tháo chạy bị
sập bẫy, sập hầm chông chết gần hết. Số còn lại bị tên tẩm thuốc độc và mũi súng
bắn tỉa của Y Đung và đội du kích diệt gọn. Còn Y Noát, em đã nhanh nhẹn lao vào
một lùm cây theo đường an toàn trở về buôn.
ở Cà Mau, em Nguyễn Văn Hải, một thiếu niên bị giặc bắt, biết em rành
đường vào căn cứ, lại nghe tin Ban Chấp hành huyện ủy đang có mặt họp ở đó,
chúng bắt em dẫn đường cho chúng, nếu không sẽ bị chúng giết chết. Hải đã giả vờ
ngoan ngoãn dẫn chúng đi. Nhưng chúng không ngờ lại bị em dẫn vào bãi mìn. Mìn
nổ. Không một tên giặc nào sống sót và Nguyễn Văn Hải đã anh dũng hy sinh.
Những năm tháng kháng chiến ác liệt, thiếu nhi miền Nam đã có nhiều cách
lập công hết sức độc đáo, như em Liên, 13 tuổi đã vào du kích xã. Hàng ngày em
thường chơi thân với lính Mỹ trong đồn, rồi lén lấy lựu đạn gài ngoài cổng đồn trước
khi ra về. Bọn lính Mỹ đi càn, đụng lựu đạn nổ, 9 tên thương vong. Một lần cũng lấy
lựu đạn nhưng Liên lại gài ngay trong đồn. Lựu đạn nổ làm 5 tên thương vong. Tính
ra Liên đã khôn khéo lấy được 15 lựu đạn và 1 khẩu súng cho du kích. Bọn địch
phát hiện ra hành động của em, tìm cách truy lùng nhưng không bắt được. Riêng
em diệt được 14 tên Mỹ.
Em Thanh ở Quảng Ngãi hàng ngày đi chăn bò đã lén mang cơm cho cán bộ
ở trong núi. Em hỏi các anh cán bộ cách gỡ lựu đạn địch gài. Lần đầu gỡ được 1
quả em mang ra cho các anh du kích, các anh khen Thanh tiếp tục vào ấp gỡ trái,
chỉ một thời gian em đã gỡ được 180 trái lựu đạn trong ấp chiến lược gửi cho du
kích.
Lính Mỹ đi câu, em lân la ăn cắp được 4 trái lựu đạn, đem cho du kích 3 trái,
giữ lại 1 trái. Rồi theo dõi Mỹ đi săn, em gài trái, lính Mỹ đụng trái 4 tên chết. Em lân
la chơi với lính Mỹ, lấy được 300 đồng. Em làm hầm chông, Mỹ sập hầm, 6 thằng bị
thương. Em lấy cắp bản đồ Mỹ, nó biết đuổi theo, em lấy đá ném, trúng mũi lõ nó,
chạy thoát. Em bắn chết 1 lính ngụy, giải thoát 1 cán bộ bị bắt.
Không chỉ từng cá nhân tự động lấy súng địch cung cấp cho du kích. ở nhiều
địa phương có cả những chi Đội tổ chức lực lượng để lấy súng địch đánh địch. Một
chi Đội TNTP mật ở Điện Bàn Quảng Nam trong tháng 8 - 1968 đã lấy cắp của địch
22 súng, 1 máy bộ đàm, diệt 31 lính địch.
ở xã Mỹ Phước, Bến Cát, Bình Dương, Đội thiếu nhi có 20 em (4 gái) các em
chia thành từng tổ nhỏ: Tổ báo tin, tổ dỡ cơm, tổ mua đồ ăn cho du kích. Các em gỡ
được 30 trái lựu đạn, 500 viên đạn cho du kích, rải 600 tờ truyền đơn. Các em còn
dùng mìn đặt đánh 2 xe M113 của Mỹ, đánh 2 bót gác lính ngụy.
Khi trực tiếp cầm súng chiến đấu, thiếu niên, nhi đồng các tỉnh miền Nam
trong kháng chiến chống Mỹ cũng có những cách đánh vừa táo bạo, nhưng cũng
thật mưu trí và cũng rất... thiếu nhi song đã lập được nhiều chiến công. Phát hiện
tốp lính Mỹ đang phục kích, nửa đêm, chờ cả nhà đã ngủ yên, Võ Hường nhẹ nhàng
bò dậy, cài mùng cẩn thận như vẫn có người đang ngủ trong đó, rồi lẻn ra vườn, lấy
trái lựu đạn M26, đến chỗ bọn lính Mỹ phục kích. Hường bò lên một mô đất cao,
ngay trên đầu bọn Mỹ, rút chốt an toàn quả lựu đạn thả xuống và rút êm về nhà
trong khi bọn lính Mỹ la hoảng và vãi đạn tứ tung. Trận đó Võ Hường đã diệt được 3
tên Mỹ và làm nhiều tên bị thương. Võ Hường còn đánh nhiều trận khác, diệt 20 tên
Mỹ, 1 xe bọc thép M. 118 và 1 xe tăng M. 41, trở thành 1 dũng sĩ diệt Mỹ tiêu biểu
của Quảng Nam - Đà Nẵng.
ở Quảng Nam còn có em Hồ Thị Thu, tuổi nhỏ nhưng chí lớn. Khi giặc Mỹ
chiếm đóng quê hương, gây nhiều tội ác với đồng bào, Thu đã không quản mình bé
nhỏ, cướp cả súng của địch để đánh địch. Em còn dùng thuốc súng chế mìn, diệt
được nhiều tên.
Tiêu biểu cho tinh thần 'Tuổi nhỏ chí lớn", mưu trí, dũng cảm tiến công địch
của thiếu nhi miền Nam thời kỳ này có Kơpa Kơlơng, một thiếu niên người dân tộc
Bana ở Gia Lai. Kơpa Kơlơng tham gia du kích năm 13 tuổi, là một thiếu niên giỏi
đánh mìn, vót chông, gài thò, làm cạm bẫy. Lớn hơn một chút, Kơpa Kơlơng nhập
ngũ, làm trinh sát cho bộ đội huyện Chưprông, có biệt tài bắn xiên táo. Em luôn
chọn điểm cao thích hợp, bình tĩnh chờ địch đến gần, cách chừng 20 - 30 mét mới
nổ súng. Có lần bắn 3 viên đạn em đã diệt được 5 tên địch... Lần đi trinh sát ở
Plâyme, nhờ chọn được địa thế thích hợp, em bắn 2 viên đạn, diệt 4 tên biệt kích.
Trong trận phục kích một trung đội địch trên đường đi khu dinh điền Lệ Ngọc, trận
địa bị lộ. Thấy tình hình nguy hiểm Kơpa Kơlơng đã nhanh chóng giật mìn diệt một
số tên địch, tạo điều kiện cho đơn vị rút về tuyến sau, còn mình ở lại kìm chân địch.
Bị thương máu ra nhiều, em vẫn bình tĩnh tìm điểm cao thích hợp, diệt thêm một số
tên địch rồi mới tìm cách trở về đơn vị.
Trong mọi tình huống Kơpa Kơlơng đều tìm mọi cách diệt địch đạt hiệu suất
cao nhất. Có lần chỉ còn 3 viên đạn, em vẫn bám địch từ sáng đến chiều, đứng nấp
cách địch chỉ 5 mét, chờ cho chúng tập hợp thành một hàng dọc, mới nổ súng, viên
đạn đi xuyên táo, diệt một lúc 7 tên, tên còn lại bị thương. Đối với bọn lính Mỹ, Kơpa
Kơlơng cũng có cách đánh thích hợp. Biết được bọn lính Mỹ khi tác chiến thường
chiếm điểm cao. Kơpa Kơlơng thường bố trí mìn trên đường, rồi chiếm điểm cao
trước, nằm phục chờ địch. Một lần, bọn Mỹ từ căn cứ Plơime hành quân, vấp phải
mìn trên đường, đứa chết, đứa bị thương, số còn lại vội chạy lên chiếm điểm cao,
liền bị Kơpa Kơlơng đang ém sẵn trên đó, ném lựu đạn vào đội hình, diệt tiếp 4 tên,
khiến chúng hoảng sợ phải tháo chạy, bỏ dở cuộc hành quân.
Kơpa Kơlơng được ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang ngày 17-9-
1967, với 6 chữ vàng "Tuổi thiếu niên, chí anh hùng".
Dũng cảm và mưu trí là những đức tính nổi bật của những thiếu nhi người dân
tộc thiểu số "Tuổi nhỏ chí lớn" như Điểu Văn Cải, dân tộc Châu Ro, ở vùng Túc
Trưng (nay là xã Phú Túc, huyện Phú Túc, Đồng Nai). Sớm chứng kiến những tội ác
man rợ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đối với gia đình và bà con làng xóm, lên 8
tuổi Cải đã mưu trí chuyển được tài liệu mật của cán bộ cách mạng giao qua cổng
ấp có bọn lính đang kiểm soát gắt gao từng người ra vào. Tham gia du kích nhiều
lần Điểu Cải đã cải trang vào tận hang ổ địch để tiêu diệt chúng. Trong đó có những
lần chỉ một mình với cây súng bá đỏ anh vẫn ngang nhiên qua mắt địch để đánh vỗ
mặt, làm chúng không kịp trở tay, như trận đánh chớp nhoáng làm sập cầu lô cốt
đầu ấp Đức Thắng diệt 4 tên địch; hay trận đánh giặc giữa phiên chợ đông, chỉ sau
một loạt đạn nổ giòn đã thấy 3 tên lính bảo an ngã gục, còn người bắn loạt đạn
đanh gọn đó đã biến đi nhanh chóng, không ai kịp nhận mặt. Mọi người chỉ biết kêu
lên "Kon Trô, Kon Trô, Điểu Cải về!"
Huyền thoại về Kon Trô Điểu Cải đã làm bọn địch mất ăn mất ngủ. Chúng tung
mọi lực lượng lớn thám báo lùng sục khắp nơi để diệt tên "du kích trẻ con Điểu Cải".
Tên phụ tá ấp Cây Xăng không bắt được Điểu Cải rất cay cú. Nó bắt nhiều người
dân vô tội, chụp cho họ cái mũ Việt Cộng rồi bắn chết tại chỗ. Một hôm Điểu Cải cải
trang thành một cảnh sát ngụy đột nhập vào một quán bar, nơi tên ác ôn đang ăn
chơi trác táng. Khi tên ác ôn kịp nhận ra Điểu Cải thì hắn đã bị một mũi súng gí sát
vào ngực. Chỉ trong nháy mắt hắn đã bị Điểu Cải bắt gọn.
Với ý chí dũng cảm và mưu trí, 16 tuổi Điểu Cải đã được giao trọng trách xã
đội phó, phụ trách đội du kích, nhiều phen làm cho kẻ địch kinh hồn bạt vía. 18 tuổi
anh trở thành một xã đội trưởng "gan cùng mình". Anh hy sinh trong khi làm nhiệm
vụ, đụng phải mìn định hướng do địch gài. Sau này Điểu Văn Cải được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Từ năm 1961, sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, các
tổ chức quần chúng được thành lập, Đội Thiếu niên Tiền phong của thiếu niên, nhi
đồng miền Nam Việt Nam cũng được hình thành ở nhiều cơ sở, trên cả 3 vùng.
Không chỉ ở vùng giải phóng, mà cả ở những vùng giáp ranh, vùng địch tạm chiếm
đóng, Đội Thiếu niên Tiền phong cũng được thành lập ở nhiều cơ sở, góp phần tổ
chức thiếu niên, nhi đồng tham gia nhiều hoạt động thiết thực của cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Đến năm 1966, ở Khu Đoàn miền Tây đã có 270 chi đội thiếu niên, có
8.572 đội viên, trong đó có 3.116 đội viên nữ. Cùng thời gian, Liên khu Năm có 305
chi đội, với 35.035 đội viên. Riêng tỉnh Quảng Đà (Quảng Nam - Đà Nẵng) với 132
xã thì có 113 xã đã có chi đội thiếu niên tiền phong.
Được các cơ sở Đoàn hướng dẫn, tổ chức Đội ở nhiều địa phương đã có
nhiều hoạt động phù hợp với lứa tuổi các em, tổ chức thiếu niên, nhi đồng tham gia
mọi công tác kháng chiến. Trong các vùng địch tạm chiếm đóng, nhiều chi đội thiếu
niên đã tổ chức thành những Đội thiếu niên du kích bí mật, làm nhiệm vụ nắm tình
hình địch, giúp đỡ các anh chị du kích đánh địch có hiệu quả. Khi có điều kiện đội du
kích thiếu nhi của các em cũng tham gia đánh địch. Nhiều trận đánh của các em đã
có tiếng vang lớn, làm chính kẻ địch được trang bị đầy đủ vũ khí hiện đại cũng phải
lo sợ.
Các đội thiếu nhi du kích của phân khu I (gồm Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát,
Dầu Tiếng) hoạt động bí mật ngay trong lòng địch, đã nhiều lần tổ chức đặt trái, diệt
nhiều xe tăng. Trong đó Đội du kích mật của thiếu nhi Trảng Bàng diệt 5 chiếc, Củ
Chi diệt 5 chiếc. Các đội du kích mật của thiếu nhi Bến Cát, Dầu Tiếng, mỗi nơi diệt
1 chiếc. Nhiều tên Mỹ chết và bị thương. Riêng các em thiếu nhi du kích Dầu Tiếng
đặt mìn diệt một lúc 50 tên lính Mỹ và lính Ngụy. Có 31 em thiếu nhi trong phân khu
đạt danh hiệu dũng sĩ. Trong đó có một em ở Trảng Bàng, 15 tuổi đã diệt được 97
tên lính Mỹ.
ở Quảng Nam - Đà Nẵng, quê hương người thợ điện anh hùng Nguyễn Văn
Trỗi. Sau khi anh Trỗi bị chế độ Ngụy ở Sài Gòn giết hại đã dấy lên phong trào thi
đua diệt Mỹ để trả thù cho anh. Nhiều đội du kích thiếu niên mang tên anh Trỗi đã ra
đời và đã có nhiều hoạt động táo bạo làm cho kẻ địch hoang mang lo sợ không biết
sẽ tấn công vào lúc nào. Đội Thiếu nhi du kích Nguyễn Văn Trỗi ở xã B (Quảng
Nam), có 4 em, trong 7 ngày, từ 8 đến 15- 8 - 1968 đã diệt 15 tên địch, thu 4 súng.
Các em còn tự làm lấy mìn, đánh 2 xe địch, diệt 20 tên. Những tháng cuối năm
1968, các em liên tiếp đánh địch nhiều trận khác, diệt 47 tên địch... Tổ được tặng
danh hiệu Tổ dũng sĩ cấp ưu tú.
ở Điện Bàn, tổ thiếu niên du kích xã T có 6 em, trong 6 tháng đã diệt 80 tên ác
ôn lính Mỹ, Ngụy, được tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhất. Cũng ở
Điện Bàn, Đội thiếu niên du kích Bích Bắc đã đánh địch trên 100 trận, trận nào cũng
lập công, diệt 153 lính Mỹ, Ngụy. Trong đó có 1 em diệt được 47 tên, được tặng
danh hiệu dũng sĩ và chiến sĩ thi đua giết giặc của Quân khu V.
Không chỉ ở Khu V, ở nhiều nơi khác, các đội du kích thiếu niên cũng đã ra
đời và có nhiều hoạt động táo bạo. Đội thiếu nhi du kích của Sở cao su Bình Sơn,
tỉnh Biên Hòa, hoạt động trong lòng địch đã từng đột nhập phá 3 buổi chiếu phim
phản động của bọn Mỹ - Ngụy, phá huỷ 1 xe tăng, giết chết 15 tên Mỹ, thu 7 súng và
hàng ngàn viên đạn, được Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Nhân dân
Cách mạng tặng bằng khen. Đội Thiếu nhi du kích Cầu Khởi, huyện Dương Minh
Châu, tỉnh Tây Ninh, chỉ riêng năm 1968 đã diệt 10 xe thiết giáp địch, giết chết 40
tên lính Mỹ, thu 2 súng.
Còn ở Hải Lăng (Quảng Trị), sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy của quân và
dân miền Nam Tết Mậu Thân 1968, kẻ địch điên cuồng phản công ác liệt. Chúng
cho cả một đoàn xe đến đóng ở Rùa Hạ (xã Thượng Xá). Hai em thiếu nhi Thống và
Lộc đã tìm cách nắm tình hình đóng quân của địch báo cho du kích và bộ đội tổ
chức đánh địch, diệt một lúc 120 xe bọc thép của Mỹ. Khi bị địch bắt vào phòng vệ
dân sự, Thắng và Lộc vẫn tìm cách bắt liên lạc với du kích và cơ sở cách mạng, tổ
chức đánh địch, làm tan rã hoàn toàn toán phòng vệ dân sự 50 tên của địch.
Thời kỳ tiến hành chiến lược "Chiến tranh cục bộ", không những đế quốc Mỹ
đã sử dụng nhiều thủ đoạn hết sức tàn bạo đối với nhân dân miền Nam Việt Nam,
mà chúng còn mở rộng đánh phá có tính hủy diệt nhiều cơ sở kinh tế, quốc phòng
trên miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người sức của của hậu phương lớn
miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Trong cuộc chiến tranh bằng không quân và
hải quân của Mỹ chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có chủ quyền, nhiều
trường học, nhiều cơ sở vui chơi của các em thiếu niên, nhi đồng cũng đã bị tàn phá
nặng nề. Không ít cơ sở đã bị hủy diệt hoàn toàn. Chỉ riêng ở Nghệ An, chưa đầy 6
tháng, từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1965, đế quốc Mỹ đã đánh phá vào 40 trường
học, trong đó 100% số trường học ở thành phố Vinh hoàn toàn bị phá hủy. Ngày 23
- 9 - 1965, máy bay Mỹ đã đánh phá dã man trường phổ thông cấp I - II Quỳnh Tiến
ngay trong giờ các em đang học, làm 5 em học sinh cấp I (tiểu học), 11 em học sinh
cấp II ( THCS) và 3 giáo viên bị chết; 26 học sinh cấp I, 10 học sinh cấp II bị thương.
ở Hà Tĩnh đã có gần 400 trường học bị máy bay Mỹ đánh phá. Ngày 9-2-1966,
máy bay Mỹ ném bom vào trường cấp II Hương Phúc (Hương Khê) làm chết một lúc
33 em học sinh, trong đó có 7 em mất tích, 1 thầy giáo và 24 em học sinh khác bị
thương...
Nhưng chính trong những điều kiện khó khăn, thử thách đó, thực hiện lời dạy
của Bác Hồ kính yêu "Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học
tốt", thầy và trò các trường học trong tất cả các địa phương trên toàn miền Bắc, từ
đồng bằng ven biển đến miền núi cao, từ thành thị đến nông thôn cả trong những
vùng trọng điểm máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá có tính hủy diệt, đã kiên
cường bám trường, bám lớp, bảo đảm thực hiện thi đua "hai tốt" trong mọi tình
huống. Nhiều trường đã thực hiện "vác trường lên vai đi sơ tán", đến những vùng
sâu vùng xa, nơi địch ít đánh phá, tổ chức dạy và học. Những trường không có điều
kiện sơ tán đến nơi học an toàn thì tổ chức đào hầm hào xung quanh lớp học để khi
báo động, từ trong lớp học ra nơi trú ẩn an toàn. Không học được ban ngày, nhiều
trường tổ chức cho các em học ban đêm. Không thắp được đèn để học, các em
dùng đèn chai, lấy giấy bọc xung quanh, chỉ chừa một lỗ nhỏ vừa đủ ánh sáng chiếu
xuống trang vở. Để tránh bom đạn địch sát thương, các em làm mũ rơm để đội. Đội
mũ rơm trên đường đến trường. Đội mũ rơm khi đi sinh hoạt, trong những lúc làm
kế hoạch nhỏ, và dĩ nhiên cả khi ra trận địa, cung cấp lá ngụy trang, giẻ lau súng
cho các anh bộ đội. Chiếc mũ rơm trong những năm kháng chiến chống Mỹ trở
thành như một biểu tượng của ý chí Việt Nam, ý chí ham học, ý chí quyết thắng bom
đạn kẻ thù. Rất nhiều trường hợp, bom đạn Mỹ, kể cả loại bom có khả năng sát
thương hàng loạt như bom bi, cũng phải chịu thua lực cản của vành mũ rơm trên
đầu các em nhỏ. Nhờ đó mà ngay trong những thời điểm địch đánh phá ác liệt nhất,
hàng chục vạn thiếu niên các tỉnh, thành phố miền Bắc ngày ngày vẫn bền bỉ đến