Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.39 KB, 75 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI CẢM ƠN
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................................1
(Chi nhánh hỗn hợp).............................................................................................41
Khối DVKH.........................................................................................................................41
Khối QLNB..........................................................................................................................41
Khối trực thuộc.....................................................................................................................41
BAN GIÁM ĐỐC................................................................................................................41
Khối QLRR..........................................................................................................................42

Triệu Quỳnh Nga

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước đất
nước ta ngày càng phát triển. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giành được những thành tựu to
lớn như kiềm chế lạm phát, nhịp độ tăng trưởng về tổng sản phẩm trong nước đã
vượt kế hoạch đề ra, nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng…Bên cạnh những thành


tựu đạt được chúng ta còn những mặt chưa làm được như: Tình hình xã hội còn
nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước về kinh tế một số ngành còn lỏng lẻo, chỉ số giá
tiêu dùng tăng đột biến…Đảng và Nhà Nước ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng
trong thời gian tới là tiến hành CNH- HĐH nền kinh tế đất nước. Muốn vậy, chúng
ta cần phải có nguồn vốn trung, dài hạn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới
công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên tiến, đồng thời có sự nâng cấp mở rộng SXKD đối
với các thành phần kinh tế từ đó tạo đà cho sự phát triển. Nguồn vốn trung, dài hạn
được hình thành từ nhiều nguồn trong đó nguồn vốn tín dụng ngân hàng trung, dài
hạn đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, có nguồn vốn trung, dài hạn thôi chưa đủ phải biết sử dụng hiệu
quả nguồn vốn đó mới góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo đúng kế hoạch,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hay nói một cách khác, chỉ khi nào
mở rộng tín dụng gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì nguồn
vốn trung, dài hạn mới phát huy được vai trò tích cực của mình.
Mặc dù vậy, trước những biến động không ngừng của nền kinh tế thị trường thì
chúng ta phải có giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, nhằm góp phần an toàn
trong hoạt động Ngân hàng nói chung cũng như của chi nhánh ngân hàng Đầu tư và
Phát triển tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Đây là nguyên nhân mà em đã chọn đề tài :
“Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung- dài hạn tại chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tỉnh Lạng Sơn ”

Triệu Quỳnh Nga

1

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng Tài chính

Nội dung chuyên đề của em được chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư
và phát triển tỉnh Lạng sơn.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại chi
nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Lạng Sơn.
Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng do thời
gian thực tập và kinh nghiệm thực tiễn của em còn nhiều hạn chế nên báo cáo này
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của
các thầy cô giáo, Ban Giám đốc ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh tỉnh Lạng
Sơn để đề tài này được hoàn thiện hơn.

Triệu Quỳnh Nga

2

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các cán bộ, Lãnh đạo ngân
hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh tỉnh Lạng Sơn và thầy giáo
hướng dẫn thực tập PGS.TS Phạm Quang Trung đã nhiệt tình

giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành báo cáo thực
tập.

Triệu Quỳnh Nga

3

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.1 Tín dụng ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là sự tin tưởng, sự tín nhiệm và được định nghĩa dưới nhiều góc độ
khác nhau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay hiện vật trên
nguyên tắc có hoàn trả.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn
lượng giá trị ban đầu.
- Tín dụng là sự chuyển dich vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn trả.

Như vậy, tín dụng có thể đươc diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng bản
chất của tín dụng là một giao dịch tài sản giữa một bên là người đi vay và một bên
là người cho vay trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Đối với một NHTM, tín dụng là chức năng cơ bản của ngân hàng, là một trong
những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được định nghĩa như sau:
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng
và bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh, trong đó
bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định
theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.1.2 Các loại hình tín dụng Ngân hàng
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và
mục tiêu quản lý của NHTM mà có cách phân loại tín dụng như sau:
* Nếu căn cứ vào thời hạn, tín dụng chia thành các loại sau đây:
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn từ 12 tháng trở xuống.
- Tín dụng trung hạn: Có thời gian từ 1 năm đến 5 năm ( có nơi quy định là 7 năm).

Triệu Quỳnh Nga

4

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn từ 7 năm trở lên ( có nơi quy định là 7 năm).

Thời hạn tín dụng đó chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết
cấp cho khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng,
năm. Hay thời hạn tín dụng còn được hiểu là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn đầu
tiên của ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng được thu về.
Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thường gắn liền với những khoản vay

của

doanh nghiệp để bổ sung vào tài sản lưu động, bởi tài sản lưu động thường có vòng
quay trên một vòng thấp hơn một năm. Do vậy, trong một năm doanh nghiệp có thể
hoàn trả số tiền vay cho ngân hàng.
Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự án có
thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh nghiệp khó có
thể tính được hết các khó khăn sẽ gặp trong tương lai. Do vậy, mức độ rủi ro của
các khoản tín dụng có thời gian lớn đối với ngân hàng sẽ tăng lên. Điều này một
phần lý giải tại sao lãi suất các khoản vay dài hạn thường cao hơn các khoản vay
ngắn hạn.
Phân loại Tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với các
NHTM. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến
tính an toàn và sinh lợi của một NHTM.
* Phân loại theo hình thức cho vay
Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau:
- Chiết khấu là việc NHTM ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá
trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi một phần thu nhập của ngân hàng để sỏ hữu
một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải là nhà
cho vay đối với chủ sở hữu thương phiếu và chỉ là hình thức trái quyền. Tuy nhiên,
đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ở thời điểm hiện tại để thu về một khoản tiền lớn
hơn trong tương lai với lãi suất được ấn định trước được coi như là hoạt động tín
dụng, nhưng có lẽ coi đây là một hoạt động đầu tư của ngân hàng hơn hoạt động tín
dụng.

- Cho vay được hiểu là ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng với sự cam kết
khách hàng trả cả gốc lẫn lãi trong khoảng thời gian xác định với mức lãi suất cam
kết. Cho vay được gọi là một trong các nghiệp vụ truyền thống của NHTM, nó được
hình thành ngay từ buổi sơ khai của các ngân hàng, và được đánh giá là hoạt động
sinh lợi cao nhất cho các NHTM.

Triệu Quỳnh Nga

5

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thục hiện các nghĩa vụ tài chính thay
khách hàng của mình khi khách hàng của mình không có khả năng trả nợ. Mặc dù
không phải xuất tiền ra, song ngân hàng vẫn thu được lời từ khách hàng nhờ uy tín
của mình. Nghiệp vụ này được đưa vào tài khoản ngoại bảng của ngân hàng. Tuy
nhiên nếu có nghiệp vụ phát sinh tức là ngân hàng đứng ra thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng của mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội bảng.
- Cho thuê đó là nghiệp vụ ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó khách hàng phải hoàn
trả tài sản hoặc có thể mua lại của ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này sinh lời khá
cao, nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có yếu tố về công nghệ. Điều
này đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải có chuyên môn về nghề nghiệp mà
còn có cả sự hiểu biết về kỹ thuật, về công nghệ.
* Phân loại tín dụng theo tài sản đảm bảo

Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo thì ta có các loại hình tín dụng sau đây;
- Tín dụng đảm bảo đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài
sản đảm bảo thuộc sở hưu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân
hàng trong trường hợp không trả được nợ. Trong trường hợp này khi khách hàng
không trả được nợ, hoặc vì sử dụng sai mục đích nguồn vốn vay dẫn đến không
thanh toán được thì ngân hàng sẽ bán tài sản đi để thu hồi nguồn vốn. Tín dung đảm
bảo được áp dụng với các khách hàng có độ rủi ro cao như khách hàng mới hay
khách hàng có tài chính không tốt.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo đó là loại hình khách hàng có nhu cầu
vay vốn với một hạn mức nhất định mà không cần tài sản đảm bảo. Loại tín dụng
này thường được cấp cho các khách hàng có uy tín cao, những khách hàng có mối
quạn hệ tốt và lâu dài đối với ngân hàng, họ có tình hình tài chính lành mạnh, có
mối quan hệ tốt với các tổ chức tài chính. Cũng có thể là các khoản vay theo chỉ thị
của Chính phủ, hay Chính phủ yêu cầu không có tài sản đảm bảo.
Bên cạnh những tiêu thức phân loại trên, các NHTM còn sử dụng các tiêu thức
khác tuỳ theo đối tượng cho vay, tính đa dạng của sản phẩm hay tính chuyên môn
hoá trong ngành để phân chia ví dụ như: Tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề,
tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng…
1.1.1.3 Đối tượng của tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng

Triệu Quỳnh Nga

6

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng Tài chính

và từ đó cũng đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín
dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hành hoá,
trang trải chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho
đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các cơ sỏ kinh tế hạ tầng, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu vốn tín
dụng tiêu dùng của cá nhân.
1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1 Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng
thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế
Thừa thiếu vốn tạm thời thường xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn
tín dụng đã góp phần điều hoà vốn cho toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá
trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra, tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực kích
thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn
lưu động và có vôn cố định cho doanh nghiệp, vì vậy tín dụng động viên hàng hoá
đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào trong quá trình
sản xuất.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân
đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn luôn là khả năng tiềm ẩn, thông qua đầu tư tín dụng
góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt
khác thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp
lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.
1.1.2.2 Thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Hoạt động của các trung gian tài chính là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi, mà vốn vay nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ
quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.

1.1.2.3 Là công cụ tài trợ cho các nền kinh tế kém phát triển và ngành
mũi nhọn
Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần
thiết cho xã hội đang trong quá trình Công nghiệp hoá là ngành chịu ảnh hưởng
nhiều nhất trong điều kiện nước ta hiện nay, trong giai đoạn trước mắt Nhà nước

Triệu Quỳnh Nga

7

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

phải tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu
của xã hội đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh
tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế
khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí.
1.1.2.4 Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế
của các doanh nghiệp
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức.
Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín
dụng, tức phải là hoàn trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi
trong hợp đồng tín dụng, bằng các tác động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan
tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay

của vốn tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
1.1.2.5 Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp
nước ngoài
Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với thị
trường thế giới, kinh tế “ đóng ’’ đã nhường bước cho kinh tế “ mở ”, tín dụng ngân
hàng đã trở thành một trong những phương tiện kinh tế nối liền nền kinh tế các
nước với nhau.
Đối với các nước phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai
trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín
dụng bên ngoài để công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
1.2 Tín dụng trung- dài hạn và vai trò của tín dụng trung và dài hạn
1.2.1 Tín dụng trung- dài hạn của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm
Tín dụng trung, dài hạn là một bộ phận tín dụng của ngân hàng phân theo thời
hạn. Tín dụng trung, dài hạn là các khoản cho vay có thời gian lớn hơn 1 năm dùng
để đáp ứng các nhu cầu của doanh nghiệp về mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải
tiến khoa học kĩ thuật, mua công nghệ…Với sự phát triển nhanh chóng của khoa
học công nghệ, để tồn tại phát triển nhu cầu vốn trung và dài hạn của các doanh
nghiệp ngày càng cao. Tuy nhiên, thời hạn cho vay không vượt quá thời gian khấu
hao của tài sản hình thành từ vốn vay, ở mỗi nước khác nhau thì quy định về thời

Triệu Quỳnh Nga

8

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng Tài chính

gian của tín dụng trung, dài hạn cũng khác nhau, đối với Việt Nam khoản vay có
thời hạn từ 1 đến 5 năm là tín dụng trung hạn và thời hạn từ 5 năm trở lên là tín
dụng dài hạn.
Chất lượng hiệu quả của công tác tín dụng được nhìn nhận từ ba phía: các nhà
ngân hàng, các doanh nghiệp và từ phía kinh tế. Nếu xét theo quan điểm của các
nhà ngân hàng thì hoạt động tín dụng trung và dài hạn được xem là có hiệu quả khi
nó đảm bảo được ba yếu tố: Khả năng thu nợ, khả năng thu hồi cả gốc lẫn lãi đúng
hạn và khả năng thanh khoản từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là khi ngân hàng
tiến hành cho vay trung, dài hạn thì khoản vay đó phải đảm bảo được trang trải
được chi phí trả cho lãi suất huy động hoặc đi vay, chi phí cho hoạt động ngân hàng
và lãi dự tính. Song không phải cứ ngân hàng cho vay nhiều là đem lại lợi nhuận
cao vì nếu chỉ cho vay ra mà không thu hồi được vốn cho vay và khoản vay không
cân xứng với nguồn huy động được thì sớm hay muộn ngân hàng cũng rơi vào tình
trạng thua lỗ rồi dẫn đến phá sản.
1.2.1.2 Phân loại các khoản cho vay trung và dài hạn tại các NHTM
1.2.1.2.1 Tín dụng theo dự án đầu tư
a. Cho vay đồng tài trợ:
- Đây là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín
dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối hợp với các
bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằm phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng.
- Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp: Các dự án đầu tư cần
một khoản vốn lớn mà các ngân hàng nhỏ lẻ không đáp ứng được ngân hàng thường
chỉ được phép đầu tư vốn với một mức độ nhất định so với tổng nguồn vốn của
mình và không được đầu tư quá nhiều vốn vào một công ty để đảm bảo an toàn vốn
tài sản. Thậm chí đối với một vài dự án ngân hàng có thể đáp ứng toàn bộ nhưng rủi
ro quá lớn ngân hàng không muốn đảm nhận hết. Do vậy, cho vay đồng tài trợ là
một hoạt động tín dụng giúp ngân hàng phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa
nguồn vốn của họ cho đầu tư vào các dự án dài hạn.

b. Cho vay trực tiếp theo dự án:
- Đây là hình thức tín dụng trung, dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, NHTM tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm với từng dự án đầu
tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ.
Chính vì vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà

Triệu Quỳnh Nga

9

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

còn phải quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến trực thi của dự
án như: quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ, giá cả thị trường…Bởi vì
việc quy định cấp một khoản tín dụng sẽ rằng buộc ngân hàng với người vay trong
một số thời gian, cho nên cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét kỹ
lưỡng các rủi ro co thể xảy ra.
1.2.1.2.2 Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng
thuê mua qua đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
cho người đi thuê sử dụng và người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong
suốt thời hạn thuê và có thể được quyền sở hữu tài sản thuê, được quyền mua tài sản
thuê hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã được hai bên thỏa thuận.
* TS thuê bao gồm cả ĐS và BĐS:
- ĐS chủ yếu gồm máy móc thiết bị, ô tô, dây chuyền công nghệ…

- BĐS chủ yếu là cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất…
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn đi
thuê chỉ được quyền sử dụng. Vì vậy, người đi thuê không được bán chuyển nhượng
cho người khác. Song họ được hưởng những lợi ích do việc sử dụng tài sản đó đem
lại, đồng thời chịu phần rủi ro có liên quan đến tài sản. Tín dụng thuê mua có một
số hình thức như: thuê mua có tham gia của ba bên, thuê mua có sự tham gia của hai
bên, tái thuê mua.
* Xét về lợi ích thì cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi
- Đối với Ngân hàng (bên cho thuê): Đây là hình thức tài trợ bổ sung cho
các hình thức tài trợ khác đang tồn tại ở ngân hàng, nó giúp ngân hàng mở rộng
dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro, đảm bảo nguyên tắc vốn
vay được sử dụng đúng mục đích.
- Đối với các doanh nghiệp: Hình thức này có thể giúp các doanh nghiệp có
thể sử dụng vốn vay dưới dạng các máy móc, thiết bị…mà không phải bỏ vốn lớn,
không ảnh hưởng đến bảng tổng kết tì sản và hạn mức tín dụng của doanh nghiệp
việc cấp tín dụng thuê mua thường nhanh chóng, từ đó cho phép đầu tư khẩn cấp,
đáp ứng được thời cơ SXKD trong nền KTTT, mặt khác phương thức thanh toán
tiền thuê linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản xuất cũng như tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp và mỗi cá nhân.

Triệu Quỳnh Nga

10

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính


- Đối với các công ty nhỏ và các công ty không có uy tín: Ngân hàng có thể
không chấp nhận cho vay dài hạn nhưng có thể cho hướng tín dụng thuê mua. Có
thể nói, mô hình tín dụng thuê mua rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế thị trường,
nhất là đối với nền kinh tế nhiều thành phần như ở Việt Nam hiện nay.
1.2.1.3. Đặc điểm cho vay trung và dài hạn tại các NHTM
Tín dụng trung dài hạn có những đặc điểm quan trọng sau:
 Mang tính rủi ro cao
- Cho vay trung, dài hạn ở các ngân hàng thường có thời gian dài, quá trình
giải ngân thường từ ít nhất là 1 năm do đó có thể diễn ra nhiều biến động lớn. Với
khoảng thời gian dài như vậy ngân hàng khó có thể dự đoán được những biến động
xấu có thể xay ra như biến động giá cả, thuế, tâm lý người dân... Vì vậy khả năng
xảy ra rủi ro là cao. Mặt khác cho vay trung, dài hạn thường có quy mô lớn nên khi
xảy ra rủi ro thì hậu quả của nó rất nghiêm trọng.
Do vậy, đặc điểm lớn trong hoạt động cho vay trung, dài hạn là rủi ro lớn và
chi phí vốn cao.
 Lợi nhuận kỳ vọng từ cho vay lớn
Như ta đã biết luôn đi kèm với rủi ro cao là khả năng đem lại lợi nhuận kỳ
vọng lớn không nằm ngoài quy luật đó, lãi suất cho vay trung, dài hạn thường lớn
hơn các khoản cho vay khác của ngân hàng. Một trong những lý do làm cho lãi suất
cho vay trung, dài hạn cao chi phí để có nguồn vốn trung, dài hạn lớn.
Ngoài ra, để giảm thiểu rủi ro thì các ngân hàng thường trích lập dự phòng rủi
ro cao hơn các khoản cho vay khác.
 Tính thanh khoản thấp
Tính thanh khoản hay còn gọi là tính lỏng là chỉ tiêu phản ánh khoản chuyển
đổi thành tiền của một tài sản nào đó. Nó được đánh giá thông qua chi phí và thời
gian để chuyển tài sản đó thành tiền. Vì các khoản cho vay trung, dài hạn có thời
gian dài nên khả năng chuyển đổi nó thành tiền thường thấp, ngoài ra nó còn chịu
chi phí cao do vậy tính thanh khoản các khoản cho vay trung, dài hạn là thấp. Tính
thanh khoản thấp cũng là một trong những lý do quan trọng để ngân hàng đặt mức

lãi suất cao cho các khoản vay trung và dài hạn.
1.2.2 Vai trò của tín dụng trung và dài hạn trong nền kinh tế thị trường
1.2.2.1 Đối với nền kinh tế
Tín dụng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng trung, dài

Triệu Quỳnh Nga

11

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

hạn nếu có hiệu quả sẽ tác động tới mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Phát
triển cho vay tín dụng trung, dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể các khoản bao cấp từ ngân
sách cho đầu tư xây dựng cơ bản và giảm bớt thâm hụt ngân sách, thu hút được
nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào SXKD, đáp ứng nhu cầu vốn cho
doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Mặt khác, trong quá trình huy động vốn và cho vay cũng như tổ chức thanh
toán cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá được tình hình tiêu thụ sản phẩm,
SXKD cũng như khả năng thanh toán chi trả của khách hàng. Trong quá trình cho
vay, để tránh rủi ro ngân hàng luôn đánh giá, phân tích khả năng tài chính và thường
xuyên giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể điều chỉnh, tác động kịp
thời khi cần thiết, hướng cho hoạt động của doanh nghiệp đi đúng hướng, từng bước
tạo tiền đề vật chất cho xã hội.
Mặc dù là một đơn vị kinh doanh, nhưng các ngân hàng quốc doanh vẫn là một
bộ phận của Nhà nước, hoat động tín dụng trung- dài hạn cũng nhằm thực hiện các

mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia thông qua các chính sách ưu đãi trong tín dụng.
Về nguyên tắc, ngân hàng ưu đãi với các công trình sản xuất trực tiếp tạo ra sản
phẩm hàng hoá và thắt chặt điều kiện vay vốn với doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh
doanh dịch vụ.
Đầu tư tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng theo trọng điểm của ngành và
trong nội bộ từng ngành góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động tín
dụng theo chiều sâu, xây dựng mới…đã tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc
cho nền kinh tế phát triển lâu dài, góp phần tăng cường kim ngạch xuất khẩu, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Với
năng lực sản xuất tăng, hàng hoá sản phẩm nhiều hơn đủ tiêu dùng và dư thừa cho
xuất khẩu. Nhiều xí nghiệp với máy móc hiện đại sản xuất ra sản phẩm thay thế
hàng nhập. Tất cả các kết quả đó góp phần tiết kiệm chi ngoại tệ, tăng thu ngoại tệ,
tạo cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh.
Ngoài ra, tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng còn góp phần ổn định đời
sống, tạo ra công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội bởi lẽ tín dụng trung, dài hạn
đầu tư vào những lĩnh vực mới, cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất nên sẽ tạo
nhiều việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, do năng lực sản xuất được nâng
lên số lượng sản phẩm tiêu thụ nhiều, đó là nguồn thu nhập của cán bộ trong xí
nghiệp và góp phần ổn định đời sống cho chính họ.

Triệu Quỳnh Nga

12

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính


Tín dụng trung, dài hạn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ
cấu đầu tư, làm cho cơ cấu của nền kinh tế trở lên hợp lý từ đó làm tiền đề cho sự
ổn định và trật tự an toàn xã hội.
1.2.2.2 Đối với doanh nghiệp
Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, để có thể tồn tại và phát triển được các
doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư vào TSCĐ. Bởi lẽ TSCĐ là tư liệu chủ yếu,
chiếm bộ phận lớn trong tổng giá thành, là yếu tố quan trọng quyết định lợi thế cạnh
tranh…Tuy nhiên, trong thực tế giá trị TSCĐ thường rất cao, nếu chỉ trông chờ vào
nguồn vốn tự tích lũy thì phải mất rất nhiều thời gian doanh nghiệp mới đổi mới
được TSCĐ. Vì thế lối thoát duy nhất cho doanh nghiệp là đi vay để đổi mới. Có
người cho rằng cách tốt nhất để huy động vốn là doanh nghiệp phát hành cổ phiếu,
trái phiếu huy động vốn dài hạn. Chúng ta không phủ nhận những mặt tích cực của
thị trường chứng khoán trong việc phục vụ bổ sung vốn cho doanh nghiệp, nhưng
hình thức này chỉ phát huy hiệu quả ở những nước có thị trường vốn và thị trường
chứng khoán hoàn hảo. Đối với những khoản đi vay doanh nghiệp được chủ động
điều hành các hoạt động kinh doanh, tiến hành các dự án lớn mà không phải phân
chia quyền lực nếu lựa chọn thông qua việc phát hành cổ phiếu. Mặt khác việc trả
nợ trung, dài hạn cũng được ấn định theo định kỳ theo từng kỳ hạn hợp lý và ổn
định. Vì vậy, doanh nghiệp có cơ sở để thực hiện trách nhiệm trả nợ của họ.
Như vậy tín dụng trung, dài hạn đã giúp các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà
xưởng, mua sắm máy móc thiết bị…để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm tạo điều kiện mở rộng quy mô SXKD và mở rộng chiếm lĩnh thị
trường mới. Có thể nói, tín dụng trung, dài hạn là trợ thủ đắc lực cho các doanh
nghiệp đạt mục tiêu kinh doanh: lợi nhuận, an toàn, phát triển không ngừng…trong
khi nguồn vốn trung, dài hạn doanh nghiệp có trong tay không đủ đáp ứng nhu cầu.
1.2.2.3 Đối với Ngân hàng
Tín dụng trung, dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, đồng thời
nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Nếu ngân hàng có một nguồn vốn ổn
định trong một thời gian dài để đầu tư dài hạn sẽ đạt lợi nhuận cao hơn rất nhiều so

với việc dùng nó để cho vay ngắn hạn, vì mỗi món vay trung, dài hạn cấp cho
doanh nghiệp thường là rất lớn, lãi suất cao. Bên cạnh khoản lợi nhuận hấp dẫn, tín
dụng trung, dài hạn còn là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả giữa các ngân hàng với
nhau. Với các sản phẩm này, Ngân hàng sẽ phục vụ tốt hơn cho các chủ doanh

Triệu Quỳnh Nga

13

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

nghiệp và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khi xác định mở
rộng cho vay trung, dài hạn, các ngân hàng không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà
còn nhìn vào lợi ích lâu dài hơn đó là mở rộng tín dụng trung, dài hạn để đẩy mạnh
cho vay ngắn hạn.Các doanh nghiệp sau khi được ngân hàng cho vay vốn, năng lực
sản xuất sẽ tăng lên doanh nghiệp lại cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng cho
sản xuất. Lúc này, người đầu tiên mà doanh nghiệp tìm đến chính là các ngân hàng
đã đầu tư cho họ. Bởi lẽ, doanh nghiệp dễ dàng tìm được sự thông cảm vì hai bên đã
hiểu nhau, ngân hàng đã nắm được tình hình tài chính và các khoản thu chi của
doanh nghiệp nên các dịch vụ sẽ tiện lợi hơn.
Mặt khác tín dụng trung, dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn
vốn huy động dư thừa tại mỗi NHTM. Đồng thời là cách để ngân hàng gọi vốn từ
nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp. Vì vậy cần phải nâng
cao chất lượng tín dụng để giải quyết vấn đề huy động và sử dụng vốn có hiệu quả,
thu được lợi nhuận qua đó phát triển hoạt động của mình, tăng cường khả năng cạnh

tranh với các ngân hàng khác.
1.2.3 Nội dung nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn
1.2.3.1 Mục đích cho vay
Nếu như tín dụng ngắn hạn được cho vay chủ yếu để bổ sung vào nguồn vốn
lưu động của doanh nghiệp, thì tín dụng trung và dài hạn lại nhằm đầu tư vào các dự
án có thời gian tương đối dài như mua sắm thiết bị, đổi mới trang thiết bị và công
nghệ, xây dựng sửa chữa nhà xưởng cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đáp ứng cho nhu
cầu SXKD, và phát triển trong tương lai của doanh nghiệp.
1.2.3.2 Đối tượng cho vay
Với mục đích cho vay như trên, nên đối tượng cho vay của tín dụng trung và
dài hạn là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án không phân biệt
thành phần kinh tế, là tổ chức, cá nhân hay là doanh nghiệp, bao gồm: giá trị vật tư,
máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, chi phí nhân công, giá thuế và chuyển
nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản, chi phí mua bảo hiểm và các chi phí khác.
1.2.3.3 Điều kiện cho vay
Để được vay vốn, đơn vị xin vay phải gửi đến ngân hàng đơn xin vay, luận
chứng kinh tế, kỹ thuật và dự toán đã được thẩm định và cấp trên phê duyệt và các
báo cáo tài chính của mình trong một vài năm trước. Ngoài ra, đơn vị xin vay phải
gửi đến ngân hàng bản tính toán hiệu quả của dự án, lợi nhuận mà dự án mang lại

Triệu Quỳnh Nga

14

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính


qua các năm, các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của dự án như NPV, IRR...Bên
cạnh đó có tính toán đầy đủ các số tiền xin vay, các nguồn trả nợ và lệnh trả nợ.
Ngân hàng cho vay sẽ xem xét kỹ các tài liệu nhằm đánh giá đầy đủ khả năng của
đơn vị vay vốn trước khi quyết định cho vay, tình hình tài chính và nghĩa vụ của họ
với Nhà nước và các tổ chức tài chính như thế nào.
Khi ngân hàng quyết định cho các doanh nghiệp vay trung và dài hạn, ngân
hàng cần phải nắm chắc hiệu quả của phương án, dự án, chương trình sản xuất của
bên vay vốn.
Một trong những điều kiện để cho các NHTM cho vay là thế chấp. Đó cũng là
đảm bảo tín dụng được thực hiện dưới nhiều hình thứa khác nhau nhưng nhìn chung
có thể chia thành hai loại: Đảm bảo đối vật và đảm bảo đối nhân.
- Đảm bảo đối vật: đảm bảo đối vật là hình thức đảm bảo tín dụng mà trong đó
ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền lợi nhất định đối
với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp khách
hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Có 2 hình thức đảm bảo đối vật
chính là thế chấp và cầm cố.
+ Thế chấp là phương tiện chuyển dịch quyền lơị về tài sản sang cho chủ nợ
với mục đích là đảm bảo cho món nợ hoặc miễn trừ một nghĩa vụ. Người đi vay
được gọi là người thế chấp và người cho vay được gọi là người được thế chấp.
+ Cầm cố là hành vi giao nộp tài sản hoặc các chứng từ chứng nhận quyền sở
hữu tài sản của con nợ ( người được cầm cố) để thực hiện một nghĩa vụ. Nghĩa vụ
cầm cố trong quan hệ tín dụng là người đi vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ đúng
hạn hợp đồng. Trong trường hợp người đi vay không trả nợ đúng hạn hợp đồng thì
ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố và được ưu tiên thu nợ trước các chủ nợ
khác. Nhũng loại tài sản cầm cố thông dụng để đảm bảo cho vay ngân hàng gồm:
cầm cố hàng hoá, chiết khấu thương phiếu, cầm cố các chứng khoán khác.
- Đảm bảo đối nhân: là sự cam kết của một hoặc nhiều người về trả nợ của
ngân hàng thay cho khách hàng vay vốn khi người này không trả được nợ. Trong
đảm bảo đối nhân có 3 chủ thể lien quan với nhau là : Người đi vay, ngân hàng,

người bảo lãnh
Khi xét duyệt một bảo lãnh ngân hàng cần chú ý đến một số điểm như sau:
+ Người bảo lãnh phải có đủ năng lực bảo lãnh theo quy định của pháp luật.
Nếu là pháp nhân thì người đứng ra bảo lãnh phải là người đại diện hợp pháp của
pháp nhân.

Triệu Quỳnh Nga

15

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

+ Thế nhân hoặc pháp nhân đứng ra bảo lãnh phải có đủ năng lực tài chính để
thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.
+ Uy tín của người bảo lãnh.
Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay nhưng phải
thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất hay nói cách khác không
phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên, trong thời gian qua, các NHTM
nước ta vẫn xếp đảm bảo tiền vay vào vị trí số một.
1.2.3.4 Nguồn vốn
Ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn sau để cấp tín dụng trung và dài hạn
cho khách hàng.
- Vốn tự có: Đây là nguồn vốn chủ yếu hình thành nguồn vốn cho vay trung và
dài hạn của các NHTM góp vốn hoặc tích luỹ trong quá trình kinh doanh. Các
NHTM có vốn tự có lớn sẽ có nhiều ưu thế trong cho vay trung, dài hạn. Đối với

các NHTM Việt Nam hiện nay thì đây là một trở ngại vì vốn tự có của bản thân mỗi
ngân hàng rất nhỏ bé so với nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
- Ngân hàng có thể huy động vốn của dân cư dưới hình thức phát hành trái
phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn để cho vay trung, dài hạn.
Nguồn vốn này hiện nay rất hạn chế do dân chúng ít người muốn gửi tiền dài hạn và
kỳ hạn của trái phiếu huy động không dài.
- Vốn vay từ NHTW: Nguồn tiền này cũng bị hạn chế vào chính sách tiền tệ
của NHTW.
- Vay nợ nước ngoài để cho vay trung, dài hạn: Đây là một hình thức được các
ngân hàng trên thế giới sử dụng thường xuyên với khối lượng lớn. Ưu điểm của
nguồn vốn này là có khối lượng lớn và lãi suất chấp nhân được nhưng các ngân
hàng chỉ nên sử dụng nguồn vốn này nếu có dự án đầu tư có hiệu quả cao tránh
việc không trả được nợ vay.
- Vốn nhận uỷ thác và vốn nhận tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự
án đầu tư của Nhà nước, tổ chức kinh tế- tài chính, tín dụng, xã hội trong và ngoài
nước. Đặc điểm của nguồn vốn này là không ổn định, các dự án đầu tư thường được
chỉ định trước, ngân hàng chỉ là người trung gian đóng vai trò quản lý, giải ngân và
thu hồi vốn đầu tư mà không có quyền lựa chọn.
- Ngoài những nguồn vốn trên, đối với các NHQD Việt Nam thì hành năm các
ngân hàng này còn nhận được một khoản vốn điều lệ từ NHTW. Đó cũng là nguồn

Triệu Quỳnh Nga

16

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng Tài chính

vốn hình thành vốn vay trung và dài hạn tại các NHTM, nhất là dự án vay theo chỉ
định của Chính phủ.
1.2.3.5 Thời hạn cho vay
Thợi hạn cho vay là trên 1 năm, được xác định căn cứ vào yêu cầu của dự án,
khả năng trả vốn của dự án đầu tư và tính chất nguồn vốn của bên cho vay. Thời
gian cho vay được tính từ khi bên vay nhận được khoản vốn đầu tiên đến khi trả
được hết nợ. Thông thường, ngân hàng căn cứ vào thời gian khấu hao để xác định
thời gian cho vay. Thời gian cho vya ngắn hơn hoặc dài hơn quá nhiều so với thời
gian khấu hao đều ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng vì khấu hao từ tài
sản là một trong những chủ yếu để trả nợ cho ngân hàng. Thời hạn cho vay bao gồm
thời gian ân hạn (nếu có) và thời gian trả nợ.
- Thợi gian ân hạn được tính tương xứng với thời gian xây dựng công trình,
thời gian lắp đặt máy móc và sản xuất thử sản phẩm.
- Thời gian trả nợ: Tuỳ vào đặc điểm SXKD của đơn vị vay, tuỳ vào khả năng
thu nhập của bên vay mà hai bên thoả thuận kỳ hạn trả nợ và số tiền trả nợ từng kỳ.
1.2.3.6 Lãi suất cho vay
Về cơ bản, khoản đầu tư có kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng lớn. Vì thế lãi suất
cho vay trung, dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vau
được xác định tuỳ vào dự án, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, chính sách của ngân
hàng cũng như sự thoả thuận của khách hàng.
Lãi suất cho vay có thể tính theo lãi suất cố định hoặc lai suất biến động. Lãi
suất cố định là lãi suất giữ nguyên không thay đổi trong suốt thời kỳ thực hiện hợp
đồng. Lãi suất biến đổi là lãi suất có thể lên xuống trong thời hạn vay. Trong cho
vay trung, dài hạn phần lớn các ngân hàng hiện nay theo quyêt định của NHNN thì
các ngân hàng tự thoả thuận với khách hàng nên chủ yếu là lãi suất biến đổi để tránh
rủi ro cho ngân hàng và người vay đồng thời phản ánh đúng nhu cầu thị trường.
Thông thường đối với các khoản vay trung, dài hạn các NHTM thì lãi suất điều
chỉnh 6 tháng một lần và được tính theo công thức sau: lãi suất điều chỉnh= lãi suất

huy động tiết kiệm 12 tháng + 0,1%/tháng.
1.2.3.7 Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn
nhất định mà ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng theo thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.

Triệu Quỳnh Nga

17

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

Hạn mức tín dụng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố:
- Quy định của NHNN, mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Hạn mức tín dụng còn phụ thuộc vào chính bản thân cấc NHTM, vào khối
lượng vốn huy động của ngân hàng càng lớn thì mức tín dụng mà ngân hàng cung
cấp cho khách hàng càng nhiều, và vào chính sách tín dụng của NHTM từng thời kỳ
và đối với mỗi dự án cũng khác nhau.
- Nhu cầu vay vốn của người vay, tình hình tài chính và uy tín của người vay
ảnh hưởng trực tiếp đến hạn mức tín dụng. Các NHTM thường căn cứ vào tình hình
tài chính của khách hàng có tốt hay không và uy tín đối với các tổ chức tài chính để
ra quyết định hạn mức tín dụng.
- Sự ổn định hay bất ổn của nền kinh tế. Khi nền kinh tế bất ổn thì rủi ro trên
thị trường sẽ cao lên. Do vậy khả năng thu hồi vốn sẽ xấu đi.
1.2.3.8 Thẩm định dự án

Khi tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn, ngân hàng cần chú ý thẩm định hai nội
dung: Thẩm định chủ đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Trong khâu thẩm định,
ngân hàng cần nắm chắc phương diện tài chính của dự án nhằm xác định được đầy
đủ hiệu quả của dự án được thể hiện trên các chỉ tiêu: khả năng sinh lời, thời gian
hoàn vốn và điểm hoàn vốn.
* Thẩm định chủ đầu tư
Mục đích thẩm định chủ đầu tư là để xem xét chủ đầu tư có nguyện vọng hoặc
có khả năng trả nợ cho ngân hàng hay không, nói cách khác là để thẩm định xem có
nhu cầu vay vốn thực sự, tránh trường hợp khách hàng sử dụng vào mục đích khác.
Khi thẩm định chủ đầu tư ngân hàng cần xem xét các vấn đề sau đây:
- Xem xét tư cách pháp nhân của chủ đầu tư để có thể biết được chủ đầu tư có
khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật hay không.
- Phân tích về uy tín của chủ đầu tư để nhằm thấy được vị thế của chủ đầu tư.
Uy tín của chủ đầu tư rất quan trọng vì những chủ đẩu tư có uy tín lớn họ sẵn sàng
tìm mọi cách để trả nợ cho ngân hàng.
- Phân tích năng lực tài chính của chủ đầu tư nhằm thấy được khả năng tự cân
đối các nguồn tiền cuẩ chủ đầu tư có thể sử dụng được khi cần thiết. Các chỉ tiêu
thường được sử dụng để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp là: hệ số tài
trợ, khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán
tức thời.

Triệu Quỳnh Nga

18

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng Tài chính

Sau khi phân tích khả năng tài chính, Ngân hàng cần xem xét đến khả năng
điều hành hoạt động SXKD, sự tín nhiệm và năng lực sản xuất.
* Thẩm định dự án đầu tư
Sau khi tiến hành thẩm định chủ đầu tư, ngân hàng tiến hàng tiến hành thẩm
định dự án đầu tư.
- Thẩm định phương diện thị trường: Bước thẩm định nay rất quan trọng đối
với dự án sản phẩm mới, mở rộng thị trường sản phẩm.
Nghiên cứu thị trường nhằm giúp ngân hàng thấy được tương lai của sản phẩm
mà dự án sản xuất ra: sản phẩm đó có được thị trưởng chấp nhận hay không, nhiều
hay ít, thị hiếu của người tiêu dùng đối với sản phẩm, các sản phẩm cùng loại trên
thị trường…
+ Nghiên cứu khả năng tiểu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua, các
hợp đồng bao tiêu sản phẩm cùng các văn bản giao dịch về sản phẩm như đơn
đặt hàng, biên bản đàm phán…Để thấy được doanh thu ước lượng của dự án qua
các năm.
+ Nghiên cứu khả năng cạnh tranh: Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của sẩn
phẩm trên thị trường là rất quan trọng, Có tiêu tụ được sản phẩm mới thu được lợi
nhuận, điều này phản ánh sự tồn tại của sản phẩm cũng như của doanh nghiệp trên
thị trường. Bên cạnh đó còn phải đánh giá sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên thị
trường, giá cả của nó, tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường, đánh giá của người tiêu dùng
về sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, còn phải tính đến các sản phẩm thay
thế đang lưu hành trên thị trường và giá cả của nó cũng như các đối thủ tiềm tang
trong tương lai.
-Thẩm định phương diện kỹ thuật: Phân tích quy mô dự án và công nghệ, trang
thiết bị nhằm thấy được sự phù hợp của dự án với sự tiêu thụ sản phẩm cũng như
sử dụng trang thiết bị hợp lý. Thầm định trình độ tiên tiến của công nghệ và sự ra
đời của công nghệ mới. Thẩm định khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố
đầu vào khác. Thẩm định phương diện tổ chức, quản lý thực hiện vận hành dự án để

có thể chọn được đơn vị thiết kế, thi công làm việc có hiệu quả nhất
- Thẩm định tài chính dự án đầu tư: Cán bộ tín dụng tiến hành phân tích các
chỉ tiêu về mặt tài chính của dự án xin vay bao gồm: khả năng trả nợ, sản lượng hoà
vốn, điểm hoà vốn tiền tệ, điểm hoà vốn trả nợ, NPV, IRR.

Triệu Quỳnh Nga

19

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

- Phân tích các trường hợp có thể xảy ra rủi ro đối với dự án: Trường hợp sản
lượng giảm, chi phí biến đổi tăng, đơn vị giá bán giảm, sự lạc hậu của công nghệ
dẫn đến sự cạnh tranh của các sản phẩm giảm, các thay đổi về chính sách kinh tế
của Nhà nước…
Sau khi tiến hành giải ngân, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra việc
sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không, định kỳ tiến hành kiểm tra tình hình
vận hành của dự án trong SXKD. Nếu thấy doanh nghiệp sử dụng sai mục đích thì
phải báo cáo với lãnh đạo để xử lý kịp thời và áp dụng các chế tài đã ghi trong hợp
đồng tín dụng. Chuẩn bị đến thời kỳ trả nợ gốc và lãi, cán bộ tín dụng phải lập
phiếu nhắc thu nợ để doanh nghiệp chuẩn bị đồng thời phối hợp với nhân viên kế
toán tiến hành thu nợ gốc và lãi.
Khi hết hạn hợp đồng tín dụng mà khách hàng không trả được hết nợ thì cán
bộ tín dụng chuyển phần dự nợ tín dụng còn lại sang theo dõi trên tài khoản nợ quá
hạn, xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, có biện pháp xử lý kịp thời, có thể

ra hạn nợ hoặc có thể phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ. Nếu hết hạn
hợp đồng tín dụng khách hàng đã thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi thì cán bộ tín dụng
cùng khách hàng tiến hành thanh toan hợp đồng tín dụng.
1.2.4 Chất lượng tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động tại các NHTM
1.2.4.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển được, các doanh nghiệp
phải trả lời ba câu hỏi lớn đó là: Sản xuất cại gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất bằng
cách nào? Đây là ba vấn đề cơ bản mà doanh nghiệp gặp phải trong nền KTTT. Để
làm được việc này các doanh nghiệp phải quan tâm đến một yếu tố rất quan trọng
đó là chất lượng của sản phẩm. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ trên thị trường, những khoản cho vay cũng là một sản phẩm, nó
cũng có giá cả và chất lượng như những hàng hoá khác.
Chất lượng của một khoản tín dụng là: “ Mức độ đáp ứng yêu cầu của khách
hàng( cả người vay lẫn người cho vay tiền), phù hợp với các điều kiện kinh tế-xã
hội và điều kiện đặc thù của bản than ngân hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng”.
Chất lượng cho vay được xem xét trên những góc độ:
- Đối với khách hàng: Đó là vay được tiền với mục đích sử dụng với các điều
khoản về lãi suất, kỳ hạn nợ, thủ tục đơn giản, thuận tiện đảm bảo thanh toán phù

Triệu Quỳnh Nga

20

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính


hợp với lợi ích của khách hàng và luật pháp hiện hành nhằm đảm bảo khả năng duy
trì và mở rộng sản xuất, tăng cường hiệu quả SXKD của kháh hàng.
- Đối với nền kinh tế: Cho vay đáp ứng nhu cầu cho SXKD hàng hoá, đảm bảo
cung cấp vốn đầy đủ, kịp thời và có hiệu quả cho việc duy trì sản xuất. Mở rộng kinh
doanh, tăng cường hiệu quả và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội như giải quyết việc làm , xoá đói giảm nghèo, xấy dựng các
vùng kinh tế mới, tạo điều kiện để thực thi các chính sách tiền tệ quốc gia...
Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề về cách tiếp cận khái niệm chất
lượng cho vay hay chất lượng tín dụng:
- Đây là một cách tiếp cận tương đối: nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu
tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) lại vưa trừu tượng (thể hiện qua
năng lực thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...)
- Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua nhiều yếu
tố như: lãi, mức độ an toàn vốn của kinh doanh, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của
khách hàng...
1.2.4.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
 Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là đòi hỏi bức thiết đối
với sự phát triển kinh tế
Trước hết, ta hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng
phù hợp với sự phát triển KTXH và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn chính là vốn cho vay của ngân hàng được khách
hàng đưa vào quá trình SXKD dịch vụ… để tạo ra một số tiền lớn hơn thông qua đó
ngân hàng sẽ thu được cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng thời hạn, bù đắp được chi
phí và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn, ngân hàng sẽ thu
hồi vốn và lãi còn khách hàng sẽ sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể ngân
hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra được hiệu quả xã hội.
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hóa, tín dụng đã có được những đóng góp đáng kể
trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh tiến trình phát
triển của nền kinh tế, phát triển xã hội.

Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, tín dụng
cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp
ứng các giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng tín
dụng ngày càng được quan tâm bởi vì:

Triệu Quỳnh Nga

21

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung
tâm thanh toán: Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín
dụng, với một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo
điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn
trong nền kinh tế, tín dụng trung, dài hạn đã thu hút những nguồn vốn dư thừa, tạm
thời nhàn rỗi để đưa vào SXKD, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp từ đó phục
vụ cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Mặt khác tín dụng trung, dài hạn là một trong
những cách để đưa tiền vào lưu thông nhằm làm cho khối lượng tiền tệ trong nền
kinh tế phù hợp với khối lượng hàng hoá. Xuất phát từ chức năng tạo tiền của các
NHTM, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền
mặt, các NHTM có thể thực hiện tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có
hoặc vì lý do nào đó, các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và thanh toán

bằng các phương tiện khác cho khách vượt quá số tiền gửi thực tế của họ…nhưng
khi đi vào lưu thông chúng đều có quyền thanh toán, chi trả như các phương tiện
khác và thường chúng được trả bằng tiền mặt. Như vậy nghiệp vụ tín dụng của
NHTM có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong lưu thông và là nguyên
nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt
lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng uy
tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trong tương lai
của các công trình đầu tư.
Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực, mặt khác, thông qua sự phân tích
đánh giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để có những quyết định đầu
tư đứng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, tiền vốn…
để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều cho xã hội, giải quyết
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động…chất lượng tín dụng trung, dài
hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển
cân đối giữa các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn góp phần làm lành mạnh quan hệ tín dụng:
hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hoá, thuận tiện nhưng
vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối tượng cần

Triệu Quỳnh Nga

22

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính


thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay đang
hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lãnh.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng có mối quan hệ mật
thiết với nền kinh tế xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách đồng bộ, có hiệu
quả sẽ có tác động tích cực với mọi mặt của nền kinh tê xá hội, điều đó cũng có thể
hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
 Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của
NHTM
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ
của các NHTM, thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm,
dịch vụ tạo ra một hình ảnh về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành
của khách hàng.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn tốt làm tăng khả năng sinh lợi của sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ,
chi phí quản lý, chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn vay đã cho vay. Mặt
khác nó còn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh
cho ngân hàng trong cạnh tranh, tạo thuận lợi cho sự tồn tại phát triển lâu dài của
ngân hàng.
Có thể nói, với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín
dụng trung, dài hạn của các NHTM là sự cần thiết khách quan. Vì vậy, chất lượng
tín dụng luôn luôn đòi hỏi phải được nâng cao…
1.2.4.3 Các chỉ tiêu đánh giá
 Xét trên quan điểm khách hàng
- Các chỉ tiêu định tính đó là:
Dự án sử dụng vốn vay trung, dài hạn của ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý, kinh
tế, kỹ thuật thực hiện được.
Vốn vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo đủ khả năng trả
ngân hàng nợ gốc và lãi, trang trải chi phí khác và để lại cho doanh nghiệp một
khoản thu nhập.

- Các chỉ tiêu định lượng đó là:
+ Thời gian thi công, thực hiện dự án đảm bảo đúng tiến độ.
+ Chi phí phải không được vượt quá mức cho phép.
+ Doanh thu phải không thấp hơn doanh thu ở mức dự kiến.

Triệu Quỳnh Nga

23

Lớp: Ngân hàng 48B


Chuyên đề tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng Tài chính

+ Lợi nhuận phải đạt hoặc vượt quá mức lợi nhuận đã định trong dự án.
 Xét trên quan điểm ngân hàng
- Các chỉ tiêu định tính đó lá:
+ Cho vay phai tuân thủ ba nguyên tắc: Vốn vay phải được đảm bảo bằng tài
sản đảm bảo nợ vay, phải hoàn trả vốn, lãi đúng thời hạn và theo cam kết tại hợp
đồng tín dụng đã ký.
+ Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như lập hồ sơ cho vay, có phương án
SXKD, có báo cáo tài chính, SXKD phải có hiệu quả, có tài sản thế chấp hợp
pháp… kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong và sau khi vay.
- Các chỉ tiêu định lượng đó là:
Doanh số cho vay: là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân
hàng đã phát ra cho vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể khoản cho
vay đó đã thu hồi hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng,
quỹ, năm.

Doanh số thu nợ: là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản
cho vay của ngân hàng kể cả năm nay và những năm trước đó.
Dư nợ tín dụng: là chỉ tiêu phản ánh tại thời gian xác định nào đó hiện còn
ngân hàng cho vay bao nhiêu, và đây cũng là khoản ngân hàng thu về.
Dư nợ tín dụng = Doanh số tín dụng trong kỳ + Doanh số cho vay kỳ
trước – Doanh số thu nợ trong kỳ.
Nợ xấu: là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn mà khách hàng không
trả được cho ngân hàng mà không có nguyên nhân chính đáng thì ngân hàng sẽ
chuyển khoản dư nợ sang tài khoản nợ xấu. Nợ xấu chỉ là chỉ tiêu phản ánh chất
lượng nghiệp vụ của ngân hàng.
+ Chỉ tiêu nợ xấu: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản cho vay:
Chỉ tiêu nợ xấu = nợ xấu của tín dụng trung, dài hạn / tổng dư nợ tín dụng
trung, dài hạn.
Đến kỳ hạn trả lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và không được
gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ xấu.
Nợ xấu là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó không phải là
thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh gía chất lượng tín dụng cuả món vay. Trên
thực tế các ngân hàng luôn tìm cách để hạ tỷ lệ nợ xấu tới mức thấp nhất có thể được.
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu của tín dụng trung và dài hạn / Tổng dư nợ tín dụng

Triệu Quỳnh Nga

24

Lớp: Ngân hàng 48B


×