Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Trăng non của R.Tagore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953.78 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

ĐINH THỊ THU HÀ

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TẬP THƠ TRĂNG NON
CỦA R. TAGORE
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học
ThS. Bùi Thùy Linh

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến ThS.
Bùi Thùy Linh - giảng viên tổ văn học nước ngoài, người đã trực tiếp hướng
dẫn, chỉ bảo và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong tổ văn học nước
ngoài, các thầy cô trong khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Người thực hiện

Đinh Thị Thu Hà




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Bùi Thùy Linh, không trùng với kết quả
nghiên cứu của tác giả khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Người thực hiện

Đinh Thị Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 5
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 6
7. Cấu trúc khóa luận .................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TẬP THƠ TRĂNG NON .......... 7
1.1. Trẻ em - Những thiên thần trong sáng ................................................... 7
1.1.1. Vẻ đẹp ngoại hình ........................................................................... 7
1.1.2. Vẻ đẹp tâm hồn ............................................................................. 15
1.2. Nhân vật người lớn- “Tấm gương” bị phản chiếu ............................... 26
1.2.1. Cha mẹ - Tình yêu thương và trách nhiệm ................................... 27
1.2.2. Thế giới người lớn nói chung - Sự tương đồng và tương phản .... 32
Chương 2.: KHÔNG - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TẬP THƠ

TRĂNG NON ................................................................................................... 38
2.1. Không gian nghệ thuật ......................................................................... 39
2.1.1. Không gian hiện thực - Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ............... 39
2.1.2. “Thế giới của bé” - Cuộc du hành không gian .............................. 46
2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................ 50
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ấn Độ là một đất nước rộng lớn, phía Bắc có dãy Himalaya hùng vĩ,
phía Nam được bao quanh bởi sông Hằng, sông Ấn. Bên cạnh những tài nguyên
thiên nhiên có trữ lượng phong phú, Ấn Độ còn có một nền văn hóa phát triển
và từ lâu nơi đây được xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Những thành
tựu về văn hóa - nghệ thuật được xem là bước ngoặt lớn trong sáng tác văn học
Ấn Độ và thúc đẩy quá trình giao thoa văn học Việt Nam. Vì vậy, việc học tập
nghiên cứu thơ ca Ấn Độ đã góp phần phổ biến văn hóa Ấn Độ và Việt Nam.
1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi
hào Rabindranath Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ngôi sao sáng
của Ấn Độ phục hưng”, “người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ.
Sau hơn bảy mươi năm lao động miệt mài, R.Tagore đã để lại cho nhân
loại một di sản đồ sộ các tác phẩm văn học nghệ thuật phong phú và đa dạng:
52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hơn 2000 ca khúc
(trong đó có quốc ca Ấn Độ), 63 tập tiểu luận và gần và gần 3000 bức tranh.
Ông được coi là biểu tượng của văn hóa Ấn Độ.
Năm 1913, R.Tagore là người Châu Á đầu tiên được giải thưởng Nobel
văn chương cho tập Thơ Dâng (Gitanjali). Với tập thơ này, ông được xem là
một phát hiện của thơ ca thế kỉ, là “kỳ công thứ hai của tạo hóa sau Kalidasa”
trong văn học Ấn Độ, “một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn

tinh túy Á - Âu”.
1.3.

Từ năm 1984, sau những cố gắng tâm huyết nhiều nhà Ấn Độ học

ở Việt Nam mà tiêu biểu là các giáo sư Cao Huy Đỉnh, Lưu Đức Trung, văn
học Ấn Độ đã chính thức được đưa vào giảng dạy trong hệ thống các trường
trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học… Ở bậc trung học cơ sở, tác phẩm
được giới thiệu giảng dạy là bài thơ Mây và sóng, trích trong tập Trăng non.

1


Đây là tập thơ viết cho thiếu nhi, thuộc ba nội dung chính trong sáng tạo thơ ca
của Tagore. Việc lựa chọn tác phẩm này vào giảng dạy ở bậc trung học có sự
phù hợp với lứa tuổi và ý nghĩa giáo dục của bài thơ.
Có thể thấy, trẻ em là thế hệ tươi đẹp mà chất chứa bao tấm lòng yêu
thương của người lớn dành cho lứa tuổi tuyệt vời, cần chăm sóc này. Tình cảm
yêu thương dành cho trẻ em luôn chân thành mà mỗi chúng ta có thể cảm nhận
bằng cả trái tim. Hình ảnh trẻ em trong tập thơ Trăng non được R.Tagore khắc
họa đậm nét qua từng chi tiết, nên để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Thông qua những trang viết về trẻ em, tác giả đã dành hết tình yêu thương và
tấm lòng chân thật của mình để gửi gắm niềm tin cuộc sống đến các em.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tập thơ này nhưng mới chỉ tập trung
vào một số vấn đề cụ thể mà chưa đi sâu vào thế giới nghệ thuật trong toàn bộ
tập thơ. Bên cạnh đó bằng sự say mê văn chương của R.Tagore nên chúng tôi
đến với tập thơ như một sự khám phá. Đó là lý do để chúng tôi quyết định chọn
đề tài Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Trăng non của R.Tagore để làm rõ.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 13 tuổi, với tập thơ Bông hoa rừng in trên tạp chí Bharati (1876),

R.Tagore đã nổi tiếng trên văn đàn Ấn Độ. Đến năm 1913, khi Thơ Dâng được
trao giải Nobel thì R.Tagore thực sự trở thành một hiện tượng văn học của Ấn
Độ và nhiều nước trên thế giới. Năm 1909, Tagore xuất bản tập thơ viết cho trẻ
em gồm 40 bài, có tên Sisu (Trẻ thơ). Năm 1915, ông tiến hành dịch tập thơ từ
tiếng Bengali sang tiếng Anh đặt tên là The Cressent Moon (Trăng non). Tờ
The Golbe đã nhận xét tập thơ là: “Một sự khám phá sâu sắc và tinh tế, huyền
ảo hơn trong Thơ Dâng” (a revelation more profound and more subtle than that
in the Gitanjali) [chuyển dẫn từ 11, tr.3], còn tờ The Nationcủa Anh thì nhận
thấy đây là “Một trí tưởng tượng về tuổi thơ tương tự như những tác phẩm của
William Blake trong nền văn học của chúng ta” (a vision of childhood which

2


is only paralleded in our literature by the work of William Blake) [chuyển dẫn
từ 11, tr.3]. Như vậy, khi Trăng non ra đời nó đã mở ra một phương diện khác
trong tài năng nghệ thuật của R.Tagore khiến cho những nhà nghiên cứu, những
độc giả hâm mộ thơ ông chú ý một cách đặc biệt đến thi phẩm dành riêng cho
trẻ thơ này. Thời gian đã đi xa nhưng ông vẫn được giới nghiên cứu đi sâu tìm
hiểu về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác, mà thơ ca là thành tựu xuất sắc
của ông. Nghiên cứu Trăng non - tập thơ viết cho trẻ em của Tagore đã có một
số công trình:
Lê Từ Hiển khi nói về tập thơ Trăng non trong bài viết Nguyên sơ một
ánh trăng non đã nhận định: “Đó là một thế giới thơ ngây được kể bằng giọng
trẻ thơ mà ngân vang bao điều về vũ trụ, nhân sinh, tình mẹ con muôn đời…
Dệt nên bởi những hình tượng tuyệt vời và tấm lòng nhân hậu bao la” [22].
Theo nhận định trên, Lê Từ Hiển ca ngợi những vần thơ thật ý nghĩa trong
Trăng non của R. Tagore nó thể hiện tâm lí trẻ thơ và quy luật cuộc sống về
tình yêu thương, tình mẫu tử.
Cao Huy Đỉnh, một dịch giả có uy tín về thơ R.Tagore, khi viết lời giới

thiệu cho bản dịch Thơ Tagore đã nhận xét khái quát về tập thơ Trăng non: “Đó
là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí
nhi đồng” [21, tr.29].
Nhận xét của nhà nghiên cứu, dịch giả Đào Xuân Quý chú ý đến “ngôn
ngữ thích hợp và vô cùng phong phú” mà R.Tagore đã sử dụng trong Trăng
non. Ông đã chỉ ra sự khác biệt độc đáo của Tagore và V.Hugo trong những thi
phẩm viết về trẻ thơ: “Nhà thơ Ấn Độ đi vào thế giới của trẻ con với một tâm
trạng hoàn toàn khác biệt. Thơ về trẻ em của Tagore trong sáng, hồn nhiên và
chân thực. Ông tỏ ra am hiểu tâm hồn kì diệu của các em và để mô tả cái thế
giới trẻ thơ này, Tagore đã dùng ngôn ngữ thích hợp vô cùng phong phú. Nhưng
mặt khác, nếu đọc kĩ ta sẽ thấy rằng thơ viết cho trẻ em của R.Tagore cũng là

3


loại thơ có nhiều suy nghĩ và gắn liền với thực tiễn đau buồn của đất nước Ấn
Độ”[13, tr.211].
Trong cảm nhận của Lưu Đức Trung, Trăng non lại là những ấn tượng sâu
sắc về cách sử dụng hình ảnh và những câu chuyện kể phù hợp với các em.
Theo ông, chính những hình ảnh, những câu chuyện mang âm hưởng cổ tích đã
bộc rõ sự am hiểu tâm lí trẻ thơ của R.Tagore: “Tagore muốn đem tâm hồn
trong sáng, bản chất chân - thiện - mĩ đang tồn tại trong trẻ em đối lập với bản
chất xấu xa, đê tiện đáng khinh của xã hội đồng tiền và quyền lực chi phối” [19,
tr.158].
Đỗ Thu Hà trong cuốn Tagore, văn và đời cũng đã đưa ra những nhận xét
khái quát nhất về nội dung và nghệ thuật của tập Trăng non: “Tagore đã viết
những bài thơ để trả lời và để lí giải cho các em với những lời thơ dịu dàng, thơ
mộng và tràn đầy tình yêu thương, trong đó, ông sử dụng một bút pháp đặc biệt.
Ông là người đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa hiện thực và huyền ảo.
Để thể hiện hiện thực R.Tagore đã dùng những huyền thoại, những viền giát

xung quanh hiện thực cuộc sống, đem lại cho nó một chiều sâu có tầm vũ trụ”
[8, tr.73].
Tập thơ Trăng non cũng được khá nhiều học viên, sinh viên lựa chọn là
đề tài nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau:
+ Luận văn thạc sĩ Thế giới trẻ em trong sáng tác văn chương Tagore
của Nguyễn Phương Liên [11] đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng nghệ
thuật đã được R.Tagore sử dụng trong việc xây dựng thế giới trẻ em được thể
hiện trong sáng tác văn chương của R.Tagore ở cả ba thể loại: thơ, văn xuôi và
kịch. Tác giả khẳng định: “Nhiệm vụ của chúng tôi là phân tích các tác phẩm
thơ, văn, kịch của R.Tagore viết về trẻ em, chỉ ra những thủ pháp khác nhau mà
Tagore vận dụng trong ba phương thức sáng tác ấy để thấy được tính đa dạng
trong tài năng Tagore” [11, tr.2].

4


+ Khóa luận tốt nghiệp Yếu tố huyền ảo trong tập thơ Trăng non của
R.Tagore của Trần Kim Dung [3] quan tâm đến tác dụng của thủ pháp huyền ảo,
làm cho thế giới trong Trăng non lung linh, huyền diệu và giàu màu sắc hơn.
+ Khóa luận tốt nghiệp Tagore với trẻ thơ qua tập Trăng non của
Nguyễn Thị Ngọc Diệp [4] chủ yếu đi vào khai thác nội dung tư tưởng, tình
cảm giành cho trẻ nhỏ được thể hiện trong cả tập thơ.
+ Khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật so sánh trong tập thơ Trăng non của
Trần Thị Hoài Phương [12] tập trung tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện trong tập
thơ qua thủ pháp so sánh để làm nổi bật sự sáng tạo độc đáo của R.Tagore trong
việc xây dựng một thế giới trẻ thơ hồn nhiên và kì diệu.
Những ý kiến, nhận định cho thấy việc nghiên cứu về tập thơ Trăng non
của R.Tagore được một số nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu và mang đến
nhiều kết quả khoa học. Tuy nhiên, những công trình này hoặc là những nhận
xét chung chung hoặc mới chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định. Chúng

tôi trân trọng những ý kiến và nhận định của các công trình nghiên cứu tập thơ.
Đó cũng là sự gợi mở hướng đi để chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu một cách
tổng thể hơn về tập thơ này.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua luận văn này chúng tôi mong muốn tìm hiểu rõ hơn về thế giới nghệ
thuật trong tập thơ Trăng non tập trung thể hiện ở thế giới nhân vật và không
gian, thời gian trong tập thơ Trăng non và những giá trị mà tập thơ vốn có. Từ
đó góp thêm tiếng nói khẳng định tài năng thơ ca mà tiêu biểu là mảng thơ dành
riêng cho thiếu nhi của R.Tagore.
4. Đối tượng nghiên cứu
Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Trăng non của R.Tagore.
5. Phạm vi khảo sát
Phạm vi nghiên cứu chính của khóa luận là bản dịch Mảnh trăng non của
Phạm Bích Thủy và Phạm Hồng Nhung, NXB Đà Nẵng, năm 1997. Trong quá

5


trình phân tích, chúng tôi cũng sử dụng một số bản dịch của một số dịch giả
khác, đồng thời so sánh với một số bài thơ khác viết về trẻ em của R.Tagore
cũng như các tác giả khác của Việt Nam và trên thế giới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Trăng
non của R. Tagore chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp thích hợp: Phương
pháp thống kê - phân loại, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so
sánh - đối chiếu.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Thế giới nhân vật trong tập thơ Trăng non
Chương 2: Không - Thời gian nghệ thuật trong tập thơ Trăng non

Cuối cùng là phần Phụ lục và danh mục Tài liệu tham khảo.

6


NỘI DUNG
Chương 1. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TẬP THƠ
TRĂNG NON
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính
chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, một
tác giả, một trào lưu). Sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo
các nguyên tắc riêng của nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật có thời gian, không
gian riêng, có quy luật tâm lí thang bậc giá trị riêng trong việc phản ánh thế
giới.” [9, tr. 201].
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn
học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng. Khái niệm
nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người
cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm.
1.1. Trẻ em - Những thiên thần trong sáng
1.1.1. Vẻ đẹp ngoại hình
Thơ viết cho thiếu nhi là mảng thơ ca có sự góp mặt của nhiều cây bút lớn.
Một trong những tác giả mà chúng ta không thể không nhắc đến là Victor
Huygo:
“Khi nào bóng bé hiện ra
Gia đình mừng rỡ cả nhà reo vang
Long lanh mắt bé hiền ngoan
Mắt ai cũng sáng theo ngàn ánh thương
Những ai u uẩn chán chường
Hay là cuộc sống lầm đường nhuốc nhơ
Nhìn bé vui nỗi ngây thơ

Trán ưu tư bỗng xóa mờ vết nhăn…”
(Khi bóng trẻ thơ xuất hiện)

7


Ở khổ thơ trên tác giả đã miêu tả những điều kì diệu xảy ra khi bé xuất
hiện. Bé đến với ánh mắt hiền ngoan, khiến ai cũng yêu thương bé hết mực. Bé
còn mang đến cho gia đình, cho mọi người niềm vui vô tận. Những ai “cuộc
sống u uẩn chán chường” hay “cuộc sống lầm đường nhuốc nhơ” thì khi trông
thấy sự ngây thơ, đáng yêu của bé đều có thể “trán ưu tư bỗng xóa mờ vết
nhăn”. Nụ cười của bé, niềm vui thơ ngây của bé như liều thuốc thần tiên xóa
đi nỗi lo âu, phiền muộn cho mọi người. Ở một bài thơ khác, V.Huygo lại viết
về hình ảnh trẻ thơ trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác:
“Hoang vu. Nhưng… có một người
Bên tường sạm khói đang ngồi trầm ngâm
Một em Hy Lạp mắt xanh
Còn mang nỗi nhục nên cam cúi đầu
Nương thân biết tựa vào đâu?
Bạch trà một đóa dãi dầu như em…”
(Em bé)
Bài thơ là nỗi đau của tác giả khi chứng kiến những gì còn lại sau cuộc
chiến tranh. Cuộc chiến tranh xâm lược cai trị của Thổ Nhĩ Kì đối với nhân dân
Hy Lạp đã đem đến những đau thương, mất mát không thể kể hết. Và những
đứa trẻ vô tội là những nạn nhân đáng thương nhất. Mất đi nhà cửa, mất mái
ấm gia đình, người thân và in vào tâm trí các em là những kí ức đau thương.
Bài thơ không chỉ phản ánh hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
Cảm thông chia sẻ trước hoàn cảnh của trẻ thơ, Huygo muốn xoa dịu đi nỗi đau
ấy “tặng em huệ đẹp một bông” và “tặng em chim đẹp non ngàn”. Đồng thời
bài thơ còn là lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, là lời kêu gọi mọi người hãy

cũng nhau lên tiếng chống lại chiến tranh và mang đến cho trẻ thơ những điều
tốt đẹp nhất.
Ở Việt Nam thơ ca dành cho thiếu nhi thường quen thuộc với các bài thơ
dung lượng ngắn, với chủ đề gần gũi như về mái trường, bản thân các trẻ em…

8


Các bài thơ ấy có thế cho các em những hiểu biết về thế giới xung quanh phù
hợp với lứa tuổi, hoặc đơn giản chỉ giúp mang lại niềm vui, tiếng cười cho các
em. Đó là những món quà nhỏ giành cho thiếu nhi. Trẻ thơ là mần non, là tương
lai của đất nước, vì thế mà chúng ta cần có những quan tâm, chăm sóc phù hợp
ngay từ khi các em còn nhỏ. Vẻ đáng yêu, ngộ nghĩnh và chăm ngoan của bé
vẫn là điều thu hút nhất:
“Đôi mắt xinh xinh
Đôi mắt tròn tròn
Giúp em nhìn thấy
Mọi vật xung quanh”
(Đôi mắt của em)
Hay:
“Đôi tay bé xíu
Lại siêng nhất nhà
Hết sâu kim cho bà
Lại nhặt rau giúp mẹ”
(Tay bé)
R.Tagore là một nhà văn hóa nhưng trong gia sản ông để lại đã không thể
thiếu những lời yêu thương dành cho trẻ em. Đó chính là tập thơ Trăng non.
Trăng non là tập thơ thể hiện sâu sắc tình yêu thương cũng như mong ước
mà R.Tagore đã dành cho các em. Với ông, trẻ em là điều kỳ diệu mà tạo hóa
đã ban tặng cho con người, là một sợi dây kết nối mối giao hòa của thực tại và

tương lai, của mặt đất và vũ trụ, là kết quả tình yêu giữa cha và mẹ. Vì thế, trẻ
em luôn hội tụ những điều đáng quý trong cuộc sống. Tập thơ này ra đời trong
hoàn cảnh vô cùng thương xót đối với chính tác giả: cái chết của vợ (năm 1902),
cái chết của con gái (1904), sau đó là sự ra đi của người cha (1905) và người
con trai (1907). Tưởng như đó là biến cố khiến R.Tagore sụp đổ, nhưng tập thơ

9


chính là động lực, là cảm hứng bất diệt tiếp thêm sức mạnh và nghị lực trong
cuộc sống cho ông. Ban đầu, tập thơ ra đời vào năm 1909 viết bằng tiếng Bengal
có tựa là Sisu (Trẻ thơ). Tên gọi này cũng là chủ đề của tập thơ. Sau đó đến
năm 1915 tập thơ được tác giả dịch từ tiếng Bengal sang tiếng Anh là đặt tên là
The Cressent Moon (Trăng non), (Mảnh trăng non do Phạm Hồng Nhung và
Phạm Bích Thủy dịch). Tên gọi Trăng non là một hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng
cho hình ảnh trẻ thơ. Và đây cũng là một hình ảnh thiên nhiên xuất hiện khá
nhiều lần trong tập thơ.
“Bằng những ánh trăng lạc loài, con sẽ lẫn vào giường mẹ,
nằm trên ngực khi mẹ ngủ…”
(Chung cuộc) [15, tr. 79]
Hay:
“Trẻ tự do biết bao, không chút ràng buộc trong xứ trăng non tí hon.
Không phải vô cớ nó vất bỏ tự do…”
(Đường trẻ) [15, tr. 25]
Hoặc:
“Con bôi lấm lem tay lẫn mặt khi viết - có phải vì thế mẹ bảo con dơ?
Oa xịt! Họ có dám trăng rằm dơ vì mặt cô Hằng đầy những mực?...”
(Vu oan) [15, tr. 35]
Hình ảnh “ánh trăng lạc loài”, “vầng trăng non bé bỏng”, “ánh trăng rằm”,
sử dụng trong các câu thơ trên được tác giả xây dựng mang sự tự nhiên và chân

thật như chính trẻ em. Ban đầu “ánh trăng lạc loài” của con sẽ đi tìm khắp mọi
nơi để thấy nơi mẹ đang nghỉ, nằm trên ngực mẹ khi mẹ đang ngủ và chỉ muốn
ở cạnh bên mẹ. Hình ảnh “vầng trăng bé bỏng” trước thế giới rộng lớn và bao
la này, con trẻ như nhỏ bé cùng với ánh trăng. Nhưng trẻ cũng thấy mình được
tự do, không bị chút gì ràng buộc với thế giới bên ngoài ấy. Đến với hình ảnh
của “ánh trăng rằm” cho thấy dù cho mọi người có vu oan cho trẻ thì tình thương

10


của mẹ giành cho trẻ luôn là mãi mãi. Hàng loạt hình ảnh về trăng được tác giả
xây dựng nên đều mang một ý nghĩa biểu tượng riêng, nhưng chung nhất đó
đều là những biểu tượng về trẻ em. Bằng ngòi bút của người từng trải, R.Tagore
đã mang đến cho độc giả những hình ảnh thiên nhiên từ “trăng”, qua đó cũng
đã góp phần nói lên tình thương của ông giành cho trẻ. Không những vậy, hình
ảnh “trăng” trong tập thơ là một sự gửi gắm về niềm tin và ca ngợi tâm hồn
trong sáng của các em.
Có lẽ chính vì vậy mà R.Tagore đã quyết định đổi tên tập thơ thành Trăng
non. Điều đặc biệt, ở ngay nhan đề tập thơ tác giả đã xây dựng nên hình ảnh
“trăng non” chứ không phải là một hình thái nào khác của trăng. Trẻ em là lứa
tuổi của sự vô tư, hồn nhiên, trong sáng và không hề vướng bận về cuộc sống.
Điều đó cũng giống như vầng trăng mang đến ánh sáng trong trẻo thuần khiết
cho cả bầu trời đêm. Trăng non là khi trăng mới xuất hiện trong những ngày
đầu tiên của tháng. Tuy vầng trăng lúc này chưa tròn hoàn chỉnh nhưng lại có
một ánh sáng trắng trong, gợi nên sự tròn đầy, viên mãn ở thì tương lai. Qua
những hình ảnh tượng trưng về ánh trăng, tác giả đã mang lại một sự nhẹ nhàng
sâu lắng và vô cùng trong sáng của trẻ em vào thế giới người lớn.
Hầu hết trong các tập thơ của R.Tagore là các bài thơ được đánh số: tập
thơ Dâng gồm 103 bài thơ được đánh số từ bài 001 đến bài 103, tập thơ Người
làm vườn gồm 85 bài thơ được đánh số từ bài 01 đến bài 85, tập thơ Mùa hái

quả gồm 86 bài thơ được đánh số từ bài 01 đến bài 85 (bài thơ 86 còn có tên là
Lễ tạ ơn). Nhưng trong tập thơ Trăng non bao gồm 40 bài và các bài thơ được
đặt tên nhan đề mà không phải là cách đánh số. Điều đó cho thấy sự am hiểu
tâm lí trẻ của R.Tagore: nhận thức trẻ em luôn mang tính cụ thể và cảm tính.
R.Tagore viết về trẻ em xuất phát từ tấm lòng của người đa cảm với cuộc
đời và mang bao yêu thương dành cho các em. Đó là những vần thơ với cả một
tình thương của tác giả giành cho trẻ em. Qua đó mà mọi người có thể cảm

11


nhận được hình ảnh trong sáng và thánh thiện ở lứa tuổi đáng quý và cần được
yêu thương. Chính vì vậy mà dường như khi quan sát các em, tác giả đã không
bỏ qua bất cứ chi tiết, hành động nhỏ nào của các em. Và điều đầu tiên ông
nhận ra đó chính là vẻ đáng yêu, ngộ nghĩnh của trẻ thơ ở ngoại hình.
Từ sự quan sát tinh tế của mình, R.Tagore đã thấy được nét ngoại hình
đáng yêu mà đứa trẻ nào cũng có, ngay cả trong giấc ngủ:
“Giấc ngủ lướt trên mắt trẻ thơ, có ai biết nó từ đâu tới?
Vâng, có tiếng đồn rằng nó ở nơi đong đưa hai nụ dại huyền ảo trong
làng tiên giữa bóng rừng lửa đóm hắt hiu. Từ đó nó tới hôn mắt trẻ thơ.

Vẻ tươi mềm dịu ngọt nở trên tay trẻ thơ, có ai biết nó đã ẩn ở đâu
lâu thế? Vâng, khi người mẹ còn là một cô gái nhỏ, nó nằm khắp lòng
cô gái trong cái nhiệm mầu êm dịu và lặng lẽ của tình yêu - cái vẻ
tươi mềm dịu ngọt nở trên chân tay trẻ.”
(Nguồn) [15, tr. 23]
Dành sự quan tâm đặc biệt cho trẻ nên R.Tagore đã miêu hình ảnh trẻ ngủ
thật tinh tế và đáng yêu. Khi ngủ, đôi mắt bé rung lên chập chờn và rất dễ thức
giấc bất cứ lúc nào. Tác giả dường như đang ở cạnh quan sát và suy đoán về
giấc ngủ của trẻ. Hình ảnh khi trẻ ngủ cũng được miêu tả rất đẹp như “làng

tiên”, giữa “rừng lửa đóm hắt hiu”. Tác giả ví đôi mắt trẻ như “hai nụ dại huyền
ảo”. Hai nụ hoa ấy như đang lung linh trước tạo hóa và đang e ấp nở khi bắt
đầu sự sống mới. Có thể thấy, R.Tagore thường kế thừa chất trữ tình về hình
ảnh đôi mắt và trong thơ ông thường nhắc đến hình ảnh này. Bởi “đôi mắt”
không chỉ là cửa sổ tâm hồn mà còn là tín hiệu giao tiếp từ cơ thể. Cuối cùng,
màu mát dịu phơi phới khiến cho em bé chìm vào giấc ngủ ngon lành mà không
ai biết từ đâu đến. Đó chính là tình yêu, sự quan tâm của người mẹ dành cho
con, không quản ngại mà chăm sóc, lo lắng cho con có một giấc ngủ ngon lành.

12


Bài thơ như một lời ru nhẹ nhàng mang ý nghĩa về sự chăm lo cho trẻ. Trong
giấc ngủ yên bình ấy, vẻ đẹp của trẻ hiện lên nhẹ nhàng như những thần tiên
trong câu chuyện cổ tích.
Trong bài thơ Đường trẻ, R.Tagore đã xây dựng vẻ đẹp của bé trong một
hình tượng thật khác: cậu bé ăn xin. Khi nhắc đến ăn xin người ta sẽ dễ dàng
liên tưởng đến những người thiếu thốn về vật chất, cần sự giúp đỡ cảu mọi
người. Nhưng “cậu bé ăn xin” này thì hoàn toàn khác:
“Trẻ có cả kho vàng đụn ngọc, vậy mà nó tới trần gian này như
một kẻ ăn mày. Không phải vô cớ mà nó dấu mình như thế.
Người hành khất bé nhỏ, trần truồng thân ái đó giả bộ cực kỳ
khốn quẫn, để có thể ăn mày của mẹ khối tình…”
(Đường trẻ) [15, tr. 24 - 25]
Cậu bé trong bài thơ hiện lên thật đáng yêu với trò cải trang làm người ăn
xin. Bé cũng trần truồng, cũng thảm hại như những người ăn xin trên thế gian
này. Nhưng mọi người thay vì thấy bé đáng thương như những người ăn xin khác
thì mọi người lại cảm thấy bé đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đáng yêu từ khuôn mặt
bầu bĩnh, tay chân bụ bẫm và ánh mắt tinh nghịch. Với một đứa trẻ như vậy thì
bất cứ ai cũng cho bé thật nhiều tình yêu mà không phải suy tính.

“Trẻ không bao giờ biết khóc. Nó ở trong xứ hoan lạc tuyệt vời.
Không phải vô cớ nó đã ưng rơi lệ
Dù khuôn mặt cười tươi có lôi cuốn được lòng mẹ nâng niu,
chính những tiếng khóc nhỏ vì những bực dọc cỏn con của nó
đan thành sợi dây kết nối thương yêu.”
(Đường trẻ) [15, tr. 25]
Tâm hồn trẻ em vốn ngây thơ, không vướng bận điều gì. Thế nhưng đôi khi
cũng có những lúc trẻ khóc. Những “tiếng khóc nhỏ” ấy chỉ bởi “những bực
dọc cỏn con” nhưng cũng đủ khiến cho người lớn cảm thấy xót xa. Nụ cười

13


thân yêu quen thuộc không còn nữa, thay vào đó là dòng nước mắt lăn dài trên
khuôn mặt thơ dại. Bé đến với thế gian này, mang lại cho mọi người niềm vui
và bé nhận lại sự yêu thương.
Tác giả còn giành sự quan sát của mình cho bé ngay cả lúc chơi đùa. Đó
là những bước đi chập chững từ đôi bàn chân nhỏ, là nụ cười luôn giòn tan, hồn
nhiên của trẻ:
“A, con ơi, ai đã nhuộm chiếc áo nhỏ hồng và lấy nó choàng
qua tay chân bụ bẫm của con
Buổi sáng con ra sân chơi vừa chạy vừa lững chững té lên té xuống.
Nhưng ai đã nhuộm chiếc áo nhỏ đó hở con?
Cái gì làm con cười, nụ cười nhỏ của ta ơi?. Mẹ đứng trên thềm
nhìn con mỉm cười. Mẹ vỗ tay và vòng xuyến reo vang. Con
cầm thanh tre nhảy như một mục đồng tí hon. Nhưng cái gì làm
con cười, hỡi nụ cười nhỏ của cha?”
(Đám rước không ngờ) [15, tr.26]
Tác giả thấy được nét đáng yêu từ ngay làn da mỏng hồng và mịn màng
của trẻ, khiến chúng ta có thể tưởng rằng nó được “nhuộm” và “choàng” lên

trẻ. Và cả “tay chân bụ bẫm” cũng không ngừng đùa nghịch mọi lúc, mọi nơi.
Khi trẻ còn nhỏ, những cánh tay, bàn chân nhỏ xinh, đỏ hồng và bụ bẫm khiến
ai trông thấy cũng phải mỉm cười. Những ngón tay, ngón chân nhỏ xinh chưa
thể cứng cáp như người lớn được nhưng lại luôn muốn chạy nhảy, đùa nghịch
khắp nơi, nên “vừa chạy vừa lững chững té lên té xuống”. Thế nhưng chẳng hề
gì với bé cả. Dù vấp ngã nhưng vẫn nở nụ cười và tiếp tục với trò chơi của mình
“Cầm thanh tre và nhảy như mục đồng tí hon”. Có lẽ vẻ đẹp tỏa sáng nhất ở trẻ
thơ chính là nụ cười. Đó là nụ cười của niềm vui hồn nhiên và vô tư, trong sáng
nhất mà không phải ai muốn là cũng có được. Mà đó là nụ cười xuất phát từ
trái tim, mặc dù đó chỉ là những điều giản đơn nhất:

14


“Nụ cười thoáng trên môi trẻ thơ khi ngủ, có ai biết nó sinh ra
nơi nào? Vâng, có tiếng đồn rằng một tia nhạt của mảnh trăng
thu non chạm riềm một áng mây thu đang tan biến, nơi nụ cười
sơ sinh trong giấc mơ của một sáng đẫm sương - nụ cười thoáng
trên môi trẻ khi ngủ.”
(Nguồn) [15, tr.23]
Tác giả đã rất tinh tế khi quan sát từng chi tiết nhỏ của trẻ khi trẻ ngủ. Khi
ngủ trẻ không làm chủ hành động của mình, nhưng điều ấy đã mang đến cho
tác giả những điều thật thú vị. Khi trẻ còn đang chìm trong giấc ngủ, không ai
biết nụ cười ấy từ đâu đến. Và tác giả đã đóng vai người đi tìm hiểu và lí giải
nguồn gốc của nụ cười ấy. Đó là “một tia nhạt của mảnh trăng thu non chạm
riềm một áng mây thu đang tan biến”. Tác giả bằng những vần thơ của mình
cùng như đang hòa vào giấc mơ ấy và khẳng định: nụ cười ấy là đẹp nhất.
Qua những vần thơ trên, tác giả R.Tagore đã cho chúng ta thấy những nét
đẹp ngoại hình bụ bẫm đáng yêu, trong sáng. Vẻ đẹp ấy được thể hiện ở bàn chân
mũm mĩm, làn da hồng hào, đôi mắt sáng, và đặc biệt là nụ cười trong trẻo. Ẩn

chứa bên trong vẻ đẹp ngoại hình ấy là một tâm hồn thánh thiện.
1.1.2. Vẻ đẹp tâm hồn
Những trang thơ R.Tagore viết về trẻ em chính là những yêu thương của
ông giành cho các em xuất phát từ tấm lòng của một người đa cảm với cuộc
đời. Đối với R.Tagore, vẻ đẹp của trẻ được bộc lộ ngay từ những giây phút trẻ
hòa mình vào thiên nhiên, vui đùa, tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh.
Vẻ đẹp tâm hồn của trẻ đã được tác giả miêu tả qua nhiều phương diện
khác nhau. Phương diện đầu tiên tác giả khám phá đó là: Tâm hồn trong sáng
và thánh thiện của trẻ. Điều ấy được thể hiện qua cả suy nghĩ và hành động của
trẻ.
Trong suy nghĩ của trẻ thì câu hỏi quen thuộc mà hầu như đứa trẻ nào cũng

15


thắc mắc, đó là “mình từ đâu đến”. Thắc mắc ấy thực sự là quan trọng với bé,
nên bé đã luôn hỏi mẹ:
“Bé hỏi mẹ:
“Mẹ ơi con từ đâu đến vậy
Mẹ đã nhặt được con ở tận nơi nào?” ”.
(Buổi sơ khai) [21, tr.621]
Đứa trẻ ở trong câu thơ trên thật ngây thơ và đáng yêu khi thắc mắc về
nguồn gốc của mình nhưng cũng là sự quan tâm, tò mò của bé đối với thế giới
xung quanh. Bé hỏi mẹ “Mẹ ơi con từ đâu đến vậy. Mẹ đã nhặt được con ở tận
nơi nào?”. Phải chăng đây là suy nghĩ của trẻ mà nhà thơ đã khám phá. Đối với
R.Tagore sự ra đời của trẻ vô cùng thiêng liêng và huyền bí. Nó là kết tinh của
tình yêu, nỗi mong chờ, là cái đẹp diệu kỳ của tạo hóa. Bài thơ là cuộc đối thoại
của hai mẹ con. Câu trả lời của mẹ là dòng cảm xúc tuôn trào khi người con
khơi gợi vào điều huyền diệu nhất của cuộc đời:
“Con là đứa con của thượng đế, là anh em sinh đôi với ánh bình minh

Con đã theo dòng nước trôi xuôi đến cuộc đời trần tục này
Và cuối cùng con đã được đặt vào trong lòng mẹ
Khi mẹ ngây nhìn khuôn mặt của con
Mẹ như bị ngập trong bao điều bí ẩn
Và con, vốn là của chung của tất cả mọi người
Đã trở thành của riêng của mẹ
Sợ mất con đi mẹ đã siết chặt con trên ngực mẹ
Không biết sự diệu kì nào
Đã chiếm lĩnh cái kho vàng trên cõi thế
Và đặt và đôi tay mảnh khảnh của mẹ đây”

16


(Buổi sơ khai) [21, tr.621]
Bằng những hình ảnh tượng trưng, R.Tagore đã gọi trẻ thơ là: đứa con
cưng của thượng đế, anh em sinh đôi với ánh bình minh, ánh hồng trên trời cao,
kho vàng trên cõi thế, nụ vui, ánh trăng non trẻ… Không chỉ đề cập đến nguồn
gốc của trẻ thơ, mà R.Tagore cũng đã lí giải tình yêu của mẹ dành cho con và
tình cảm của người con dành cho mẹ theo chính quan điểm của mình.
Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng đã thể hiện những thắc mắc của trẻ em về thế
giới xung quanh thật đáng yêu:
“Má ơi, ai sinh ra lá
Ai làm ra cái kem
Đêm sao lại màu đen
Ban ngày sao lại màu trắng? ”
(Cắt nghĩa) [14, tr.454]
Sự hồn nhiên của trẻ khi thắc mắc về mọi thứ luôn được các tác giả khắc
họa tinh tế và vô cùng thú vị. Điều đó cho thấy, những bài thơ viết về trẻ em
đều là những cảm xúc, tấm lòng chân thật dành cho trẻ. Tác giả phải là người

thấu hiểu tâm lí của trẻ nên mang lại những dòng cảm xúc chân thật khi đặt câu
hỏi với người thân.
Không chỉ trong suy nghĩ, mà sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ còn được
bộc lộ rõ nét khi chơi đùa. Trong bài thơ Trên bờ biển, R.Tagore đã vẽ lên
hình ảnh những đứa trẻ thật hạnh phúc khi được vô tư vui đùa trên bờ biển
rộng lớn. Chúng “cười reo nhảy múa” một cách hồn nhiên và trong trẻo nhất.
Những câu thơ của R.Tagore thật tinh tế, dường như ông đã hòa vào cuộc vui,
hay ít nhất là đang tận mắt chứng kiến cuộc vui của bọn trẻ bên bờ biển. Bọn
trẻ đang say sưa với những trò nghịch ngợm “xây nhà bằng cát”, “chơi với vỏ
sò”, “lá khô đan thuyền”… Trẻ không xây những ngôi nhà nguy nga trên biển
mà chỉ là những ngôi nhà cát, và những vỏ sò rỗng không, những chiếc là khô

17


cũng là những trò chơi hấp dẫn mang một sự hồn nhiên về tương lai. Thông
thường, những thứ ở bờ biển đã được bỏ đi và không có giá trị, nhưng đối với
trẻ lại là những trò chơi làm cho trẻ không bận tâm đến xã hội bên ngoài.
“Bọn con trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Dông tố gầm lên trên bầu trời không có một lối đi
Thuyền bè đắm trên nước không một dấu vết
Cái chết ở ngoài kia,
Nhưng lũ trẻ vẫn đùa chơi.
Trên bến bờ những thế giới vô biên
Là một hội lớn của bầy con trẻ.”
(Trên bờ biển) [21, tr. 617]
Biển cũng giống như tính cách của con người, lúc ồn ào sôi nổi, lúc lại
lắng đọng dịu êm. Biển khi hiền hòa làm chỗ dựa lớn của con người , nhưng
khi biển lại là những nguy hiểm rình rập với “dông tố gầm lên”, “thuyền đắm
trong nước không một dấu vết”, “cái chết ngoài kia”… khiến con người phải

lo sợ và tránh xa. Mặc dù vậy, nhưng trẻ vẫn vui đùa hồn nhiên với trò chơi.
Có thể thấy, cuộc sống luôn thay đổi với sự sang hèn, địa vị, danh lợi, hay
những dông tố mà không ai đoán trước được. Thế nhưng, thế giới của trẻ thì
lại chỉ có sự hồn nhiên, vô tư, không có những tranh giành, vụ lợi.
Tiếp tục khắc họa hình ảnh trẻ em với trò chơi của chúng, R.Tagore như
muốn thúc giục mọi người tìm lại với tuổi thơ tươi đẹp:
“Con ơi, con ngồi trong cát chơi nghịch với một cành lá gẫy rời
suốt buổi sáng, sung sướng bao nhiêu!
Ta cười nhìn con chơi với một khúc cành lá gẫy rời.
Ta còn đang bận bịu sổ sách, cộng trừ những con số cả giờ.

18


Có lẽ con khẽ liếc nhìn ta thầm nghĩ:
“Thực là phí buổi sáng với trò chơi chán ngấy kia!” ”
(Đồ chơi) [15, tr.38]
Thông thường “cành lá gãy” là thứ bỏ đi, không có giá trị, nhưng đối với
trẻ thì đó lại là đồ chơi thật hấp dẫn làm chúng cảm thấy “sung sướng bao
nhiêu” và chơi suốt buổi sáng. Đối lập với trò chơi của trẻ là trò chơi của người
cha. Với trẻ, công việc của người cha đang làm thật “chán ngấy” và “phí buổi
sáng” bởi trong suy nghĩ của các em không hề có sự tính toán và lo âu trong
cuộc sống. Thế giới của trẻ em là sự vui đùa với những thứ mình thích, tự do
vui đùa với những trò chơi có sẵn mà không phải tính toán, tranh giành. Còn
người lớn thì lại đánh mất sự thanh thản, yên bình trong cuộc sống bởi mải mê
đi tìm kiếm những thứ quý giá, vàng bạc, của cải. Qua bài thơ, tác giả cũng
muốn nhắn nhủ độc giả hãy biết nắm giữ hạnh phúc, đó chỉ là những thứ giản
đơn, đời thường mà đôi khi con người vì cuộc sống vật chất mà lãng quên đi.
Bài thơ Bản hợp đồng cuối cùng là một câu chuyện đầy thú vị và ý nghĩa
về sự tự do không ràng buộc. Nhân vật “anh thanh niên” trên con đường của

mình đã bắt gặp những hình ảnh trái ngược thông thường nhưng rất hợp logic.
Đầu tiên đó là một ông vua ngồi trên xe đi tới, tay cầm kiếm và muốn “thuê
ngươi bằng quyền lực của ta”. Nhưng anh thanh niên đã khước từ và bước đi.
Tiếp theo một ông lão đến vời một túi đầy vàng và muốn “thuê ngươi bằng tiền
bạc của ta” nhưng người thanh niên đã quay lưng đi. Lần thứ ba anh thanh niên
gặp một cô gái đẹp ở khu vườn đầy hoa và cô bảo “Tôi sẽ thuê anh bằng một
nụ cười”, thế nhưng nụ cười của cô đã nhạt và tan thành nước mắt, anh thanh
niên đã từ chối và tiếp tục bước đi. Như vậy, anh thanh niên đã từ chối tất cả
những thứ thường được coi là có giá trị mà mỗi người đều muốn đạt được như
quyền lực, tiền bạc và ái tình. Đối với anh dường như tất cả những thứ ấy đều

19


là vô nghĩa. Và cuối cùng anh thanh niên đã gặp một cậu bé ngồi chơi bên bờ
biển:
“Một cậu bé ngồi chơi với dăm vỏ ốc.
Cậu ngẩng đầu lên, và dường như cậu nhận ra tôi rồi nói:
“Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng”
Và từ khi bản hợp đồng được kí chơi với cậu bé
Tôi đã thành người tự do.”
(Bản hợp đông cuối cùng) [21, tr.632]
Những dòng thơ trên đã cho thấy sự vô tư, hồn nhiên của trẻ em đã chiến
thắng được tất cả những ràng buộc về địa vị, quyền lực và tiền bạc trong xã hội.
Một cậu bé “ánh mắt long lanh” ngồi chơi với vỏ sò mặc xung quanh là biển cả
sóng vỗ ầm ĩ nhưng cậu vẫn vô tư nô đùa. Cuộc sống của trẻ em luôn tự do và
hồn nhiên, không ràng buộc, tranh giành. Vì thế mà anh thanh niên đã chấp
nhận kí bản hợp đồng cùng cậu bé với “hai bàn tay trắng”. Hình ảnh “hai bàn
tay trắng” chính là hình ảnh tượng trưng cho sự ngây thơ, trong sáng của trẻ.
Lựa chọn của anh thanh niên chính là lựa chọn sự tự do. Anh trở thành người

tự do không trở thành nô lệ của những bon chen của cuộc sống với tiền tài, danh
vọng hay ái tình. Qua bài thơ này, R.Tagore đã vẽ nên bức tranh với những
mảng màu đối lập, một bên là bản chất xấu xa, đáng khinh của xã hội đồng tiền,
một bên là tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, bản chất chân - thiện - mĩ của trẻ
em. Từ đó bài thơ đã mang theo một thông điệp hết sức có ý nghĩa: sự tự do
mới là tất cả.
Đối với R.Tagore, trẻ em đều có những phẩm chất hồn nhiên, vô tư và
trong sáng nên rất cần mọi người nâng niu, trân trọng. Bằng những tình cảm
chân thành nhất, R.Tagore đã ca ngợi sự hồn nhiên trong sáng, không hề vướng
bận danh lợi, địa vị, tranh giành như người lớn. Ngòi bút của R.Tagore đã tái

20


hiện lại tuổi thơ cho mỗi độc giả, mang đến cho độc giả những niềm vui giản
đơn nhưng có giá trị tinh thần to lớn trong cuộc sống.
Ai cũng có những ước mơ của riêng mình. Trẻ thơ cũng vậy. Nhưng những
ước mơ ấy thật nhỏ nhoi, giản đơn thể hiện một tâm hồn ngây thơ, thánh thiện:
“Ngày lại ngày tôi thả từng chiếc thuyền giấy xuống dòng nước chảy
Trên thuyền tôi viết tên tôi và tên làng tôi ở bằng chữ đen thật to.
Tôi hi vọng rằng một người nào đó ở một xứ xa xôi nhận được sẽ biết
tôi là ai.”
(Thuyền giấy) [15, tr. 54]
Các em đã gửi giấc mơ của mình và những chiếc thuyền theo dòng khe
chảy xiết. Việc thả thuyền ước mơ ấy được diễn ra hàng ngày, lặp lại nhiều lần.
Ở cuộc sống hàng ngày, con người luôn ao ước có tiền bạc, địa vị, và danh
vọng. Thế nhưng, với trẻ em thì khác, các em có những ước ao giản dị nhưng
lại hết sức mãnh liệt. Khát vọng một người nào đó sẽ biết rõ mình là ai khiến
cậu bé thích thú viết tên mình, tên làng mình thật to và đậm. Ước mơ giản dị
ấy thể hiện khát khao được đi đến chân trời mới, được khám phá những điều

mới lạ ở thế giới xung quanh.
Khi đứa trẻ dần lớn lên cũng là lúc xuất hiện những ý thức về cuộc sống
với những ước mơ được cống hiến. Điều đó được thể hiện qua những ước mơ
của trẻ trong bài thơ Khuynh hướng. Đầu tiên, đứa trẻ nhìn thấy hình ảnh của
anh chàng bán dạo và tiếng rao “vòng đây, vòng thủy tinh đây!”. Trên đường
hàng ngày đứa trẻ thường bắt gặp người bán dạo với tiếng rao quen thuộc, khiến
trẻ thích thú và ao ước. Đối với trẻ, người bán dạo sẽ làm được những điều
mình thích, được tự do mà không có gì thúc giục anh ta. Lần thứ hai, trẻ trông
thấy người làm vườn đang làm việc và hình ảnh người lao động đã khắc sâu
vào tâm trí trẻ. Trong ánh mắt trẻ, người làm vườn với chiếc cuốc trong tay và
một tư thế thoải mái. Dù “quần áo lấm bụi” hay “bị cháy nắng hay bị ướt đầm”

21


×