Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Cốt truyện tối giản trong Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.6 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ THU HÀ

CỐT TRUYỆN TỐI GIẢN TRONG
MÌNH NÓI CHUYỆN GÌ KHI MÌNH NÓI
CHUYỆN TÌNH CỦA RAYMOND
CARVER

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận “Cốt truyện tối giản trong Mình nói chuyện gì khi mình nói
chuyện tình của Raymond Carver” được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa
học của ThS. Lương Thị Hồng Gấm. Em xin chân thành cảm ơn cô cùng toàn
thể thầy cô trong tổ Văn học nước ngoài trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
tạo điều kiện, giúp đỡ em thực hiện khóa luận này.
Nhân đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô, bạn bè
người thân đã giúp đỡ, chia sẻ cùng em trong quá trình làm khóa luận.
Khóa luận không tránh khỏi nhưng thiếu sót, rất mong được sự đóng
góp ý kiến từ phía người đọc.
Chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hà




LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan và khẳng định đây là công trình nghiên cứu của
riêng chúng tôi. Các tài liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung
thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kì một công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1.Lí do chọn đề tài .......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................7
6. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................................8
NỘI DUNG ................................................................................................................9
Chương 1 ĐẶC ĐIỂM CỐT TRUYỆN TỐI GIẢN ..............................................9
1.1. Chủ nghĩa tối giản và Raymond Carver ...............................................................9
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa tối giản .........................................................................9
1.1.2. Raymond Carver - bậc thầy truyện ngắn tối giản ........................................11
1.2. Cốt truyện và cốt truyện tối giản ........................................................................14
1.2.1. Cốt truyện .....................................................................................................14
1.2.2. Cốt truyện tối giản........................................................................................16
Chương 2 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN TỐI GIẢN TRONG

MÌNH NÓI CHUYỆN GÌ KHI MÌNH NÓI CHUYỆN TÌNH ...............................22
2.1. Những mảnh vỡ ghép lại ....................................................................................22
2.2. Hủy bỏ xung đột .................................................................................................28
2.3. Tiết giảm chi tiết ................................................................................................38
2.4. Kết thúc truyện ...................................................................................................46
2.4.1. Kết thúc mở ..................................................................................................46
2.4.2. Kết thúc kịch tính .........................................................................................50
KẾT LUẬN ..............................................................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................


MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Chủ nghĩa hậu hiện hiện đại (tiếng Anh: postmodernism, viết tắt là
PoMo) là một xu hướng của nền văn hóa đương đại có ảnh hưởng trên nhiều
lĩnh vực văn hóa như hội họa, điêu khắc, văn học, xã hội học, ngôn ngữ học,
nghệ thuật thị giác, âm nhạc...Trong văn học, khi đọc những sáng tác hậu hiện
đại, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy sự giải phóng mạnh mẽ của ý niệm về con
người, tâm trạng hoài nghi, nỗi cô đơn, bất hạnh của cá thể để đi tìm giá trị
thực của cuộc sống... Điều này được thể hiện rõ qua tác phẩm của một số ngòi
bút nổi tiếng như: Tom Morrison, Ken Kesay, Paul Auster, McCarthy, Don
Delillo, Raymond Carver...Trong xu thế ngày nay, chủ nghĩa hậu hiện đại
không còn là mới nhưng nó đã, đang và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc
nghiên cứu, tìm hiểu và khám phá các giá trị văn bản dưới góc nhìn hậu hiện
đại. Đây có thể được coi là lí do đầu tiên thôi thúc chúng tôi chọn đề tài
nghiên cửu của mình liên quan đến chủ nghĩa hậu hiện đại.
Văn học Mỹ là nền văn học có ảnh hưởng không nhỏ ở Việt Nam. Điểm
lại tên một số tác giả nổi tiếng, ta không thê không nhắc đến Raymond
Carver. Ông được tôn vinh là một trong ba bậc thầy của truyện ngắn Mỹ (A
Edger, E.Heminway, R.Carver).

Raymond Carver (1938 - 1988) là nhà văn Hoa Kì, sinh ra tại Oregon,
trưởng thành tại Yakima, Waslington. Ông được xem là cây bút truyện ngắn
bậc thầy của Hoa Kì nửa sau thế kỉ XX và là chủ soái của khuynh hướng (chủ
nghĩa) tối giản (minimalism), người viết về những thảm họa trong đời sống cá
nhân bằng phong cách dung dị kiệm lời, kiệm cảm xúc đến bất ngờ.
Thời thơ ấu Raymond Carver chịu nhiều đắng cay. Ông lập gia đình từ
năm mười chín tuổi. Năm 1958 nhằm thay đổi cuộc sống, Carver đưa vợ và
hai con đến bang California và giao du với các văn nghệ sĩ. Được sự khuyến
khích của bạn bè, Carver bắt tay vào sáng tác.


Năm 1968, cuốn sách đầu tiên của Carver ra mắt bạn đọc, không phải là
truyện ngắn mà là tập thơ Gần Klamath nhưng không gây được sự chú ý của
độc giả. Mãi tám năm sau, vẫn kiên trì vừa kiếm sống vừa viết, tập truyện
ngắn Em làm ơn im đi, được không? (1977) của Raymond Carver ra đời.
Ngay lập tức tên tuổi của ông được nhiều người biết đến và hâm mộ. Năm
1981, một tập truyện ngắn nổi tiếng nữa của Carver ra mắt bạn đọc, Mình nói
chuyện gì khi minh nói chuyện tình. Đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của
Carver là khi truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của ông Điều tốt lành nho nhỏ
được trao giải văn xuôi hư cấu Carlos Fuentes. Truyện này về sau được tuyển
vào tập Thánh đường (1984). Năm 1988, tập tuyển những truyện đặc sắc và
những truyện mới sáng tác của ông Mình đang gọi từ đâu ra đời. Đây là tập
truyện ngắn cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Những sáng tác của ông lần lượt trở thành tiêu biểu mẫu mực của cả một
thời đại và ảnh hưởng đến nhiều cây bút khác. Đúng như một tờ báo Mỹ đã
nhận nhận xét: “Raymond Carver đã thổi một luồng gió mới vào thế giới
truyện ngắn Mỹ, và ngay lập tức trở thành một bậc thầy về hình thức, một
trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và yêu mến nhất. Ông cho thấy cái
bi kịch mỉa mai, ngự trị trong tim những con người bình thường” [dẫn theo 7,
tr.Bìa].

Dẫu sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩn ấy đã đưa Carver lên vị
trí số một của các cây bút truyện ngắn nửa sau thế kỉ XX ở Hoa Kỳ. Ông được
đánh giá là nhà văn xuất sắc và có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Những
cách tân mới mẻ của Raymond Carver là điều hấp dẫn chúng tôi. Thực tế cho
thấy, cần thiết phải có ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu về ông
và các tác phẩm của ông để đông đảo bạn đọc được biết đến.
Raymond Carver được coi là người tiên phong của khuynh hướng tối
giản. Ông là một trong những người đã và đang thách thức các quan niệm

2


truyền thống về truyện ngắn và không ngừng cấp cho khái niệm này nội hàm
mới.
Về khuynh hướng này, chúng tôi sẽ giới thiệu chi tiết hơn ở phần sau.
Tuy nhiên, ngay từ khi ra đời, khuynh hướng tối giản đã trở thành đề tài nóng
bỏng cho nhiều cuộc tranh luận và phê bình, có ý kiến đánh giá cao, tuy nhiên
cũng có những ý kiến trái chiều, sử dụng thuật ngữ tối giản với ý nghĩa miệt
thị, coi là biểu hiện của sự rã đám của các tác phẩm nghệ thuật.
Để có cái nhìn khách quan hơn, đánh giá đúng hơn về khuynh hướng tối
giản và đại diện tiêu biểu của nó - nhà văn Raymond Carver, chúng tôi đã
quyết định lựa chọn đề tài “Cốt truyện tối giản trong Mình nói chuyện gì khi
mình nói chuyện tình”. Hi vọng, đề tài khóa luận này của chúng tôi sẽ mang
đến những kiến thức bổ ích cho những ai quan tâm và yêu thích nhà văn Mỹ
tài năng năng này.
2. Lịch sử vấn đề
Do một số hạn chế về ngoại ngữ và điều kiện sưu tầm, chúng tôi mới chỉ
tổng hợp được một số tài liệu nhất định, có thể tổng thuật qua một số nghiên
cứu cơ bản trong lịch sử nghiên cứu về Raymond Carver như sau:
2.1. Nguồn tư liệu tiếng Anh

Tên tuổi của Raymond Carver gắn liền với chủ nghĩa tối giản, chính vì
thế rất nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề này. Trong bài viết Now
you see him, now you don’t, now you do again: the evolution of Raymond
Carver’ minimalism (Bây giờ bạn hiểu anh ta, bây giờ bạn không hiểu, bây
giờ bạn lại hiểu: sự tiến triển của chủ nghĩa cực hạn của Raymond Carver),
nhà nghiên cứu Adam Meyer đã khẳng định chủ nghĩa tối giản không phải là
toàn bộ sự nghiệp văn chương của Raymond Carver: “Nếu chúng ta nhìn lại
tất cả các tác phẩm Carver đã xuất bản thông qua tuyển tập truyện ngắn gần
đây nhất được xuất bản của ông, Mình đang gọi từ đâu, chúng ta thấy rằng sự
nghiệp của ông không phát triển theo chiều hướng của một hình chóp lộn ngược.

3


Nó giống một cái đồng hồ cát nhiều hơn – rộng mở ban đầu, bó hẹp dần ở giữa,
và rồi mở rộng trở lại.” [25]. Nói một cách khác, Adam Meyer nhấn mạnh chủ
nghĩa tối giản chỉ là giai đoạn giữa trong sự nghiệp sáng tác của Raymond
Carver với tập truyện tiêu biểu Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình.
2.2. Nguồn tư liệu tiếng Việt
Nguồn tư liêu tiếng Việt mà chúng tôi sưu tập được có liên quan đến chủ
nghĩa cực hạn, Raymond Carver, các tác phẩm của ông, cũng như những bài
nghiên cứu của các học giả trong nước và nước ngoài đã được dịch sang tiếng
Việt.
2.2.1. Tác phẩm của Raymond Carver
Việc dịch thuật ngày càng nhiều sáng tác của Raymond Carver mà tiêu biểu
là tập truyện ngắn Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình – Dương Tường
và Nguyễn Hạnh Quyên dịch, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn & Nhã Nam, 2009.
Ngoài ra còn nhiều truyện ngắn, bài viết, phỏng vấn, tiểu luận được dịch
và đăng tải ở tạp chí Văn học nước ngoài, thư viện điện tử www.evan.com.vn
như Thời của truyện ngắn, Kinh nghiệm viết truyện ngắn, Nguyên lí viết

truyện ngắn trong đó tác giả bộc lộ cái nhìn phân tích đầy sắc sảo về truyện
ngắn của bản thân và khuynh hướng sáng tác truyện ngắn đương thời.
Ngoài truyện ngắn, thơ của Raymond Carver chủ yếu được dịch và đăng
tải trên thư viện điện tử www.evan.com.vn.
So với sự nghiệp sáng tác và công trình nghiên cứu về Raymond Carver
thì những bài dịch thuật trên còn quá ít ỏi, chưa xứng với tầm vóc của nhà
văn. Đặc biệt là mảng thơ của Raymond Carver vẫn còn để ngỏ.
2.2.2. Những bài nghiên cứu về chủ nghĩa cực hạn và Raymond Carver
Điểm lại những công trình nghiên cứu trong nước về Raymond Carver
chúng tôi nhận thấy những nghiên cứu mang tính hệ thống vẫn chưa nhiều.
Giáo sư Lê Huy Bắc được xem là người tiên phong trong địa hạt nghiên cứu
về Carver. Trong lời giới thiệu mở đầu tập Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới,

4


Lê Huy Bắc đã phân chia truyện ngắn hậu hiện đại thành ba khuynh hướng:
truyện ngắn huyền ảo, truyện ngắn mảnh vỡ, truyện ngắn cực hạn và xem
Raymond Carver là đại diện tiêu biểu cho truyện ngắn cực hạn. Trong bài tiểu
luận Chủ nghĩa cực hạn và Raymond Carver, trong Truyện ngắn lí luận tác
gia và tác phẩm, tác giả đã phân tích đặc trưng của chủ nghĩa cực hạn trong
văn học. Tác giả đã khẳng định “Chủ nghĩa tối giản đề cao tính vô ngã trong
sáng tạo. Dấu ấn chủ quan của tác giả càng đến gần hơn với độ không của lối
viết thì tác phẩm càng có giá trị thuyết phục cao hơn” [5, 59]. Từ đó Lê Huy
Bắc rút ra kết luận: “chủ nghĩa tối giản trong văn học đã đáp ứng được yêu
cầu của chủ nghĩa hậu hiện đại ở chỗ đã chủ trương hạn chế tối đa khả năng
hư cấu, khả năng tự sự chủ quan, khả năng bao quát mọi vấn đề… mà theo
cách gọi của Jean-Francois Lyotard là đại tự sự” [5, 59].
Lê Huy Bắc đã nhiệt thành giới thiệu Raymond Caerver ở Việt Nam và
đã chỉ ra kiểu “cốt truyện đồng hiện nhiều mảnh đời, nhiều cảnh ngộ tương

ứng” [5, 61], do đó, nếu tóm tắt các sự kiện chính thì cốt truyện của Carver
lỏng lẻo và chẳng có gì đáng nói. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định Raymond
Carver “không phản ánh thực tại bằng ẩn dụ mà bằng hoán dụ” [5,71] với lối
kể chuyện khách quan, lạnh lùng và “phong cách tự sự vô cảm” [5,71]. Thông
qua việc đi sâu vào phân tích tác phẩm cụ thể như Thánh đường, Mình đang
gọi từ đâu, Điều tốt lành nho nhỏ, nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận
Raymond Carver là “người quy tụ thành công nhất các nguyên tắc tiêu biểu
của chủ nghĩa tối giản” [5,61].
Trong bài viết giới thiệu về Raymond Carver đăng trên tạp chí văn học
nước ngoài số 5, năm 1999, Dương Tường đã chỉ ra mối liên hệ giữa Carver
và Anton Chekhov. Ông coi Carver là một Chevkhov của nước Mỹ hậu công
nghiệp. Bằng con mắt của một nhà văn, một dịch giả, Dương Tường cũng chỉ
ra rằng“hầu như chẳng có gì xảy ra trong những truyện kể của Carver”
[23,114] nhưng đằng sau những ngôn từ giản dị, dứt khoát ấy là cả một chiều

5


sâu bất tận những suy niệm về cuộc sống, con người. Đó là một gợi ý quan
trọng cho những ai quan tâm tiếp cận tác phẩm.
Một trong những công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, khảo sát rộng
các sáng tác của Raymond Carver là Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Thị Vân
Thanh Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Raymond Carver, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2006. Đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống
về những đặc sắc nổi bật của truyện ngắn Raymond Carver trong việc xây dựng
nhân vật, ngôn ngữ và cốt truyện của nhà văn. Trong đó có một số kết luận khá
sắc sảo về thế giới nhân vật đổ vỡ, cô độc, nhỏ bé, ngôn ngữ trong hành trình đi
đến sự câm lặng. Đồng thời tác giả cũng đã khẳng định cốt truyện của Raymond
Carver đơn giản, lỏng lẻo với sự tham chiếu của nhiều cốt truyện. Như vậy những
khảo cứu trên của Phan Thị Vân Thanh đã có những đóng góp đáng kể trong việc

nghiên cứu về Raymond Carver ở Việt Nam.
Cũng trong quy mô một luận văn thạc sĩ, tác giả Đỗ Thanh Vân thực hiện đề
tài Tính chất cực hạn trong truyện ngắn của Raymond Carver (Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2011). Đề tài tập trung phân tích tính chất cực hạn trong truyện
ngắn của Carver qua ba yếu tố: Đối thoại cực hạn, cực hạn trong ngôn ngữ người
kể và cốt truyện cực hạn thông qua việc phân tích tập truyện nổi tiếng của
Raymond Carver Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình và một số tác phẩm
đạt Giải thưởng O.Herry, Pulitzer, Truyện ngắn của năm... Luận văn có thể được
coi là công trình đầu tiên nghiên cứa về tính chất cực hạn trong truyện ngắn của
Raymond Carver ở Việt Nam như một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt. Kết quả
nghiên cứu của Đỗ Thanh Vân chắc chắn đã góp phần rất nhiều trong việc đem lại
cái nhìn thỏa đáng đối với Raymond Carver.
Từ việc điểm qua những công trình nghiên cứu ở trên chúng tôi nhận
thấy, là một nhà văn lớn của Mỹ nửa cuối thế kỉ XX, Raymond Carver đã có
ảnh hưởng sâu sắc đến các thế hệ nhà văn sau này. Với mong muốn được góp
phần vào hành trình nghiên cứu về Raymond Carver, chúng tôi trân trọng tiếp

6


thu và xem thành quả nghiên cứu của những cây bút đi trước là nền tảng, dẫn
đường để chúng tôi thực hiện đề tài “Cốt truyện tối giản trong Mình nói
chuyện gì khi mình nói chuyện tình của Raymond Carver”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đich nghiên cứu: Góp phần nghiên cứu về cốt truyện tối giản một vấn đề đang thu hút được sự chú ý trong thời gian gần đây. Đồng thời,
qua đó cho ta thấy tài năng của Raymond Carver trong việc xây dựng các
truyện ngắn của mình theo khuynh hướng này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Khóa luận cố gắng góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề có liên quan đến chủ nghĩa tối giản, cốt truyện, cốt truyện tối giản.
Qua đó chỉ ra những nét đặc sắc trong việc xây dựng cốt truyện cốt giản của

Raymond Caerver để thấy được một phần tư tưởng của tác giả và khẳng định
những đóng góp của ông đối với thể loại truyện ngắn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Tác phẩm mà khóa luận chọn làm đối tượng
nghiên cứu là những truyện ngắn được in trong tập Mình nói chuyện gì khi
mình nói chuyện tình của Raymond Carver.
- Về phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi tìm hiểu cốt truyện tối giản trong
truyện ngắn của Raymond Carver qua hai phương diện chính: Đặc điểm cốt
truyện tối giản (bao gồm: Chủ nghĩa tối giản và Raymond Carver , Cốt truyện
và cốt truyện tối giản); Nghệ thuật xây dựng cốt truyện tối giản trong Mình
nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình (bao gồm: Những mảnh vỡ ghép lại,
Hủy bỏ xung đột, Tiết giảm chi tiết và Kết thúc truyện).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp tài liệu nhằm có được cái nhìn khái quát về
những đặc trưng của khuynh hướng tối giản trong truyện ngắn của Carver.
- Phương pháp phân loại nhằm xác định những biểu hiện đặc trưng của
các phương diện tối giản trong truyện.

7


- Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm nhận dạng những khác biệt, sự
bứt phá nghệ thuật truyện ngắn của Raymond Carver với các giai đoạn trước
đó và các khuynh hướng cùng thời.
- Phương pháp phân tích tác phẩm cố gắng khắc phục việc chỉ nêu ra
những nhận định chung cảm tính như khá nhiều những tài liệu khác.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận được cấu
trúc thành 2 chương như sau:
Chương 1: Đặc điểm cốt truyện tối giản

Chương 2: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện tối giản trong Mình nói
chuyện gì khi mình nói chuyện tình

8


NỘI DUNG
Chương 1
ĐẶC ĐIỂM CỐT TRUYỆN TỐI GIẢN
1.1. Chủ nghĩa tối giản và Raymond Carver
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa tối giản
Khuynh hướng (chủ nghĩa) tối giản (Minimalism còn được dịch là chủ
nghĩa cực hạn hay thiểu tố) hoặc nghệ thuật tối giản (Minimal Art) bắt đầu
xuất hiện vào đầu những năm sáu mươi của thế kỉ XX trong lĩnh vực hội họa,
điêu khắc, âm nhạc và văn học. Nhằm chống lại sự thái quá của chủ nghĩa ấn
tượng, trừu tượng, các nhà tối giản (Minimalist) chủ trương đơn giản hóa đến
mức tối đa, không quan tâm đến việc khẳng định dấu ấn cá nhân của mình mà
thay vào đó họ rất khiêm tốn trong trần thuật. Giống như nhà nghiên cứu Italo
Calvino đã từng phát biểu: “Thế giới quá phức tạp và lộn xộn, và nó trở nên
quá tải đến nỗi muốn nhìn cái gì cho rõ ràng ta đều phải cắt xén bớt đi” [26].
Hội họa và điêu khắc có lẽ là hai lĩnh vực đầu tiên mà qua đó người ta
thấy dấu ấn của chủ nghĩa tối giản. Cách thức sáng tạo của các nhà hội họa và
mĩ thuật là loại bỏ dấu ấn chủ quan, “thường xuyên sử dụng những chất liệu
và kĩ thuật công nghiệp” [5]. Cũng vì đặc điểm này mà nó còn được gọi với
cái tên khác là chủ nghĩa ABC. Ta có thể kể tên một số nhà hội họa, điêu khắc
và âm nhạc tiêu biểu của chủ nghĩa tối giản như: Donald Judd, Carl Andre,
Dan Flavin... Trong lĩnh vực âm nhạc: Erik Satie, La Monte Young... Trong
văn học, chủ nghĩa tối giản xuất hiện muộn hơn. Nó được cho rằng bắt nguồn
từ Anton Chekhov (1860 -1904) với các kiệt tác như: Người đàn bà với con
chó nhỏ, Một chuyện đùa .. phát triển qua Sherwood Anderson (1876-1941),

tác giả Mỹ với những truyện ngắn: Quả trứng, Chết trong rừng... và đặc biệt
là Ernest Hemingway (1899-1961) với Rặng đồi tựa đàn voi trắng, Một nơi
sạch sẽ và sáng sủa.... Với các nhà văn những dấu hiệu nhận biết của sự lược

9


bỏ được sáng tạo ra nhằm khiến độc giả hiểu nhiều hơn những thứ họ có thể
đọc được: châm ngôn của Chekhov tập trung vào kết thúc của truyện ngắn và
sự tập trung nghệ thuật tạo ra ấn tượng cho toàn bộ tác phẩm, sự chối bỏ
những câu chuyện có cốt chuyện để nhường chỗ cho những đoạn tĩnh về
“mảnh ghép”, “hiện thực” của Joyce, những nỗ lực của Backett nhằm thể hiện
những chưng cất cuối cùng về cách nhìn thế giới không giống ai của ông, và
cách thể hiện của Hemingway về những trạng thái cảm xúc phức tạp bằng
nguyên lí tảng băng trôi. Tuy nhiên khái niệm chủ nghĩa tối giản chỉ được
dùng rộng rãi từ Raymond Carver với tập truyện Em làm ơn im đi, được
không? (Will You Please Be Quiet, Please?) in năm 1977.
Như vậy có thể nói, khuynh hướng tối giản là khuynh hướng văn học nổi
bật trong những năm nửa cuối thế kỉ XX. Theo nhà nghiên cứu Frederick.R.
Karl nền văn học tối giản tập trung vào “sự cắt giảm” và “sự gián đoạn”
“trong một số tác phẩm, người đọc đặc biệt chú ý đến những khoảng cách
giữa các câu chữ, bởi nó tượng trưng cho sự im lặng ... Và tất cả các tác phẩm
văn học tối giản là một nghệ thuật của sự liều lĩnh táo bạo: đó là sự cố gắng
tiết lộ hay thể hiện bằng cách phủ nhận sự thật “ [26, 35]. Barth đã miêu tả
văn chương tối giản như sau: “ngắn gọn, gián tiếp, hiện thực hay siêu thực,
cốt truyện mỏng manh, có tính hướng ngoại và có vẻ ngoài cộc lốc” [26, 24].
Giáo sư Lê Huy Bắc là người tiên phong nghiên cứu về chủ nghĩa tối
giản ở Việt Nam. Tác giả đã phân tích và chỉ ra đặc trưng của chủ nghĩa tối
giản trong văn học qua bài tiểu luận Chủ nghĩa tối giản và Raymond Carver
như sau: “Bản chất của chủ nghĩa tối giản trong văn học là nói được nhiều từ

cái ít. Có nghĩa, nhà văn không có tham vọng bao quát mọi vấn đề (theo kiểu
Hugo, Balzac chẳng hạn) hoặc hướng tới một luận đề triết học có trước nào
đó (như Camus)... mà chỉ cốt phản ánh chân thật những gì diễn ra xung quanh
một cách chính xác nhất không hề bày tỏ thái độ dẫu cho vấn đề/sự kiện được
đề cập là to tát hay nhỏ bé, tích cực hay tiêu cực đến đâu. Các nhà tối giản

10


chấp nhận nguyên tắc ngẫu nhiên của tồn tại. Họ không hề can thiệp, không
hoài nghi, không định hướng, không khao khát đưa ra kết luận cuối cùng” [5,
58].
Theo nhà nghiên cứu, điển hình của lối viết này là “hủy bỏ cốt truyện
truyền thống” [5, 59] và: “Chủ nghĩa tối giản đề cao tính vô ngã trong sáng
tạo. Dấu ấn chủ quan của tác giả càng đến gần hơn với độ không của lối viết
(Roland Barthes) thì tác phẩm càng có giá trị thuyết phục cao hơn. Nguyên
tắc này quả thực rất khó thực hiện. Bởi lẽ, sẽ chẳng có kiểu sáng tác nào lại có
thể phủ nhận hoàn toàn vai trò cá tính sáng tạo. Chúng ta chỉ có thể nói là, cá
tính chủ quan ấy được hạn chế đến một mức độ nào đó [5, 59].
Các nhà văn tối giản chủ yếu xuất hiện ở Mỹ, ta có thể kể tên một vài
nhà văn lớn như : John Updike, Tim O’Brien, Leslie Marmon Silko... Trong
số họ, Raymond Carver là người quy tụ thành công nhất các nguyên tắc tiêu
biểu của chủ nghĩa tối giản. Raymond Carver có thể được coi là nhà chuyện
môn bậc thầy về thể loại này, có thể coi là bậc nhất (Madision Bell)
1.1.2. Raymond Carver - bậc thầy truyện ngắn tối giản
V.S.Pritchett đã từng định nghĩa truyện ngắn là cái gì thoáng thấy nơi
khóe mắt, rồi lướt đi. Trước hết là sự thoàng thấy. Rồi cái thoáng thấy ấy
được ban sức sống, biến thành cái gì đó làm khoảnh khắc ấy rực lên và để lại
trong tâm thức người đọc một dấu vết không thể tẩy xóa. Hemingway cũng
từng có cách nói hết sức thú vị. Ông cho rằng nhà văn hãy biến truyện ngắn

thành một phần riêng tư của người đọc. Nhà văn nào cũng mong muốn làm
được như thế mãi mãi.
Tiếp thu những quan điểm đó của các nhà văn đi trước, Raymond Carver
đã sáng tạo và tìm cho mình một lối đi riêng , ông “luôn luôn yêu thích việc
nhặt lên và chơi đùa với những câu văn, viết lại chúng, giản lược cho đến khi
chúng trở nên cô đặc theo một cách nào đó” [18]. Trong bài tiểu luận mang
tên Về truyện hư cấu đương đại (Hoàng Ngọc Tuấn dịch), Raymond Carver

11


đã từng phát biểu: “Theo như tôi nghĩ, có lẽ tác phẩm tốt nhất, tác phẩm thú vị
và làm thỏa mãn nhất về nhiều mặt, thậm chí, có lẽ, tác phẩm có cơ hội lớn
nhất để trường tồn chính là tác phẩm được viết dưới hình thức truyện ngắn.
Người ta nói chủ nghĩa cực thiểu chống lại chủ nghĩa cực đa. Có ai thèm quan
tâm đến việc họ muốn dùng cái tên gì để gọi những truyện ngắn mà chúng ta
viết” [13]. Với một số nhà văn, không hay ho gì khi bị các nhà nghiên cứu
dán nhãn thuộc trường phái này hay trường phái nọ. Bản thân những “siêu
độc giả” cũng ít nhiều lúng túng trước tác phẩm của Jorge Luis Borges,Italo
Calvino... quá cỡ cho tham vọng quy phạm của các thuật ngữ văn học. Ngược
lại, có một số nhà văn có thể định danh bằng một vài từ ngữ vì phong cách
nghệ thuật tiêu biểu, thành công nhất trong đời viết văn. Như trường hợp của
Carver, các tác phẩm viết theo khuynh hướng tối giản không phải là tất cả
trong sự nghiệp sáng của ông, nhưng đa phần, người ta nhớ đến ông với tư
cách là một nhà văn của tối giản, chí ít là qua hai tập truyện ngắn đã chuyển
ngữ sang tiếng Việt là Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình (Dương
Tường và Nguyễn Hạnh Quyên dịch, NXB Văn hóa Sài Gòn và Nhã Nam,
2009) và Em làm ơn im đi, được không? (Lâm Vũ Thao dịch, NXB Văn học
Và Nhã Nam, 2012).
Raymond Carver không phải là người tiên phong của chủ nghĩa tối giản,

nhưng có thể xem ông là nhà văn thành công nhất với phong cách tối giản.
Những truyện ngắn của ông là những ví dụ hoàn hảo cho đặc tính của sự tối
giản: tránh những đoạn trần thuật rườm rà, gạt bỏ sự hư cấu mang tính chủ
quan của người viết, nhanh chóng tạo dựng không khí gợi sự tò mò của người
đọc..Song truyện ngắn của Raymond Carver không đánh đố người đọc như
bắt họ chơi trò chơi vừa đọc truyện, vừa ghép hình thông qua việc che giấu
cốt truyện như thủ pháp quen thuộc của nữ nhà văn Pháp AnnieSaumont. Câu
chuyện trong truyện ngắn của Carver được phơi bày rõ ràng n cafe nhỏ trong khi mẹ cô làm phục
vụ kiêm thu ngân viên trong đó. Cô đã lớn lên – giống như trong một giấc
mơ, từ đi học tiểu học, rồi đến trung học và rồi vào trường kế toán . Lâu, rất
lâu sau đó – điều gì đã xảy ra trong khoảng thời gian ấy? – cô làm tiếp tân cho
một hãng điện tử ở một thành phố khác và quen biết với một kĩ sư, và chính
anh này về sau đã mời cô hẹn hò. Cuối cùng, nhận thấy đó là mục đích của
anh, cô đã bị anh quyến rũ. Sau một thời gian ngắn họ quyết định kết hôn,
nhưng quá khứ của cô thì đã trôi nhạt dần. Tương lai là một điều gì đó cô
không thể tưởng tượng ra.” (Mùa giận dữ).

42


Sang đến bản tối giản, cả đoạn văn ấy được thay thế bằng một câu cụt
ngủn: “Tôi ngồi đọc báo một lúc lâu và nghĩ ngợi” (Mình nói chuyện gì khi
mình nói chuyện tình. Cuộc đấu khẩu dài giữa vợ chồng Claira về việc cô
không muốn ngủ chung với anh trong phiên bản Mùa giận dữ cũng bị thay đổi
bởi câu “Đêm đó tôi ngủ trên ghế sofa” (Mình nói chuyện gì khi mình nói
chuyện tình).
Không chỉ cho độc giả biết được đầy đủ thông tin hơn về các nhân vật,
phiên bản đầu in trong Mùa giận dữ còn còn dựng lên bức tranh chi tiết hơn
về các nhân vật phụ mà ở bản sau gần như đã bị loại bỏ. Đó là Dean - đứa con
của Claira và đặc biệt là cô gái nạn nạn nhân xấu số. Dù chỉ là chi tiết nhỏ

nhưng đối với người đọc đó là cả một sự khác biệt khi một bên được gọi là
Susan Miller, một bên được gọi bằng “thi hài ấy”. Trong bản đầu tiên, chúng
ta bắt gặp cảnh tượng vô cùng đau xót khi bố mẹ của cô gái xấu số đến nhà
tang lễ để nhận dạng con mình được nhà văn miêu tả như sau: “Hoang mang,
buồn bã, họ lê bước trên vỉa hè đến chỗ bậc thang trước cổng nhà tang lễ chỗ
một người đàn ông trong bộ y phục tối màu đang đứng giữ cửa sẵn. Ngay sau
đó, như thể họ chỉ bước vào đó một giây rồi quay ra luôn, người vợ khóc nức
nở và lấy chiếc mùi xoa để che mặt, còn người chồng thì dừng lại đủ để nói
với phóng viên: “Đúng là con bé. Đúng là Susan rồi”(Mùa giận dữ ). Carver
cũng miêu tả đôi chút về ngoại hình cô gái, về tấm ảnh tốt nghiệp cấp ba và
về nghề nghiệp của cô lúc cô còn sống. Thông qua đó, cô gái đáng thương và
gia quyến của cô như sống dậy trong mắt bạn đọc. Tuy nhiên, ở phiên bản sau
– phiên bản tối giản nhà văn đã lược đi tên tuổi, hình dung, diện mạo, tiểu sử
bản thân, môi trường sống của cô gái. Tất cả được thay bằng một câu ngắn
gọn “thi hài đã được nhận dạng và xác định”.
Rõ ràng, chúng ta đã bị lấy mất đi chiếc chìa khóa quan trọng để có thể
hiểu rõ suy nghĩ và hành động của nhân vật xuyên suốt câu truyện. Điều này
càng làm cho người đọc cảm thấy khó có thể lí giải rốt cuộc điều gì đang xảy

43


ra trong truyện. Carver buộc người đọc phải suy luận, tìm tòi, đưa ra nhận
định của mình để bản thân mỗi độc giả cũng là một người đồng sáng tạo với
tác giả. Giống như ông từng nói: “Chắc tôi lỗi thời rồi nên mới thấy rằng độc
giả, như là những con người, bằng cách nào đó, phải được quan tâm đến trong
quá trình viết. Vẫn cần phải có một khế ước nào đó giữa nhà văn và độc
giả. Viết hay bất kì hình thái lao động nghệ thuật nào, không chỉ là sự phô
bày: nó là sự giao tiếp. Khi một nhà văn không còn thực sự hứng thú với việc
giao tiếp mà chỉ nhắm đến phô bày điều gì đó thì thật đáng buồn” [18].

Ví dụ thứ hai mà ta phân tích là truyện ngắn Tắm. Ta đều biết truyện có
ba phiên bản khác nhau, đầu tiên là bản gốc mang tên tên Tắm, sau đó là bản
tối giản cũng với tên là Tắm và bản cuối cùng Điều tốt lành nho nhỏ. Ở khía
cạnh phân tích sự tiết giảm chi tiết trong cốt truyện tối giản, ta sẽ chỉ đối
chiếu hai phiên bản Tắm (bản tối giản) với Điều tốt lành nho nhỏ. Nói về hai
phiên bản này, Raymond Carver từng chia sẻ: “Tôi nhận thấy đây là hai
truyện khác nhau hoàn toàn chứ không phải hai dị bản của cùng một truyện”
[10].
Cốt truyện xoay quanh hai vợ chồng Ann khi phải chứng kiến vụ tai nạn
bất ngờ của Scottly- đứa con trai yêu quý của họ vào đúng ngày sinh nhật của
cậu bé. Thay vì tận hưởng những phút giây hạnh phúc bên bạn bè và người
thân, Scottly đã phải nhập viện trong trạng thái hôn mê sâu và có khả năng
không thể tỉnh lại. Ann và chồng mình vô cùng đau lòng, điều duy nhất họ có
thể làm đó là thay nhau túc trực ở bệnh viện để người kia có thể về nhà tắm,
gột rửa đi những bụi bẩn cũng như xoa dịu đi phần nào nỗi lo sợ mất người
thân bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, hết lần này đến lần khác, họ luôn nhận được
cuộc điện thoại từ số lạ mà nội dung đề cập đến tên Scottly.
“Scotty”, giọng nói nói,”Chuyện về Scottly”, giọng nói nói. “Phải liên
quan đến Scottly chứ, đúng thế.”

44


So với phiên bản sau Điều tốt lành nho nhỏ, ở phiên bản Tắm, nhà văn
đã không cung cấp cho độc giả rất nhiều chi tiết về nhân vật, thời gian, không
gian xây dựng bối cảnh, tâm lí nhân vật… Độc giả chỉ thấy được mặt ngoài
của sự việc và không thể thấy được suy nghĩ bên trong của nhân vật. Vì thế nó
đòi hỏi người ta phải suy luận để tìm ra vấn đề. Chẳng hạn, trong phiên bản
Tắm, ta không hề được Carver cung cấp thông tin về suy nghĩ của Ann như
trong Điều tốt lành nho nhỏ: “Chị ba mươi tuổi, đã làm mẹ, và dường như với

chị, bất cứ ai, nhất là vào độ tuổi của người làm bánh này - trạc tuổi bố chị hẳn đã có nhiều chú nhóc, và bọn nhóc hẳn từng trải qua những phút giây
hạnh phúc đặc biệt trước những chiếc bánh và những lần sinh nhật. Chúng
hẳn luôn có cùng tâm trạng ấy, chị nghĩ. Nhưng ông ta lành lạnh với chị không thô lỗ mà chỉ dửng dưng. Chị từ bỏ ý định bắt chuyện với ông ta.”.
Hay ta cũng không hề được cung cấp những thông tin về chồng cô như:
“Mãi đến giờ, cuộc sống của anh bình lặng trôi, kể cả các ước nguyện trường đại học, hôn nhân, thêm nhiều năm ở trường đại học để kiếm mảnh
bằng kinh doanh cao hơn, thành viên cấp dưới của một công ty đầu tư. Làm
cha. Anh hạnh phúc và từ bấy đến nay, anh may mắn – anh biết điều đó. Ba
mẹ anh vẫn còn sống, các anh chị đều ổn định, bạn bè thời đại học đã đi làm
và đã khẳng định được chỗ đứng. Cho đến nay, những bất hạnh chưa chạm
đến anh, thế lực ấy, anh biết, nó vẫn tồn tại và có thể bám riết hoặc đánh gục
bất kỳ ai nếu vận may đã rời bỏ y, nếu mọi thứ đột nhiên không còn nguyên
trật tự như trước”. Tất cả đoạn văn dài này được thay thế bằng một câu văn
ngắn ngủi trong Tắm: “Cuộc sống ổn thỏa cho đến bây giờ”.
Trong Tắm, vụ tai nạn của cậu bé Scottly không được miêu tả một cách
chi tiết, các nhân vật phụ cũng không được nhà văn đặc biệt chú ý. Không hề
có chi tiết này khi miêu tả vụ tai nạn của Scottly : “Mắt cậu nhắm nghiền,
nhưng chân vẫn đạp như thể đang cố vượt lên một vật nào đó. Bạn cậu thả rơi
túi khoai tây và khóc. Chiếc xe chạy thêm khoảng ba mươi mét rồi dừng lại

45


giữa đường. Từ ghế tài xế, một người đàn ông nhìn lại. Ông ta đợi cho đến
khi cậu bé lảo đảo đứng lên. Cậu bé hơi loạng choạng. Trông cậu hơi đờ đẫn,
nhưng không sao. Người lái xe sang số rồi lái đi.”(Điều tốt lành nho nhỏ).
Cậu bé Franklin vô tình bị người ta đâm và phải nằm trên bàn mổ đối diện với
cái chết bất cứ lúc nào trong Điều tốt lành nho nhỏ sang đến Tắm cũng được
đổi tên là Nelson và hiện lên rất mờ nhạt.
Thông qua việc so sánh những tác phẩm của Raymond Carver ở những
giai đoạn khác nhau, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy phương pháp tiết

giảm tối đa các chi tiết nghệ thuật trong cốt truyện. Đây có thể là đặc điểm nổi
bật của khuynh hướng tối giản bởi bản chất của khuynh hướng tối giản là nói
được nhiều nhất từ lượng ngôn từ ít nhất. Sự tiết giảm chi tiết một mặt tạo nên
tính hàm súc cho văn bản, mặt khác giúp cho người đọc tích cực tham gia
đồng sáng tạo với nhà văn. Chính sự tiết giảm này khiến cho những cốt truyện
tối giản của Carver ngày càng hấp dẫn và thu hút sự chú ý của bạn đọc.
2.4. Kết thúc truyện
2.4.1. Kết thúc mở
Kết thúc giữ một vai tò rất quan trọng trong truyện ngắn. Có thể xem, kết
thúc là cái đích nội dung của truyện, là nghệ thuật khép truyện của nhà văn.
Kết thúc không chỉ có ý nghĩa giản đơn là sự dừng lại hay chỉ là kết thúc một
câu truyện mà kết thúc còn có vai trò gợi mở ra nhiều vấn đề của cuộc sống,
của quá khứ, hiện tại và tương lai, tạo nên sự đồng cảm với người đọc. Người
đọc sẽ thật sự tâm đắc khi đọc được một kết thúc ấn tượng. Do đó, một tác
phẩm xuất sắc phải là một tác phẩm mà sau khi người đọc đã gấp lại trang
sách mà vẫn không thôi dứt khỏi những ám ảnh, suy tư về câu truyện, không
thôi suy nghĩ, băn khoăn về những vấn đề mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm.
Có ý kiến cho rằng: “Nơi tác phẩm kết thúc là nơi cuộc sống bắt đầu”.
Điều này quả đúng với sáng tác của Raymond Carver. Về nguyên tắc, khi câu
kết xuất hiện là lúc truyện kết thúc nhưng câu kết của Raymond Carver lại

46


giống như sự mở đầu. Yếu tố góp phần tạo nên đặc điểm ấy là lối kết thúc
mở. Chính vì vậy, khi mới xuất hiện, những câu truyện theo khuynh hướng
cực han của Carver nhận lại phản ứng khá gay gắt từ giới phê bình do khuynh
hướng kết truyện “bỏ lại người đọc với những suy nghĩ đằng sau cái kết tối
nghĩa và khó hiểu một cách trịnh trọng”. Và một điều dễ dàng nhận thấy đó là
hầu hết các truyện trong tuyển tập Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện

tình đều có cách kết thúc này.
Ví dụ đầu tiên ta sẽ đi chứng minh đó là so sánh cái kết của truyện Ngài
cà phê hay ngài sửa chữa với phiên bản đầu của nó Mọi người đâu cả rồi? để
thấy được sự khác biệt trong chủ nghĩa cực hạn. Trong Mọi người đâu cả
rồi?người kể chuyện trở về nhà mẹ ruột và nghỉ lại qua đêm. Bà miễn cưỡng
báo cho anh về cuộc ngoại tình của vợ anh. Anh trả lời bà: “Con biết..Anh ta
tên là Ross và nghiện rượu. Anh ta giống con”. Bà mẹ trả lời: “Con trai yêu
quý, có lẽ con sẽ phải làm điều gì đó cho bản thân con” và chúc anh ngủ
ngon. Câu chuyện đã kết thúc như sau:
“Tôi nằm đó, dán mắt vào màn hình ti vi. Trên màn hình có hình ảnh
những người lính mặc đồng phục, tiếng nói chuyện rì rầm, rồi tiếng xe tăng và
một anh lính đang bắn súng phun lửa. Tôi không nghe rõ chúng, nhưng tôi
cũng không muốn ngồi dậy. Tôi tiếp tục xem đến khi ngủ gật lúc nào không
hay. Nhưng sáng hôm sau tôi tỉnh giấc sớm, bộ đồ ngủ của tôi đầm đìa mồ
hôi. Một thứ ánh sáng trắng như tuyết tràn ngập căn phòng. Một tiếng nổ ầm
ầm tiến lại gần tôi, và căn phòng dường như cũng vang lên tiếng ầm ầm ấy.
Tôi nằm yên đó, không cử động.”
Cái kết này tuy còn mơ hồ, song nó cũng chỉ ra được những thay đổi cơ
bản trong cuộc đời người kể chuyện, điều làm cho anh có thể hiểu được cái gì
đã ám ảnh anh vào thời điểm đó, để ba năm sau anh ngồi lại đây kể lại tất cả
những sự việc ấy với chúng ta. Tuy nhiên, Ngài cà phê và ngài sửa chữa lại
có cái kết như thế này:

47


“Em yêu,” tôi nói với Myrna đêm nàng về nhà. “Mình ôm nhau một lúc
rồi em dọn cho bọn mình một bữa tối thật ngon nhé”
Myrna nói, “Anh rửa tay đi”
Cái kết này thiếu đi hoàn toàn tính chất kết luận mà lẽ ra nó phải có.

Chính vì thế mà nó gây trở ngại cho độc giả. Chúng ta thậm chí không thể
hiểu “đêm nàng về nhà” – liệu nó ở thời điểm diễn ra sự việc hay là ở thời
điểm tác giả kể lại? Liệu kết quả của những gì chúng ta được nghe kể về
những nhân vật trong truyện sẽ ra sao? Đơn giản chúng ta phải đoán, phải suy
luận nhưng thậm chí có rất ít dữ liệu để chúng ta có thể đoán trúng.
So sánh hai kết thúc trên cho cùng một câu chuyện, chúng ta nhận thấy
Raymond Carver ưa thích việc đặt kết thúc của mình dưới cái màn mờ hóa,
các kết thúc thường đa nghĩa, kích thích sự tham gia giải nghĩa từ phía bạn
đọc. Một lần khi được hỏi về các kết thúc các câu chuyện của mình, Carver
nói: “Tôi muốn chắc chắn rằng độc giả của tôi không còn cảm thấy bị lừa dối
lừa bằng cách này hay cách khác khi họ đọc xong các câu chuyên. Một điều
rất quan trọng với các nhà văn là cung cấp đầy đủ chi tiết về nhân vật, nội
dung truyện thỏa mãn độc giả của họ, cho dù khi viết họ có thể không cung
cấp trực tiếp các “câu trả lời”, hay là các giải pháp rõ ràng (cho các vấn đề
được đề cập trong truyện)” [18]. Mặc dầu vậy, cái kết của Ngài cà phê hay
ngài sửa chữa vẫn chưa làm độc giả thỏa mãn, nó chỉ là một dạng để gợi ý
cho độc giả đến với chiều sâu của câu truyện, hay đơn giản chỉ là đánh dấu
điều mà tác giả tránh muốn nói đến.
Ta có thể bắt gặp hàng loạt cái kết như vậy trong tuyển tập Mình nói
chuyện gì khi mình nói chuyện tình của ông. Như trong truyện Chuyện thứ ba
giết chết cha tôi, Carver đã kể cho chúng ta nghe một câu chuyện về nhân vật
Khờ - một người không có ngoại hình hoàn hảo, luôn bị bạn bè xung quanh
chế giễu, chê đùa. Khờ cũng có gia đình, có nhà, có ước mơ đó là nuôi cá
Vược và dành tất cả tình yêu cho chúng. Đàn cá đã làm thay đổi hoàn toàn

48


tính cách của Khờ, thay đổi cuộc sống sinh hoạt của hắn. Nhưng cuối cùng
hắn vẫn bị phản bội bởi chính những người yêu thương và mất tất cả những gì

mà mình yêu quý. Câu truyện đã kết thúc đầy ám ảnh như sau:
“Tôi thấy dường như sau đó với cha mọi thứ ngoặt sáng một ngã tồi tệ.
Hệt như lão Khờ, ông không còn là người như trước nữa. Cánh tay đó trồi lên
rồi lại chìm xuống nước như thể nói rằng đã tốt đẹp qua lâu rồi, giờ thì nói xin
chào với điều tồi tệ đi. Vì chẳng có gì ngoài tồi tệ suốt bao nhiêu năm sau khi
lão Khờ tự trầm ở dòng nước đen ngầu đó.
Đó có phải là thứ xảy ra khi một người bạn chết? Vận rủi xảy tới với bạn
bè mà kẻ đó bỏ lại?
Nhưng như tôi nói đấy. Trân Trâu Cảng và chuyển về nơi ông nội tôi
sống cũng chẳng mang lại được chút gì tốt lành cho cha tôi cả”
Carver không nói rõ điều gì cụ thể xảy ra với người cha, bạn đọc chỉ
được cung cấp thông tin là ông dường như trở thành một con người khác,
nhưng không hề biết khác như thế nào và sau đó ông ra sao? Tất cả chỉ là
những câu hỏi mãi không có lời giải, chỉ còn những ám ảnh day dứt mãi
không thôi trong tâm trí bạn đọc. Để rồi họ cay đắng nhận ra con người ta tồn
tại không chỉ là vui sống, làm việc và tận hưởng hạnh phúc ngọt ngào, mà đó
còn là nỗi đau, nỗi trăn trở, sự mất mát khi họ phải đối diện với thực tế là
những bất hạnh không ngoại trừ một ai và đôi khi có thể rơi trúng bất kì vào
một ai đó, đỉnh điểm của nỗi sợ hãi ấy chính là “cái chết”. Thế nhưng, dù biết
vậy, họ vẫn phải sống, phải gồng mình lên mà chịu đựng như một sự chấp
nhận của số phận mà không có cách nào chạy trốn ra khỏi.
Một ví dụ nữa cũng đi theo lối bỏ lại người đọc với những suy nghĩ đằng
sau cái kết tối nghĩa, khó hiểu là truyện Mọi thứ dính vào ông:
“Nhưng ông vẫn đứng ở cửa sổ. Nhớ. Chúng đã cười. Chúng đã ngả vào
nhau mà cười cho đến khi nước trào lên khóe mắt, còn mọi thứ khác – cái rét,

49


và nơi ông sắp đưa mình đến – dù sao thì, trong lát nữa, cũng vẫn ở ngoài

kia”.
Một cái kết không hé mở điều gì, không thể biết trước đó điều gì đã xảy
ra trong cuộc sống của nhân vật người bố, cũng không thể biết cuộc sống của
họ giờ ra sao. Tất cả chỉ phù thuộc vào bạn đọc vì như ông đã từng nói:
“Công việc của nhà văn, nếu quả thực anh/cô ta có một công việc, không phải
là mang lại những kết luận hay câu trả lời. Nếu câu chuyện tự trả lời chính
mình, trả lời những vấn đề và xung đột chính nó đặt ra và thỏa mãn những đòi
hỏi tự thân, thì thế là đủ.” [18] và: “Điều quan trọng với nhà văn chính là anh
ta phải cung cấp vừa đủ để thỏa mãn độc giả, ngay cả khi họ không đem đến
những câu trả lời hay cách giải quyết nào rõ ràng” [18]. Vì thế, không thể
mang tâm lí đọc truyện của Carver để thư giãn, nghỉ ngơi, thanh lọc tâm hồn.
Bạn đọc với cái kết này sẽ phải làm việc thật sự để đồng sáng tạo với nhà văn
của chúng ta.
2.4.2. Kết thúc kịch tính
Một đặc trưng nữa trong kết thúc truyện của Raymond Carver là nhà văn
tạo cho phần kết một hiệu quả kịch tính bất ngờ. Carver đã từng phát biểu:
“Với phần kết, nhà văn phải có cảm thức kịch tính”. Chúng ta sẽ thấy rõ điều
đó qua một số ví dụ sau:
Truyện Cơ khí dân dã kể một đôi vợ chồng li hôn và người chồng sắp
xách vali ra khỏi nhà đã cố tranh giành với người vợ đứa con. Kết thúc tác
phẩm chẳng ai chịu buông đứa bé ra. Điều đó có nghĩa, khi nhà văn đặt dấu
chấm hết cho câu chuyện thì hành động giằng co đứa bé ấy vẫn đang tiếp tục
diễn ra. Câu kết phập xuống như một nhát dao: “Và vấn đề được định đoạt
theo cách ấy”. Chẳng thể biết được rằng ai sẽ là người chiến thắng trong cuộc
tranh giành đó. Cái kết này gợi cho ta nhớ đến một câu chuyện cổ Trung Hoa
và sau này được B.Bretch vận dụng khi viết vở kịch Vòng phấn Caucase. Câu
chuyện Trung Hoa kể về hai người phụ nữ đến gặp Bao Chửng để nhờ phân

50



xét xem ai là mẹ của đứa trẻ. Hai người phụ nữ sẽ phải kéo đứa con ra khỏi
một cái vòng phấn, một người ra sức kéo còn một người thì buông tay ra. Nhờ
đó, Bao Chửng đã phân biệt được ai mới là người được quyền nuôi đứa trẻ.
Bởi, với bản năng của một người mẹ, không người phụ nữ nào có thể kiềm
lòng khi chứng kiến cảnh đứa con do mình dứt ruột đẻ ra phải chịu bất cứ
thương tổn nào, dù chỉ là nhỏ nhất.
Thế nhưng, trong câu truyện này, chẳng có người mẹ nuôi nào cả, cả hai
đều là những bậc sinh thành, là cha mẹ thực sự của đứa bé. Cả cha và mẹ thực
của đứa bé đã đang tâm biến đứa con thành một vật vô tri vô giác rồi ra sức
giành lấy nó bằng sức mạnh cơ bắp của mình. Người đọc có cảm tưởng như
hành động giằng co đứa bé của hai vợ chồng cứ tiếp diễn và không có điểm
kết thúc. Hai vợ chồng nọ đã không nhìn thấy con mình là một con người
bằng xương bằng thịt có tâm hồn, tình cảm mà cứ ngỡ đó là một biểu tượng
quý báu của cuộc đời giành cho người chiến thắng. Họ giằng lấy mà không
cần bận tâm rằng đứa trẻ có thể bị đau đớn. Đọc đến đây, người đọc mới giật
mình hiểu ra nhan đề của tác phẩm. Phải chăng đôi tay của hai vợ chồng trong
truyện chính là cái cơ khí dân dã, là công cụ để giải quyết vấn đề ai sẽ là
người được nuôi con? Phải chăng sinh mệnh bé nhỏ trong tay họ chỉ là một
vật thể mà sự chia chác vật thể ấy cần đến một công cụ cơ khí nào đấy? Nếu
họ tiếp tục cầm tay đứa bé và không ai chịu buông tay ra thì đứa bé sẽ như thế
nào? Liệu đứa bé yếu ớt ấy có tiếp tục tồn tại trong cõi đời dưới sức hủy diệt
của nhưng cơ khí dân dã ấy? Hình ảnh cuối kết thúc tác phẩm là một hình ảnh
rất giàu chất hiện sinh, đầy cảm xúc đúng chất Raymond Carver “Một truyện
ngắn, một tiểu thuyết hay một bài thơ nên cố gắng tạo được một số “cú đấm
cảm xúc” (emotional punches). Anh có thể đánh giá tác phẩm đó qua cường
độ và số lượng những cú đấm đó. Nếu nó chỉ rặt những chiêu trò lóa mắt và tự
thỏa mãn thì chao ôi, tôi xin kiếu. Tác phẩm như thế chỉ là rơm rác: chúng sẽ
bị cuốn bay theo cơn gió đầu tiên” [18]. Với cái kết này, truyện Cơ khí dân dã


51


×