Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

tài liệu y tế điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.07 KB, 12 trang )

Y tế điện tử

27

Các câu hỏi của chương
1. Anh/Chị có cảm thấy rằng y tế điện tử chỉ là một hiện tượng nhất thời
hay nó sẽ trở thành một thực tế lâu dài? Tại sao?
2. Tầm quan trọng của việc hiểu biết về các cấu phần cơ bản của y tế
điện tử?
Tại sao điều này lại quan trọng để hiểu được các lĩnh vực chính của
y tế điện tử?
3. So sánh sự khác biệt của hệ thống y tế điện tử với hệ thống
chăm sóc sức khỏe thông thường? Các yếu tố chính để phân biệt
chăm sóc y tế điện tử với chăm sóc sức khỏe thông thường là gì?
4. Hãy tưởng tượng rằng Anh/Chị đang sống trong thời đại y tế di động,
thời đại mà mạng không dây chiếm ưu thế. Làm thế nào Anh/Chị có
thể chọn ra trong một danh sách các bác sỹ cơ động? Những tiêu chí
mà Anh/Chị sẽ áp dụng? Chi phí? Thời gian đáp ứng? Các biện pháp
khác? Làm thế nào để Anh/Chị có thể xác định và đo lường các tiêu
chí này?

Tài liệu tham khảo
Jordan, T. J. (2002). Understanding medical information: A user’s guide to informatics and decision making.
New York: McGraw-Hill, 2002.
Raghupathi, W., & Tan, J. (2002). Strategic IT applications in health care. CACM, 45(12),
56–61.
Tan, J. (2001). Health management information systems: Methods and practical applications (2nd ed.).
Sudbury, MA: Jones & Bartlett.
Tan, J., with Sheps, S. (1998). Health decision support systems. Sudbury, MA: Jones & Bartlett.



Hệ thống thông tin chăm sóc y tế điện tử

28

Trường hợp Telebaby®
Ronald Spanjers, Anne F. Rutkowski
Công nghệ thông tin mới có thể được sử dụng một cách hiệu quả để thỏa mãn nhu cầu
truyền thông trong các thời điểm khác nhau khi một thành viên của gia đình phải
nhập viện. Dự án Telebaby được thiết kế và hỗ trợ bởi trung tâm Y tế Đại học
Utrecht, đã liên kết cha mẹ ở nhà với những đứa con mới sinh của họ. Những đứa trẻ
này đang được nhận sự chăm sóc ở các mức khác nhau: trung bình, cao, hoặc chuyên
sâu. Telebaby đủ đơn giản để các bậc cha mẹ dễ dàng tiếp nhận mặc dù việc triển khai
Telebaby trong môi trường bệnh viện cũng đã phải đối mặt với n h ữ n g thách thức thực tế.

Tất cả các hình ảnh về các cá nhân trong nghiên cứu trường hợp này chính là đối tượng của chính sách
cá nhân của trung tâm Y học của trường đại học Utrecht và được xóa đi cho việc sử dụng trong ấn phẩm
này. Việc đưa ra những hình ảnh này đều bị cấm nếu không có sự cho phép rõ ràng từ phía các tác giả và
trung tâm Y học Đại học Utrecht


Y tế điện tử

29

Bối cảnh
Khái niệm về sự gắn kết là trung tâm của hầu hết các cuộc thảo luận về nuôi dạy con
cái. Mục đích của sự liên kết nghe có vẻ như nghịch lý: hiện tượng tự nhiên của trạng thái
gắn kết giúp một đứa trẻ phát triển cảm giác an toàn trong môi trường xa lạ và sau đó dần
tách ra khỏi những người nuôi dưỡng chính (Bowlby, 1969, 1988).Việc tiếp xúc giữa mẹ
và bé được nhận thấy như là yếu tố nguyên thủy trong quá trình phát triển sức khỏe của

một đứa trẻ bị sinh non, bất kỳ sự chia rẽ giữa mẹ và bé đều gây ảnh hưởng không chỉ tới đứa
trẻ đó mà ảnh hưởng tới cả bà mẹ (Klaus và Knnel, 1976, 1985). Sự gắn kết là dần dần,
không máy móc, không phải xảy ra ngay tức thì, hay chỉ là kỳ vong tức thời của bà mẹ;
tuy nhiên, những người chăm sóc trẻ thường trải qua giai đoạn căng thẳng thần kinh hay lo
lắng khi bị chia tách với con của họ từ khi mới sinh.
Ý tưởng về một hệ thống mạng Internet để liên kết những đứa trẻ mới sinh với cha mẹ
của chúng đã được hình thành để hỗ trợ các bậc cha mẹ trong gia i đoạn chia cách khó
khăn. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả định rằng việc này sẽ khiến cho những người chăm
sóc trẻ có cảm giác là họ có thể kiểm soát tốt hơn mối quan hệ của họ với đứa con mới sinh
và vì vậy giúp họ cảm thấy bớt lo lắng hơn. Xem xét những kinh nghiệm trước đó về việc
kết nối giữa các bà mẹ với những đứa con đang nằm viện của họ đã khuyến khích các nhà
khoa học cần phải kiên trì hơn nữa (Bialoskurski, Cox, và Hayes. 1999; Lupton và
Fenwick. 2001; Woollet v à Phoenix, 1991).
Sự tài trợ của “Bệnh viện N hi đồng Những người của Wihelmina ” đã khiến ý tưởng này
có khả năng thực hiện được để triển khai một cách hệ thống cho phép một bà mẹ, từ giường
bệnh của mình và thông qua hệ thống các đoạn phim nội bộ, có thể nhìn thấy đứa con mới
sinh của cô ấy đang được nhận sự chăm sóc ở mức trung bình, cao, hoặc chuyên sâu ở một
phòng khác. Sau đó, khái niệm về Telebaby bắt nguồn từ ý tưởng rằng các hình ảnh video có
thể được phát tán qua mạng Internet. Nhờ có công nghệ mà việc kết nối giữa bệnh viện và
các ông bố, bà mẹ đã được thiết lập: Telebaby đã ra đời từ đó. Các bậc cha mẹ đã rất nhiệt
tình với việc sử dụng thiết bị Telebaby như một sự bù đắp cho việc thường xuyên tới thăm
những đứa con của họ đang phải nằm viện. Chắc chắn Telebaby là một khái niệm hấp dẫn.
Quan trọng hơn, Telebaby đã đóng góp vào phúc lợi cho những người chăm sóc và do đó cũng
tác động tới sức khỏe của những đứa trẻ mới sinh.
Nghiên cứu trường hợp này thường bắt đầu với việc mô tả về dự án và các công nghệ
hỗ trợ được sử dụng. Các kết quả giám sát hoạt động tham gia của cha mẹ và các kết quả sơ bộ
của bảng hỏi khảo sát các ông bố bà mẹ cũng được trình bày. Sau đó, chúng tôi kết luận bằng
cách kiểm tra một số hạn chế của nghiên cứu và những gợi ý cho việc phát triển trong tương
lai.



30

Hệ thống thông tin chăm sóc y tế điện tử

Dự án
Trung tâm chăm sóc trước sinh của trường đại học Y Utrecht bao gồm hai phòng: chăm sóc sản khoa và
chăm sóc trẻ sơ sinh. Trung tâm có 400 nhân viên với ngân sách hàng năm là 20 triệu euro. Chăm sóc sản
khoa phải xử lý khoảng 10.000 ca mới mỗi năm, với 30.000 bệnh nhân cần theo dõi tư vấn. Trong số 4.500
trường hợp nhập viện thì có 2.500 người lớn và 2.000 trẻ sơ sinh; trong đó, 1.000 trường hợp cần chăm
sóc mức độ nhẹ, 500 trường hợp cần chăm sóc ở mức trung bình, và 500 trường hợp cần chăm sóc ở mức
độ cao và chuyên sâu. Tóm lại, tổng số bệnh nhân và 600 ngày nằm viện đặt ra nhu cầu cần phải có
30,000 y tá mỗi ngày cho 80 tới 100 giường bệnh và các giàn đỡ.
Trong giai đoạn lập kế hoạch của Telebaby, một số vấn đề liên quan đến sự riêng tư và bảo mật đã
được đưa ra. Theo quan điểm của họ, chỉ có thực hành mới có thể thể hiện mối liên quan mở rộng. Các
vấn đề mang tính thực tế hơn như chi phí và chất lượng hình ảnh đã được xử lý trước khi bắt đầu. Một
trong những mối quan tâm lớn là “hiệu quả của mánh lới quảng cáo”, e rằng hệ thống cứ mỗi lần được
phát triển sẽ có một sự hấp dẫn ngắn hạn cho khái niệm và sự đổi mới của nó. Tuy nhiên, việc này sẽ
không được đánh giá cho những đóng góp của nó tới tình trạng khỏe mạnh của bệnh nhân và gia đình của
họ.
Dự án Telebaby đã bắt đầu ở quy mô nhỏ và ở giai đoạn thử nghiệm. Một nhóm nghiên cứu thăm dò
gồm 3 người được thành lập, bao gồm tất cả các kỹ năng cần thiết như chương trình, tài chính, và sự hiểu
biết về các hoạt động y tế và điều dưỡng của trung tâm chăm sóc trước sinh. Các nhà quản lý đã ký một
ngân sách tối thiểu 7.500 euro và có thể thu hồi lại được. Nếu dự án thất bại, hầu hết các trang thiết bị
máy tính có thể sẽ được sử dụng ở nơi khác. Mục tiêu của cả nhóm là để thử nghiệm khái niệm và công
nghệ. Trong vòng nửa năm, nhóm nghiên cứu đã giải mã và truyền các tín hiệu cần thiết cho việc truyền
tin sử dụng công nghệ Internet ở mức trung bình. Ảnh 1.1. cho thấy hình ảnh một đứa bé được truyền đi
qua một loạt các đoạn phim nội bộ và đã được sử dụng trong một chiến dịch hợp tác về việc đổi mới
trong trung tâm Y tế đại học Utrecht, bác sỹ, y tá, và phụ huynh đều thấy tò mò


ẢNH 1.1. HÌNH ẢNH ĐOẠN BĂNG VỀ MỘT ĐỨA BÉ ĐƯỢC TRUYỀN QUA
CHUỖI CÁC ĐOẠN BĂNG VIDEO CỦA TELEBABY


Y tế điện tử

31

Phòng tự động hóa của bệnh viện làm việc với Infoland, một công ty chuyên về mạng
Internet, đảm bảo sự hoạt động ổn định của các thiết bị công nghệ. Việc cung cấp tối đa sự
hỗ trợ tới người sử dụng (phụ huynh và y tá) được nhìn nhận như là một yếu tố quan trọng
nhất quyết định sự thành công hay thất bại (Oudshoorn, Brouns, và Van Oost, 2005). Nguồn
kinh phí 75.000 euro có được thông qua B ệnh viện Nhi đ ồ n g v à những người bạn của
Wilhelmina. Phần lớn ngân sách (55.000 euro) được sử dụng vào phần cứng và phần mềm, bao
gồm máy chủ, bộ mã hóa, máy tính xách tay, sự thích ứng của một loạt các đoạn băng lưu
truyền nội bộ, và những phần mềm tùy chỉnh. Ước tính 400 giờ được sử dụng cho việc phát
triển và triển khai (ngoại trừ việc phát triển phần mềm bởi Infoland), trên tổng 20.000 euro
trong chi phí dành cho nguồn nhân lực.

Phần cứng và phần mềm
Chuỗi các đoạn băng nội bộ bao gồm 20 máy quay tương tự nhau được gắn chặt trên một
giá treo với tiêu cự đã được điều chỉnh. Tất cả các máy này đều được kết nối với một mạng
cáp quang với một đầu cắm XLR để cung cấp điện năng. Do máy quay đặt ở ngoài giàn
gỗ nên đôi khi hình ảnh bị kém chất lượng khi phần trên cùng bằng nhựa phát ra ánh sáng
lờ mờ. Các máy quay được chuyển tới ti vi tại phòng của các sản phụ (hoặc qua Internet) sử
dụng các mảnh để kết nối các giá đỡ với điểm đến cụ thể ở bên trong và bên ngoài bệnh viện.
Bằng cách này, 50 giá đỡ có thể được kết nối tới 50 giường bệnh khác nhau.
Các đoạn băng video nội bộ đã được điều chỉnh cho phù hợp với dòng video trên mạng
Internet. Một bộ mã hóa đã chuyển hóa các tín hiệu tương tự nhau của hệ thống các băng
video nội bộ thành một dòng video kỹ thuật số. Việc mã hóa này được thực hiện trên mạng

trong thời gian thực với sự trì hoãn (đệm) năm giây, và tỷ lệ khung hình là 10 khung
hình/giây. Một modem với bộ nhớ 56K trên mạng lưới băng thông có khả năng xử lý
đầy đủ các luồng dữ liệu. Modem chất lượng cao hơn cũng không cung cấp hình ảnh về
trẻ sơ sinh tốt hơn bởi vì việc tải dữ liệu được mã hóa tương đối thấp: thay đổi trong
cường độ ánh sáng rất ít, hình ảnh về trẻ sơ sinh khó có thể di chuyển, và sự chuyển động
xung quanh giá đỡ bị hạn chế. Âm thanh không được mã hóa do những cân nhắc về tính
riêng tư hơn là những hạn chế về kỹ thuật; mic của một đứa trẻ mới sinh trên giá đỡ có thể
truyền lời nói từ các bác sỹ hoặc y tá làm nhiệm vụ chăm sóc tới những đứa trẻ sơ sinh
khác gần đó. Hơn nữa, cũng đã có sự e ngại rằng các bậc cha mẹ có thể hiểu sai các âm
thanh phát ra ở từng phòng, ví dụ như các tín hiệu điều khiển âm thanh từ thiết bị hỗ trợ
thở, và vì vậy lại làm tăng thêm nỗi lo cho họ.
Các chuỗi hình ảnh được cung cấp cho một máy chủ để truyền tải chúng tới người xem. Máy
chủ là máy Compag PC tiêu chuẩn (800 MHz, 16 GB, 522 MB). Bốn bộ mã hóa cũng là Compag PC
đạt tiêu chuẩn, tất cả có bốn thẻ Osprey 200 Codec. P h ầm mề m đ ư ợ c sử dụ n g l à h ệ đ i ều h
ành Wi n do w 2 00 0 vớ i b ộ mã h ó a Wi n do w M ed i a và p h ầm mề m I - s t r ea m t ừ I n f o l an d.
Teleba được t ru y cập th ô n g qua m ột trì nh d uy ệt ch uẩ n t rên t ra n g we b c ủa bệ n h việ n.
Màn hì nh đă ng nhập g ồ m m ột tra n g “cả m ơ n” liệt kê nh ữn g nhà tài t rợ và một t ran g
từ c h ối ba o ph ủ hết các vấ n đề p há p lý. B ố n n h ó m ng ười s ử d ụ n g -q uả n t rị vi ên, bộ p
hậ n tự độ n g hóa, y tá, và ph ụ h u yn h c ó các bả n g ch ọ n khá c n hau. Quản trị viên (giám
sát viên) truy cập được hết các tùy chọn, bao gồm cả hệ thống tùy chọn cho người sử dụng
(nơi các nhóm người sử dụng có thể được cài đặt), máy quay kiểm soát các tùy chọn (cái mà
nắm giữ cái đặt IP cho các chuỗi hình ảnh) và những tùy chọn chung (các trường dữ liệu về
bệnh nhân được hiển thị cùng với các chuỗi hình ảnh có thể được xác định). Bộ phận tự động
hóa và các y tá có thể truy cập các tùy chọn mà ở đó các chuỗi hình ảnh được chỉ định cho
bệnh nhân và các trường dữ liệu được xác định từ trước về bệnh nhân cũng được điền vào. Tùy


32

Hệ thống thông tin chăm sóc y tế điện tử


chọn quay phim nói chung thường cho một trang hình ảnh thu nhỏ về các chuỗi hình ảnh động
(ảnh 1.2). Các bậc cha mẹ (ảnh 1.3) chỉ truy cập được vào các tùy chọn dành cho phụ huynh,
cái mà hiển thị chuỗi hình ảnh về đứa con mới sinh của họ cũng như các trường dữ liệu liên
quan tới bé, ví dụ như tên, đơn vị, giường bệnh, số điện thoại và tên của y tá chịu trách nhiệm
chăm sóc chính. Không có bất cứ tùy chọn nào được truy cập bên ngoài bệnh viện.

ẢNH 1.2. TÙY CHỌN CHUNG TRÊN MÁY QUAY CỦA TELEBABY


Y tế điện tử

33

ẢNH 1.3. CHA MẸ Ở NHÀ, VỚI VIỆC KẾT NỐI
MẠNG CỦA TELEBABY


34

Hệ thống thông tin chăm sóc y tế điện tử

Triển khai
Một nhóm gồm 9 y tá “đại sứ của Telebaby” đã được thành lập. Nhóm n à y đã được tập huấn đặc
biệt để có thể thúc đẩy quá trình triển khai và cung cấp những hỗ trợ cơ bản cho các bậc cha
mẹ. Trên 50% cha mẹ đã có kết nối Internet tại nhà. Năm máy tính xách tay được cài đặt cấu
hình trước sẵn sàng cung cấp cho những ai không có máy tính cá nhân và mỗi máy này đều có
tài khoản Internet . Các bậc cha mẹ phải điền vào một biểu mẫu sử dung, bao gồm các thông tin
bắt buộc như địa chỉ của họ và loại kết nối Internet mà họ đã sử dụng (cáp, điện thoại, ISDN).
Các y tá sẽ dựa trên những biểu mẫu này để nhập các thông tin về trẻ sơ sinh trong phần

tùy chọn của bệnh nhân và chỉ định một dòng thông tin. Cha mẹ của trẻ (và cả những người
sử dụng khác) được cung cấp một quyển sách in hướng dẫn toàn diện về điều khiển hệ thống
và phần mềm và lần lượt có các bức ảnh chụp màn hình.
Những chỉ dẫn về các phần mềm định hướng ở phạm vi rộng và chuyên môn hơn có
thể truy cập được thông qua trang web. Các bậc cha mẹ được yêu cầu đăng nhập vào dòng
hiện ra đầu tiên, để giảm lo lắng khi đăng nhập để lần đầu tiên nhìn thấy đứa con mới sinh của
họ. Chỉ sau khi họ đăng nhập thành công thì họ sẽ được cung cấp tên và mật khẩu cho chuỗi
các hình ảnh về con của họ. Nhiều người có thể xem được chuỗi hình ảnh về cùng một đứa trẻ
tại một thời điểm, các ông bố bà mẹ hoàn toàn tự do trong việc cho họ hàng biết tên đăng nhập
và mật khẩu. Mỗi lần các ông bố bà mẹ có thể nhìn thấy dòng trình diễn, hầu hết không một
rào cản kỹ thuật nào có thể ngăn họ đăng nhập vào để nhìn thấy đứa con mới sinh của họ.
Một chuỗi màu xanh da trời hoặc đen đã chỉ ra rằng máy quay đã bị rút dây cắm hoặc bị
che bởi một vật nào đó; ví dụ, các ông bố bà mẹ đến thăm đứa con sẽ không cần máy
quay, hoặc máy quay có lẽ không theo quy luật thông thường khi cung cấp sự chăm sóc tới
trẻ sơ sinh.
Việc thực hiện hệ thống thông tin bên ngoài có định hướng ở trong bệnh viện thường
gây nên các vấn đề liên quan tới bảo mật, đặc biệt khi hệ thống này vượt qua biên giới các
mạng lưới làm việc của bệnh viện. Các bệnh viện thường phải thắt chặt chính sách an toàn.
Trong trường hợp này, các chuỗi thông tin đã được định tuyến lại thông qua mạng lưới mở hơn
và hoàn toàn biệt lập toàn bọ cán bộ y tế. Sự chấp nhận hệ thống của các bác sỹ và y tá đạt
được thông qua việc liên hệ hệ thống này với những triết lý cơ bản về chăm sóc sơ sinh trong
việc để mẹ và bé càng gần nhau càng tốt khi ở cơ sở y tế. Telebaby mở rộng phạm vi triết lý
này khi bà mẹ được ra viện. Các bác sỹ và y tá có quyền chuyển h ư ớ n g m á y quay khi chăm
sóc trẻ. Tuy nhiên, việc này đã gây căng thẳng cho các ông bố bà mẹ rằng chất lượng chăm
sóc là như nhau, không được chú ý tới ngay cả khi máy quay ở đúng vị trí. 24h chăm sóc kết
hợp với thực tế là một số ý tá chỉ làm ca đêm đã gây khó khăn cho việc tập huấn để lập kế
hoạch và đưa ra nhu cầu cần phải có tài liệu hướng dẫn rõ ràng.


Y tế điện tử


35

Kết quả
Các hoạt động đăng nhập của cha mẹ đã đượcgiám sát chặt chẽ. Các file đăng nhập gồm
những dữ liệu như khoảng thời gian thường xuyên sử dụng (ảnh 1.4) như thông qua người
xem duy nhất, hình ảnh nhận dạng được tạo ra bởi Window Media Player. Việc sử dụng
l u ô n ở mức cao từ 11 giờ sáng tới 3 giờ chiều. Một mô hình rõ ràng về “những cuộc viếng
t h ă m lo lắng” c ó thể được thấ y rõ. Những hoạt động này thường ngắn nhưng diễn ra thường
xuyên vào 2 giờ chiều và 9 giờ tối cho các ông bố bà mẹ cảm giác kiểm soát. Họ nhanh
chóng nhìn thấy đứa con của họ và rồi thoát ra, hầu hết sau khi nhìn thấy đứa trẻ chuyển
động. Vào 10 giờ tôi, ánh đèn từ các phòng mờ đi và chất lượng hình ảnh giảm xuống, vì
vậy việc sử dụng thường hạn chế sau giờ này.
Hệ thống sử dụng theo thời gian khác nhau và tùy thuộc vào việc xuất và nhập viện của
bệnh nhi và cha mẹ của chúng. Các bà mẹ sử dụng các đoạn băng nội bộ nối tiếp nhau, cái mà
thường được áp dụng cho các thiết bị dòng Internet khi họ ra viện nhưng con của họ vẫn đang
phải điều trị tại viện. Tần suất trung bình sử dụng hệ thống thường giảm sau những ngày
đầu tiên và bất ngờ tăng lại trong một khoảng thời gian ngắn trước khi bệnh nhi xuất viện,
quá tải sử dụng ban đầu. Việc sử dụng hệ thống vào cuối tuần thường thấp do cha mẹ tới thăm
con họ tại bệnh viện thường xuyên hơn vào những ngày này. Một phát hiện quan trong là cha
mẹ với việc truy cập vào hệ thống Telebaby cũng không giảm tần suất tới thăm con của họ
tại viện. Việc đến viện thăm con của mình luôn là sự lựa chọn đầu tiên của các bậc cha mẹ.
Bộ câu hỏi (n=31) được gửi tới các bậc cha mẹ sau khi họ đã hoàn thành việc sử dụng
hệ thống. Họ được yêu cầu đánh giá hệ thống Telebaby t heo thang đo Likert với 5 mức từ 2 (rất không hữu ích) tới +2 (rất hữu ích). Theo các kết quả sơ bộ, các đối tượng tham gia đã cho
điểm hệ thống là rất hữu ích (M=1.84, SD=0.38). Cha mẹ đã tích cực về giá trị mà Telebay mang lại cho
việc chăm sóc sức khỏe đứa con mới sinh của họ (M =1.70, S D = 0.67). Khi sử dụng hệ thống này,
cha mẹ thường lo lắng ít hơn về những đứa con mới sinh của họ.

ẢNH 1.4. KHOẢNG THỜI GIAN VÀ TẦN SUẤT SỬ DỤNG TELEBABY
1200


8000
7000

1000
6000

600

4000
3000

400
2000
200
1000
0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Hour
Duration

Frequency

0

Number of Hits

Duration of Use


800
5000


36

Hệ thống thông tin chăm sóc y tế điện tử

Cha mẹ hơi thiếu nhiệt tình với chất lượng hình ảnh nhưng nhìn Chung đã thỏa mãn (Theo thang điểm
10, với 10 là điểm cao nhất, M=6.35, SD=1.10). Cha mẹ sử dụng các đoạn băng nội bộ nối tiếp nhau đã
thấy rằng chất lượng chuỗi hình ảnh ít làm họ thỏa mãn hơn; trong khi đó, các bậc cha mẹ, những người
không bao giờ sử dụng các đoạn băng này thì đã đánh giá chất lượng hình ảnh nhìn chung cao hơn (cả
về kích cỡ và tỷ lệ thoải mái)

Hạn chế và kết luận
Cha mẹ đã nhiệt tình với khả năng sử dụng Telebaby như là một cấu phần cho các chuyến thăm viện
thường xuyên của họ. Hoạt động đăng nhập của cha mẹ đã cho thấy rằng việc sử dụng công nghệ Internet
tiêu chuẩn để phân phối hình ảnh đa phương tiện cho phép họ tới thăm những đứa con mới sinh của họ
thường xuyên hơn họ có thể làm nếu không có công nghệ và việc này đã làm giảm đáng kể sự lo lắng của
họ về việc chia cách giữa mẹ và bé. Kết quả sơ bộ sau khi các bậc cha mẹ điền vào bảng hỏi (n=27) đã chỉ
ra rằng Telebaby cho các bậc cha mẹ cảm giác kiểm soát trong việc biết được tình trạng con của họ. Cha mẹ
của những đứa trẻ mới sinh đã bận tâm; việc thiếu hệ thống làm việc đã làm giảm cảm giác kiểm soát
của họ với tình trạng của những đứa con mới sinh và như vậy làm tăng sự lo lắng.
Một hệ thống như Telebaby có thể trở thành chuẩn cho các trung tâm chăm sóc trước sinh. Tuy nhiên,
cần tiến hành nhiều cuộc điều tra hơn về việc thử nghiệm, vấn đề đạo đức, pháp lý, văn hóa, y tế, và vấn đề
phát triển tinh thần. Với những lý do rõ ràng về mặt đạo đức, chúng ta không thể thiết kế một nhóm kiểm
soát các bậc cha mẹ, những người không có chút lợi ích gì từ hệ thống Telebaby. Việc giám sát hoạt động
đăng nhập của cha mẹ đã tiết lộ rằng các bậc cha mẹ đã không chia sẻ mất khẩu và các thông tin đăng
nhập với các thành viên trong gia đình và Anh/Chị bè của họ với hầu hết các cuộc tới thăm con của họ.

Nếu thái độ tin tưởng đối với công nghệ như vậy sẽ tổng quát hóa cho các hệ thống tương tự, đạo đức liên
quan tới sự riêng tư và bảo mật nên được cân nhắc một cách nghiêm túc. Sẽ rất thú vị khi nhìn những
con người từ các nền văn hóa khác nhau đã phản ứng như thế nào với dự án như thế này. Bổ sung thêm
thông tin về y học như trạng thái bão hòa và nhịp tim có thể khiến hệ thống trở nên hữu ích hơn với các
bác sỹ và y tá (Gray and others, 1 9 9 8 ; Halamka, 2001). Do các nhà nghiên cứu gợi ý rằng
giọng nói của bà mẹ đóng một vai trò quan trọng trong mối liên kết mẹ và bé nên việc mở
rộng thính giác để cho phép trẻ nghe thấy được giọng nói của mẹ sẽ là một điều tra có giá
trị. Internet băng thông rộng có thẻ khiến việc truyền tải âm thanh từ phòng của cha mẹ tới
những đứa trẻ đang nằm viện có tính khả thi hơn. (Dekkers and others, 2002).
Tóm lại, những đóng góp có giá trị tới chất lượng chăm sóc người bệnh có thể thực hiện
được bằng việc áp dụng cộng nghệ thông tin tiêu chuẩn. Trong khi một hệ thống như
Telebaby không thể thay thế được sự tiếp xúc giữa trẻ với người chăm sóc, nó dù sao cũng
góp phần vào việc làm giảm bớt sự căng thẳng cho các bậc cha mẹ. Spitz (1945) sẽ chắc chắn
đồng ý thằng một hệ thống như vậy có thể chỉ thuận tiện cho sức khỏe của những đứa trẻ mới
sinh đang nằm tại viện. Với việc chăm sóc sức khỏe lưu động hướng tới sự tiếp cận bệnh nhân
một cách có định hướng, chúng tôi đề xuất rằng việc áp dụng tương đối đơn giản và chi phí
thấp như Telebaby cũng có thể góp phần cho lợi ích của những người chăm sóc trẻ và vì vậy nó
cũng có ích với những đứa trẻ mới sinh.


Y tế điện tử

Các câu hỏi tình huống

37

1. Việc áp dụng hệ thống Telebaby ở đất nước của Anh/Chị hoặc ở nơi làm việc có
tính khả thi như thế nào?
2. Anh/Chị có thể dự đoán những cải thiện về vi ệ c tích hợp phần cứng và phần mềm
của hệ thống Telebab y?

3. Nếu Anh/Chị tham gia vào việc triển khai Telebay, Anh/Chị sẽ đảm bảo, đánh giá,
và cả tăng cường hiệu quả của nó như thế nào?
4. Các khía cạnh tâm lý và những lợi ích của Te lebaby là gì? Anh/Chị có thể xác
định bất kỳ các khía cạnh tiêu cực không? Nếu có, Anh/Chị sẽ giải quyết những
thách thức đó như thế nào?

Tài liệu tham khảo
Bialoskurski, M. Cox, M. C., & Hayes, J. (1999). The nature of attachment in a neo- natal intensive
care unit. Journal of Perinatal and Neonatal Nursing, 13, 66–77.
Bowlby, J. (1969). Attachment and loss: Vol. 1. Attachment. New York: Basic Books.
Bowlby, J. (1988). A secure base: Parent-child attachment and healthy human develop- ment. New
York: Basic Books.
Dekkers, L., Dijkhuizen W. J., Van Geelen, N., Golder, T. J., Huizinga, H., & De Jager, M. (2002).
Een Toekomst van Glas: Vooruitlopen op de Doorbraak van Breedband- technologie [A future
of glass: Being ahead of the broadband breakthrough]. Sticht- ing Maatschappij en Onderneming
[small promotional book on broadband that uses Telebaby and similar applications as an
example]. Den Haag. Gray J., Pompilio-Weitzner, G., Jones, P. C., Wang, Q., Coriat, M., & Safran,
C. (1998).
Baby CareLink: Development and implementation of a WWW-based system for neonatal
home telemedicine. Proceedings of the AMIA Annual Symposium (pp.351–355).
Halamka, J. (2001). Inside a virtual nursery.


Health Management Technology, 6. Retrieved from

Klaus, M., & Kennel, J. (1976). Maternal-infant bonding. St. Louis, MO: Mosby Press. Klaus, M.,
& Kennel, J. (1985). Parent-infant bonding. St. Louis, MO: Mosby Press. Lupton, D., & Fenwick, J.
(2001). They’ve forgotten that I’m the mum: Constructing and practising motherhood in
special care nurseries. Social Science & Medicine, 53, 1011–1021.
Oudshoorn, N., Brouns, M., & Van Oost, E. (2005). Diversity and distributed agency in the

design and use of medical video-communication technologies. In H. Harbers (ed.), Inside the
Politics of Technology. Amsterdam: Amsterdam U n i v e r s i t y Press.
Spitz, R. (1945). Hospitalism: An inquiry into the genesis of psychiatric conditions in early
childhood. In A. Freud (Eds.), Psychoanalytic Study of the Child, (Vol. 1, pp.53–74). New York:
International Universities Press.
Woollet, A., & Phoenix, A. (1991). Psychological v i e w s of mothering. In Motherhood: Meanings,
practices and ideologies (pp. 28–46). London: Sage


38

Hệ thống thông tin chăm sóc y tế điện tử



×