Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Đọc hiểu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12) theo quan điểm tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.39 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

VŨ KIM ANH

DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU (NGỮ VĂN 12)
THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học

ThS. VŨ NGỌC DOANH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện khóa luận này, tơi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình và chu đáo từ tất cả các thầy cô trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, sự hướng dẫn của các thầy cô trong tổ phương pháp dạy học Ngữ văn;
đặc biệt là sự ủng hộ, góp ý của ThS. Vũ Ngọc Doanh - người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả khóa luận xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn trân
trọng nhất đến tất cả các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, đặc biệt là ThS. Vũ Ngọc
Doanh, người trực tiếp giúp đỡ tơi hồn thành khóa luận này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận



Vũ Kim Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tơi trình bày trong khóa luận này là kết
quả nghiên cứu của bản thân, dưới sự hướng dẫn trực tiếp và góp ý tận tình của
ThS. Vũ Ngọc Doanh.
Tơi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của bản thân trong khóa luận
này.

Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận

Vũ Kim Anh


DANH MỤC VIẾT TẮT

ThS:

Thạc sĩ

GVHD:

Giáo viên hướng dẫn

GV:

Giáo viên


HS:

Học sinh

SGK:

Sách giáo khoa

SGV:

Sách giáo viên

THPT:

Trung học phổ thông

NMC:

Nguyễn Minh Châu

NXB GD:

Nhà xuất bản Giáo dục

VHVN:

Văn học Việt Nam

PPDH:


Phương pháp dạy học


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................1
3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................4
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................5
6. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5
7. Bố cục khóa luận .....................................................................................................5
NỘI DUNG .................................................................................................................6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG ....................................................6
1.1. Khái niệm tích hợp và dạy học tích hợp ..............................................................6
1.1.1. Khái niệm tích hợp ............................................................................................6
1.1.2. Khái niệm dạy học tích hợp ..............................................................................6
1.2. Một số đặc trưng dạy học tích hợp .......................................................................7
1.2.1. Mục tiêu của dạy học tích hợp ..........................................................................7
1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của dạy học tích hợp ......................................................7
1.2.3. Thực tế vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học Ngữ văn ...........8
1.2.4. Các biện pháp vận dụng dạy học tích hợp ........................................................9
1.3. Cơ sở của hoạt động đọc hiểu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu .......................11
1.3.1. Đặc điểm thể loại truyện ngắn ........................................................................11
1.3.2. Đặc trưng truyện ngắn sau 1975 .....................................................................13
1.3.3. Vấn đề dạy học truyện ngắn sau 1975 ở trường phổ thông ............................14
1.4. Đặc sắc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ....................................................17
1.4.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu ...............17
1.4.2. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 ...18



1.4.3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu
sau 1975.....................................................................................................................22
Chương 2. XÂY DỰNG QUY TRÌNH DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU Ở TRƯỜNG THPT THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP ..27
2.1. Dạy đọc hiểu văn bản văn học nói chung ..........................................................27
2.2. Dạy học đọc hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu theo
quan điểm tích hợp ....................................................................................................29
2.2.1. Tích hợp với kiến thức trong mơn học ............................................................29
2.2.2. Tích hợp với kiến thức liên mơn .....................................................................31
2.2.3. Tích hợp với kiến thức thực tế ngoài đời sống ..............................................36
Chương 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ...................................................................38
KẾT LUẬN ...............................................................................................................59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ thực tiễn, các mơn học nói chung đều có sự thay đổi lớn, riêng bộ
môn Văn học - Tiếng việt - Tập làm văn được hợp nhất thành môn học Ngữ văn
trong quyển sách Ngữ văn. Chương trình được xây dựng trên quan điểm tích hợp từ
3 phân mơn.
Ngữ văn là một mơn học có sự tích hợp nhiều: từ sự hợp lực của 3 phân môn,
từ kiến thức của các môn học khác, kiến thức cuộc sống xã hội, các tri thức kĩ năng,
phương pháp giảng dạy, kinh nghiệm thực tiễn...
Tích hợp là nội dung quan trọng khơng thể thiếu trong việc đổi mới phương
pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Vì vậy địi hỏi người dạy phải linh hoạt
vận dụng các biện pháp, thao tác, kĩ năng để giảng dạy tốt.
Để làm rõ hơn phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp và giúp nhận

thức đầy đủ, chính xác về dạy học tích hợp, đi sâu phân tích được các tác phẩm văn
xi để thấy được những đặc sắc cũng như phát huy tối đa năng lực tự chiếm lĩnh
kiến thức của học sinh, tôi chọn đề tài: Đọc hiểu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12) theo quan điểm tích hợp với hi vọng
đóng góp những điểm mới trong việc ứng dụng phương pháp dạy học mới mẻ này.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể nói, vấn đề dạy học tích hợp liên mơn khơng cịn là một vấn đề xa lạ
với đội ngũ các thầy cơ giáo. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại
hiện đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên
thế giới. Ở nước ta từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây vấn đề xây dựng mơn
học tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu
thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông chủ yếu ở bậc Tiểu học và cấp
THCS. Trước đó tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ mới được thực hiện ở những mức
độ thấp như liên hệ phối hợp các kiến thức kĩ năng thuộc các môn học hay phân
môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng dạy.

1


Khi bộ GD - ĐT thực hiện việc đổi mới nội dung chương trình và cách biên
soạn SGK theo quan điểm từ năm 2000 thì một yêu cầu cấp thiết đã được đặt ra. Đó
là phải tìm ra phương pháp giảng dạy theo quan điểm tích hợp và đã có rất nhiều tác
giả đề cập đến vấn đề này qua một số bài báo, tạp chí sau:
Nguyễn Trọng Hồn với bài "Tích hợp và liên hội hướng tới kết nối trong dạy
học Ngữ văn" trong Tạp chí Giáo dục số 22 - 2002 đã đề cập đến vấn đề tích hợp
trong mơn Ngữ văn theo quan điểm của mình. Tuy trong bài viết, tác giả chưa đi
sâu về sự tích hợp theo chiều dọc. Nhưng tác giả đã tập trung vào việc trình bày
quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn trên cơ sở một số văn bản có vai trò là
kiến thức nguồn phục vụ cho các phân mơn.
Tác giả Nguyễn Hữu Châu với bài: "Vai trị của giáo viên trong các phương

pháp dạy học dược lựa chọn" (Tạp chí Giáo dục số 99), đã đề cập đến các phương
pháp dạy học, đặc biệt đề cao vai trò của người giáo viên. Tuy nhiên các vấn đề nêu
ra có phần sơ giản, quan điểm tích hợp chưa được nhìn nhận sâu sắc.
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong bài: "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn"
(Tạp chí Giáo dục số 6 - 2006) đã chỉ ra tích hợp chính là một phương hướng phối
hợp các quá trình học tập của nhiều mơn học đạt hiệu quả. Và tác giả cịn nêu rõ
tích hợp trong mơn Ngữ văn là sự kết hợp giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt Làm văn.
Trên đây là một số bài báo tạp chí nói về quan điểm tích hợp trong dạy học.
Bên cạnh đó thì cũng có rất nhiều sách tham khảo nói về vấn đề này:
TS. Nguyễn Hải Châu trong cuốn: "Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy
học và kiểm tra đánh giá Ngữ văn 10" (NXB Hà Nội) đã đề cập đến các vấn đề có
tính định hướng về đổi mới chương trình và SGK. Tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu
quan điểm tích hợp khi thiết kế giáo án dạy học cịn với việc áp dụng quan điểm
tích hợp trong dạy học từng bộ phận của môn Ngữ văn vẫn chưa được xem xét một
cách cụ thể.
Tác giả Đỗ Ngọc Thống trong cuốn: "Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ văn
ở THPT" (NXB Giáo dục - 2006) đã đề cập đến nội dung của chương trình SGK

2


Ngữ văn 10. Trong cuốn sách, tác giả đã đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích hợp và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Theo
ơng, tích hợp là sự hơp nhất, hịa trộn các phân mơn. Nhưng ơng trình bày quan
điểm này còn rất sơ giản trong việc dạy từng phân môn của môn Ngữ văn.
Trong cuốn: "Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK mơn
Ngữ văn 10" GS. Phan Trọng Luận và GS. Trần Đình Sử đã chỉ ra cần lấy quan
điểm tích hợp làm tư tưởng chủ đạo trong việc xây dựng nội dung SGK. Các tác giả
còn đề cập đến các vấn đề đổi mới trong sách chuẩn và sách nâng cao. Không
những thứ các tác giả cịn phân tích chương trình Ngữ văn theo quan điểm tích hợp.

Hiện nay xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm và
áp dụng vào đổi mới chương trình và SGK THPT. Chương trình THPT mơn Ngữ
văn năm 2002 do Bộ GD - ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm
nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình biên soạn SGK và lựa chọn
các phương pháp giảng dạy”, “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong tồn
bộ mơn học từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá
trình dạy học; quán triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong
chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và
tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm tham
khảo”.
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm
nghiên cứu và áp dụng trong chương trình giáo dục của nhiều nước trên thế giới và
ở Việt Nam trong những năm gần đây. Qua việc hoạt động tích hợp trong một tiết
lên lớp, học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ
thống và logic, đồng thời thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức
được học trong chương trình. Nhờ đó sẽ xố bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách
biệt giữa nhà trường và cuộc sống; cơ lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có
mối liên hệ, bổ sung cho nhau hay tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa,
những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Dạy học tích hợp sẽ phát huy được

3


tính tích cực chủ động và sáng tạo của HS; buộc HS chủ động tự đọc, tự làm việc
độc lập theo SGK, theo hướng dẫn của giáo viên.
Do đặc thù riêng của mơn học, việc tích hợp trong giờ học Ngữ văn là hoạt
động phức hợp địi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội
dung gắn với thực tiễn. Đó có thể là sự tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt và Làm
văn để giúp HS thực sự cảm được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo của tiếng mẹ
đẻ, bồi dưỡng cho HS năng lực sử dụng tiếng Việt đúng và hay; chú trọng rèn luyện

cho HS cách diễn đạt giản dị, trong sáng, chính xác, lập luận chặt chẽ, có suy nghĩ
độc lập. Đó cũng có thể là sự tích hợp những hiểu biết về lịch sử, văn hóa, xã hội,
đạo đức, lối sống để đánh giá, lý giải một hiện tượng văn học, một chi tiết nghệ
thuật hay để đề xuất một thái độ, một quan điểm sống... Như vậy có thể thấy, phạm
vi tích hợp trong giờ dạy Ngữ văn rất phong phú: Có thể tích hợp nội môn (giữa ba
phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm văn hay giữa những bài học có cùng chủ đề). Có
thể tích hợp liên mơn như: tích hợp Văn - Lịch sử (tích hợp mở rộng theo hướng
vận dụng những kiến thức về hoàn cảnh lịch sử của từng thời kỳ, về nhân vật lịch
sử... để lý giải và khai thác giá trị, thành công cũng như hạn chế của tác phẩm); tích
hợp Văn - Địa lý (tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết về các
địa danh để lý giải rõ một số chi tiết hình ảnh nghệ thuật ); tích hợp Văn - Âm nhạc
(hát, ngâm thơ, diễn kịch); tích hợp Văn - Mỹ thuật (khi dạy học một tác phẩm văn
chương GV có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa).
3. Mục đích nghiên cứu
Bước đầu đề ra hướng đi mới trong dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới
và phù hợp với thực tiễn trong công cuộc cải cách xã hội.
Bước đầu đề xuất phương pháp vận dụng một cách hiệu quả quan điểm tích
hợp văn bản Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những cơ sở lí luận của việc dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương
theo quan điểm tích hợp từ đó xây dựng quy trình đọc hiểu tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (SGK Ngữ Văn 12 tập 2, NXB GD).

4


5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm tích hợp và tích hợp trong dạy họ Ngữ văn.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào hoạt động đọc hiểu tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu trong chương trình Ngữ văn lớp 12.

6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng hợp lí luận
Phương pháp khảo sát
Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp hồi cố tài liệu
7. Bố cục khóa luận
Khóa luận được triển khai thành 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận
Phần nội dung của khóa luận được triển khai thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đê lý luận chung
Chương 2. Xây dựng quy trình dạy học đọc hiểu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở
trường THPT theo quan điểm tích hợp
Chương 3. Giáo án thực nghiệm

5


NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm tích hợp và dạy học tích hợp
1.1.1. Khái niệm tích hợp
Theo Từ điển tiếng Pháp thì nghĩa của từ tích hợp là “gộp lại, sát nhập thành
một tổng thể”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tích hợp có nghĩa là “sự hợp nhất, sự hòa nhập, sự
kết hợp”. Theo Từ điển Bách khoa tồn thư thì “tích hợp hệ thống là phối hợp các
thiết bị và công cụ khác nhau để cùng làm một việc với nhau trong hệ thống – một
chương trình nhằm giải quyết nhiệm vụ chung nào đó”.
1.1.2. Khái niệm dạy học tích hợp
Theo Xavier Rogier: “Sư phạm tích hợp là một quan điểm về q trình học tập
trong đó tồn thể các q trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ

ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho HS nhằm phục vụ cho q trình học
trong tương lai, hoặc hịa nhập học sinh vào cuộc sống lao động”.
Trong lĩnh vực khoa học giáo dục: “Tích hợp là sự kết hợp một cách hữu cơ,
có hệ thống các kiến thức thuộc các môn học khác nhau thành một nội dung thống
nhất, dựa trên cơ sở các mối quan hệ lí luận và thực tiễn được đề cập trong các mơn
học đó”.
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có
hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học
khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên
cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học
hoặc các hợp phần của bộ mơn đó. Trong chương trình THPT, mơn Ngữ văn, năm
2002 của Bộ GD&ĐT, khái niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri
thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác
động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và
vững chắc".

6


Các định nghĩa trên đã nêu rõ được mục đích của việc dạy học tích hợp là phát
triển năng lưc của người học. Đồng thời cũng nêu rõ các thành phần tham gia tích
hợp là loại tri thức hoặc các thành tố của q trình dạy học.
Như thế có thể định nghĩa dạy học tích hợp là “q trình dạy học mà ở đó các
thành phần năng lực được tích hợp với nhau trên cơ sở các tình huống cụ thể trong
đời sống để hình thành năng lực của người học”.
1.2. Một số đặc trưng dạy học tích hợp
1.2.1. Mục tiêu của dạy học tích hợp
Đề ra hướng giải quyết các vấn đề gặp phải trong quá trình giáo dục nói
chung và trong dạy học mơn Ngữ văn nói riêng. Góp phần giúp HS tích hợp các
kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội, xác lập mối liên hệ giữa các tri thức và kĩ năng

thuộc các phân môn đã học; giúp HS tự ý thức về cách thức chiếm lĩnh tri thức và
hình thành kĩ năng, phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của HS: HS chủ
động tự đọc tự làm việc độc lập với SGK theo hướng dẫn của GV. Từ đó, quan
điểm dạy học tích hợp này sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dụng nói chung
trong đó có mơn Ngữ văn.
1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của dạy học tích hợp
Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp vào thực tế dạy học ở nước ta còn khá
mới mẻ, nhất là chương trình và SGK đã được phân hóa sâu sắc, GV chưa được bồi
dưỡng về dạy học tích hợp và thói quen dạy chỉ dựa vào SGK đã in sâu trong mỗi
GV. Do đó, để vận dụng có hiệu quả dạy học tích hợp cần phải chú ý tới một số
quan điểm sau:
- Vận dụng dạy học tích hợp một cách có ý nghĩa: địi hỏi phải lựa chọn nội
dung, tình huống có ý nghĩa với việc học tập của HS, phù hợp với logic khoa học,
không gượng ép. GV phải nghiên cứu nội dung dạy học, xác định mục tiêu chung
và mục tiêu của bài học.
- Không làm cho HS học tập quá tải: nghiên cứu, lựa chọn, định rõ thời gian
và mức độ cho hoạt động học tập, tránh vì hứng thú mà liên kết tri thức quá sâu,

7


rộng sẽ dẫn đến quá tải học tập của HS, làm giảm hiệu quả dạy học của GV và tiếp
thu tri thức của HS.
- Vận dụng hợp lí các PPDH tích cực, các phương tiện dạy học để tạo ra hiệu
quả tích hợp cao. Vì bản thân các PPDH tích cực, các phương tiện dạy học hướng
đến nâng cao chất lượng dạy học, mang thuộc tính tích hợp các kiến thức, kỹ năng,
cảm xúc nhận thức ở HS.
- Tăng cường khai thác mối quan hệ liên môn và kiên kết các kiến thức trong
nội bộ môn học. Định hướng này đã quan tâm tới tích hợp và phù hợp với dạy học
tích hợp.

1.2.3. Thực tế vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học Ngữ văn
Dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các
phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như
hiểu biết lịch sử, xã hội, văn hoá, nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là
cần phải khắc phục xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà
trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ
bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa những tình
huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Nói khác đi đó là lối dạy học khép kín “trong
nội bộ phân môn” biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có
quan hệ gần gũi về bản chất nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu đủ cho phép
phối hợp liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và
thực tiễn đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết những tình
huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân mơn.
Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn là cách thức để khắc
phục hạn chế lối dạy học đó nhằm nâng cao năng lực sử dụng những kiến thức và kĩ
năng mà HS lĩnh hội được bảo đảm cho mỗi HS khả năng huy động có hiệu quả
những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống có ý nghĩa
(cũng có khi là một tình huống khó khăn bất ngờ một tình huống chưa từng gặp).
Mặt khác tránh được những nội dung kiến thức và kĩ năng trùng lặp, đồng thời lĩnh

8


hội những nội dung tri thức và năng lực mà mỗi mơn học hay phân mơn riêng rẽ
khơng có được.
1.2.4. Các biện pháp vận dụng dạy học tích hợp
Trong quá trình lên lớp GV có thể dạy học tích hợp theo nhiều cách khác
nhau. Việc lưa chọn cách thức nào là tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng phân
mơn và từng bài học. Chẳng hạn:
- Tích hợp thơng qua việc kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên

trong tiến trình tổ chức hoạt động dạy học một bài cụ thể. Mục đích của hoạt động
này là để kiểm tra việc học ở nhà cũng như mức độ hiểu bài của học sinh. Ngoài ra,
đây cũng là hoạt động có tính chất kết nối giữa bài đã học và bài đang học (bài
mới). Vì vậy, việc thực hiện tích hợp trong q trình kiểm tra bài cũ là rất cần thiết
và cũng khá thuận lợi.
- Tích hợp thơng qua việc giới thiệu bài mới: Giới thiệu bài mới là một thao
tác nhỏ, chiếm một lượng thời gian không đáng kể trong tiết dạy (và không phải bài
nào, tiết dạy nào cũng cần giới thiệu vào bài một cách công phu bài bản). Tuy nhiên
thao tác này lại có ý nghĩa khá lớn trong việc tạo hứng thú cho HS trước khi bước
vào bài học. Vì vậy GV có thể vận dụng thao tác này để thực hiện tích hợp.
- Tích hợp thơng qua câu hỏi tìm hiểu bài: Trong hoạt động dạy học Ngữ văn,
hình thức hỏi - đáp đóng vai trị hết sức quan trọng, thể hiện tính tích cực, chủ động
của người học cũng như vai trị chủ động của GV. Hình thức này được thực hiện
trong hầu hết các bước, các hoạt động dạy - học.
- Tích hợp kiến thức Văn - Tiếng Việt (qua các câu hỏi phát hiện, giải nghĩa,
phân tích ý nghĩa của việc sử dụng từ ngữ), Văn - Làm văn (qua dạng câu hỏi tóm
tắt văn bản, nêu suy nghĩ của bản thân về một vấn đề đặt ra từ tác phẩm…), Văn Lịch sử (vận dụng hiểu biết về lịch sử để lý giải một hiện tượng, hình ảnh, chi tiết
trong tác phẩm…), Văn - Địa lý, Văn - Giáo dục công dân…được thể hiện rõ qua
hoạt động này.
- Tích hợp thơng qua phương tiện dạy học như bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị
công nghệ thông tin: Khi dạy một số văn bản đọc hiểu, GV có thể sử dụng kênh

9


hình để tích hợp để giúp các em cảm thụ văn học tốt hơn. Đây là một yêu cầu rất
quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Điều quan trọng là để thực
hiện được hình thức tích hợp này địi hỏi người dạy phải có sự chuẩn bị cơng phu,
đầu tư trí tuệ, cơng sức. Mặt khác, nó cịn phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất
của từng trường.

- Tích hợp thơng qua nội dung từng phần hay tổng kết giờ học: Đây là hình
thức tích hợp thơng qua lời thuyết giảng của GV, vừa có ý nghĩa khái quát lại vấn
đề, vừa có ý nghĩa mở rộng, nâng cao kiến thức. GV có thể tích hợp dưới dạng liên
hệ, so sánh đối chiếu các văn bản cùng thể loại, chủ đề để rút ra nhận xét hoặc yêu
cầu học sinh tự rút ra nhận xét của bản thân về vấn đề đó (nét giống, khác, sự đóng
góp mới mẻ của nhà văn…).
- Tích hợp thơng qua hệ thống bài tập: Đây là điều kiện thuận lợi nhất để GV
tiến hành phương pháp tích hợp sau khi kết thúc một bài học, giúp HS nắm chắc
kiến thức ấy để tích hợp trong việc rèn luyện kỹ năng : nghe, đọc, nói, viết.
- Tích hợp thơng qua hình thức kiểm tra: Chương trình Ngữ văn được xây
dựng theo tinh thần tích hợp vì thế khi ơn tập và tiến hành kiểm tra GV cần giúp HS
nắm chắc các vấn đề. Các kiến thức về Văn, tiếng Việt, Tập làm văn đều cùng dựa
vào một văn bản chung (hoặc nhiều văn bản cùng thể loại) để khai thác và hình
thành. Vì thế, khi hướng dẫn học sinh ơn tập GV cần lưu ý HS không nên học tủ,
học lệch mà phải học toàn diện, đầy đủ. GV cần lưu ý xây dựng đề kiểm tra 15 phút,
1 tiết, học kỳ theo yêu cầu tích hợp. Hệ thống câu hỏi, đề kiểm tra phải hướng vào
việc phát triển năng lực người học theo bốn cấp độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng
thấp, vận dụng cao.
- Tích hợp gắn với đời sống xã hội, rèn kỹ năng sống cho HS: Đây là một hoạt
động không thể thiếu trong giờ đọc - hiểu văn bản bởi môn Văn trong nhà trường
vừa là một môn khoa học vừa là môn học mang tính xã hội nhân văn sâu sắc. Nếu
biết vận dụng một cách khéo léo, nhuần nhuyễn, tự nhiên kiến thức liên môn, giáo
viên không chỉ giúp học sinh nắm vững kiến thức xã hội mà còn tác động mạnh mẽ
đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của học sinh. Từ đó, có thể định hướng thái độ

10


sống, rèn kỹ năng sống cho các em một cách hiệu quả, giúp các em biết ứng xử văn
minh, trở thành người cơng dân tốt.

Tóm lại, để việc dạy học theo hướng tích hợp trong mơn Ngữ văn đạt hiệu quả
tốt, cần có giải pháp đồng bộ. Trước hết, về phía cơ quan chủ quản, Bộ Giáo dục
Đào tạo cần triển khai nhanh chóng việc tập huấn dạy học tích hợp liên môn cho
giáo viên Ngữ văn.
Các cơ quan quản lý dưới Bộ nên tạo điều kiện cho giáo viên ở các cơ sở tổ
chức xây dựng chuyên đề, trao đổi rút kinh nghiệm trong việc dạy học theo hướng
tích hợp.
Các thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp phải nắm vững nguyên tắc tích hợp: bám
sát chuẩn kiến thức - kỹ năng, đảm bảo phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với
đặc điểm, điều kiện cụ thể của đơn vị và đối tượng học sinh. Việc tích hợp làm cho
bài học sinh động, gắn với thực tế hơn và không làm quá tải nội dung bài học.
1.3. Cơ sở của hoạt động đọc hiểu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
1.3.1. Đặc điểm thể loại truyện ngắn
Thể loại truyện ngắn - một thể loại văn học được coi là “xung kích” của đời
sống văn học, một thể loại có tính chất “thuốc thử” đối với hầu hết nhà văn trên con
đường sáng tạo nghệ thuật đầy cam go.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì truyện ngắn được định nghĩa là tác phẩm
tự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện
của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Bởi
truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa
phải là đặc điểm chủ yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khác
(các loại truyện kể dân gian cũng có độ dài tương đương với truyện ngắn). Hình hài
của truyện ngắn hiện đại như ta thấy hiện nay là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn
cuộc đời, một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Truyện
ngắn xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Khác với tiểu thuyết là thể
loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn
thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất

11



trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện
ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là
một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Có
nghĩa truyện ngắn thường khơng nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình
đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn
thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái
tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời
gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu
sắc về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều
tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên
tưởng. Bút pháp trần thuật của truyện ngắn thường là chấm phá. Yếu tố quan trọng
bậc nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cơ đọng, có dung lượng lớn và lối hành
văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.
Ở phương Tây (Âu, Mỹ), thể loại truyện ngắn ra đời tương đối muộn so với
các thể loại khác, nó xuất hiện trên một tạp chí xuất bản đầu thế kỷ XIX, phát triển
lên đến đỉnh cao nhờ những sáng tác xuất sắc của văn hào E.T.A. Hoffmann và
Anton Chekhov, sau đó trở thành một hình thức nghệ thuật lớn của văn học thế kỷ
XX.
Ở Trung Quốc và Nhật Bản, trước đây người ta vẫn coi truyện ngắn thuộc thể
loại tiểu thuyết, được gọi là “tiểu thuyết đoản thiên” để phân biệt với loại tiểu thuyết
chương hồi dài tập hay “tiểu thuyết trường thiên”.
Ở Việt Nam, truyện ngắn đầu tiên xuất hiện trên văn đàn là “Sống chết mặc
bay!” của Phạm Duy Tốn (1881-1924), là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn
học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo,
ông từng là thông ngơn ở tịa Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay!”
của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối Tây phương của văn học Việt
Nam.

12



1.3.2. Đặc trưng truyện ngắn sau 1975
Sau 1975, các nhà văn khơng chỉ dừng lại ở phản ánh mà cịn nghiền ngẫm
hiện thực. Trước đây, hồn cảnh chiến tranh khơng cho phép họ khám phá tận cùng
sự phức tạp, bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Giờ đây, do yêu cầu của thời đại, do
nhu cầu tự thân của hoạt động sáng tạo, hiện thực đời sống đi vào văn chương vẹn
nguyên sự đa chiều của nó, được soi sáng, cày xới cả những phần khuất lấp, mờ tối.
- Quan niệm nghệ thuật về con người: Văn học sau 1975 hướng đến khám phá
và tạo dựng con người thế sự - đời tư, con người cá nhân với những phức tạp và bí
ẩn của nó. Nhà văn cắt nghĩa sự tồn tại của con người không phải ở vị thế nhà đạo
đức, nhà tuyên huấn mà là nhà triết học, nhà tư tưởng. Con người được nhìn ngắm
từ nhiều toạ độ nên nhiều chiều, đa nhân cách, vừa có "rồng phượng lẫn rắn rết,
thiên thần và ác quỷ" và nhìn chung, nó tồn diện và sâu sắc hơn.
- Điểm nhìn trần thuật: Sự đổi mới sâu sắc nhất của văn học sau 1975 ở
phương diện trần thuật chính là đa dạng hố điểm nhìn trần thuật. Hiệu quả của việc
trần thuật từ nhiều điểm nhìn đã tạo nên hệ thống các giá trị khác nhau về con người
và hiện tượng. Thực ra, việc di chuyển điểm nhìn từ tác giả đến người kể chuyện và
nhân vật đã có trong văn xuôi Nam Cao và Nguyên Hồng song hiệu quả là nhằm tái
hiện thế giới nội tâm. Với văn học thời đổi mới, mục đích sâu xa là nhằm soi chiếu
hiện thực từ nhiều chiều, nhiều góc độ.
- Giọng điệu trần thuật: Xuất phát từ yêu cầu của chiến tranh, văn học là
phương tiện cổ vũ, tuyên truyền cách mạng. Bởi thế, giọng điệu chủ đạo của văn
học thời kì này nhất quán ở sắc thái ngợi ca, trang nghiêm và đầy lạc quan. Khi đó,
văn học sau 1975 đã chuyển từ đơn sang đa giọng. Nhu cầu khẳng định cá tính,
nhận thức và khám phá tận cùng các đối tượng nghệ thuật đã làm nảy sinh các giọng
điệu: hoài nghi, chất vấn, chiêm nghiệm, triết lí, giễu nhại .Chính chất liệu ngôn
ngữ đời thường thô nhám, giàu màu sắc khẩu ngữ ùa vào trang văn làm nên sự đa
giọng điệu này.
Có thể nói rằng, q trình đổi mới của văn học sau 1975 diễn ra khá toàn diện

và sâu sắc từ nhà văn đến công chúng, từ bản chất văn học đến tư cách nghệ sĩ, từ tư

13


tưởng đến thi pháp. Nhận diện những đổi mới ấy dưới góc độ thi pháp sẽ giúp giáo
viên dễ dàng hơn trong việc tiếp cận những văn bản mới trong chương trình. Tiếp
cận truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa dưới góc nhìn thi pháp sẽ giúp chúng ta hiểu
sâu hơn về văn học giai đoạn này.
1.3.3. Vấn đề dạy học truyện ngắn sau 1975 ở trường phổ thông
Ta biết rằng, sau 1975, văn học đã có bước chuyển mình quan trọng:
- Khuynh hướng sử thi, lãng mạn giảm dần, thay vào đó là cảm hứng thế sự.
Việc thay thế cảm hứng sử thi bằng cảm hứng thế sự là một sự đổi mới hết sức căn
bản trong văn học. Nó kéo theo sự thay đổi nhiều phương diện. Có thể thấy rõ điều
này qua truyện ngắn sau 1975 có mặt trong chương trình Ngữ văn 12 mà chúng ta
đang đề cập đến. Nếu ở Một người Hà Nội là những ngày tháng tiếp quản thủ đô
sau chiến thắng Điện Biên Phủ thì ở Chiếc thuyền ngồi xa, đó là sau năm 1975, đất
nước thống nhất, chấm dứt ba mươi năm chiến tranh tàn khốc. Trên cái nền thực tại
ấy, vấn đề được đặt ra khơng cịn là số phận của dân tộc, của cộng đồng trong thử
thách máu lửa, trong đấu tranh sinh tử, mất còn, mà là thân phận con người trong
cuộc sống đời thường. Nó trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn, chi phối
mọi phương diện của tác phẩm. Nói cách khác, quan niệm của nhà văn về hiện thực
và cách miêu tả hiện thực trong văn học đã có những đổi khác.
Ví dụ: Đọc Chiếc thuyền ngồi xa, ta hồn tồn có thể hình dung bối cảnh
cuộc sống được tác giả dựng lên để làm nền cho sự xuất hiện của các nhân vật.
Ngoài bối cảnh chung của lịch sử xã hội như đã nêu trên (hiện thực sau chiến tranh),
độc giả còn được tiếp xúc với các những mảnh đời cụ thể ở một vùng đất cụ thể. Đó
là một xóm chài ven biển miền Trung, nơi mỗi gia đình cư ngụ trên một chiếc
thuyền lưới vó. Khơng thể tìm thấy ở đây những bức tranh cuộc sống được vẽ lên
bởi niềm lạc quan, tin tưởng, bởi dự cảm về một tương lai tươi sáng như những

trang viết trước đây của chính Nguyễn Minh Châu. Đọc truyện ngắn này, độc giả rất
cần chú ý những không gian được miêu tả, gắn với hoạt động, cách hành xử của các
nhân vật trong gia đình với nhau và với các nhân vật khác. Cuộc sống riêng tư phải

14


được biểu hiện đầy đủ, trọn vẹn trong không gian đời tư, và chỉ có trong khơng gian
đời tư ấy, nhân vật mới bộc lộ rõ nét nhất bản chất, tính cách của mình.
- Con người được tái hiện trong những truyện ngắn này khơng cịn là "con
người chính trị", "con người mới" với bao nhiêu phẩm chất lí tưởng từng được nói
đến nhiều trong văn học trước 1975. Cái nhìn của họ về thế sự, về cuộc đời cũng
khơng chịu sự ràng buộc, rập khn, mà bằng chính đơi mắt của mình.
Ví dụ: Từ cách nhìn nhận riêng của mình về cuộc sống, người đàn bà làng chài
khốn khổ (Chiếc thuyền ngoài xa) đã lay động nhận thức của những người như
Phùng (người làm nghệ thuật) và Đẩu (người thực thi pháp luật): "Lòng các chú tốt,
nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái
việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...". Những suy nghĩ, phát ngơn như thế
là kết quả của sự tự ý thức sâu sắc về bản thân, về cuộc sống. Trong truyện của
Nguyễn Minh Châu, đói khổ, cùng cực, túng quẫn, vất vả, lam lũ, thiếu đói trở đi
trở lại như những điệp khúc xót xa được người đàn bà làng chài nói lên bằng sự trải
nghiệm cay đắng. Thật vô cùng ám ảnh chi tiết những ngày biển động "cả nhà vợ
chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối". Đặt chi tiết này vào bối
cảnh cuộc sống những năm sau chiến thắng lịch sử 1975, ta càng hiểu thêm dụng ý
và tấm lòng của tác giả. Cách mạng dĩ nhiên là hết sức cao cả, vĩ đại, nhưng thân
phận của con người cũng đâu có vơ nghĩa, nhỏ nhoi. Có những điều tưởng tầm
thường, nhỏ nhặt, hóa ra lại rất hệ trọng, to tát đối với con người. Hạnh phúc hay bi
kịch của đời người có khi bắt đầu từ những "tiểu tiết", từ chuyện không đâu như
miếng cơm manh áo.
- Sự đối thoại, dân chủ trong tiếp cận tác phẩm là hết sức cần thiết. Nếu văn

học trước 1975 thường có xu hướng đơn nhất, thống nhất về ý nghĩa, thì tính mơ hồ,
đa nghĩa lại là đặc điểm khá nổi bật của các tác phẩm văn học đổi mới. Ở đây, kiểu
cắt nghĩa giản đơn, một chiều, sự độc quyền chân lí khơng cịn chỗ đứng. Ngược lại,
nó mời gọi nhiều lối tiếp cận, nhiều cách đọc, cách diễn dịch khác nhau. Tính chất
"mở" thể hiện trước hết ở những nghịch lí mà nhà văn miêu tả trong tác phẩm.
Những quan hệ nhân - quả hợp lí giữa các sự kiện như thường thấy trong văn học

15


trước đây đã bị thay thế bằng những quan hệ bất thường, thách đố sự biện giải lí
tính.
Ví dụ: Khi đọc Chiếc thuyền ngồi xa, thật khó hiểu được do đâu mà người
đàn ơng làng chài lại có hành động tàn nhẫn đến mức kì quái như thế với vợ. Nó
khơng diễn ra theo kiểu bột phát, tức thì hoặc như một thứ phản xạ bản năng thường
thấy ở những kẻ vũ phu. Người chồng ở đây có những biểu hiện thật dị thường. Hắn
đủ kiên nhẫn đi theo vợ đến một quãng xa con thuyền rồi mới ra tay. Đánh vợ mà
như báo thù, như một kiểu "thi hành án". Đánh vợ mà cứ đều đặn "ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng" như đã được lên lịch sẵn. Lạ hơn, đó là kiểu đánh mà
hắn đã "gia ơn" cho vợ khi chị ta xin hắn không phải chịu địn trên thuyền, trước
mặt đàn con. Có một cái gì thật qi đản, rất khó lí giải, cũng như khơng thể biện
minh bằng bất cứ lí do gì.
Nếu sự hung hãn, vũ phu của người chồng là điều cực kì khó hiểu, thì sự cam
chịu, nhẫn nhục của người vợ cũng khơng dễ lí giải hơn. Dù bị chồng xúc phạm
nặng nề, đánh đập tàn nhẫn, người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ chấp nhận như một kiểu
"chịu nạn". Hơn thế, khi tòa cho rằng, trường hợp này khơng thể hịa giải, chỉ có
một giải pháp "tối ưu" là chị phải từ bỏ người đàn ông độc ác ấy, những tưởng chị
sẽ cảm thấy nhẹ người, nào ngờ chị ta bỗng hốt hoảng. Chứng kiến những điều lạ
lùng ấy, Đẩu và Phùng đồng thanh thốt lên: "Không thể nào hiểu được!". Có lẽ đó
cũng là phản ứng, thái độ của số đông độc giả trước cảnh ngộ của người đàn bà làng

chài - nhân vật chính trong truyện.
Tuy nhiên, thể hiện những nghịch lí cuộc sống, Nguyễn Minh Châu muốn cho
độc giả thấy rằng, cuộc sống thực ra khơng hề đơn giản như ta vẫn nghĩ. Nó chứa
đựng nhiều góc khuất, nhiều bí ẩn địi hỏi phải được khám phá. Và thực tế, trong tác
phẩm của mình, nhà văn đã "thể nghiệm" một số "phương án". Chẳng hạn, thói vũ
phu của ng­ười chồng, nếu nh­ư d­ưới cái nhìn nghiêm khắc của Phùng và Đẩu là
đáng lên án, d­ưới ánh mắt phẫn nộ của thằng Phác là đáng trừng trị, thì với người
vợ - nạn nhân, đó là điều có thể thơng cảm. Cũng vậy, nhìn một cách khách quan,
theo lẽ th­ường tình, sự nhẫn nhục của ngư­ời đàn bà là hết sức phi lí, nh­ưng nếu ta

16


thử đặt mình vào cảnh ngộ của chị để tìm lối thốt, thì mới thấy sự thể khơng dễ
dàng như­ ta vẫn t­ưởng.
- Luận đề nghệ thuật - một trong những nội dung quan trọng của tác phẩm
cũng gợi mở nhiều cách hiểu khác nhau.
Ví dụ: Nhan đề Chiếc thuyền ngồi xa có ý nghĩa gì? Bức ảnh ghi lại vẻ đẹp
hài hịa đến mức lí tưởng của chiếc thuyền trong sương sớm tương phản bất ngờ với
sự tàn bạo ghê gớm cũng như nỗi đau khổ tận cùng của những con người bước ra từ
chính chiếc thuyền ấy, phải chăng đã nói lên cái khoảng cách mn thuở giữa nghệ
thuật và cuộc sống? Cái đẹp cao cả của nghệ thuật có thể đánh thức những cảm xúc
thánh thiện của tâm hồn, nhưng phải chăng nó vẫn cứ xa cách và bất lực trước thực
tế trần trụi, nham nhở của những kiếp nhân sinh? Hay nghệ thuật dù kì diệu đến đâu
cũng khó mà ơm trùm được mọi khía cạnh phức tạp, đa chiều của muôn mặt cuộc
đời? Tại sao người nghệ sĩ mỗi lần ngắm kĩ bức ảnh đen trắng của mình lại thấy
hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai? Và, cuối cùng, tất cả những ý nghĩa
của luận đề nghệ thuật ấy phải chăng đã được Nguyễn Minh Châu ý thức đầy đủ và
kín đáo gửi gắm vào tác phẩm bằng "thi pháp gói rào"? Mỗi câu hỏi như thế có thể
tìm thấy bao nhiêu câu trả lời, và hình như khơng có câu trả lời nào là duy nhất

đúng.
- Kiểu nhân vật kể chuyện: Kiểu nhân vật kể chuyện dễ gây cảm giác về tính
xác thực, tính khả tín của câu chuyện.
Ví dụ: Ở trong Chiếc thuyền ngồi xa chuyện về gia đình làng chài được kể
bằng lời của Phùng - người chứng kiến gây cho ta cảm giác câu chuyện rất đáng tin,
là câu chuyện có thật mà Phùng đã chứng kiến và kể lại.
1.4. Đặc sắc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
1.4.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 tại huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh
Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội. Năm 1959,
Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết tồn qn. Năm 1960, ơng được điều

17


động về cục Văn hóa quân đội, rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội vừa làm biên tập
vừa làm phóng viên. Trong thời gian này, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và
cho in những truyện ngắn đầu tay nhưng chưa được dư luận quan tâm. Sự nghiệp
văn học của Nguyễn Minh Châu chỉ được khẳng định trong thời kì kháng chiến
chống Mỹ với hai cuốn tiểu thuyết Cửa sơng (1966), Dấu chân người lính (1972) và
tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970). Nhà văn đã phản ánh kịp thời
những hình ảnh sinh động của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con
người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, đồng thời, ơng cũng có phát hiện và suy ngẫm
về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và số phận con người trong chiến tranh. Ngay
sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học
thời chiến tranh và dũng cảm tìm kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình.
Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem
lại một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu ra mắt bạn đọc ở nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tịi

mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến Nguyễn Minh Châu trở
thành một trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất của công cuộc
đổi mới văn học” (Nguyễn Khải). Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), ơng đã có
những phát biểu trực tiếp cùng với những sáng tác đã đạt đến độ chín của tư tưởng
và nghệ thuật thể hiện sự tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà.
Nhưng vì mắc bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Minh Châu đã qua đời vào ngày 23 tháng
1 năm 1989 khi nhiều dự định sáng tác còn đang ấp ủ.
1.4.2. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang mới đối
với đất nước và con người Việt Nam, chấm dứt ngàn năm chế độ phong kiến, hơn
tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp, để bắt đầu một thời đại mới - thời đại độc
lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng
phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì gian khổ
nhưng cũng rất hào hùng. Mọi đổi thay ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam những

18


sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm nghệ
thuật về con người.
Với quan niệm con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ở thời kì trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã
xây dựng nên những hình mẫu nhân vật mang đậm cảm quan nghệ thuật của nhà
văn. Con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước hết là con người có lí
tưởng sống cao đẹp, ý thức được tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Cô giáo Thùy trong Cửa sông (1966) đã “dành một phần nhỏ thì
giờ biên thư cho các học sinh của mình hiện đang ở các đơn vị bộ đội” vì đã tự coi
mình như “một người con gái ở hậu phương có nhiệm vụ đem đến cho họ những lời
động viên, có nhiệm vụ săn sóc các chiến sĩ ngồi mặt trận”. Thùy ln cố gắng
“tìm cách khơng tách mình ra khỏi cái guồng máy sinh hoạt chung của nhân dân

đang hối hả chuyển sang thời chiến” bởi như thế là ích kỉ, là coi trọng hạnh phúc cá
nhân. Những người lính trong Dấu chân người lính (1972) đã xác định được trách
nhiệm cao cả của thế hệ mình trước tiếng gọi thiêng liêng của non sông. Khuê chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đồn 5, rất quen thuộc, gắn bó với những khu
rừng ngày đêm dội vang những trận bom, những cuộc chuyển quân trong tầm súng
của địch. Khung cảnh bề bộn, dựng lửa của chiến trường “trước đây vài tháng, khi
anh cịn mài gót giày trên những chặng đường đi dài dằng dặc của núi Trường Sơn,
anh như đã trơng thấy, hình như nó đang vẫy gọi, đang giục giã anh và đồng đội của
anh bằng tất cả sức mạnh quyến rũ không thể nào lường được”.
Khơng chỉ sống có lí tưởng và nhận thức được vai trị của mình trong cộng
đồng, con người của văn học kháng chiến chống Mĩ cịn thể hiện lí tưởng và nhận
thức ấy thành hành động, ý chí. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu thường được
đặt trong những hoàn cảnh thử thách ngặt nghèo, trước những tình huống phải lựa
chọn giữa sống và chết để “càng làm kiên định ý chí cách mạng và bộc lộ sáng chói
chủ nghĩa anh hùng” (Nguyễn Văn Long). Nguyệt - cô gái đi nhờ xe trong Mảnh
trăng cuối rừng (1970), đã để cả quần áo nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp
Lãm cột dây tời vào một gốc cây, đã nấp ở mé ngồi để che chở cho Lãm vì “Anh

19


×