Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Khóa luận tốt nghiệp văn học: Sử dụng bản đồ tư duy để hướng dẫn học sinh lớp 12 THPT đọc - hiểu tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.19 KB, 63 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC.



PHÙNG THỊ THÚY




SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY ĐỂ HƯỚNG DẪN HỌC SINH
LỚP 12 THPT ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM:
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








Sơn La, năm 2013



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC.



PHÙNG THỊ THÚY




SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY ĐỂ HƯỚNG DẪN HỌC SINH
LỚP 12 THPT ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM:
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU



CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Người hướng dẫn: Th.S Trịnh Thị Hồng





Sơn La, năm 2013


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành khóa luận, em xin bày tỏ lòng kính trọng và
biết ơn chân thành tới cô giáo - Th.S Trịnh Thị Hồng đã tận tình, chỉ bảo, hướng
dẫn em nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Em xin trân trọng cảm ơn ban chủ nhiệm khoa - Ngữ Văn. Các thầy cô
tổ phương pháp - Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện, động viên, khích lệ,
giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Để hoàn thành khóa luận, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, thời gian, tài liệu tham khảo của thư viện
Trường - Đại học Tây Bắc.
Tác giả khóa luận cũng xin chân thành cảm ơn giáo viên, học sinh,
Trường THPT Yên Mô B - Ninh Bình, cùng bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận.

Sơn La, tháng 5, năm 2013.
Sinh viên


Phùng Thị Thúy













DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
GD – ĐT : Giáo dục và Đào tạo
NXBGD : Nhà xuất bản giáo dục
NXBHN : Nhà xuất bản Hà Nội
NXBPN : Nhà xuất bản phụ nữ
THPT : Trung học phổ thông
TKBHNV : Thiết bài học Ngữ văn





MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
6. Phương pháp nghiên cứu 7
7. Đóng góp của khóa luận 8
8. Cấu trúc của khóa luận 8
PHẦN NỘI DUNG 9

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 9
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 9
1.1.1. Vài nét khái quát về bản đồ tư duy 9
1.1.1.1. Khái niệm về bản đồ tư duy (Mindmaps) 9
1.1.1.2. Cấu trúc, nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy 10
1.1.1.3. Các loại bản đồ tư duy 11
1.1.1.4. Giới thiệu một số phần mềm sử dụng bản đồ tư duy 12
1.1.2. Cơ sở tâm lý - giáo dục học 12
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức 12
1.1.2.2. Tính vừa sức của học sinh trong học tập 13
1.1.3. Cơ sở khoa học 13
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 14
1.2.1. Thực trạng dạy học ở Trường THPT Yên Mô B – Ninh Bình 14
1.2.2. Tìm hiểu thực trạng dạy và học tác phẩm văn học ở nhà trường
THPT 15
1.2.3. Hoạt động dạy học sử dụng bản đồ tu duy của giáo viên hiện nay 15
1.2.4. Hoạt động học tập của học sinh Trường THPT YÊN MÔ B – Ninh
Bình 16
1.2.5. Một số nhận xét về bản đồ tư duy rút ra từ quá trình dạy học Văn 19
TIỂU KẾT 22

CHƯƠNG 2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 12 THPT SỬ DỤNG BẢN
ĐỒ TƯ DUY VÀO ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM: “CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU. 23
2.1. Hướng dẫn học sinh các bước vẽ bản đồ tư duy 23
2.2. Sử dụng bản đồ tư duy vào tìm - hiểu tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu 26
2.2.1. Đọc tác phẩm 27
2.2.2. Tóm tắt tác phẩm 27
2.2.3. Sử dụng bản đồ tư duy để củng cố, khái quát nội dung bài học 28

2.2.3.1 Hướng dẫn học sinh đọc và ghi nhớ về tác giả 28
2.2.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc và ghi nhớ về tác phẩm 30
2.3. Sử dụng bản đồ tư duy vào ôn tập giúp học sinh tự học 33
2.4. Sử dụng bản đồ tư duy vào ngoại khoá vấn đề trong tác phẩm: “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu 34
TIỂU KẾT 36
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ THỰC NGHIỆM 37
3.1. Mục đích thực nghiệm 37
3.2. Đối tượng thực nghiệm 37
3.3. Thời gian và địa điển thực nghiệm 37
3.4. Nội dung và phương pháp thực nghiệm 37
3.4.1. Nội dung thực nghiệm 37
3.4.2. Bài soạn thực nghiệm 38
3. 5. Kết quả thực nghiệm 48
3.6. Kết luận 48
TIỂU KẾT 50
KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nhân loại đang bước sang thế kỉ mới, khoa học kĩ thuật phát triển như
vũ bão, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã làm thay đổi tính chất lao động của
mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Vì thế, lao động sản xuất ở tất cả các lĩnh
vực ngày càng tiến dần đến lao động trí óc, cần đến sự đầu tư về tư duy và trí
tuệ. Muốn vậy, con người cần phải được học tập và rèn luyện tư duy ngay từ

khi ngồi trên ghế nhà trường. Bởi vậy, giáo dục được nhà nước coi là “quốc
sách” hàng đầu. Hơn nữa, sự phát triển của xã hội đặt ra một vấn đề cấp thiết
là phải cải tiến căn bản việc dạy học. Chúng ta thấy, những vấn đề lí luận dạy
học trước đây vẫn thường đề cập đến việc: dạy cái gì? dạy như thế nào? chưa
đủ thoả mãn yêu cầu thực tiễn. Bởi thế, việc dạy học cần được nhìn nhận rộng
hơn, toàn diện hơn là: dạy ai? dạy cái gì? dạy như thế nào? dạy nhằm mục
đích gì? Và chính mục đích của việc dạy học sẽ là kim chỉ nam định hướng
cho toàn bộ hoạt động của việc dạy học. Cụ thể hơn, nó chi phối nội dung và
phương pháp dạy học. Do vậy, bên cạnh việc truyền thụ kiến thức cơ bản để
các em có một nền học vấn làm cơ sở, điều quan trọng là nhà trường phải dạy
cho các em lĩnh hội tri thức, phương pháp tự học, tự nghiên cứu để các em
không ngừng sáng tạo rèn luyện tư duy.
1.2. Nhìn lại lịch sử hình thành các phương pháp dạy học được sử dụng
trong nhà trường, chủ yếu là các phương pháp truyền thống như: phương pháp
thuyết trình, phương pháp đàm thoại, phương pháp diễn giải … Đặc biệt, từ lâu
dạy học theo kiểu “đọc-chép” được coi là một phương pháp dạy học để truyền
tải kiến thức cho học sinh, đang sử dụng ở nhiều trường trong cả nước. Chúng ta
thầy rằng, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên
“đọc-chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là điều quan
trọng. Vì thế, với cách dạy theo các phương pháp truyền thống, người thầy đã
máy móc, dập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc không hứng thú
trong cập nhập tri thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết
kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Như vậy, người học theo cách
này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không có sự
động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức trở nên thui chột về tư
duy, chỉ biết cách học thuộc chép lại những kiến thức đã học và bị mất dần khả
năng sáng tạo.
Hơn nữa, thực tiễn cho thấy để đọc - hiểu một tác phẩm văn học, không
phải là dễ, không phải học sinh nào cũng thích học Văn. Nhưng không mấy ai


2
mà tuổi thơ không ngồi trên ghế nhà trường, mà không “đụng độ” tới văn học
với tư cách là một môn học quan trọng không thể thiếu trong việc học. Chúng ta
thấy rằng, ở các trường phổ thông và ngay cả trong những bài thi tuyển sinh vào
Đại học - Cao đẳng trong những năm gần đây vẫn không ít những bài Văn làm
lạc đề hoặc viết sơ sài, lan man, nhầm lẫn: “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, không
giải quyết được trọng tâm của đề. Vậy, chúng ta làm thế nào để khắc phục tình
trạng trên? làm thế nào giúp các em học tập tốt hơn, có ý tưởng sáng tạo, mới
mẻ… trong bài văn của mình? Thiết nghĩ, cần định hướng cho các em một
phương pháp học cụ thể và hệ thống hơn như Tiến Sĩ: Nguyễn Xuân Lạc đã
khẳng định: “Nắm chắc kiến thức cơ bản là điều cần thiết, nhưng lại phải biết
cách giải đề ” tức là phải có phương pháp làm bài.
1.3. Mặt khác, hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Đổi mới
phương pháp dạy và học ở tất cả các bậc học, kết hợp học với hành, học tập với
lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã
hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh
có năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề… Đẩy mạnh nghiên cứu
ứng dụng khoa học và công nghệ, nghiên cứu những vấn đề khoa học phục vụ
cho mục tiêu phát triển và sự nghiệp giáo dục là những nhiệm vụ hết sức quan
trọng mà ngành giáo dục phải đặc biệt quan tâm”. Bởi thế, trong dạy học giáo
viên không chỉ làm nhiêm vụ cung cấp kiến thức một cách thuần túy cho học
sinh mà còn phải giúp các em hình thành những phẩm chất cơ bản của tư duy,
giúp các em có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát, trừu tượng hóa… trong
học tập và lao động sáng tạo.
Đặc biệt, ngày 13 tháng 6 năm 2012, Thủ tướng chính phủ đã kí quyết
định số 711/QD-TTg phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo: 2011-
2020, trong đó nêu rõ những yếu kém: “Nội dung chương trình, phương pháp
dạy và học, công tác thi, kiểm tra, đánh giá chậm được đổi mới. Nội dung
chương trình còn nặng về lí thuyết, phương pháp dạy học lạc hậu”…Một trong

các giải pháp chiến lược là: “Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, thi, kiểm
tra và đánh giá chất lượng giáo dục”. Vì vậy, chúng ta cần phải có những tìm tòi
mới mẻ về phương pháp. Bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống,
chúng ta phải biết đến phương pháp sử dụng bản đồ tư duy do TonyBuzan sáng
tạo vào dạy học đọc - hiểu một tác phẩm văn học cụ thể. Đây là phương pháp
dạy học mới tiến bộ, hiện đại mà các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới
đang áp dụng ở tất cả các môn học nói chung và ở dạy học môn Văn nói riêng
đã mang lại hiệu quả dạy học cao.

3
Hơn nữa, chúng ta điều biết rằng có rất nhiều tác giả nổi tiếng được giảng
dạy trong nhà trường như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Xuân
Quỳnh,… Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Minh Châu,… Học
sinh được tiếp cận với nhiều thể loại văn học: thơ, kịch, tuỳ bút, phóng sự,
truyện ngắn,… Đặc biệt, ở thể loại truyện ngắn, chúng ta phải kể đến nhà văn
Nguyễn Minh Châu. Ông là một nhà văn tài năng. Ông để lại cho nền văn học
Việt Nam, một số lượng tác phẩm khá đồ sộ. Dường như sự nghiệp văn chương
của nhà văn luôn đi cùng với nhịp bước của nền văn học nước nhà. Ngay từ
những tác phẩm đầu tay ra đời trong thời kì chiến tranh, nó đã có sức sống hấp
dẫn đối với bạn đọc nói chung và những nhà nghiên cứu văn học nói riêng. Vì
thế, cái tên Nguyễn Minh Châu cùng với tác phẩm của ông đã được đông đảo,
bạn đọc dành trọn tình cảm yêu mến.
Vì thế, Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả có nhiều đóng góp
cho nền văn học Việt Nam những sáng tác của ông được giới thiệu trong nhà
trường phổ thông. Từ lâu, các em học sinh đã được biết đến tác phẩm của ông từ
bậc học THCS với truyện ngắn: “Bức tranh”, lên THPT học sinh lớp 12 lại
được học tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa”. Do vậy, để tiếp cận và tìm hiểu
tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa” có rất nhiều cách khác nhau. Song cách học
nào để học sinh đọc và ghi nhớ tác phẩm một cách sâu sắc, có hứng thú và phát
huy hiệu quả nhất trong học tập là vấn đề đang được giáo viên phổ thông quan

tâm. Đó chính là lí do để chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: Sử dụng bản đồ tư
duy để hướng dẫn học sinh lớp 12 THPT đọc - hiểu tác phẩm: “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Việc nghiên cứu và ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học trên thế giới
Về mặt lịch sử, phương pháp bản đồ tư duy được phát triển vào cuối thập
niên 60 của thế kỉ XX bởi tác giả TonyBuzan. Ông sinh năm 1942, người Luân
Don, là tác giả nổi tiếng với hơn 92 đầu sách, được dịch ra trên 30 thứ tiếng,
xuất bản tại 125 quốc gia trên thế giới. TonyBuzan được biết đến nhiều nhất
qua cuốn sách: “Use your head”, bản đồ tư duy trong công việc, làm chủ trí
nhớ của bạn, sách dạy đọc nhanh, làm chủ trí tuệ của bạn, tăng tốc đọc hiểu
để thành công…
Đến giữa thập niên 70, PeterRussell đã làm chung với TonyBuzan. Họ đã
truyền bá kĩ xảo về giản đồ ý cho nhiều cơ quan quốc tế cũng như các thư viện
giáo dục. Các bậc thầy về ghi nhớ như EranKatz - kỉ lục Guinness, người có khả
năng nhớ được 500 con số theo thứ tự chỉ sau một lần nghe, AdamKhoo tác giả

4
cuốn sách nổi tiếng về giáo dục trĩ não: “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế!”, “con cái
chúng ta đều giỏi”.
Vì thế, bản đồ tư duy được sử dụng nhiều trong công việc cũng như trong
học tập ở các nước phát triển trong đó cựu lãnh đạo Apple là ông SteveJobs đã
từng sử dụng rất hiệu quả bản đồ tư duy trong công việc và sáng tạo và điều
hành của mình. Hơn nữa, bản đồ tư duy (Mindmaps) là một phương pháp tổ
chức tư duy để truyền tải tất cả những gì đã được ghi nhận lên não bộ một cách
nhanh chóng, hiệu quả nhờ kích thích thị giác (màu sắc, hình ảnh) và liên kết tất
cả các thông tin quan trọng bằng các từ khoá thông qua ngôn ngữ. Vì thế, bản đồ
tư duy được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, nhiều nước trên thế giới đã ứng
dụng bản đồ tư duy từ 15 đến 20 năm nay trong giảng dạy, học tập, làm việc,
kinh doanh…

Do đó, bản đồ tư duy được mệnh danh “công cụ vạn năng cho bộ não” là
phương pháp ghi chú đầy sáng tạo, hiện đang được 250 triệu người trên thế giới
sử dụng đã và đang đem lại hiệu quả đáng kinh ngạc, nhất là trong lĩnh vực học
tập và kinh doanh. Sau đó, nhiều nhà khoa học và giáo viên qua nghiên cứu lí
thuyết, kiểm nghiệm thực tiễn đã nhận thấy rõ hiệu quả của giờ lên lớp khi dạy
bằng bản đồ tư duy. Vì vậy, việc ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học là hoàn
toàn hợp lý. Chúng ta có thể ứng dụng bản đồ tư duy ở tất cả các cấp học, bậc
học, ở tất cả các môn học khác nhau: toán, lý, hoá, văn, sử, địa… Bản đồ tư duy
còn được sử dụng trong làm việc, kinh doanh, quản trị… Như vậy, bản đồ tư
duy đã trở thành phương pháp hiệu quả của nhiều nghành khoa học khác nhau.
Trên thế giới hiện nay xu hướng này đang được sự chú ý không phải chỉ của
đông đảo các nhà khoa học, nhà chuyên môn mà còn lôi cuốn được cả sự quan
tâm của nhiều nhà sư phạm, các thầy cô giáo phổ thông.
2.2. Việc nghiên cứu và ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bản đồ tư duy mới chỉ biết đến trong vài năm gần đây. Đặc
biệt khi ngành giáo dục - làm quen với bản đồ tư duy qua triển khai áp dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học tích cực khác trên diện rộng của BGD - ĐT trong
năm học 2011 - 2012.
Từ năm 2011, bản đồ tư duy được ứng dụng trên diện rộng, giữa lúc xã
hội đang bức xúc với phương pháp “đọc-chép” và thói quen “học vẹt” của nhiều
học sinh thì ứng dụng bản đồ tư duy cùng với phương pháp dạy học tích cực
khác đã được đông đảo các thầy cô và học sinh ở các trường phổ thông đón nhận
nhiệt tình. Đặc biệt dự án phát triển giáo dục THCS II đã chủ trì nhóm nghiên
cứu một cách kĩ lưỡng và tham mưu BGD - ĐT đưa chuyên đề ứng dụng bản đồ

5
tư duy hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học tới cán bộ quản lý và giáo viên
THCS. Trong 3 năm gần đây, các cán bộ nghiên cứu thuộc viện khoa học giáo
dục Việt Nam, dự án phát triển giáo dục THCS II kết hợp với Vụ Giáo dục
Trung học và cục Nhà giáo của BGD - ĐT và Sở GD - DT các tỉnh đến các vùng

miền đất nước để nghiên cứu và nhân rộng phương pháp mới này, với hi vọng sẽ
giúp học sinh thoát khỏi lối “học vẹt” định hướng một phương pháp dạy học
mới trong ngành giáo dục. Trên 30 bài báo cáo khoa học cùng với 4 cuốn sách:
“Dạy tốt - học tốt các môn học bằng bản đồ tư duy”, [Trần Đình Châu – Đặng
Thị Thủy (2011), Công ty CPDV] dùng cho giáo viên và học sinh từ lớp 4 đến
lớp 12 và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học do nhà xuất bản giáo dục
phát hành đã thu hút được sự quan tâm của các cấp quản lý giáo dục và đội ngũ
thầy cô giáo, phụ huynh và các em học sinh.
Năm 2011, ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học đã được triển khai tại
355 trường phổ thông trên toàn quốc và được cả giáo viên, học sinh, phụ huynh
hồ hởi tiếp nhận. Nhiều sở, phòng GD - ĐT sau khi tập huấn cho các cán bộ cốt
cán cấp THCS đã chủ động phổ biến, nhân rộng cả cấp tiểu học, không những
vận dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông mà còn vận
dụng ở nhiều trường Đại học - Cao đẳng với các mức độ khác nhau.
Như vậy, kết quả ghi nhận ban đầu cho thấy: việc vận dụng bản đồ tư duy
trong dạy học sẽ dần dần hình thành cho học sinh tư duy mạch - lạc, hiểu biết
vấn đề một cách sâu sắc, định vị trong đầu được các kiến thức, sự kiện cơ bản,
có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, giúp học sinh không chỉ học
tốt kiến thức trong sách vở mà còn cả thực tiễn cuộc sống, phát triển tư duy sáng
tạo. Trước kết quả khả quan này, năm 2011, BGD - ĐT quyết định đưa chuyên
đề sử dụng bản đồ tư duy thành một trong năm chuyên đề cho giáo viên THCS
trên toàn quốc học tập và bồi dưỡng, đưa giáo dục Việt Nam tiếp cận với
phương pháp tiên tiến trên thế giới.
Qua đó, việc vận dụng bản đồ tư duy vào quá trình dạy học ở Việt Nam
đã và đang được các chuyên gia giáo dục, nghiên cứu đưa vào ứng dụng trong
thực tế giảng dạy. Vì đây là lĩnh vực mới cho nên phương pháp sử dụng bản đồ
tư duy trong dạy học đến nay vẫn chưa được áp dụng trên diện rộng và chưa
thực sự trở thành phương pháp dạy học phổ biến. Đặc biệt, việc sử dụng bản đồ
tư duy vào dạy học Văn giúp học sinh đọc - hiểu, ghi nhớ tác phẩm văn học cụ
thể ở nước ta chưa được bàn luận trao đổi nhiều. Song để có những biện pháp sử

dụng bản đồ tư duy cho học sinh lớp 12 ở trường phổ thông học một tác phẩm
cụ thể thì chưa có tác giả nào đề cập tới. Vì thế để đáp ứng nhu cầu dạy và học

6
môn Văn lớp 12, tác giả mạnh dạn đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu đề xuất biện
pháp sử dụng bản đồ tư duy vào đọc - hiểu tác phẩm văn học cho học sinh lớp
12 ở một trường học cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học. Tất cả
những tài liệu đã được đề cập tới ở trên là cơ sở, là tiền đề vững chắc để tôi
mạnh dạn nghiên cứu, tìm hiểu: sử dụng bản đồ tư duy vào đọc - hiểu tác
phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Với tinh thần:
“Không có điều gì mới, chỉ có những sự kết nối mới ”. Tôi hi vọng, tôi và các
bạn sẽ kết nối được những gì mình đã biết để làm phong phú thêm khả năng
sáng tạo của mỗi người.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu tìm hiểu và đề xuất, phương pháp sử dụng bản đồ
tư duy (Mindmaps) trong chương trình lớp 12. Từ đó, đưa ra một số biện pháp
sử dụng phương pháp bản đồ tư duy để đọc - hiểu tác phẩm: “Chiếc thuyền
ngoài xa” cho học sinh lớp 12 nhằm góp phần khắc phục tình trạng bất cập
trong việc đọc - hiểu tác phẩm văn học, nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và
học, phát triển tư duy cho học sinh.
Qua đó, giáo viên có một phương pháp dạy học mới nhằm góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo toàn diện người học sinh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài tiến hành đọc, nghiên cứu tìm hiểu tài liệu có liên quan đến đề tài
và đề xuất phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong chương trình học.
Khảo sát chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12, khảo sát kĩ năng,
cách thức sử dụng phương pháp bản đồ tư duy giúp học sinh đọc - hiểu tác phẩm
văn học: “Chiếc thuyền ngoài xa” cho học sinh lớp 12 Trường THPT YÊN MÔ B.
Từ đó, xây dựng hệ thống cơ sở thực tiễn, là cơ sở khoa học nhằm đề xuất
biện pháp sử dụng bản đồ tư duy cho học sinh lớp 12 Trường THPT YÊN MÔ B.

Thiết kế giáo án và dạy thực nghiệm phương pháp tại trường THPT YÊN MÔ B
– Ninh Bình.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu tìm hiểu toàn bộ hoạt động dạy và học, sử
dụng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học đọc - hiểu tác phẩm:“Chiếc
thuyền ngoài xa” cho học sinh lớp 12 Trường THPT YÊN MÔ B – Ninh Bình.



7
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu lí thuyết là phương pháp được tiến hành dựa trên cơ sở tìm
hiểu, nghiên cứu và thu thập những thành tựu lí luận đã có làm tiền đề cho việc
xác định giả thuyết khoa học mà mình đặt ra. Cụ thể, đưa ra phương pháp sử
dùng bản đồ tư duy (Mindmaps), chúng tôi đã nghiên cứu lí thuyết khoa học để
tìm hiểu thế nào là phương pháp bản đồ tư duy, đặc trưng của phương pháp…Từ
đó mới có thể đưa ra phương pháp sử dụng bản đồ tư duy cho học sinh lớp 12
trong dạy học tác phẩm văn học.
6.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Khảo sát chương trình SGK Ngữ Văn.
- Khảo sát, thực tiễn dạy học ở nhà trường phổ thông.
- Dự giờ dạy và học sử dụng phương pháp bản đồ tư duy ở Trường THPT
YÊN MÔ B.
- Dự giờ, phát phiếu điều tra, trao đổi với giáo viên và học sinh.
6.3. Phương pháp so sánh
Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp nghiên cứu mang tính phổ quát, khái
quát để thực hiện đề tài này, phương pháp so sánh là phương tiện làm rõ những
nét khác biệt của phương pháp dạy học truyền thống đồng thời thấy được hướng
đổi mới của phương pháp sử dụng bản đồ tư duy ở Trường THPT YÊN MÔ B, ở

một tác phẩm cụ thể cho việc đọc - hiểu các tác phẩm văn học nói chung, từ đó
tác giả khóa luận mạnh dạn đề xuất phương pháp sử dụng bản đồ tư duy.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp thực nghiệm sư phạm là phương pháp tổ chức, triển khai,
giả thuyết khoa học và giảng dạy. Qua đó nhằm kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh
lại vấn đề mà mình đề xuất.
Từ những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, đề tài mạnh dạn đề xuất một số
phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 12 Trường THPT YÊN MÔ B sử dụng
phương pháp bản đồ tư duy.
Thiết kế, thực nghiệm giáo án đọc - hiểu tác phẩm văn học: “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, tham khảo ý kiến của giáo viên phổ
thông. Dự kiến kết quả thu được của bài dạy.

8
Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết còn kết với một số
phương pháp sưu tầm tài liệu, phân tích đánh giá, khái quát, tổng hợp … để
nhằm đề ra được những biện pháp thiết thực phù hợp với đối tượng học sinh.
7. Đóng góp của khóa luận
Thực hiện đề tài, tác giả khóa luận muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về phương
pháp sử dụng bản đồ tư duy trong việc đọc - hiểu tác phẩm văn học trong
chương trình lớp 12. Từ đó, đề ra những biện pháp dạy học cụ thể phù hợp với
học sinh lớp 12 Trường THPT YÊN MÔ B – Ninh Bình.
Đề tài nghiên cứu thành công, sẽ là tài liệu tham khảo cho các sinh viên trong
khoa Ngữ Văn là tài liệu cho giáo viên dạy học môn Ngữ Văn ở nhà Trường THPT.
Đây là, quá trình tập dượt nghiên cứu khoa học rất bổ ích đối với bản thân,
làm tiền đề cho bước đường công tác sau này.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tham khảo, phần nội dung
bao gồm các chương sau:
Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.

Chương 2. Hướng dẫn học sinh lớp 12 sử dụng bản đồ tư duy vào đọc -
hiểu tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.





9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Vài nét khái quát về bản đồ tư duy
1.1.1.1. Khái niệm về bản đồ tư duy (Mindmaps)
Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. Bản đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền
tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa, là sự kết hợp giữa các từ ngữ,
hình ảnh, màu sắc, đường nét phù hợp với cấu trúc hoạt động và chức năng của
bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
Bản đồ tư duy do tác giả AnthonyPeter Buzan (1942), tại LuânDon (Anh)
từng nhận bằng danh dự về tâm lí học văn chương Anh, toán học và nhiều môn
khoa học tự nhiên của Trường Đại học BritishColumbia năm 1964. TonyBuzan
là tác giả hàng đầu thế giới về bộ não. Ông đã viết 92 đầu sách và được dịch ra
trên 30 thứ tiếng, với hơn 3 triệu bản, tại 125 quốc gia trên thế giới.
TonyBuzan, chính thức giới thiệu phần mềm Imindmap vào tháng 6 năm
2006. Ông được biết đến nhiều nhất qua cuốn: “Use your head”. Trong đó, ông
trình bày cách thức ghi nhớ tự nhiên của não bộ cùng với các phương pháp
Mindmaps. Ngoài ra, ông còn có một số sách nổi tiếng khác như: “use your
memory, mindmaps book …”

Tác giả TonyBuzan và phương pháp tư duy của ông được dạy và sử dụng
ở 500 tập đoàn, công ty hàng đầu thế giới. Tạp chí Forber từng bình luận:
“Buzan chỉ ra cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cách thức giải phóng năng
lực sáng tạo bản thân”.
Hiện nay, hơn 250 triệu người đang sử dụng phương pháp Mindmaps của
TonyBuzan. Tác giả TonyBuzan thường xuyên tham gia các chương trình truyền
hình khoảng hơn 3 tỉ người đã từng xem và nghe chương trình của ông, khi đến Việt
Nam, TonyBuzan chuyển đến Việt Nam một thông điệp: “Tôi muốn chia sẻ cùng
các bạn bí quyết để tư duy nhanh chóng linh hoạt, qua đó bạn có thể sáng tạo và
đổi mới không ngừng trong công việc và cuộc sống ”.




10
1.1.1.2. Cấu trúc, nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy
Một cách điển hình bản đồ tư duy có cấu trúc như sau:


Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy đúng theo nguyên tắc liên tưởng
“ý này gọi ý kia” của bộ não. Ở vị trí trung tâm của bản đồ là một hình ảnh hay
một từ khoá thể hiện một ý tưởng hay một khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm đó
được nối với các hình ảnh hay từ khoá cấp 1 bằng các nhánh chính. Từ các
nhánh chính đó lại có sự phân nhánh đến từ khoá cấp 2, để nghiên cứu sâu hơn.
Cứ thế sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được nối
tiếp với nhau. Chính sự liên kết này tạo ra một bức tranh tổng thể mô tả về ý
trung tâm đầy đủ, rõ ràng.
Theo thầy Hoàng Đức Huy, giáo viên quận 4 - Thành phố Hồ Chí Minh nói:
bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn nhỏ mọc xung
quanh cái cây ở giữa bản đồ tư duy là một ý tưởng chính hay là hình ảnh trung

tâm. Nối với nó là các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh
nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân
nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức hình ảnh luôn được nối kết lại với nhau.
Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể ” mô tả ý tưởng trung tâm.




11
1.1.1.3. Các loại bản đồ tư duy
Có 3 loại bản đồ tư duy cơ bản nhằm giúp học sinh sắp xếp kiến thức và học
tập một cách sáng tạo, hiệu quả.
 Bản đồ tư duy theo đề cương
Dạng đầu tiên là bản đồ tư duy theo đề cương (còn gọi là bản đồ tư duy
tổng quát). Dạng này được tạo ra dựa trên bảng mục lục trong sách.
Dạng bản đồ tư duy này mang lại một cái nhìn tổng quát về toàn bộ môn
học. Những bản đồ tư duy theo đề cương khổng lồ về môn học dán trên tường sẽ
rất hữu ích cho bạn. Chúng giúp bạn có khái niệm về số lượng kiến thức bạn
chuẩn bị cho bài thi. Bạn nên tạo bản đồ tư duy cho mỗi môn học.
 Bản đồ tư duy theo chương
Kế tiếp bạn phải vẽ bản đồ tư duy cho từng chương sách riêng biệt. Đối
với các chương sách ngắn khoảng 10 - 12 trang, bạn có thể tập trung tất cả thông
tin trên một trang bản đồ tư duy.
 Bản đồ tư duy theo đoạn văn
Đối với những chương sách dài khoảng 20 trang trở lên, bạn có thể cần
đến bản đồ tư duy theo đoạn văn:
Chúng ta sẽ tiếp cận theo từng đoạn văn nhỏ trong sách. Mỗi bản đồ tư
duy dùng để sáng tác một đoạn văn, hoặc một đoạn trích trong sách.
Bản đồ tư duy theo đoạn văn giúp học sinh tiết kiệm thời gian ôn lại
những thông tin cần thiết mà không cần đọc lại đoạn văn đó. Bạn có thể vẽ

những bản đồ tư duy tí hon này lên những nhãn dán nhỏ và đính chúng trong
sách giáo khoa của bạn.



12
1.1.1.4. Giới thiệu một số phần mềm sử dụng bản đồ tư duy
Bản đồ tư duy có thể sử dụng được với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào
của các trường học hiện nay. Có thể, thiết kế bản đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng
phụ… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm bản đồ tư duy. Vì vậy, học sinh
có thể sử dụng phong phú các kiểu bản đồ tư duy trong quá trình học tập của
mình, khơi gợi sự hứng thú trong quá trình học tập.
Với các trường có điều kiện cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin tốt có thể
cài vào máy tính phần mềm Mindmaps cho giáo viên, học sinh sử dụng bằng
cách vào trang Web: www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ
“mindmaps” ta có thể tải về bản miễn phí Concept draw mindmap 5
profersional, việc sử dụng phần mềm này khá đơn giản.
Vận dụng bản đồ tư duy trong những giờ ôn tập hay phần củng cố sau mỗi
bài học. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh chuẩn bị từ đầu năm một cuốn vở
riêng dành cho việc tự vẽ bản đồ tư duy theo tiến trình từ đầu năm học đến cuối
năm học. Như vậy, các em đã có trong tay: “một cuốn cẩm nang” hệ thống hóa
kiến thức để nhìn vào đó các em sẽ có phương pháp ôn tập có hiệu quả. Cần lựa
chọn kiến thức trọng tâm nhất để vẽ bản đồ tư duy. Ở trên lớp để tránh mất
nhiều thời gian với những bài học dung lượng lớn, kiến thức nhiều, giáo viên
nên hướng dẫn cho học sinh sử dụng: “sơ đồ xương cá”.
1.1.2. Cơ sở tâm lý - giáo dục học
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức
Theo lý luận dạy học Văn hiện đại, trên cơ sở phân tích quá trình dạy
học dưới ánh sáng của lí thuyết nhận thức phản ánh Mác - Lênin, chúng ta thấy
rõ bản chất của quá trình dạy học nói chung và hoạt động đọc - hiểu một tác

phẩm văn học nói riêng. Vì thế, dạy học phải thực hiện được sự thống nhất của
dạy và học trong đó dạy chỉ đạo học, học vừa được chỉ đạo, vừa tự chỉ đạo. Để
thực hiện sự thống nhất hữu cơ của việc dạy và học, cần phải lựa chọn được
phương pháp dạy học thích hợp phát triển tư duy cho học sinh.
Như vậy, nghề dạy học đòi hỏi giáo viên có kĩ năng sư phạm, trong kĩ
năng tổ chức bài học giữa vai trò quan trọng nhất. Người giáo viên không chỉ lên
lớp truyền đạt những kiến thức cơ bản mà phải làm cho học sinh phát hiện, tìm
tòi, lĩnh hội tri thức mới. Những đặc điểm cơ bản của tư tưởng dạy học này là:
xem người học vừa là mục đích, vừa là chủ thể của quá trình học tập, người học
chủ động, tích cực tham gia vào quá trình dạy học. Do đó vai trò sáng tạo của
người học được phát huy và giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu sắc,

13
tay nghề vững vàng, óc sáng tạo mới, đóng vai trò là người tổ chức, người
trọng tài để có thể gợi mở, trợ giúp, hướng dẫn, đánh giá được năng lực, trình
độ của học sinh. Đây là một trong những cơ sở của việc lựa chọn sử dụng bản
đồ tư duy, kết hợp với các phương pháp dạy học truyền thống khác nhằm đạt
hiệu quả dạy học cao.
1.1.2.2. Tính vừa sức của học sinh trong học tập
Tính vừa sức cũng là một vấn đề chúng ta cần quan tâm. Một số nhà tâm
lý học quan niệm về tính vừa sức biểu hiện ở nội dung và phương pháp giảng
dạy phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh nhờ đó học sinh nắm vững được tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo. Học sinh có thể hiểu được những điều vừa sức, không
vượt quá trí lực của các em. Thực tế khó có một chuẩn mực để đánh giá thế nào
là vừa sức nhưng ta có thể hiểu một cách đơn giản là học sinh hiểu được bài,
tiếp thu những kiến thức không căng thẳng, gò bó hay mệt mỏi, học sinh có
hứng thú học tập. Do vậy, “sức” không phải là chỉ số cố định, đồng loạt cho mọi
đối tượng, mọi địa bàn… Nó là trình độ vốn có của học sinh, là khả năng nhận
thức của học sinh, là điều kiện và hoàn cảnh học tập của học sinh và giáo viên là
người có thể tạo ra “sức” cho học sinh.

Với quan điểm đó, chúng tôi cho rằng sử dụng bản đồ tư duy giúp học sinh
đọc - hiểu một tác phẩm văn học cụ thể là phù hợp với trình độ nhận thức của học
sinh phổ thông nói chung và học sinh THPT nói riêng. Tuỳ theo từng loại trình độ
học sinh mà giáo viên lựa chọn bản đồ tư duy cho phù hợp. Ngoài ra, giáo viên cần
dạy cho học sinh biết cách tự học bằng bản đồ tư duy, tạo cho các em có thể tiếp
nhận kiến thức, ghi nhớ kiến thức một cách hệ thống và tìm tòi khám phá tri thức
mới, thông qua việc thể hiện sáng tạo sơ đồ tư duy ở từng bài học.
1.1.3. Cơ sở khoa học
Từ trước tới nay, chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các kí tự,
đường thẳng, con số theo trật tự tuyến tính. Nghĩa là chúng ta mới chỉ sử dụng ½
bộ não trái mà chưa sử dụng kĩ năng não bên phải – nơi giúp chúng ta xử lý các
thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mở rộng. Các nhà khoa học
chỉ ra rằng não của con người gồm hai bán cầu: não phải và não trái. Não phải
nhạy cảm với các thông tin về màu sắc, nhịp điệu, hình dạng, tưởng
tượng…những yếu tố đó sẽ tác động kích thích lên não trái. Não trái thích hợp
với các từ ngữ, con số, tư duy và phân tích cho ra sản phẩm. Do đó, người ta tìm
cách kích não phải tốt nhất và khi hai bán cầu não có sự tương tác, tác động kích
thích lẫn nhau nó sẽ đem đến cho con người những khả năng to lớn.

14
Dựa trên đặc điểm đó của não bộ, TonyBuzan đã sáng tạo ra bản đồ tư
duy theo nguyên lý hoạt động của bộ não. Bản đồ tư duy không chỉ sử dụng
những chữ số, các dòng kẻ mà còn có thể sử dụng cả màu sắc và hình ảnh. Các
dòng kẻ, chuỗi chữ và các danh sách được xử lý bằng các chức năng thần kinh
của não trái. Đây là bán cầu não được sử dụng trong công việc bình thường. Do
đó, khi sử dụng nó tư duy sáng tạo của con người bị hạn chế. Để thực sự trở nên
sáng tạo, chúng ta cần sử dụng trí tưởng tượng - chức năng hoạt động của bán
cầu não phải như sự tri giác màu sắc, hình ảnh, nhịp điệu, không gian.
Với đặc điểm trên, bản đồ tư duy kết hợp với hoạt động của bán cầu não
trái và não phải. Điều này giải thích vì sao chúng ta có thể phát huy toàn bộ mọi

khả năng tư duy của mình khi sử dụng bản đồ tư duy. Như vậy, bản đồ tư duy là
một công cụ hỗ trợ tư duy hiện đại, một kĩ năng sử dụng bộ não rất mới mẻ. Đó
là một kĩ thuật hình hoạ, một dạng sơ đồ kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, màu sắc,
phù hợp với cấu trúc hoạt động của bộ não.
Như vậy, bản đồ tư duy có thể kiểm tra được toàn bộ kiến thức cơ bản về
một tác phẩm văn học từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra bản đồ tư
duy còn giúp cho các em các vấn đề phản ánh trong tác phẩm văn học thông qua ý
đồ của nhà văn, giúp các em chuẩn bị cho mình hành trang về kiến thức, kĩ năng về
cuộc sống. Và giáo viên bằng kinh nghịêm, sự từng trải và chuyên môn của mình tổ
chức hoạt động dạy và học sao cho đạt kết quả học tập cao nhất.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Thực trạng dạy học ở Trường THPT Yên Mô B – Ninh Bình
Trường THPT YÊN MÔ B – Ninh Bình được thành lập vào tháng 8 năm
1971, đến nay đã được 42 năm. Nhà trường có truyền thống hiếu học và đạt
được nhiều thành tích cao trong dạy và học. Năm học 2010 - 2012, nhà trường có
tổng số giáo viên là 83 giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy. Giáo viên có trình độ
chuyên môn: 83/83 giáo viên đạt chuẩn. Nhà trường có 06 tổ chuyên môn, 01 tổ
hành chính. Tập thể sư phạm đoàn kết, nhất trí, có tinh thần trách nhiệm cao, cán
bộ giáo viên không sinh con thứ ba, chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, tổ bộ môn Văn - Sử có 13 giáo viên trực
tiếp tham gia giảng dạy. Với tổ trưởng là cô Phạm Thị Nhung, tổ phó là thầy
Nguyễn Minh An, riêng tổ Văn có 09 giáo viên trong đó có 02 Thạc Sĩ còn lại các
giáo viên chủ yếu tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, Đại học Sư phạm Thái Nguyên… Hầu hết, giáo viên trong tổ Văn có tuổi
đời còn trẻ, giàu nhiệt huyết luôn có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp nên đã
khắc phục được những khó khăn, từng bước đổi mới phương pháp dạy học mang

15
đến cách tiếp nhận bài học khá mới mẻ, tạo được sức hấp dẫn học sinh trong học
tập môn Ngữ Văn nói riêng và học tập các môn khác nói chung.

Hơn nữa, giáo viên không ngừng học tập trau rồi kiến thức tiếp cận với các
phương pháp dạy học đem lại kết quả cao, đạt được nhiều thành tích nổi bật năm
học 2012: có 03 giáo viên đạt loại giỏi cấp tỉnh là Phạm Thị Nhung, Đinh Thị Huệ,
Nguyễn Thị Bích Ngọc. Như vậy, các thầy cô trong tổ Văn luôn nỗ lực cố gắng dạy
và học góp phần vào sự nghiệp giáo dục của nhà trường và nhà nước.
Bên cạnh đó, nhà trường đã có cơ sở vật chất tương đối hoàn chỉnh phục vụ
cho quá trình dạy học, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, tài liệu nghiên cứu đã
đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Trang
thiết bị dạy học tương đối hoàn thiện, có 02 phòng máy tính, 01 phòng chức
năng. Song, nhà trường cũng còn có một số khó khăn, cụ thể như: phòng thí
nghiệm, thư viện, phòng thực hành còn chưa đáp ứng hết nhu cầu dạy và học,
học sinh đi học ở xa trường…
1.2.2. Tìm hiểu thực trạng dạy và học tác phẩm văn học ở nhà
trường THPT
Như chúng ta đã biết học tác phẩm văn học ở nhà trường THPT là một
phần quan trọng không thể thiếu. Bởi lẽ, tác phẩm văn học mang lại những nét
đẹp trong cuộc sống. Và, cuộc sống được phản ánh vào trong văn học một cách
sinh động, đầy sắc màu. Mặt khác, ở nhà trường phổ thông, học sinh được học
nhiều tác giả cũng như các tác phẩm văn học nổi tiếng từ trong nước đến các tác
phẩm nước ngoài. Đăc biệt, trong chương trình Ngữ Văn lớp 12, tác giả Nguyễn
Minh Châu là một tác giả có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam.
Với tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa” được dạy vào tuần thứ 24, dạy trong hai
tiết, dạy và học theo chương trình cơ bản. Nguyễn Minh Châu, đã đề cập tới một
vấn đề xã hội mới, đó là vấn đề bạo lực gia đình. Đây là một vấn đề xã hội đang
gây nhức nhối dư luận và được xã hội quan tâm.
Tác giả Nguyễn Minh Châu cũng như các tác phẩm của ông được đề cập
tới trong nhiều đề thi tốt nghiệp, thi tuyển sinh vào Đại học - Cao đẳng. Vì thế,
Nguyễn Minh Châu đã được quan tâm tìm hiểu và giảng dạy ở nhà trường phổ
thông ngay từ bậc THCS với truyện ngắn: “Bức tranh”, và lên đến THPT học
sinh được học tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa”.

1.2.3. Hoạt động dạy học sử dụng bản đồ tu duy của giáo viên hiện nay
Trong thực tế dạy học, chúng ta từng thấy một số giáo viên trong quá
trình lên lớp đã dùng những sơ đồ, những mô hình để đọc - hiểu một tác phẩm

16
văn học. Tuy nhiên, việc ứng dụng này trong dạy học chủ yếu là kinh nghiệm.
Phần lớn giáo viên chưa hiểu rõ, chưa hiểu tường tận về bản đồ tư duy. Nhưng
việc chưa được tiếp cận về bản đồ tư duy như vậy không có nghĩa là giáo viên
không sử dụng được nó. Hơn nữa, việc sử dụng bản đồ tư duy chưa thực sự trở
thành ý thức thường trực của người giáo viên. Vì vậy, kết quả dạy học không
phải lúc nào cũng mang lại những điều giáo viên mong muốn. Mặc dù, giáo viên
có thành công hay thất bại trong sử dụng bản đồ tư duy đã cho thấy bản đồ tư
duy đã đi vào thực tế dạy học. Vì thế, giáo viên cần phải có thêm những hiểu
biết về bản đồ tư duy cộng với những kinh nghiệm đã tích luỹ trong nhiều năm
học, góp phần vào đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông.
Mặt khác, việc đọc - hiểu một tác phẩm văn học gặp nhiều khó khăn. Đó là
dung lượng mỗi tiết rất dài và có độ khái quát rất lớn. Để giờ dạy có hiệu quả thì
người dạy và người học phải tập trung cao độ, phải được chuẩn bị kĩ nếu không sẽ
thiếu thời gian. Trong khi đó, kiến thức phần này lại khái quát, trừu tượng không
phải học sinh nào cũng hứng thú, thoải mái khi học thậm chí còn mệt mỏi. Vì thế, sử
dụng bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh khắc phục tình trạng này.
Hiện nay, việc sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy Văn ở nhà trường
phổ thông không chỉ ở dạng tiềm năng mà đã trở thành hiện thực có tính khả thi.
Giáo viên đã và đang không ngừng tìm tòi, tích luỹ những kiến thức vền bản đồ
tư duy góp phần tạo nên sự đổi mới về phương pháp dạy học trong những thời
điểm cụ thể. Vì thế, bản đồ tư duy được đưa vào ứng dụng trong dạy học một
cách có tổ chức, khoa học, hệ thống… sẽ góp phần tạo nên sự đổi mới về
phương pháp dạy học đem lại hiệu quả cao trong dạy học một tác phẩm văn học.
Như vậy, từ thực tế việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học của giáo viên
hiện nay, ta thấy điều quan trọng nhất là phải trang bị cho họ những kiến thức cơ

bản về bản đồ tư duy. Từ những kiến thức được trang bị, người giáo viên có thể
vận dụng một cách linh hoạt bản đồ tư duy cho từng tiết học cụ thể, có thể coi đó là
một công cụ, một phương tiện, một phương pháp dạy học hữu hiệu.
1.2.4. Hoạt động học tập của học sinh Trường THPT YÊN MÔ B –
Ninh Bình
Năm học 2010 - 2011, toàn trường có 1472 đoàn viên và 33 lớp học. Học
sinh chăm ngoan học giỏi, luôn đạt những thành tích nổi bật:
 Chất lượng giáo dục đạo đức
Tỷ lệ học sinh của ba khối xếp loại hạnh kiểm khá, tốt hàng năm đều tăng
từ 95% trở lên, không có loại yếu, học sinh chăm ngoan.

17
Năm học
Số học
sinh
Tốt
Khá
Trung bình
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
2008 – 2009
1530
1256
82,09
219
14,31

55
3,59
2009 – 2010
1494
1235
82,66
214
14,32
45
3,01
2010 – 2011
1472
1214
82,47
213
14,47
43
2,92

 Chất lượng văn hóa
Chất lượng học tập của học sinh ngày một được nâng lên, tỷ lệ đạt khá,
giỏi về học lực tăng, tỷ lệ học lực yếu giảm.
Năm học
Số học
sinh
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số

HS
%
Số
HS
%
Số
HS
%
Số
HS
%
2008 – 2009
1530
1
0,07
438
28,63
1041
63,03
50
3,26
2009 – 2010
1494
15
1,00
637
42,63
812
54,35
45

3,01
2010 – 2011
1472
14
0,95
653
44,36
761
51,69
44
2.98


 Chất lượng thi học sinh giỏi (văn hóa, thể thao, văn nghệ,…)
Kết quả thi học sinh giỏi lớp 12, giải toán trên máy tính cầm tay, văn
nghệ, thể dục, thể thao cấp tỉnh:

Năm học
Số giải
Cấp tỉnh
Nhất
Nhì
Ba
KK
2009 – 2010
20
3
5
07
5

2010 – 2011
25
2
03
08
12
2011 – 2012
28
0
06
15
07



18
Đặc biệt, chất lượng học sinh giỏi môn Văn luôn đạt được nhưng thành
tích nổi bật:
Năm học
Số giải
Cấp tỉnh
Nhất
Nhì
Ba
KK
2009 – 2010
03
0
0
03

0
2010 – 2011
02
0
02
0
0
2011 – 2012
02
0
02
0
0
Nổi bật năm học 2011 - 2012, em Nguyễn Thị Hạnh Nhung đạt giải nhì
cấp tỉnh môn Văn và được chọn vào đội tuyển quốc gia.
 Tỷ lệ thi đỗ vào các trường ĐH, CĐ hàng năm từ 60 – 70%.
Như vậy, chất lượng học sinh không ngừng được nâng cao, dưới sự dẫn
dắt của đội ngũ giáo viên giàu nhiệt tình, tâm huyết nghề nghiệp đã và đang góp
phần vào sự nghiệp giáo dục chung của đất nước.
 Hoạt động học tập môn Ngữ Văn của học sinh Trường THPT
YÊN MÔ B – Ninh Bình
Chúng tôi đã tiến hành lựa chọn và khảo sát thực tế học tập môn Ngữ Văn
nói chung và tiết học phần đọc - hiểu tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa” nói
riêng ở hai lớp: 12 A
1
và 12 A
2
(đây là 2 lớp học theo chương trình chuẩn trường
THPT YÊN MÔ B)
* Về đặc điểm tiếp nhận tác phẩm văn chương của học sinh:

Số lượng học sinh được khảo sát là 90 học sinh/02 lớp (mỗi lớp có 45 học sinh).
Đặc điểm tiếp nhận của các em được đánh giá theo độ tuổi, dân tộc, kiến thức về
môn Văn trong nhà trường và kết quả học tập môn Ngữ Văn.
*Về độ tuổi:
Học sinh tương đối đồng đều. Hầu hết, các em đều sinh năm 1995, có 02/90 học
sinh năm 1994. Ở độ tuổi này hầu hết các em đã có suy nghĩ mang tính chủ quan
cá nhân. Học sinh, có thể tự định hướng cho mình cách khám phá, tiếp nhận một
tác phẩm văn học. Hơn nữa, học sinh đã có sự tích cực chủ động trong học tập
nói chung và học tập môn Ngữ Văn nói riêng.
Bên cạnh đó thì sở thích trong học tập cũng là tiêu chí đánh giá mức độ
tiếp nhận và đặc điểm của học sinh. Trong đó, có 05/90 học sinh thực sự yêu

19
thích môn Văn (5,55%), số học sinh không thích học môn Văn là 02/90 (2,22%),
học sinh ở mức độ bình thường là 83/90 (92,22%)
Như vậy, điểm đáng mừng là số học sinh được khảo sát đều có thái độ
yêu thích môn Văn.
Kết quả học tập môn Văn của học sinh là thang đánh giá một cách xát
thực nhất về đặc điểm tiếp nhận văn học của học sinh. Theo thống kê số liệu từ
kết quả điều tra 02 lớp 12A
1
và 12A
2
Trường THPT YÊN MÔ B, kết quả học
tập của năm học: 2010 - 2011 của học sinh như sau: học lực giỏi 14 học sinh
(0,95%), học lực khá là 652 học sinh (44,37%), học lực trung bình 761 (51,69
%), học lực dưới trung bình là 44 (2,98 %).
Đánh giá chung trên kết quả học tập môn Văn năm học 2010 - 2011 của
học sinh 02 lớp được kháo sát là kết quả học tập ở mức độ trung bình. Như vậy,
khả năng tiếp nhận văn chương của học sinh được đánh giá ở mức độ trung bình.

Nhìn vào đặc điểm về độ tuổi, mức độ yêu thích môn Văn và kết quả học
tập của học sinh thì đặc điêm tiếp nhận văn chương của các em không cao. Đây
cũng là vấn đề mà các thầy cô trực tiếp giảng dạy cũng như bản thân người viết
đề tài muốn nhìn nhận và tìm ra phương pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả
giảng dạy tác phẩm văn học cho học sinh trường THPT YÊN MÔ B.
1.2.5. Một số nhận xét về bản đồ tư duy rút ra từ quá trình dạy học Văn
(*) Về phía giáo viên: bản đồ tư duy là một công cụ một phương tiện dạy học.
Chúng ta thấy rằng một bài lên lớp được tập hợp thành 3 yếu tố cơ bản:
mục đích dạy học, nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Trong 3 yếu tố
này nội dung dạy học đóng một vai trò quan trọng, quyết định chất lượng và
hiệu quả của giờ lên lớp. Do vậy, mối quan tâm hàng đầu hiện nay chính là việc
làm thế nào để thiết kế được nội dung một bài học, làm thế nào để việc thiết kế đó
thể hiện được đầy đủ, chính xác nội dung kiến thức cần truyền thụ. Mặt khác, qua
thiết kế đó, giáo viên vừa có thể giúp học sinh nhận biết, định lượng các đơn vị
kiến thức, vừa có thể giúp các em thấy được mối quan hệ, sự liên hệ giữa các đơn
vị kiến thức ấy. Việc sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh thực hiện điều đó.
Đối với giáo viên trong quá trình dạy Văn, sử dụng bản đồ tư duy để củng
cố kiến thức cho học sinh sau mỗi phần của bài học, sau mỗi bài học hay sau
mỗi chương học một cách rõ ràng, khoa học, vì sử dụng phần mềm bản đồ tư
duy như một hình ảnh trực quan cho học sinh để dễ theo dõi những kiến thức cơ
bản, trọng tâm. Đặc biệt trong những giờ dạy sử dụng trình chiếu, sử dụng phần

×