Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Xung đột kịch trong Vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.48 KB, 50 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

XUNG ĐỘT KỊCH TRONG
VỞ CHÈO CỔ QUAN ÂM THỊ KÍNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo của khoa Ngữ
Văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, đã hết sức nhiệt tình trong quá trình
giảng dạy giúp tôi có những kiến thức quý giá phục vụ trực tiếp cho quá trình
thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Kiều Anh, ngƣời đã
tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận, từ việc định hƣớng,
lựa chọn đề tài đến việc xây dựng đề cƣơng và triển khai khóa luận. Cô đã có
những góp ý cụ thể và luôn luôn động viên để tôi có thể hoàn thành tốt nhiệm
vụ của mình.
Đề tài của tôi chắc hẳn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Tôi rất mong nhận đƣợc sự góp ý chân thành của thầy cô cùng các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2017
Sinh viên


Nguyễn Thị Thùy Trang


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp “Xung đột kịch trong Vở chèo cổ Quan Âm Thị
Kính” đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị Kiều
Anh. Tôi xin cam đoan rằng:
Các số liệu và tài liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực và có xuất
xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Thùy Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 6
8. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 6
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT KỊCH VÀ CƠ SỞ XUNG ĐỘT
KỊCH TRONG VỞ CHÈO CỔ QUAN ÂM THỊ KÍNH .................................... 7
1.1. Khái niệm kịch ........................................................................................... 7
1.2. Xung đột kịch ............................................................................................. 9
1.3. Cơ sở xung đột kịch trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính ..................... 12

CHƢƠNG II: LOẠI HÌNH XUNG ĐỘT KỊCH VÀ NGHỆ THUẬT XÂY
DỰNG XUNG ĐỘT KỊCH TRONG VỞ CHÈO CỔ QUAN ÂM THỊ KÍNH
......................................................................................................................... 15
2.1. Loại hình xung đột kịch ........................................................................... 15
2.1.1. Xung đột cá nhân .................................................................................. 16
2.1.2. Xung đột xã hội ..................................................................................... 21
2.2. Nghệ thuật xây dựng xung đột kịch ......................................................... 27
2.2.1. Trong ngôn ngữ của nhân vật................................................................ 28
2.2.2. Trong hành động của nhân vật .............................................................. 34
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chèo là một loại kịch hát dân gian truyền thống của ngƣời Việt chủ yếu
thịnh hành ở các tỉnh miền Bắc, từ Nghệ An, Hà Tĩnh trở ra, trung tâm là
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các
loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức
kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phƣơng tiện giao lƣu
với công chúng, và có thể đƣợc biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian
đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc
điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phƣơng
pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ƣớc lệ và cách điệu. Ngôn ngữ
chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu
ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
Tuy chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch nhƣ trong sân
khấu châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thƣờng ứng diễn. Song, mỗi
vở chèo đều có đan xen xung đột kịch vào trong tác phẩm. Trong chèo, xung

đột kịch không đƣợc nổi bật và chú trọng nhƣ trong thể loại kịch nhƣng đây
vẫn đƣợc xem nhƣ một đặc điểm không thể thiếu của chèo.
Với Quan Âm Thị Kính - một vở chèo nổi tiếng của Việt Nam, từ trƣớc
tới nay đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đƣợc đề cập tới. Tuy nhiên, các công
trình đó chủ yếu mới chỉ đi sâu vào tìm hiểu tƣ tƣởng Phật giáo, hay hệ thống
nhân vật trong tác phẩm chứ chƣa chú trọng đến vấn đề xung đột. Vì vậy,
chọn đề tài: “Xung đột kịch trong Vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính”, chúng
tôi mong muốn góp thêm vào công trình nghiên cứu tác phẩm chèo cổ Quan
Âm Thị Kính khẳng định sự phong phú về đặc trƣng thể loại cũng nhƣ góp
phần nâng cao giá trị của tác phẩm.

1


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam, tích truyện Quan Âm Thị Kính đƣợc lƣu truyền trong dân
gian từ lâu qua một số loại nghệ thuật dân gian nhƣ: hát chèo, cải lƣơng, kịch,
truyện thơ và truyện văn xuôi. Vở chèo Quan Âm Thị Kính ra đời trƣớc, sau
đó mới tới truyện thơ rồi chuyển thể qua kịch ảnh. Truyện thơ Quan Âm Thị
Kính từ lâu vẫn đƣợc xem là một tác phẩm khuyết danh vì chƣa rõ thời gian
cũng nhƣ tác giả. Tuy nhiên, qua một số công trình nghiên cứu và dựa vào các
cuốn gia phả còn đƣợc gìn giữ, hiện có hai giả thiết khác nhau về vấn đề tác
giả của Quan Âm Thị Kính nhƣ sau:
Theo nhà nghiên cứu Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977), tác giả
của truyện thơ này là Nguyễn Cấp, một nhà văn sống vào nửa đầu thế kỉ XIX.
Theo gia phả họ Đỗ ở Bắc Ninh do Dƣơng Xuân Thự cung cấp, thì truyện
thơ Quan Âm Thị Kính do Đỗ Trọng Dƣ (1786-1868) sáng tác.
Đề cập về vấn đề tác giả của tác phẩm này, GS. Nguyễn Huệ Chi có ý
kiến nhƣ sau: “Chƣa rõ hai giả thuyết trên, thuyết nào gần chân lý hơn. Cũng
có thể cả hai ngƣời, Nguyễn Cấp và Đỗ Trọng Dƣ đều có liên quan đến việc

cho ra đời tác phẩm Quan Âm Thị Kính… Tuy nhiên có phần chắc Đỗ Trọng
Dƣ là ngƣời soạn sau, vì bản in sớm nhất truyện thơ Quan Âm Thị Kính hiện
còn là vào năm Tự Đức 21 (1868).”[13]
Nhƣ vậy, cho đến nay, vấn đề xuất xứ, nguồn gốc cũng nhƣ tác giả cụ
thể của Quan Âm Thị Kính vẫn còn là những nghi vấn văn học chƣa đƣợc
sáng tỏ và vẫn còn là vấn đề đáng quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Ngoài việc vẫn còn nhiều sự tranh cãi trong việc nghiên cứu nguồn gốc
của tác phẩm, thì vấn đề tƣ tƣởng, nhân văn cũng đƣợc các nhà nghiên cứu
chú trọng. Năm 2004, GS. Nguyễn Huệ Chi trong cuốn Từ điển văn học
(bộ mới), đƣa ra những nhận định cơ bản về tác giả Quan Âm Thị Kính: Nhân
vật Thị Kính từ lâu đã trở thành một điển hình sắc sảo cho số phận của ngƣời

2


phụ nữ trong xã hội cũ, nơi tập trung chồng chất mọi nỗi bất công, oan nghiệt.
Và thông qua cuộc đời Thị Kính, bức tranh ngang trái đầy mâu thuẫn của xã
hội phong kiến thời tác giả sống, hiện lên thật rõ nét... Thêm vào đó, “bút
pháp viết truyện của tác giả thật già dặn, lời thơ nhiều chỗ điêu luyện, chải
chuốt (châm biếm hóm hỉnh, nhƣ khi nói về Thị Mầu; dồi dào cảm xúc nhƣ
khi nói về cái chết của Thị Kính) nên càng tăng sức phổ biến của tác phẩm
(câu thành ngữ "Oan nhƣ Thị Kính" quen thuộc của ngƣời Việt đã chứng tỏ
sức sống của câu chuyện)... Tuy nhiên, triết lý "nhẫn nhục" cũng đã làm cho
truyện thiếu đi một sức phản kháng cần thiết”[16].
Hay trong vấn đề tƣ tƣởng, tôn giáo theo GS. Thanh Lãng: Tƣ tƣởng
trong Quan Âm Thị Kính là tƣ tƣởng Phật giáo. Đời là một bể khổ mà mỗi
ngƣời là một con thuyền vô trạo, một cánh bèo trôi dạt ở bến mê. Đời Thị
Kính là một thí dụ. Đời buồn là thế, chúng sinh muốn hết khổ thì phải tìm đến
con đƣờng tu hành. Do vậy, luân lý của truyện có thể tóm lại ở câu:
Nhân sinh thành Phật dễ đâu,

Tu thân, cứu khổ, rồi sau mới thành.
Cũng cùng nghiên cứu về đạo Phật, theo GS. Phạm Thế Ngũ: Quan Âm
Thị Kính chính là một lời cảnh báo cho những ngƣời chọn con đƣờng thanh
nhàn khi đi tìm tới đạo Phật. Để đắc đạo, ngƣời ta không những phải chỉ chịu
khổ hạnh, mà còn phải chịu những oan ức bất công nữa... Nhƣ Thị Kính, oan
uổng đến vậy mà không hề oán trách trời và số phận, chỉ lấy từ tâm mà chiến
thắng cảnh ngộ...
Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa,
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.
Năm 2012, trong tạp chí Văn hóa Phật giáo số 18 tác giả Thích Huệ
Thiện có bài Quan Âm Thị Kính và cách nghĩ của người Việt về người phụ
nữ Việt đã nêu rõ quan điểm trong cách nhìn nhận về ngƣời phụ nữ trong xã

3


hội xƣa, tuy ngƣời phụ nữ ấy chịu nhiều bất hạnh và bi kịch trong cuộc đời
nhƣng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất và nhân cách cao đẹp, đó là sự nhẫn
nhục, chịu đựng trong mọi hoàn cảnh và tình huống éo le, ngang trái.
Năm 2015, trong tạp chí Từ điển học và bách khoa thư Việt Nam, tác
giả Nguyễn Thị Việt Hằng có bài Hệ thống ngôn từ diễn tả nội dung Phật
giáo trong tác phẩm Quan Âm Thị Kính. Bài viết đã thống kê, giải nghĩa hệ
thống ngôn từ Phật giáo và nêu lên ý nghĩa của hệ thống ngôn từ thể hiện nội
dung Phật giáo trong tác phẩm. Trong bài viết có đoạn “Quan Âm Thị Kính là
một tác phẩm tôn giáo kể về Phật Quan Âm Thị Kính, song bằng tài năng của
mình tác giả đã tạo nên một tác phẩm đầy xúc động về số phận đau khổ, oan
khuất của ngƣời phụ nữ. Có lẽ vì vậy mà cái đích tôn giáo đã mờ đi so với
việc diễn tả về thân phận con ngƣời, tuy thế, nội dung câu chuyện Thị Kính
đắc đạo thành Phật cùng với những quan niệm cơ bản của Đạo phật vẫn hiện
lên rõ rệt qua hệ thống ngôn từ chuyên biệt cũng nhƣ hệ thống ngôn từ ngoài

Phật giáo trong tác phẩm”[13].
Ngoài các công trình nghiên cứu và lời nhận định trên, còn có những
đầu sách nghiên cứu cụ thể về tác phẩm nhƣ: Dƣơng Quảng Hàm, Việt Nam
thi văn hợp tuyển (mục “Quan Âm Thị Kính”), trung tâm học liệu xuất bản,
bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968; Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt
Nam (Quyển Thƣợng), Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất
bản; Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển Trung,
đề mục "Truyện Quan Âm Thị Kính"), Quốc học tùng thƣ, Sài Gòn, không
ghi năm xuất bản; Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ
điển (Quyển Hạ), mục từ “Thị Kính". Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn,
1967.
Nhƣ vậy, tác phẩm Quan Âm Thị Kính đã có nhiều hƣớng nghiên cứu
khác nhau với nhiều quan điểm của các tác giả, cũng nhƣ những vấn đề chủ

4


đạo của tác phẩm. Tất cả những công trình nghiên cứu trên sẽ là những cơ sở
quan trọng và cần thiết cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi trong việc đi
sâu khai thác vấn đề xung đột trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính.
3. Mục đích nghiên cứu vấn đề
Mục đích nghiên cứu của đề tài là mong muốn tìm hiểu, khám phá một
số loại hình xung đột trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính, cũng nhƣ chỉ ra
những phƣơng thức giải quyết và nghệ thuật xây dựng xung đột kịch.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các yếu tố tác động, chi phối và hình thành xung đột kịch.
- Khẳng định, vị trí và những đóng góp của Quan Âm Thị Kính đối với
sự phát triển của nghệ thuật sân khấu kịch Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu những xung

đột trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trong phạm vi tác phẩm Quan Âm Thị Kính từ văn bản kịch bản cho tới
vở diễn trên sân khấu.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp phân tích
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp loại hình
- Phƣơng pháp tổng hợp hệ thống hóa

5


7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận là công trình nghiên cứu một cách hệ thống những xung đột
kịch trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính, nhằm khẳng định những thành
công trong việc xây dựng nghệ thuật xung đột kịch của tác phẩm. Những kết
quả nghiên cứu có thể đƣợc sử dụng trong giảng dạy, học tập bộ môn Lý luận
văn học và Văn học Việt Nam.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm hai chƣơng:
Chƣơng 1: Lý luận về xung đột kịch và cơ sở xung đột kịch trong vở
chèo cổ Quan Âm Thị Kính
Chƣơng 2: Loại hình xung đột kịch và nghệ thuật xây dựng xung đột
kịch trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính

6



CHƢƠNG I: LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT KỊCH VÀ CƠ SỞ XUNG ĐỘT
KỊCH TRONG VỞ CHÈO CỔ QUAN ÂM THỊ KÍNH
1.1. Khái niệm kịch
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” [1;167,168,169] thuật ngữ kịch đƣợc
dùng theo hai cấp độ.
Ở cấp độ loại hình, kịch là một trong ba phƣơng thức cơ bản của văn
học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu, vừa thuộc văn học. Nó
vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phƣơng diện văn
học của kịch, song nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của
diễn viên bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói (riêng kịch câm thì
không diễn tả bằng lời).
Kịch đƣợc xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột muôn thuở mang tính toàn nhân loại (nhƣ giữa thiện và ác,
cao cả và thấp hèn, ƣớc mơ và hiện thực...). Những xung đột ấy đƣợc thể hiện
bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và
theo những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thƣờng chứa
đựng nhiều kịch tính, tức là những căng thẳng do tình huống tạo ra đối với
nhân vật.
Phần lớn kịch đƣợc xây dựng trên hành động bên ngoài dƣới những
diễn biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại của
các nhân vật. Tuy nhiên cũng có những hành động bên trong, qua đó nhân vật
chủ yếu là suy ngẫm và sự chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết
sức căng thẳng.
Trong kịch, những lời phát biểu của các nhân vật (trong đối thoại hoặc
độc thoại) nói lên hành động, ý chí và sự tự khám phá tích cực của họ có một
ý nghĩa quyết định. Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của nhân vật về
những điều đã qua, sự thông báo của ngƣời dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của

7



tác giả trong kịch bản) chỉ đóng vai trò thứ yếu và nhiều khi không cần đến.
Về mặt kết cấu, vở kịch thƣờng chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra
sự trùng khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch đồng thời làm cho
cái đƣợc trình diễn mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thế kỷ khác
nhau, mối quan hệ giữa 3 yếu tố: thời gian, địa điểm, hành động trong kết cấu
của kịch không ngừng thay đổi tùy theo quan niệm của ngƣời sáng tạo và quy
mô, tầm vóc của những sự kiện, biến cố đƣợc phản ánh.
Trên cấp độ loại hình, kịch gồm nhiều thể loại: bi kịch, hài kịch, chính
kịch, cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau.
Ở cấp độ thể loại, thuật ngữ kịch đƣợc dùng để chỉ một thể loại văn học
- sân khấu có vị trí tƣơng đƣơng với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch
cũng gọi là chính kịch (hoặc kịch drama). Cũng giống nhƣ hài kịch, kịch tái
hiện cuộc sống riêng của con ngƣời bình thƣờng nhƣng mục đích chính không
phải là cƣời nhạo, chế giễu thói hƣ tật xấu, mà là mô tả cá nhân trong các mối
quan hệ chứa đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống nhƣ bi kịch, kịch
tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó không căng
thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể giải
quyết đƣợc ổn thỏa, còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi
thƣờng.
Kịch hình thành nhƣ một thể loại vào nửa sau thế kỉ XVIII qua sáng tác
của các nhà Khai sáng ở Pháp và Đức nhƣ Đi-đơ-rô (1713 – 1784), Bô-mácse (1732 – 1799). G.E.Lect-xing (1729 – 1781)… nó hƣớng về những lợi ích
tinh thần đạo đức, về lý tƣởng của các lực lƣợng dân chủ tiến bộ đƣơng thời.
Trong quá trình phát triển của kịch, tính kịch bên trong của nó ngày càng cô
đọng, dồn nén hơn. Nó cũng tiếp nhận những thủ pháp nghệ thuật, những
phƣơng tiện biểu đạt của các thể loại văn học sân khấu khác nhƣ bi hài kịch,
kịch hề… để tăng thêm sức hấp dẫn và tác động nghệ thuật của nó đối với

8



công chúng.
Ở Việt Nam, kịch ra đời vào cuối những năm 20 của thế kỉ XX, với
những sáng tác nhƣ: Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Kim tiền của Vi
Huyền Đắc… Từ sau cách mạng tháng Tám, kịch ngày càng chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống văn học - sân khấu và xã hội ở nƣớc ta.
1.2. Xung đột kịch
Xung đột là “Sự đối lập, sự mâu thuẫn đƣợc dung nhƣ một nguyên tắc
để xây dựng các mối quan hệ tƣơng tác giữa các hình tƣợng của tác phẩm
nghệ thuật”[4;358]. Thực tế chứng minh mọi tác phẩm văn học dù là tự sự
hay trữ tình đều phải chứa đựng trong đó những mâu thuẫn, xung đột. nếu
nhƣ ở thơ, đặc trƣng đầu tiên đƣợc coi là cơ sở, là yếu tố cảm xúc, tâm trạng
chủ quan; với tiểu thuyết là sự mô tả mang tính khách quan về đời sống xã hội
và con ngƣời thì riêng với kịch là xung đột, kịch bắt đầu từ xung đột. Pha-đêép đã cho rằng “xung đột là cơ sở của kịch” nó là biểu hiện tập trung nhất, là
cơ sở cho mọi sáng tạo nghệ thuật.
Căn cứ vào lịch sử phát triển của nghệ thuật sân khấu xung đột kịch
đƣợc hiểu theo hai nghĩa rộng, hẹp khác nhau: Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột
trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều
lực lƣợng tƣơng đối độc lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí
cụ thể đƣợc thể hiện trong mỗi màn kịch có thể có rất nhiều loại xung đột
khác nhau. Có xung đột biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của nhân vật, có
xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối phƣơng giữa hai
lực lƣợng. Do tính chất sân khấu quy định cho nên trong khi phản ánh hiện
thực tác giả kịch bản buộc phải bƣớc vào những mâu thuẫn trong cuộc sống
đã phát triển đến chỗ xung đột đòi hỏi phải đƣợc giải quyết bằng cách này hay
cách khác. Hiểu theo nghĩa rộng, xung đột cần phản ánh những mâu thuẫn cơ
bản của xã hội và thời đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể, ở

9



những thời đại khác nhau có những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại đó là
những xung đột giữa thế giới quan thần linh, từ định mệnh với khát vọng làm
chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân của mỗi con ngƣời nhƣ trong vở Prômêtê bị
xiềng (Ex-khin)… Trong xã hội nô lệ thì đó là xung đột giữa những ngƣời nô
lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô, còn trong xã hội phong kiến
đó là xung đột giữa một bên uy quyền của vua chúa, quan lại với ngƣời dân bị
áp bức và đòi đƣợc giải phóng. Trong thời kì hiện đại, những xung đột thƣờng
xoay quanh những vấn đề cách mạng - phản cách mạng, cái thiện - cái ác, cái
mới - cái cũ, cái tốt - cái xấu… Xung đột do tính chất sân khấu quy định đồng
thời xung đột làm cho kịch có tính sân khấu, sức hấp dẫn của một vở kịch là ở
chỗ nhà văn phải phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn nhỏ trong
vở kịch. Các yếu tố khác của vở kịch phải góp phần tô đậm xung đột và dẫn
đến một kết cục sâu sắc, gần gũi với những vấn đề của cuộc sống, bởi vậy nói
tới kịch mà bỏ qua yếu tố xung đột là một thiếu sót lớn.
Trong kịch, xung đột “Chi phối trực tiếp đến cấu trúc tác phẩm, đến
nhịp độ dồn dập khác thƣờng của cốt truyện, xung đột là động lực thúc đẩy
của hành động kịch nhằm xác lập lên những mối quan hệ giữa các nhân vật
vốn đƣợc coi là kết thúc tất yếu của tác phẩm kịch, thiếu xung đột, tác phẩm
sẽ mất đi đặc trƣng đầu tiên của thể loại, sẽ trở thành vô nghĩa hay chỉ có thể
là vở kịch tồi”[2;202]. Vì vậy ngƣời nghệ sĩ phải có sự nghiên cứu công phu,
kĩ lƣỡng, sự tìm tòi và phát hiện hiện thực. Đồng thời phải có một cảm quan
tinh nhanh, một sự nhạy bén trong nắm bắt các hiện tƣợng đời sống để xây
dựng đƣợc những xung đột mang ý nghĩa điển hình.
Quan điểm triết học Mác - Lê nin về quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập đã cho rằng: Đối lập là sự khái quát những mặt, những
thuộc tính, những khuynh hƣớng trái ngƣợc nhau trong chỉnh thể làm nên sự
vật, hiện tƣợng. Đối lập thƣờng tạo ra mâu thuẫn nhƣng không phải bất kì mặt

10



đối lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong kịch nên hiểu: “Là một
khái niệm nghệ thuật thuộc về con ngƣời, là nói tới những cuộc đấu tranh về
chính trị, về lí tƣởng, về thẩm mĩ, về tƣ tƣởng, về đạo đức, những xung khắc
có ý nghĩa trọng đại về mặt xã hội mâu thuẫn kịch đâu phải là sự tƣơng phản
của một vài cảm xúc nhỏ nhặt, rải rác trong một câu chuyện êm dịu cuối
chiều. Mâu thuẫn kịch không phải là sự khác biệt”[1;87]. Mâu thuẫn trong
kịch phải đảm bảo đƣợc yêu cầu cơ bản về tính chân thực và ý nghĩa xã hội
sâu sắc. Giữa xung đột và mâu thuẫn có mối quan hệ qua lại với nhau. Tuy
nhiên, chỉ đến một giai đoạn nhất định, khi mâu thuẫn đạt tới một mức độ sâu
sắc mới dẫn đến xung đột và lúc đó chúng mới tới địa hạt chân chính của tính
kịch.
Mỗi tác phẩm kịch thƣờng đƣợc triển khai trên cơ sở một cốt truyện
giàu xung đột. Chính ở đây bộc lộ rõ nhất sự khác biệt, va chạm đối lập giữa
các khuynh hƣớng tƣ tƣởng, các cảnh ngộ và các tính cách với tƣ cách là sự
phản ánh cái mâu thuẫn có tính chất xã hội và thời đại, đồng thời là sự tái
hiện, biểu hiện cuộc sống trong hình thái mâu thuẫn. Tính xung đột đƣợc coi
là đặc trƣng cốt tử của kịch trong bốn đặc trƣng bao gồm: xung đột kịch, hành
động kịch, nhân vật kịch, ngôn ngữ kịch.
Xung đột đƣợc coi là hình thức phản ánh thực tại khách quan thông qua
các mâu thuẫn xã hội đƣợc khái quát hóa từ các cuộc đấu tranh của nhân vật
trong cuộc sống nhằm bộc lộ ý đồ, tƣ tƣởng, dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Xung đột còn là trung tâm nội dung của kịch, có tác động làm bùng nổ các
hành động của các nhân vật tạo ra sự vận động của các sự kiện và tính cách
nhân vật. Mọi hành động kịch đều bắt nguồn từ cuộc đấu tranh chủ yếu giữa
các nhân vật trong kịch, phát triển và kết thúc theo xu thế chung của sự giải
quyết. Hình thức biểu hiện của xung đột kịch là hình thức xung đột tính cách
của những nhân vật cụ thể có số phận và nội dung rõ rệt trƣớc một vấn đề sự


11


kiện nhất định. Xung đột càng gay gắt càng lộ rõ nét tính quyết liệt của cuộc
đấu tranh giữa những khuynh hƣớng, những lực lƣợng xã hội nhất định và
bao giờ cũng chứa đựng một tƣ tƣởng, một lí tƣởng thẩm mĩ cụ thể. Xung đột
kịch vì thế phải có ý nghĩa xã hội rộng lớn, có tính phổ biến và đặc biệt phải
xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn xã hội sâu sắc, chứa đựng những vấn
đề nóng bỏng của thời đại thì mới có giá trị nghệ thuật cao. Thông qua xung
đột ta có thể thấy đƣợc xu hƣớng hành động, đặc điểm tính cách, đời sống nội
tâm của nhân vật.
1.3. Cơ sở xung đột kịch trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính
Các tác phẩm dân gian chủ yếu khai thác những mâu thuẫn, đối lập chứ
chƣa thể coi là xung đột. Những mâu thuẫn về tốt - xấu, thiện - ác xuất hiện
phổ biến ở các tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau. Ở đó thiếu vắng những
xung đột mang tính chất cá nhân mà thiên về xung đột mang tính xã hội, cộng
đồng. Cách thức giải quyết những xung đột cũng đơn giản và dễ hiểu. Dù phải
trải qua rất nhiều khó khăn gian khổ nhƣng cuối cùng ngƣời tốt cũng đƣợc
bênh vực, che chở, ngƣợc lại kẻ xấu bị trừng phạt thích đáng. Luật nhân quả
đƣợc khai thác triệt để trong nhiều thể loại, nhất là truyện cổ tích. Từ các tác
phẩm dựa trên những câu chuyện dân gian với kết cấu đơn giản nên phƣơng
thức giải quyết mâu thuẫn cũng dễ dàng, nhanh hơn nhƣ trong vở Hồn
Trương Ba da hàng thịt (Lƣu Quang Vũ): ông Trƣơng Ba chết đi sống lại và
yên ổn với thân xác ông hàng thịt đến cuối đời. Mâu thuẫn chỉ nổi lên khi hai
ngƣời vợ kiên quyết giành chồng. Chỉ với một phép thử đơn giản: mổ lợn và
đánh cờ, Trƣơng Ba lại trở về ngôi nhà và sống cuộc đời yên ấm.
Mọi xung đột đều bắt nguồn từ những cơ sở mâu thuẫn. Mâu thuẫn
càng lớn thì xung đột càng lớn. Nhƣ trong Hamlet (W. Shakespeare), Hamlet
gặp một cảnh ngộ éo le trong gia đình: vua cha vừa chết đƣợc hai tháng thì
mẹ chàng, hoàng hậu Gertrude tái giá lấy Claudius, chú ruột của chàng. Hồn


12


ma của vua cha hiện về báo cho chàng biết Claudius là kẻ đã giết mình để
chiếm đoạt ngai vàng và Hoàng hậu, và đòi Hamlet phải trả thù. Hamlet từ đó
lòng tràn đầy căm phẫn, ghê tởm và chán ghét cuộc đời. Chàng giả điên để
che mắt kẻ thù, thực hiện nghĩa vụ.
Trong vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính, xung đột kịch không chỉ đơn
thuần hiện lên ở cái thiện - cái ác, cái tốt - cái xấu; mà xung đột kịch ở đây
xuất phát từ mâu thuẫn giữa con ngƣời với con ngƣời, tiến tới với xã hội. Từ
những mâu thuẫn tƣởng chừng rất đỗi bình thƣờng giữa mẹ chồng và con dâu,
vậy mà đã tạo nên xung đột - xung đột giữa các chủ thể. Cơ sở xung đột kịch
trong vở chèo này không đâu xa lạ, nó bắt nguồn từ chính những mâu thuẫn
trong gia đình, giữa Thị Kính và Sùng Bà, rộng hơn nữa là giữa thân phận
ngƣời phụ nữ với cả xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Còn gì phi lí hơn khi chỉ
lấy dao cắt râu mọc ngƣợc của chồng mà lại mang tiếng giết chồng. Nỗi oan
nhƣ khởi nguồn cho những chuỗi ngày tiếp theo của Thị Kính. Từ xung đột
này tới xung đột khác. Thị Kính giả trai đi tu, lại mắc mâu thuẫn do Thị Mầu
gây ra. Dẫu rằng Thị Kính không đôi co qua lại, song đối với cả xã hội thời
ấy, cô cũng luôn là ngƣời mang tội. Đến cuối đời, Thị Kính tự minh oan đƣợc
cho mình, nhƣng cũng là lúc “siêu sinh tịnh độ”.
Sức sống bất diệt của vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính đã đƣợc thời gian
kiểm chứng khi mỗi lần vở chèo đƣợc dựng lại trên sân khấu. Công chúng
yêu thích chèo cổ vẫn tìm lại đƣợc những cảm xúc, suy tƣ trăn trở đối với
những day dứt, băn khoăn của ông về thực trạng xã hội một thời. Hay nói
cách khác, khoảng cách thời gian không làm mất đi sự đồng điệu trong cách
cảm nhận của con ngƣời mọi thời đại. Đọng lại sau mỗi vở kịch là dự cảm về
tƣơng lai, là sự cảnh báo cho xã hội. Đã hàng bao nhiêu năm trôi qua, mỗi lần
tiếp xúc với vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính công chúng vẫn cảm nhận đƣợc

nỗi thấm khổ của ngƣời phụ nữ mà tác phẩm truyền tải. Nó vẫn có sức mạnh

13


lay động hàng triệu trái tim con ngƣời. Bởi lẽ, tác phẩm có những giá trị thiết
thực và những bài học đắt giá để ngƣời đời học hỏi, tiếp thu và rút ra kinh
nghiệm.

14


CHƢƠNG II: LOẠI HÌNH XUNG ĐỘT KỊCH VÀ NGHỆ THUẬT
XÂY DỰNG XUNG ĐỘT KỊCH TRONG VỞ CHÈO CỔ
QUAN ÂM THỊ KÍNH
2.1. Loại hình xung đột kịch
Cũng là việc miêu tả những bức tranh sinh hoạt của đời sống xã hội,
nhƣng không giống với thơ ca, tiểu thuyết, không gian và thời gian của một
tác phẩm kịch bị giới hạn, không có thì giờ rông dài để mạn đàm, giải thích,
luận bàn. Trong kịch hiện thực bị dồn nén, cốt truyện phải có tính kịch.
Nhà phê bình văn học Bêlinxki đã nhận xét: “Tính kịch đƣợc bộc lộ bằng sự
va chạm, xô đẩy giữa những tƣ tƣởng có khuynh hƣớng chống đối và thù địch
nhau”[11].
“Nếu hai ngƣời tranh cãi nhau về một vấn đề gì đó thì ở đây không có
kịch và cũng không có yếu tố kịch, nhƣng khi ngƣời ta cãi nhau mà ngƣời này
muốn trội hơn ngƣời kia cố sức đánh vào mặt nào đó của tính cách, đánh vào
những điểm yếu rồi thông qua đó mà biểu lộ các tính cách trong cuộc cãi nhau
làm cho có quan hệ mới đối với nhau, thế thì đây đã là kịch rồi”[11]. Tính
kịch bộc lộ qua những xung đột, mang sắc thái thẩm mỹ khác với những xung
đột thơ và tiểu thuyết. Đó là tính tập trung cao độ của xung đột kịch, sự chi

phối trực tiếp đến cấu trúc tác phẩm, đến nhịp độ vận động khác thƣờng của
cốt truyện, xung đột là động lực thúc đẩy phát triển của hành động kịch, nhằm
xác lập nên những mối quan hệ mới giữa các nhân vật vốn đƣợc coi là kết
thúc tất yếu của tác phẩm kịch.
Thiếu xung đột, tác phẩm sẽ mất đi đặc trƣng cơ bản của thể loại và
không thể là một kịch bản văn học. Để khám phá đƣợc vấn đề thuộc về bản
chất của đời sống xã hội, ngƣời viết kịch phải tạo đƣợc những xung đột mang
ý nghĩa xã hội sâu sắc.

15


Hiện thực là sự vận động đa chiều của các phạm trù thẩm mỹ (cái đẹpcái xấu; cái cao cả- cái thấp hèn; cái thiện – cái ác; cái tiến bộ – cái lạc hậu).
Xung đột kịch thƣờng nằm ở thời điểm cao trào của sự vận động ấy. Từ
những mâu thuẫn tồn tại trong lòng hiện thực, ngƣời viết kịch bản phải tiến
hành quá trình chọn lọc, tổng hợp, sáng tạo nên những xung đột vừa mang
tính chất khái quát, vừa mang tính điển hình hoá.
Xung đột kịch có thể đƣợc biểu thị bằng mối xung đột giữa tính cách và
hoàn cảnh, giữa tính cách với tính cách hay trong bản thân một tính cách.
Tất cả đều phải đạt đến tính chân thực và điển hình. Thiếu ý nghĩa điển hình,
kịch bản văn học chỉ là sự mô phỏng những mâu thuẫn vụn vặt, tầm thƣờng
của cuộc sống, thiếu ý nghĩa chân thực, kịch bản văn học chỉ là sự giả tạo, là
những dòng lý thuyết suông.
Qua khảo sát vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính, chúng tôi tạm phân chia
xung đột trong tác phẩm thành hai kiểu xung đột chính là xung đột cá nhân và
xung đột xã hội.
2.1.1. Xung đột cá nhân
Trong các vở kịch hoặc vở chèo thƣờng phân chia ra hai tuyến nhân
vật, điển hình nhất vẫn là nhân vật thiện và nhân vật ác. Giữa các nhân vật sẽ
có các đặc điểm khác nhau từ ngoại hình, tính cách, cho tới cách cƣ xử cũng

nhƣ lối sống. Từ sự khác nhau giữa hai tuyến nhân vật có thể tạo ra các xung
đột mang tính tự nhiên và có phần gay gắt. Khi xung đột giữa cá nhân với cá
nhân xảy ra thì sẽ là lúc nhân vật đạt tới ngƣỡng cùng cực. Nhân vật ác sẽ ác
lên đỉnh điểm còn nhân vật thiện sẽ bị vùi dập cho tới tận cùng.
Trong kịch nói Việt Nam, vở kịch Tôi và chúng ta đã tái hiện cuộc cách
mạng tƣ tƣởng của con ngƣời Việt Nam thế kỉ XX. Nó phản ánh cuộc đấu
tranh gay gắt để thay đổi cách tổ chức, phƣơng thức hoạt động sản xuất của
các nhà máy xí nghiệp. Cụ thể là xí nghiệp Thắng Lợi đã xuất hiện hai nhóm

16


ngƣời với tƣ tƣởng khác nhau: một bên là tƣ tƣởng bảo thủ, khƣ khƣ giữ lấy
các nguyên tắc, quy chế đã thành cứng đờ, lạc hậu mà đại diện là Nguyễn
Chính (Phó Giám đốc), Trƣờng (Quản đốc phân xƣởng) một bên là tƣ tƣởng
đổi mới dám nghĩ dám làm vì lợi ích của mọi ngƣời mà đại diện là Hoàng
Việt (Giám đốc xí nghiệp), Lê Sơn (Kĩ sƣ)... và đa số anh chị em công nhân.
Trƣớc hết về tình huống, cảnh ba mở ra một tình huống hết sức gay
cấn, đó là sau một thời gian dài suy nghĩ, hôm nay Hoàng Việt quyết định
triệu tập cuộc họp để trình bày về “Kế hoạch mở rộng sản xuất và phƣơng án
làm ăn mới của xí nghiệp”. Nhƣ vậy có nghĩa là anh (cùng với kĩ sƣ Lê Sơn)
đã công khai “tuyên chiến” với cơ chế quản lí, phƣơng thức tổ chức đã trở nên
lỗi thời. Có thể nói Nguyễn Chính là đại diện tiêu biểu cho loại ngƣời máy
móc, bảo thủ nhƣng cũng hết sức gian ngoan nhiều mánh khoé. Những lời nói
của Chính đã dựa vào cơ chế, nguyên tắc dù chính anh ta cũng biết nó đã lạc
hậu, lỗi thời. Ở đây, xung đột cá nhân với cá nhân về tƣ tƣởng đã đƣa tình tiết
đẩy sang những trang mới. Loại xung đột này sẽ dẫn tới hệ lụy cho tới cuối
tác phẩm.
Với vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính, loại hình xung đột này thể hiện rất
rõ trong mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau, nổi bật nhất là mối quan hệ

giữa Thị Kính với các nhân vật khác trong tác phẩm.
Thị Kính đƣợc mô tả với những phẩm hạnh nết na đủ mọi điều, trong
mắt mọi ngƣời nàng xứng là vợ hiền dâu thảo. Mối quan hệ gia đình đổ vỡ bắt
nguồn từ tình tiết nửa đêm cầm dao định cắt râu mọc ngƣợc cho chồng của
Thị Kính. Không phải ngẫu nhiên tác giả đã để cho trong hoàn cảnh đó, Thiện
Sĩ hoàn toàn im tiếng, không có một lời bênh vực. Còn mẹ chồng đã đứng ra
kết tội Thị Kính với những lời nặng nề. Chỉ vì những lời cáo buộc trong hoàn
cảnh tình ngay lý gian, nàng đã bị khoác vào đủ lớp áo xấu xa hoàn toàn đối
lập với con ngƣời thực của nàng.

17


“Thị Kính: (Ngồi quạt cho chồng) - Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc
Trƣớc đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta
Bỗng làm sao râu một chiếc mọc ra
Dị hình lắm dƣới cằm mọc ngƣợc.
Khi chàng thức tôi cắt làm sao đƣợc
Chờ đƣơng cơn giấc ngủ mơ màng
Khéo xa xa kẻo động mình chàng
Sẵn dao bén xén tầy một mực”
Cùng lúc đó chồng nàng hô hoán:
“Thiện Sĩ: (Giật mình) - Ơi cha, ơi mẹ, ơi xóm làng !
Đêm hôm khuya khoắt
Cớ làm sao có sự bất tƣờng
Giời đất hỡi cùng là cha mẹ!”
Quả là trong tình huống “chữa dép vƣờn dƣa” ấy, nàng khó mà có thể
biện minh cho mình, để phải mang một án oan định giết chồng, bị trả về gia
đình. Xung đột trong gia đình đƣợc giải quyết theo chiều hƣớng “hòa bình”,
nhƣng đã tƣớc đoạt đi hạnh phúc lứa đôi của ngƣời phụ nữ nết na đức hạnh,

để lại cho Thị Kính những lời lẽ gay gắt, đay nghiến.
“Bà Sùng: - Ối chao ôi!
(Nói lệch) Gớm tiết, gớm tiết
Cả gan, cả gan!
May con tao sực tỉnh giấc vàng
Đỉnh đình đinh nữa còn gì mà chả chết!
Dù mày có say hoa đắm nguyệt
Trót trên dâu, dƣới bộc hẹn hò
Nói với bà nửa nhời bà cũng thứ đi cho
Can chi phải dụng tình bất trắc?”

18


Thị Kính có một ngƣời chồng yêu vợ nhƣng lại quá hời hợt nên không
hiểu nổi vợ mình. Thiện Sĩ đáng trách không chỉ ở thái độ hồ đồ mà còn ở
thái độ thiếu dứt khoát, đang tâm dứt mối duyên tình với ngƣời vợ đã nặng
thề nguyền. Thị Kính buộc phải lạy tạ dứt áo ra đi, nói những lời đầy nƣớc
mắt, nhƣng anh ta hoàn toàn không phản ứng. Chỉ đến khi Thị Kính thật sự
bƣớc chân đi, Thiện Sĩ mới tiếc ngẩn ngơ, sùi sụt!
Nếu chỉ soi chiếu theo quan điểm đạo Phật thì đó là cơ hội để nàng dứt
nợ nhân duyên, thoát ra bể khổ nhân gian. Nhƣng soi chiếu kỹ tâm hồn Thị
Kính sau mối oan nghiệt, ta nhận ra thái độ thƣơng cảm của ngƣời bình dân
dành cho con ngƣời bất hạnh. Thị Kính mang tiếng oan nhơ nhuốc, trở về đầy
tủi hổ, nàng mang nỗi đau buồn của một ngƣời bị phụ rẫy mà không biết thở
than, chia sẻ với ai. Gia đình nàng cũng vì tai tiếng mà phải ngậm đắng nuốt
cay nhìn con chôn vùi tuổi xuân. Bởi vậy giải pháp đƣa ra là để nàng ra đi,
lánh xa mọi phiền não thế gian. Nhân vật Thị Kính mắc phải tiếng oan, không
quyết liệt phản ứng lại thực tại, gột rửa tiếng xấu nhơ nhuốc trong cuộc sống
thực, mà chọn con đƣờng xuất gia cầu đạo. Dƣờng nhƣ, xung đột tới đây chƣa

đƣa đến cao trào nhƣ nhiều tác phẩm khác, song với xã hội thời bấy giờ, tiếng
kêu oan của Thị Kính liệu có đƣợc lắng nghe?
Bản thân Thị Kính, sau khi trải qua xung đột với mẹ chồng, nàng đã giả
trai đi tu và một lần nữa gặp phải xung đột với Thị Mầu. Nếu nhƣ trong kịch
bản giản lƣợc và không để Thị Kính và Thị Mầu đối thoại trƣớc khi Thị Mầu
lang chạ với Nô thì trên sân khấu biểu diễn lại xuất hiện nguyên căn khiến
chuỗi xung đột về sau nảy sinh. Trên sân khấu, Thị Mầu ra sức quyến rũ, mời
trầu rồi tìm cách cầm tay Tiểu Kính, khi bị Tiểu Kính lẩn tránh thì lại tƣng
tửng về nhà để gặp Nô. Tuy trong kịch bản Thị Kính và Thị Mầu không đối
thoại với nhau ở cảnh này, song trong lời độc thoại của Thị Mầu vẫn có 9 lần
nhắc tới “Ấy mấy thầy tiểu ơi” ý với Tiểu Kính và buông lời ghẹo tiểu:

19


“Đứng trƣớc cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thƣa tôi buồn

Bỏ mõ em đánh cho nào. Ngƣời sao thấy gái mà lại chạy
thế?”
Sau đó Thị Mầu chót lang chạ với nô bộc trong nhà rồi mang chửa
hoang, bị làng bắt vạ thì đổ cho Thị Kính - Tiểu Kính:
“- Trình lạy làng,
Tiết tháng tƣ tôi đội gạo lên chùa
Tiểu Kính Tâm con mắt liếc ngang
Lòng cả nể hóa nên nông nỗi”
Và cũng không khác gì xung đột trƣớc, Tiểu Kính chỉ nói đƣợc đúng
một lời:
“Bạch lạy làng
Bấy lâu nay thuyền trai nƣơng ngụ

Chỉ một niềm sắc sắc, không không
Sự gió giăng tiểu chẳng dám bận lòng
Ai đơm đặt xin làng tra cho tỏ.”
Nhìn từ góc độ tâm thức văn hoá thì thái độ sống của Thị Kính và Thị
Mầu vừa có cùng bản chất lại vừa có sự khác biệt sâu sắc, rõ ràng. Họ vừa
không chấp những định kiến và quy ƣớc của ngƣời đời để thực hiện lẽ sống
riêng, tìm kiếm sự giải thoát với lẽ sống riêng mà mình đã chọn. Đó là thái độ
vừa buông đời, vừa phản kháng, vừa ép mình để bộc lộ những yếu tố từ nhỏ
nhất đến lớn nhất vớitâm lý chung của cộng đồng trong những cảnh huống và
số phận khác nhau.
Ngoài những xung đột của Thị Kính với các nhân vật khác, trong tác
phẩm chúng ta còn bắt gặp xung đột trực tiếp giữa Mẹ Đốp với Xã Trƣởng.

20


Tuy nhiên tính chất xung đột ở đây cũng là xung đột giữa nhân cách với nhân
cách, một bên là ngƣời đại diện cho tầng lớp ngƣời nông dân hóm hỉnh, thông
minh, còn một bên là bọn ngƣời ngu dốt, háo sắc.
Có thể thấy xung đột cá nhân của Thị Kính với Thị Mầu xét về tính
chất cũng là xung đột giữa hoàn cảnh con ngƣời với tính cách con ngƣời. Một
ngƣời đoan trang, thùy mị và cam chịu, còn một ngƣời lẳng lơ, phóng túng và
quyết liệt.
2.1.2. Xung đột xã hội
Xung đột xã hội đƣợc hiểu là tình huống hoặc quá trình xã hội, mà
trong đó tồn tại các mâu thuẫn về lợi ích giữa các cá nhân trong mỗi nhóm xã
hội, giữa các nhóm xã hội và xã hội nói chung; thể hiện bằng sự đối lập, sự
bất đồng, sự tranh chấp do khác nhau về nhận thực, thái độ và đôi lúc đƣợc
thể hiện bằng cả hành vi đụng độ, vũ trang. Xung đột xã hội là hiện tƣợng xã
hội khách quan, giải quyết quan hệ xã hội trung tâm là lợi ích, hợp thành bản

chất của mọi xã hội, chứ không phải là một hiện tƣợng “lệch chuẩn xã hội”.
Xung đột xã hội đƣợc xác định là giai đoạn phát triển cao nhất của các mâu
thuẫn trong hệ thống các quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, các tập đoàn
xã hội, các thiết chế xã hội và xã hội nói chung, đƣợc đặc trƣng bằng sự đối
lập các lợi ích và quan điểm, đƣợc biểu hiện bằng các hành vi đụng độ, xô xát
hữu hình trên thực tế.
Trong xã hội cũ, ngƣời nghệ sĩ thiên tài không có điều kiện sáng tạo,
không thể thi thố tài năng. Trên thực tế, anh ta vẫn chỉ là một gã thợ thủ công
vô danh tiểu tốt. Vì thế khi biết rằng có thể mƣợn tay bạo chúa Lê Tƣơng Dực
để thực hiện đƣợc hoài bão của mình thì Vũ Nhƣ Tô (vở kịch Vũ Như Tô) sẵn
sàng chấp nhận tất cả, kể cả khi phải trả bằng cồng sức, tiền bạc của nhân dân,
bằng mồ hôi, xƣơng máu của những ngƣời thợ. Chính niềm khao khát vô biên
đã khiến ngƣời nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng, đẩy Vũ Nhƣ Tô đến vị thế

21


×