Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Vẻ đẹp của hội họa và văn chương trong Hòn đá xanh của Jimmy Liao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ HÒA TRANG

VẺ ĐẸP CỦA HỘI HỌA
VÀ VĂN CHƯƠNG TRONG HÒN ĐÁ XANH
CỦA JIMMY LIAO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý Thầy Cô, những người đã tận tình
giảng dạy, động viên, giúp đỡ và đóng góp ý kiến, nhận xét cho tôi trong quá trình
NGUYỄN THỊ HÒA TRANG
học tập cũng như khi thực hiện khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Mai Thị Hồng Tuyết, người đã
tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khuyến khích

VẺ ĐẸP CỦA HỘI HỌA


và tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.

luận không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự
VÀKhóa
VĂN
CHƯƠNG TRONG HÒN ĐÁ XANH

giúp đỡ, đóng góp của Thầy Cô và các bạn.

Nội, tháng 4 năm 2017
CỦA JIMMYHàLIAO
Sinh viên

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Nguyễn Thị Hòa Trang

Người hướng dẫn khoa học

TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý Thầy Cô, những người đã tận tình giảng
dạy, động viên, giúp đỡ và đóng góp ý kiến, nhận xét cho tôi trong quá trình học tập
cũng như khi thực hiện khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Mai Thị Hồng Tuyết, người đã tận

tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khuyến khích và tạo
điều kiện giúp tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự giúp
đỡ, đóng góp của Thầy Cô và các bạn.

Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Hòa Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của Tiến sỹ Mai Thị Hồng Tuyết. Các luận cứ nêu trong khóa luận là xác thực.
Những kết luận khoa học của khóa luận chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Hòa Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ...................................................................... 3
3.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận. .................................................................................... 5
7. Bố cục khóa luận ................................................................................................. 5
NỘI DUNG ............................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ HỘI HỌA ........................ 6
1.1. Một số nét khái quát về hội họa ..................................................................... 6
1.1.1. Lịch sử hội họa .............................................................................................. 6
1.1.2. Các bình diện đặc trưng của tác phẩm hội họa ............................................ 11
1.2. Một số nét khái quát về văn học ................................................................... 15
1.2.1. Lịch sử văn học............................................................................................ 15
1.2.2. Đặc điểm cơ bản của văn học....................................................................... 21
1.3. Mối quan hệ giữa văn học và hội họa .......................................................... 25
1.3.1. Quan niệm ở phương Đông .......................................................................... 25
1.3.2. Quan niệm ở phương Tây ............................................................................ 26
CHƯƠNG 2 SỰ KẾT HỢP GIỮA HỘ HỌA VÀ VĂN HỌC
TRONG “HÒN ĐÁ XANH” (J.LIAO) ............................................................... 28
2.1. “Hòn đá xanh” – một câu chuyện giàu chất thơ.......................................... 28
2.1.1. Quan niệm về chất thơ và chất thơ trong văn xuôi ........................................ 28
2.1.2. Chất thơ được thể hiện trong “Hòn đá xanh”. ............................................... 31
2.2. “ Hòn đá xanh” – một bức tranh đẹp .......................................................... 45
2.2.1. Về bố cục..................................................................................................... 45


2.2.2. Về màu sắc. ................................................................................................. 48
2.2.3. Về đường nét ............................................................................................... 50
2.3. “Hòn đá xanh” như là sự hội tụ vẻ đẹp của văn học và hội họa ................. 52
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 1



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mối quan hệ giữa hội họa và văn học là mối quan hệ bền chặt. Nó được biểu
hiện trong suốt quá trình phát triển của lịch sử. Mối quan hệ này được biểu hiện ở
chỗ: Nhiều tác phẩm hội họa lấy đề tài từ các tác phẩm văn học. Ngược lại, nhiều
tác phẩm văn học lại vận dụng một số kĩ thuật của hội họa để miêu tả. Và khi truyện
tranh ra đời, mối quan hệ này được nâng lên một cấp độ mới.
1.1. Jimmy Liao tên thật là Kỷ Mễ, ông sinh năm 1958 tại một thành phố nhỏ phía
đông bắc Đài Loan. Sau khi tốt nghiệp Đại học Văn hóa, tác giả đã khởi nghiệp với
nghề quảng cáo và thiết kế Mỹ thuật cho sách. Mãi tới năm 40 tuổi ông mới cho ra
mắt cuốn truyện tranh đầu tiên. Ngay sau đó, các tác phẩm của ông đã vượt ra khỏi
biên giới Đài Loan và trở thành “ hiện tượng xuất bản” ở nhiều quốc gia trên thế
giới như: Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản… Jimmy Liao được xem như người dẫn
đầu cho dòng truyện tranh dành cho người lớn. Trong những tác phẩm của mình,
ông đã sáng tạo nên một thế giới đặc biệt bằng màu sắc, ngôn ngữ và cả sự lãng
mạn, bay bổng đến tận cùng. Đó là thế giới, là cuộc sống của con người mà đặc biệt
là giới trẻ hiện nay. Các nhân vật trong sáng tác của Jimmy Liao đều là những
người bình thường thậm chí có phần yếu thế trong xã hội. Đó là nghệ sỹ nghèo
trong Nàng rẽ trái, chàng rẽ phải, là cô gái mù trong Âm thanh của sắc màu, là hòn
đá trong Hòn đá xanh… Tác phẩm của ông là những nét vẽ, những ngôn từ, những
cảm xúc… đề cập đến cuộc sống , đến lẽ sống và tình người. Nó khơi gợi lên lòng
trắc ẩn và đem đến những giá trị nhân văn sâu sắc, nó chạm tới nơi sâu thẳm nhất
trong trái tim mỗi con người. Cũng chính vì điều đó đã khiến các tác phẩm của ông
trở nên nổi tiếng và phổ biến trên thế giới.
Đặc biệt là tác phẩm Hòn đá xanh, tác phẩm kể lại cuộc hành trình trở về với
rừng xanh của một hòn đá kỳ diệu hay cũng chính là câu chuyện cảm động về tình
yêu quê hương và nỗi nhớ nhà của những người con xa xứ. Một tảng đá khổng lồ
được sinh ra trong rừng sâu bỗng một ngày phải rời xa rừng và đến một nơi xa lạ.
Thời gian trôi qua, bề mặt hòn đá đã được tạc thành biết bao những tác phẩm nghệ


1


thuật hoàn mỹ nhưng hòn đá ấy vẫn không nguôi ngoai nỗi nhớ khu rừng. Mỗi lần
nhớ là mỗi lần hòn đá tội nghiệp ấy vỡ ra thành trăm mảnh và dù có phải vỡ ra thêm
nữa thì điều nó muốn vẫn là trở về khu rừng. Để rồi khi chỉ còn là một viên đá bé
xíu bị chìm vào trong cát bụi, nó vẫn hạnh phúc khi được trở về với rừng. Kết hợp
nét vẽ comic quen thuộc của truyện tranh những năm 1980 cùng cách phối màu đầy
thẩm mỹ, Jimmy Liao đã kể lại những câu chuyện tuyệt vời bằng tranh. Hòn đá
xanh của Jimmy Liao là đỉnh cao trong sự kết hợp giữa hội họa và văn học, hai yếu
tố này như hòa quyện làm một. Sự kết hợp tuyệt vời này đã tạo nên một câu chuyện
lãng mạn, rung động người đọc.
Trên tinh thần nghiên cứu đó, chúng tôi lựa chọn đề tài: Vẻ đẹp của hội họa và
văn chương trong Hòn đá xanh của Jimmy Liao với mục đích làm rõ mối quan hệ
giữa hội họa và văn học trong tác phẩm. Việc lựa chọn đề tài này, người viết cũng
mong muốn áp dụng những kiến thức lý luận văn học để tiếp cận một cách hệ thống
và khoa học nhằm lý giải phần nào mối quan hệ đa chiều và phức tạp đó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Jimmy Liao đã trở thành cái tên quen thuộc đối với bạn đọc yêu thích dòng
tranh truyện với những câu chuyện cuộc sống vô cùng lãng mạn. Năm 2003, tạp chí
Studio Voice bình chọn ông là 1 trong 55 người Châu Á sáng tạo nhất. Các tác phẩm
của ông được giới văn chương, hội họa và cả điện ảnh quan tâm rất nhiều.
Có một số nghiên cứu, nhận xét về tác giả Jimmy Liao và tác phẩm của ông.
Nó xoay quanh một số vấn đề sau:
Xét ở chủ đề tác phẩm, tác giả Phạm Hải Anh trên baomoi.com cho rằng:
“Hòn đá xanh là câu chuyện về nỗi cô đơn đã ám màu sắc tuyệt vọng. Từ một hòn
đá xanh nguyên vẹn đẹp đẽ giữa rừng, bỗng dưng một ngày kia hòn đá bị chia
cắt,rồi tan vỡ, rồi lại chia cắt… Hòn đá chưa bao giờ thôi nhung nhớ về phần thân
thể bị tách rời và nỗi đau ấy đã hủy hoại nó, biến nó từ một khối đá giữa rừng

thành những hạt bụi vô tri, trên hành trình ấy, hòn đá đã chứng kiến biết bao nỗi
đau, biết bao nỗi cô đơn của những người đã từng đi qua nó - tuy không thể sẻ chia,
những đều được nó ghi nhận, đều thổi bùng lên nỗi nhớ nhung từ sâu thẳm trong

2


tim, và cuối cùng , quay lại hủy hoại nó”. Trên trang Vnexpress.net, Quỳnh Anh có
viết: “ Hòn đá xanh là câu chuyện cảm động về tình yêu quê hương và nỗi nhớ nhà
của những người con xa xứ thông qua hình tượng tảng đá. Một tảng đá xanh khổng
lồ được sinh ra từ rừng sâu bỗng một ngày phải rời xa rừng để đến nơi xa lạ. Thời
gian trôi qua, bề mặt tảng đá thô kệch đã trở thành tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ,
nhưng thẳm sâu trong nó là nỗi nhớ rừng da diết, khôn nguôi. Để rồi khi chỉ còn là
một viên đá bé xíu bị chìm lẫn trong cát bụi, nó vẫn hạnh phúc khi được trở về khu
rừng”.
Có một số tác giả đã nhấn mạnh màu sắc hội họa và văn chương trong tác
phẩm: Tác giả Quỳnh Anh trên trang Vnexpress.net cho rằng: “ Đến với những tác
phẩm của Jimmy Liao, độc giả sẽ cảm nhận những câu chuyện bằng ngôn ngữ đầy
màu sắc của hội họa. Với nét vẽ sinh động, bố cục hài hòa cùng cách phối màu ấn
tượng, các bức tranh thể hiện hoàn chỉnh nội dung câu chuyện. Khi đó, ngôn từ chỉ
đóng vai trò là lời dẫn. Hội họa và văn chương hòa làm một, người đọc được tự do
cảm nhận trong một thế giới đầy màu sắc”. Thụy Oanh trên zing.vn có viết: “ Với
những nét vẽ tinh tế mà đầy cá tính cùng cách phối màu đầy sáng tạo, những cuốn
truyện tranh của Jimmy Liao đã chạm tới trái tim của hàng triệu độc giả trên khắp
thế giới” hay như “ Kết hợp nét vẽ comic quen thuộc của truyện tranh những năm
1980 cùng cách phối màu đầy thẩm mỹ, Jimmy Liao đã kể những câu chuyện tuyệt
vời bằng tranh. Trong những tác phẩm của họa sỹ nổi tiếng người Đài Loan này,
hội họa và văn chương như hòa quyện làm một. Hai yếu tố này đã có một sự kết
hợp rất tuyệt vời để tạo nên những câu chuyện lãng mạn rung động lòng người.
Đặc biệt nếu là người yêu hội họa, bạn sẽ ấn tượng với những nét vẽ bay bổng và

cách sử dụng màu sắc ấn tượng của Jimmy Liao”.
Song tất cả những nhận định này mới chỉ là những nhận xét mà chưa có những
nghiên cứu chuyên sâu. Chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu nào về mối quan
hệ giữa hội họa và văn học trong các tác phẩm của Jimmy Liao và đặc biệt là tác
phẩm Hòn đá xanh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

3


3.1. Mục đích nghiên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi cố gắng phát hiện và chỉ rõ mối quan hệ giữa
văn học và hội họa trong truyện Hòn đá xanh của Jimmy Liao. Từ đó làm nổi bật
mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ của hai loại hình nghệ thuật này cũng như cảm
nhận được bức tranh cuộc sống, những triết lý nhân sinh của cuộc đời mà Jimmy
Liao đã thể hiện trong tác phẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu, khóa luận cần thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Tìm hiểu một số điểm khái quát về lịch sử hội họa, đặc điểm cơ bản của hội
họa và lịch sử văn học, đặc điểm cơ bản của văn học.
- Chỉ ra được mối quan hệ chung giữa văn học và hội họa.
- Phát hiện ra vẻ đẹp văn học và hội họa trong cùng tác phẩm Hòn đá xanh. Từ
đó giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm.
- So sánh với một số tác giả sáng tác thuộc thể loại tranh truyện tiêu biểu có
tác phẩm tương đồng để chỉ ra nét đặc sắc của hai loại hình nghệ thuật nói chung và
nét đặc sắc trong truyện Hòn đá xanh của Jimmy Liao nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Vẻ đẹp của hội họa và văn chương trong
Hòn đá xanh của Jimmy Liao.

(Dưới sự tranh luận về sự khác biệt giữa hai thuật ngữ là văn chương và văn
học nhưng trong khóa luận này, chúng tôi sử dụng hai thuật ngữ này với hàm nghĩa
tương đương.)
Phạm vi nghiên cứu:
- Về tác phẩm: Hòn đá xanh của Jimmy Liao
- Về nội dung nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề chính thể hiện sự hòa
quyện giữa văn học và hội họa trong tác phẩm.
5. Phư1ơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi sử dụng kết hợp

4


các phương pháp sau đây:
- Phương pháp khảo sát - thống kê
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của khóa luận.
Về mặt lí luận, khóa luận đi làm rõ mối quan hệ giữa văn học và hội họa trong
tác phẩm văn học.
Về mặt thực tiễn, khóa luận giúp cho người đọc thấy được giữa văn học và hội
họa có mối quan hệ chặt chẽ và kết hợp hài hòa với nhau. Mối quan hệ này được thể
hiện sâu sắc trong tác phẩm Hòn đá xanh. Từ đó, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp
của câu chuyện.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
hai chương:
Chương 1: Mối quan hệ của văn học và hội họa.
Chương 2: Sự kết hợp giữa hội họa và văn học trong Hòn đá xanh của J. Liao.


5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ HỘI HỌA
1.1. Một số nét khái quát về hội họa
Hội hoạ là một loại hình nghệ thuật cơ bản. Nó đã có một lịch sử phát triển dài
lâu với những ưu thế riêng có. Nói như Sister Wendy Beckett trong cuốn Câu
chuyện nghệ thuật hội họa từ tiền sử tới hiện đại:“Hội họa là ngôn ngữ phổ quát
như âm nhạc, vượt ngoài mọi biên giới quốc gia chứ không bị giới hạn như thổ ngữ,
dân ngữ hay như ngôn ngữ văn chương. Họa phẩm Mona Lisa không cần thông
dịch như Truyện Kiều. Bằng hình sắc, ánh mắt và nụ cười, Mona Lisa tự nói lên
tâm trạng của mình hay của chính tác giả Leonardo da Vinci” [3, 8].
1.1.1. Lịch sử hội họa
Bất cứ một ngành nghệ thuật nào ra đời đều gắn liền với nguồn gốc, lịch sử
nhất định. Đó là lý do mà các nhà nghiên cứu luôn cố gắng tìm tòi và phát hiện.
Trong cuốn Lịch sử hội họa, Wendy Beckett có viết: “Đối với tôi, nghệ thuật luôn
luôn là một say mê và tôi thường ngạc nhiên là người ta lại truy vấn về lý do và
nguồn gốc của sự say mê này” [3, 5]. Vậy nghệ thuật ra đời trong hoàn cảnh nào?
Họa sỹ Thái Tuấn trong cuốn Câu chuyện hôi họa cho rằng:
“Giữa dòng đêm tối của thời gian, sự vật vô tri ôm giấc ngủ dài chờ đợi.
Bỗng từ cõi hư vô, hơi thở nào đã bùng lên ngọn lửa đam mê và cài hoa rắc
bướm vào tóc rừng ngực núi.
Khi gót chân chàng nhẹ nhàng hôn lên vầng cát trắng, đuổi bắt mặt trời để
chia cho bình minh hoang dại và hoàng hôn cô độc, là lúc phán hương xao xuyến
mừng đón gió về phổ vào đàn suối lời ca cho bầy Ngọc Nữ.
Nhưng khi đàn bướm bay theo tiếng ca vừa tắt thì cũng là lúc gót chân lưu
đày xót xa hơn bao giờ hết.
Trước mặt hữu thế lõa lồ nhạo báng, chàng lặng lẽ cúi đầu cất cao bản kinh

chiều để tiễn đưa phi lý vào cõi hư vô.
Trong cơn xuất thần mầu nhiệm thì thầm: câu chuyện lưu đày chỉ là cuộc

6


hành hương vô tận.
Chàng ngửa mặt nhìn đêm để đếm xem có bao nhiêu vì sao rụng.
Và nghệ thuật bắt đầu…” [16,3].
Phải chăng, nghệ thuật ra đời và bắt đầu nảy nở từ đó. Và dĩ nhiên, là đứa con
trong gia đình nghệ thuật, hội họa cũng bắt đầu nhen nhóm ra đời. Lịch sử hội họa
được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử và trải dài theo tất cả các nền văn
hóa. Vì thế, lịch sử hội họa giống như một dòng sông cuộn chảy của sự sáng tạo
được tiếp nối tới thế kỷ 21.
1.1.1.1. Thời Tiền sử
Ở thời kỳ này, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra được sự ra đời của hội họa.
Tuy nhiên, hội họa ra đời cụ thể vào thời gian nào vẫn là một câu hỏi. “Có cần phải
nói rằng chúng ta không có một tài liệu nào, dầu là thầm lặng, để tìm hiểu về những
bức tranh trên đá thuộc đại Cổ thạch khí không,những bức tranh như ta có thể
chiễm ngưỡng ở Lascaux, ở Eyxies, ở Altamira và ở những nơi khác nữa? Những
bức bính họa đó, mà việc khám phá ra được đã làm cho cả các nhà bác học và công
chúng xôn xao, chứng tỏ một nghệ thuật hội họa cực kỳ phát triển có những phẩm
chất tạo hình rất cao” [5, 21]. Có rất nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề về nguồn gốc
hội họa “Vấn đề nguồn gốc cuả hội họa là một vấn đề mơ hồ… Người Ai Cập khẳng
định rằng nghệ thuật này đã được phát minh ở xứ sở họ sáu ngàn năm trước rồi
mới truyền sang Hy Lạp; đây là sự biểu lộ lòng tự phụng vô vọng; con người Hy
Lạp thì kẻ nói hội họa được phát minh ở Sycione, người nói ở Corinthe, nhưng tất
cả đều nói rằng người ta bắt đầu bằng cách vẽ một đường bao quanh bóng con
người” [5, 31].Theo nghiên cứu, những bức tranh lâu đời nhất khoảng 40.000 năm
tuổi. José Luis Sanchidrián tại trường Đại học Cordoba, Tây Ban Nha, tin rằng

những bức tranh này dường như được vẽ bởi người Neanderthals hơn là con người
hiện đại thời kỳ đầu. Các hình ảnh tại hang động Chauvet nước Pháp được cho rằng
có khoảng 32.000 năm tuổi. Chúng được khắc và vẽ bằng cách sử dụng màu đất son
đỏ và chất bột màu đen thể hiện các hình ảnh về ngựa, tê giác, sư tử, trâu, voi ma
mút và thói quen săn bắn của con người. Hang động là nơi xuất hiện nhiều bức

7


tranh nhất và nghệ thuật hang động được gọi là “bước khởi hành” đầu tiên của hội
họa và cũng là đối tượng của hội họa. “Chỉ trong hang Lascaux đã có hàng trăm và
còn rất nhiều ở nhiều hang động trên khắp nước Pháp và Tây Ban Nha. Hang
Lascaux chỉ hiến cho ta bộ sưu tập đẹp nhất, nguyên vẹn nhất của những bức tranh
cổ xưa nhất” [5, 24 ].Có thể nói, hội họa ra đời bắt nguồn từ sự sống của con người.
Theo nghiên cứu, người ta phát hiện được khoảng 500000 bức bính họa tại 70000 di
chỉ nằm rải rác ở 160 nước trên thế giới. Tuy nhiên, đó chỉ là nói riêng về các hình
khắc, vẽ trên xương thú, vỏ cây hoặc trên các hòn cuội, hòn sỏi...
1.1.1.2. Thời kỳ Phục Hưng:
Nghệ thuật hội họa thời kỳ Phục Hưng tiêu biểu là hội họa Italia, được chia
làm 3 giai đoạn cơ bản:
Giai đoạn 1: Bắt đầu từ khoảng thế kỷ XIII ở Italia với những tên tuổi như:
Sipawe, Giotto di Bontone (1267 - 1337), Donatello (1386 - 1486)…Tranh của
Giotto bắt đầu khám phá không gian vào trong tranh, có sự xa gần mặc dù chưa cụ
thể, mới chỉ là sơ khai, chưa tách bạch,… Kế tục Giotto là Sipawe, ở ông bắt đầu có
sự xuất hiện của ánh sáng trong tranh tuy vẫn còn chưa tập trung, chưa đúng vị trí,
chưa cụ thể… Tuy nhiên, so với tranh thời Trung cổ thì tranh thời kỳ này đã có
những điểm rất khác biệt và mới mẻ.
Giai đoạn 2: Kéo dài khoảng 200 năm,bắt đầu từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ
XV với các tên tuổi nổi tiếng như: Masaccio, Angelico hay nổi bật là Sandro
Botticelli. Đối với Masaccio, ông là người mở đầu cho nghệ thuật thế kỷ XV. Ông

được thừa hưởng thành tựu về phép phối cảnh, hình họa, điêu khắc, ánh sáng trong
tranh rõ ràng, các mạng sáng tối tren nhân vật sắc nét, tương phản, được gợi khối
tròn và có sự mềm mại. Chiều thứ ba của không gian cũng được diễn tả khá tốt.
Ngoài cái đẹp hình thể, ông còn chú ý thể hiện được rõ tình cảm, dụng ý của chính
mình.
Giai đoạn 3: Từ khoảng năm 1490 - 1500 cho đến năm 1520, đây được coi là
thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật Phục Hưng. Hầu hết các tác phẩm đều đạt tới độ
hoàn mỹ trở thành những tác phẩm kinh điển thế giới. Các danh họa thời kỳ này có

8


thể kể tới tam trụ của thời kỳ Phục Hưng: Raphael, Michelangelo và Leonardo da
Vinci. Nhắc tới Michelangelo là nhắc tới bức họa Ngày phán xét cuối cùng được vẽ
trên tường nhà nguyện Sistine trong 4 năm liên tục và hoàn thành trong khoảng
1536 đến 1541. Nói về Leonardo da Vinci thì người ta sẽ không quên nhắc tới bức
tranh Nàng Mona Lisa vốn chưa bao giờ làm vơi giấy mực để bình phẩm. Đối với
ông “Hội họa là khoa học, là đứa con chân chính của thiên nhiên, vì nó chính là
con đẻ của thiên nhiên” [5, 94].
Thời kỳ Phục Hưng được đánh giá là thời kỳ vàng son của hội họa. Hơn nữa
thời kỳ Phục Hưng này còn mang tới sự trỗi dậy của một phong cách hội họa gọi là
trường phái Kiểu cách và sự xuất hiện của Baroque. Hội họa Baroque đặc trưng bởi
tính tuyệt vời, màu sắc sâu, phong phú với cường độ bóng, sáng và tối với một số
tên tuổi tiêu biểu như: Caravaggio, Rembrandt, Frans Hals, Rubens…
1.1.1.3. Thời kỳ cận đại:
Hội họa thời kỳ này đánh dấu sự xuất hiện của các loại hình nghệ thuật và các
trường phái như: nghệ thuật baroque, nghệ thuật rococo, chủ nghĩa lãng mạn,
trường phái Ấn tượng (Impressionism), trường phái hậu Ấn tượng, trường phái Biểu
hiện (Expressionism).
Trước tiên là hội họa Baroque, tồn tại cùng với nghệ thuật cổ điển trong suốt

thế kỷ XVII. Nghệ thuật Baroque phát triển và ghi dấu cho sự chấm dứt chiến tranh
Tôn giáo. Phong cách Baroque bắt nguồn ở Italy, nơi các tác phẩm dùng để trang trí
cho nhà thờ. Các họa sỹ thuộc phong cách này chú trọng về chuyển động và ảo
tưởng và các tác phẩm gợi lên những cảm xúc mãnh liệt.
Thứ hai là nghệ thuật Rococo, xuất hiện vào thế kỷ Ánh Sáng ở Pháp và trở
thành một loại nghệ thuật đáng yêu, tinh tế nhất. Phong cách này ra đời đã quyến rũ
những người yêu thích phong tục hay các cảnh tình tứ, đại diện chn” khác nhau,
lúc đầu nó được người ta vui mừng, ngợi ca, tung hô, trân trọng nhưng tới khi bị vỡ
ra thì chẳng còn một ai còn nhớ tới nó nữa. Mọi thứ rồi sẽ theo thời gian mà thay
đổi, con người cũng vậy. Bởi đổi thay là quy luật tất yếu của cuộc đời.
Ngoài ra Jimmy Liao còn sử dụng kiểu bố cục hồi quy. Điều này thể hiện rõ ở
bức tranh đầu tiên và bức tranh cuối cùng. Cả hai đều vẽ lên một khu rừng rộng lớn,
xanh tươi, tràn đầy sức sống. Đó là quy luật tuần hoàn của cuộc đời, tất cả sẽ trở về
nơi bắt đầu sau một cuộc hành trình dài.
2.2.2. Về màu sắc.
“Hòn đá xanh” của Jimmy Liao là sự hội tụ đa dạng các loại màu sắc. Đó là
các gam màu lạnh, gam màu nóng,màu săc là các giai điệu đặc biệt góp phần tạo
nên câu chuyện. Mở đầu tác phẩm là cảnh khu rừng rộng lớn, bát ngàn màu xanh lá
thể hiện sức sống căng tràn của tự nhiên. Rồi cả những màu xanh lam biêng biếc
như nhớ thương, nhung nhớ; màu xám bàng bạc như âm u, muộn phiền; màu đen
của nỗi đau khổ, cô đơn… Mỗi một màu sắc, mỗi hình ảnh và mỗi bức tranh dường
như gợi ra một thế giới riêng, tràn đầy cảm xúc. Nhờ cách sử dụng màu săc, những
bức tranh giống như đang tự cất lên tiếng nói. Những màu sắc tươi tắn, rực rỡ của
muông thú nổi bật trên nền lam biếc của hòn đá xanh kể về nỗi hân hoan của nó khi
đám cháy đi qua, cơn mưa đã dứt. Màu xanh lam biếc của cô bé đi lạc cùng hình
ảnh chiếc mũ in trên nền xám âm u của một thành phố xa lạ kể về nỗi cô đơn, lạc
lõng của nó trong một không gian tịch mịch. Những chấm bụi màu lam lấm tấm
trong nền đen thẫm của bức tranh, và điểm nhấn duy nhất là màu trắng tinh khiết
của chiếc lông chim đang bay trong gió như kể về sự phiêu tán của chiếc thân cát
bụi đang trở về cội rễ. Đặc biệt, màu chủ đạo trong tất cả các bức tranh đó là màu

xanh lam. Dĩ nhiên, không phải ngẫu nhiên mà tác giả xây dựng nên hình ảnh một

48


hòn đá màu xanh lam như vậy. Đó là màu của niềm tin, của sự hy vọng, tin tưởng
vào tương lai. Từ trong sâu thẳm của hòn đá đó cũng giống như bộ áo mà tác giả
khoác thêm cho, nó vẫn luôn cố gắng và hy vọng và tương lai dù đôi lúc có khó
khăn khiến nó nản lòng. Hội họa, trong khoảng im lặng mênh mông của nó, lại có
khả năng khơi gợi những dòng suy tưởng bất tận nơi người xem bằng thứ ngôn ngữ
riêng của màu sắc.
Ngoài ra, cũng có chỗ Jimmy Liao sử dụng những màu mờ mờ, ảo ảo. Đó là
màu sắc thường thấy trong các họa cổ Trung Hoa: Sơn sức hữu vô trung (mờ mờ
sắc núi như là có, như là không). Đó là những màu khi miêu tả cảnh mây núi xa xa,
những làn sương mù trong buổi sáng sớm khi hòn đá nhớ về, là khi hòn đá đứng ở
đầu cảng biển và nhìn ra đại dương mênh mông và cả khi bị tạc thành chú mèo thần
bí, hòn đá cùng những đứa trẻ “đứng trước cửa sổ, ngắm mây, ngắm núi, ngắm
nhìn những nơi xa xa”…
Có thể nhận thấy rằng, dù viết về nỗi buồn và sự cô đơn nhưng màu sắc vẫn
rất đẹp, màu sắc của bức tranh ở những bức tranh đầu tác phẩm có chiều hướng tươi
sáng hơn những bức tranh được vẽ ở những trang sau của tác phẩm. Sắc độ chuyển
màu trong các bức tranh của tác phẩm hết sức êm dịu, tạo cảm xúc cho người xem
tranh. Chiều hướng màu sắc thuận theo từng chặng đường mà hòn đá trải qua, màu
xám bàng bạc về những nỗi nhớ, màu đen tĩnh lặng vì nỗi cô đơn… Rồi cuối cùng,
màu sắc lại sáng lên, tươi tắn hẳn lên ở chặng đường cuối khi hòn đá hạnh phúc
được trở về. Nếu chú ý sẽ dễ dàng nhận thấy rằng: ở mỗi phiên bản khác nhau,
người họa sỹ lại khoác lên mình hòn đá mỗi màu khác nhau. Là màu xám khi ở
phiên bản con voi, tượng trưng cho cuộc sống tẻ nhạt, chán ngắt, u buồn, không có
mục đích và cuộc sống khắc khổ. Màu hồng khi ở phiên bản chú chim, đó là màu
của tình yêu, gợi nên sự ngọt ngào và cả sự gắn bó, chia sẻ. Thế nhưng khi bà lão

mất đi, chiếc khăn cũng theo gió bay đi thì chó chim lúc này cũng không còn ai bên
cạnh và rồi cũng vỡ ra trê nền màu vàng của trời thu. Đó còn là màu tím khi hòn đá
ở phiên bản con cá ở đầu cảng biển. màu của sự thủy chung, son sắt biểu hiện trong
tình yêu. Thế nhưng tình yêu đó là sự chờ đợi không trở về, vì thế nó lại vỡ ra. Rồi

49


lại là vầng trăng với màu vàng gợi nên sự tươi tắn, bình an… Hơn nữa, sự kết hợp
các loại màu trong một bức tranh hết sức nhuần nhuyễn và thường được xây dựng
dựa trên sự đối lập là chủ yếu. Hòn đá khi được ngợi ca, tung hô thì tác giả sử dụng
những gam màu tươi tắn, rực rỡ nhưng khi vỡ toác ra, chẳng còn ai nhung nhớ thì
trầm lặng, màu tối xám, đen ngòm…
2.2.3. Về đường nét
Để vẽ nên các bức tranh trong tác phẩm, Jimmy Liao chủ yếu sử dụng những
nét vẽ comic quen thuộc những năm 1980 và kế thừa cách vẽ tranh thủy mặc Trung
Quốc xưa, nghiêng về chấm phá, gợi nhiều hơn tả… Đó là sự kết hợp giữa một bên
là những nét vẽ hài hước, trẻ con với những nét vẽ u buồn, tịch mịch. Chẳng hạn
trong bức tranh khi hòn đá trở thành phiên bản phiến đá dành cho người đã mất.
Một bên tác giả sử dụng các nét vẽ nhẹ nhàng, mảnh mai để miêu tả không gian
rộng lớn của cánh động hoang vắng, một bên là những nét vẽ có vẻ như run rẩy khi
miêu tả phiến đá gợi nên sự trầm lặng, hoang vu, u buồn. Tất cả các bức tranh trong
tác phẩm đều sự dụng đa dạng các loại đường nét: đường cong, đường thẳng, đường
gãy khúc…
Ở một số bức tranh, Jimmy Liao sử dụng đa dạng các loại đường nét. Đó trước
hết là ở hình ảnh khối đá to, nằm giữa khu rừng. Nét vẽ cứng cỏi thể hiện sự to,
khỏe và vững chắc của hòn đá. Nhưng đó chỉ là lúc ban đầu khi nó vẫn được ở trong
rừng xanh. Và cả những nét vẽ nhẹ nhàng nhưng vẫn mở ra một không gian rộng
lớn, hùng vĩ của khu rừng. Đường nét trong tranh cũng rất tinh tế, lãng mạn và bay
bổng. Điều đó đưỡng thể hiện ở những đường cong mượt mà khi miêu tả những dãy

núi chập trùng, những đám mây xa xa. Đặc biệt các đường nét bay bổng được thể
hiện trên con đường trở về băng qua đại dương của hòn đá nay chỉ còn như những
hạt bụi bay trong gió. Những hạt nhỏ bé đi qua đại dương nhìn thấy những con sóng
lượn trên mặt biển, những hòn đảo mấp mô xa xa và trên cao là những đám mây
bàng bạc. Đi qua thành phố nó “nhanh chóng”, qua thị trấn nó “vội vã”, qua đường
cao tốc nó “hối hả” nhưng đi qua đại dương mênh mông nó lại “chậm dãi”. Phải
chăng, cảm giác yên bình khi sắp được trở về và trước không gian bình yên ấy

50


khiến những hạt đá nhỏ đã “chậm dãi” băng qua để tận hưởng.
Jimmy Liao còn sử dụng những đường gẫy khúc, những nét vẽ nhỏ, mảnh
nhưng gợi cảm xúc sâu xa. Là khi hòn đá cứ ngỡ rằng mọi thứ trong khu rừng sẽ
được hồi phục và bản thân nó sẽ mãi ở nơi đây. Nhưng đột nhiên nó bị vỡ làm đôi.
Tác giả sử dụng nét vẽ gãy đột ngột gây nên sự bất ngờ, sự đau đớn và mất mát đối
với hòn đá cũng như với mỗi người xem tranh. Đây là loại đường nét mà họa sỹ sử
dụng trong dọc tác phẩm của mình. Mỗi lần được tạc thành các “phiên bản” khác
nhau, là mỗi lần thân hình nó vỡ toác ra vì nỗi nhớ. Các đường nét lúc này gẫy
khúc, nứt noác đột ngột. Tất cả gợi nên cảm giác mất mát, đau đớn và yếu đuối,
chẳng còn thiết tha điều gì. Các đường gãy khúc đó có xu hướng nhỏ lại nhưng lại
gợi những nỗi nhớ, nỗi cô đơn và cả sự yếu đuối lớn hơn. Từ phiên bản con voi bị
vỡ, tới con chim, con cá… mà đặc biệt là ở phiên bản hình trái tim. Trái tim ấy là
tình yêu của tuổi thanh xuân, vỡ tan ra khi tình yêu kết thúc. Những đường nét gãy
khúc khi miêu tả trái tim vỡ ngắn và nhỏ nhưng nó lại gợi nỗi đau lớn. Bởi tất cả
những gì mà hòn đá chứng kiến ngay cả tình yêu đôi lứa đều cũng chia ly, mất mát.
Cuối cùng, nó chỉ còn lại là những nét vẽ mơ hồ, khó định, những nét chấm phá,…
bởi bản thân hòn đá bây giờ như hạt bụi. Tuy nhiên, đằng sau những nét vẽ gãy góc
ở đây, người xem vẫn cảm nhận được sự “khỏe khoắn”. Cái “khỏe khoắn” ở đây là
nỗi nhớ, nỗi nhớ ngày một lớn dần thêm và cuối cùng nỗi nhớ đã tạo thành sức

mạnh được trở về.
Đó còn là những đường nét thẳng đứng, khô khan nhưng ẩn chứa nhiều ý
nghĩa. Khi hòn đá được đưa vào một thành phố xa lạ, tác giả đã dùng những nét vẽ
thẳng đứng để vẽ nên những ngôi nhà cao tầng san sát nhau. Để tạo nên sự đối lập
giữa không gian với bản thân hòn đá. Giữa không gian rộng lớn và bóng tối buông
xuống khi đêm về, hòn đá vẫn lặng lẽ và đứng khom mình trong thành phố xa lạ.
Gợi lên trong mỗi người xem tranh cảm giác yên tĩnh, buồn tẻ. Jimmy Liao còn sử
dụng rất nhiều các nét thẳng đứng ở bức tranh trong đêm Giáng sinh, được thể hiện
ở các ô cửa sổ, các tấm rèm, và cả nền nhà trong căn phòng vắng lặng. Tất cả là
những đường thẳng đứng, không góc cạnh, không cảm xúc, gợi nên nỗi cô đơn lớn

51


lao.
“Hòn đá xanh” của Jimmy Liao là một tác phẩm thuộc thể loại tranh truyện, vì
vậy có thể nhận thấy các đường nét mà ông sử dụng mang tính tối giản nhưng
ngược lại, lại giàu tính biểu tượng. Các nét vẽ đơn giản, có vẻ như khờ khạo nhưng
lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Để vẽ nên hình ảnh các phiên bản của hòn đá hay những
cảnh vật xung quanh là việc sử dụng những nét vẻ rất đơn giản, trẻ con nhưng nó lai
có một sức chứa lớn. Nhìn sâu vào các phiên bản, người xem tranh vẫn cảm nhận
được sự u buồn nỗi nhớ, nỗi cô đơn và khát khao được trở về của hòn đá. Khi vẽ
nên phiên bản con voi, dù họa sỹ không đi sâu khắc họa các chi tiết mắt hay hình
dáng nhưng người xem vẫn cảm nhận được sự lặng lẽ, u buồn và cô đơn của hòn đá.
Các phiên bản là con chim, con cá hay con mèo… cũng tương tự như vậy. Ông
mượn thực tế để tách rời khỏi thực tế nhưng lại kể về một câu chuyện thực tế. Điều
đó dẫn dắt người xem tranh vào một thế giới kỳ lạ, ảo huyện của những câu chuyện
đời thường.
2.3. “Hòn đá xanh” như là sự hội tụ vẻ đẹp của văn học và hội họa
Văn học và hội họa là những đứa con xuất sắc trong gia đình nghệ thuật. Giữa

hai loại hình này có mối quan hệ khăng khít, biện chứng với nhau. Trong “Hòn đá
xanh” dường như hai yếu tố này hòa quyện vào nhau, bổ sung và đưa đẩy cho nhau.
Người đọc, người xem tranh có thể dễ dàng nhận thấy, trong tác phẩm tất cả
ngôn ngữ, đường nét và màu sắc như cùng kể chuyện. Người ta thường cho rằng,
chất liệu của văn học là ngôn từ; chất liệu của hội họa là màu sắc. Đó là hai yếu tố
thuộc hai loại hình khác nhau và giữa chúng không hề có bất kỳ điểm chung nào.
Tuy nhiên, ở tác phẩm này ngôn từ và màu sắc, đường nét cùng kết hợp, bổ sung
cho nhau để kể câu chuyện thực tế. Ở mỗi bức tranh, dù chỉ có mấy dòng chữ ngắn
ngủi kết hợp cùng sự miêu tả tranh ở trên, người đọc đều có thể cảm nhận được.
Chẳng hạn ở những bức tranh đầu tiên, để giới thiệu về sự xuất hiên tác giả sử dụng
ngôn từ giàu hình ảnh, miêu tả cảnh khu rừng và những cảnh vật xung quanh như
“tiếng chim ríu rít”; “mùi thơm của hoa lan tỏa theo làn gió”. Để hiện thực hóa
cho những ngôn từ miêu tả đó, Jimmy Liao đã vẽ nên một khu rừng rộng lớn, bát

52


ngát màu xanh. Sự kết hợp đó gợi nên một không gian yên bình, trong sạch và đầy
sức sống. Hay khi kể về nỗi nhớ của hòn đá, qua những lời kể rất thực người đọc
hoàn toàn có thể cảm nhận và thấu hiểu được nỗi nhớ và sự cô đơn của hòn đá khi
phải rời xa một nửa, rời xa quê hương. Nhưng sự cảm nhận đó càng sâu sắc hơn khi
tác giả cụ thể hóa những lời kể qua những bức tranh, những đường nét, màu sắc
được sử dụng. Ví như bức tranh khi hòn đá ở phiên bản chú voi lộng lẫy, tác giả
viết: “Một đêm, một quả bóng xanh bay ngang trước mặt nó, hòn đá xanh chợt nhớ
tới một nửa thân hình còn lại trong rừng sâu. Nỗi nhớ quá mãnh liệt ập tới như sét
đánh, nó bị vỡ toác ra trong nháy mắt”, người đọc có thể nhận thấy đó là lối kể
chuyện trực tiếp, ngắn gọn kết hợp với lối nói so sánh, sử dụng các động từ mạnh,
để từ đó làm bật lên nỗi nhớ của hòn đá. Nhưng nỗi nhớ ấy cụ thể hơn, sâu sắc hơn
khi tác giả vẽ lên trên nền của màn đêm u tối cùng những đường nét thẳng đứng để
miêu tả thành phố xa lạ khi đêm về, nỗi nhớ mãnh liệt khiến phiên bản chú voi bị vỡ

toác ra. Sự vỡ toác đó được miêu tả bằng những đường nét gãy đột ngột, vụn vỡ.
Rồi cả sự kết hợp màu sắc, tông màu trầm chiếm trọng không gian bức tranh. Đó là
màu đen xẫm của màn đêm, màu xám của chú voi, rồi khi vỡ ra thì đó là những
mảnh màu xanh lam vỡ vụn. Sự kết hợp của tất cả yếu tố trên giúp người đọc, người
xem tranh cảm nhận được một không gian yên lặng, tĩnh mịch, đầy vẻ u buồn. Đồng
thời cũng thấu hiểu, đồng cảm với nỗi nhớ da diết của hòn đá. Những phiên bản tiếp
theo ở mỗi chặng đường cũng tương tự như vậy.
Hội họa và văn học cùng nhau kể câu chuyện của cuộc sống. Bởi, trong
khoảng lặng của ngôn từ là sự biểu hiện của hội họa. Hội họa lúc này giống như
người anh, người chị dắt văn học cùng tiến bước. Điều này được thể hiện ở chỗ, có
những lúc ngôn từ không hề diễn tả hòn đá sẽ ở phiên bản nào nhưng ở tranh đã thể
hiện rõ hình ảnh phiên bản. Chẳng hạn như khi hòn đá được đưa về khu vườn thanh
bình của bà lão. Tác giả không hề kể rằng, nó được tạc thành một chú chim màu
hồng mà chỉ kể về sự gắn bó của bà lão đối với nó “Bất kể ngày nắng hay mưa, mỗi
sáng sớm, bà lão đều tới vườn hoa, ngồi xuống bên hòn đá xanh, khẽ khẽ trò chuyện
cùng nó…”. Dù không trực tiếp kể về hình ảnh của phiên bản, người đọc, người

53


xem tranh vẫn có thể cảm nhận được một không gian của một khu vườn yên bình,
đầy màu xanh tươi của sự sống và đặc biệt là sự gắn bó của bà lão đối với hòn đá.
Nhưng rồi, ở phiên bản này hòn đá vẫn không được trọn vẹn. Khi bà lão ngất đi và
hình ảnh chiếc khăn của bà bay trong gió, hòn đá ấy lại vỡ ra “Hòn đá xanh lại nhớ
tới một nửa của mình. Nỗi nhớ nhung mãnh liệt lại ập tới như sét đánh. Nó lại vỡ
toác”. Người họa sỹ đã tỉ mỉ khắc họa từng nét gãy, vỡ vụn của hòn đá cùng không
gian trời thu tan tác, hoang vắng, úa tàn. Khi bà lão và hòn đá gắn bó bên nhau, tác
giả miêu tả và vẽ nên một không gian tràn đầy sự sống, yên bình trong khu vườn
nhưng khi bà lão ngất đi, tác giả dựng lên cảnh vỡ toác, không gian úa tàn, hoang sơ
của trời thu đầy vẻ cô đơn. Đặc biệt khi hòn đá chỉ còn là những hạt nhỏ xíu bay

trên bầu trời đêm tối, tác giả không hề nhắc tới chiếc lông vũ nhưng trên bức tranh
lại vẽ nên hình ảnh chiếc lông cùng những hạt đá xanh nhỏ được gió đưa đi. Điểm
xuyết trên nền trời ấy là cuộc đồng hành của chiếc lông vũ với những hạt đá. Màu
trắng của lông vũ và màu xanh của những chấm li ti trên nền trời đen gợi lên nhiều
cảm xúc thẩm mỹ trong lòng mọi người.
Một điểm đặc biệt trong sự kết hợp giữa hội họa và văn học trong tác phẩm là
làm sống dậy quá khứ.

Jimmy Liao đã rất tài tình khi xây dựng những hình ảnh đồng hiện giữa hiện tại và
quá khứ. Mỗi lần diễn tả nỗi nhớ của hòn đá là mỗi lần quá khứ thức dậy. Bởi xét
tới cùng, nỗi nhớ thường thuộc về quá khứ, về cái gì đó xa xôi. Người ta từng trải

54


qua, từng gắn bó rồi xa cách thì mới hình thành nên nỗi nhớ. Hòn đá ở đây cũng
vậy, nó đã rời xa khu rừng và trải qua một cuộc hành trình dài. Trên mỗi chặng
đường là mỗi phiên bản khác nhau và ở mỗi phiên bản là mỗi lần nỗi nhớ xuất hiện.
Ở phiên bản chú voi, tác giả diễn tả nỗi nhớ “Nó rất nhớ nhà, nhớ tới ngôi nhà của
nó trong rừng sâu”. Tác giả đã vẽ nên một bức tranh nhưng đồng thời lại là sự xuất
hiện của hai thời điểm khác nhau. Một bên là hiện tại cảnh chú voi bị vỡ toác giữa
không gian yên tĩnh, trầm lặng với một bên là cảnh một nửa còn lại mà trước nó bỏ
lại nơi khu rừng. Nó nhớ lại một nửa ấy đúng như lúc cuối cùng hai nửa còn bên
nhau, đó là cảnh bắt đầu sống dậy của khu rừng sau khi đám cháy qua đi. Hòn đá ấy
khát khao được trở về và gắn bó bên nhau. Ở phiên bản chú chim, bên cạnh câu
chữ, tác giả cũng thuật lại quá khứ là cảnh một nửa còn lại của hòn đá. Tuy nhiên
lúc này, cảnh vật, không gian xung quanh hòn đá là màu vàng của trời thu, trên cao
dường như là cảnh hoàng hôn. Không gian này cũng giống như không gian hiện tại
của hòn đá. Rồi khi ở phiên bản của một con cá đứng nơi đầu cảng biển, nó cũng
nhớ và “Nó muốn về nhà, muốn quay về căn nhà ấm áp”. Hình ảnh của một nửa lại

hiện lên trong nỗi nhớ với cảnh không gian xung quanh như đang sống dậy, những
bông hoa vàng nở khắp khu rừng bao quanh bên một nửa. Khi được tạc thành hình
ảnh vầng trăng, nó cũng nhớ về một nửa nhưng lúc này không gian xung quanh khu
rừng cũng đổi khác. Nơi đó có “ánh trăng dịu dàng chiếu rọi” và cây cối ngày một
xanh tươi hơn. Ngay cả khi hòn đá ở phiên bản của một phiến đá, trong cơn mưa ào
át nó bị sét đánh vỡ toác ra và lúc này “Nó nhớ nhung gió mát luồn qua khe núi, nó
nhớ nhung làn mưa xuân li ti thấm ướt cả đất mềm…”. Đồng thời với nỗi nhớ ấy,
tác giả vẽ nên một bức tranh đầy sức sống của một nửa còn lại, nơi ấy cây cối đang
phát triển tốt tươi, có “chú hươu non khẽ lướt qua bên mình như nhảy múa lúc tiết
xuân”. Ở phiên bản con mèo thần bí cũng vậy, nó nhớ về ngôi nhà, “nhớ dáng tuyết
rơi. Nhớ cái lạnh lẽo khi được tuyết trùm lên. Nó buồn bã khi không tài nào nhớ
được rõ hình hài của chiếc lá” và rồi hình ảnh một nửa lại hiện lên trong không gian
ngập tràn tuyết rơi. Lần cuối cùng, khi ở phiên bản trái tim, nỗi nhớ của nó được tác
giả vẽ nên một khu rừng rộng lớn, cây cối xanh tươi, vững chắc, có những hạt nhỏ

55


phớt qua và cả những chú chim ngộ nghĩnh. Cứ mỗi lần vỡ ra là mỗi lần nó nhớ về
một nửa và một nửa ấy lại hiện ra. Jimmy Liao đã xây dựng bằng bút pháp rất đặc
biệt và khác lạ. Ông để hòn đá nhớ về quá khứ sau mỗi lần vỡ toác, nhưng quá khứ
không nằm yên như ngày đầu nó xa mà ngược lại quá khứ ấy lại ngày càng tốt tươi,
căng tràn của sự sống. Tác giả xây dựng hình ảnh đối lập, giữa một bên là hiện tại
khiến hòn đá mỗi lần nhớ về là mỗi lần vỡ toác và nhỏ lại và một bên thì một nửa
vẫn vậy nhưng không gian xung quanh lại đổi thay theo chiều hướng tích cực,
không gian khu rừng tràn đầy sức sống. Duy nhất hình ảnh một nửa của nó vẫn vậy,
không thay đổi. Dường như đó là sự chờ đợi, thủy chung của một nửa dành cho một
nửa.
Văn học và hội họa còn thể hiện mối quan hệ ở sự hòa hợp giữa ngôn ngữ nhỏ
nhẹ, tối giản, tinh tế với những nét vẽ bay bổng, lãng mạn. Ở đây, ngôn ngữ mà tác

giả sử dụng như những lời kể bình thường, ngôn ngữ miêu tả là chủ yếu. Chẳng hạn
như ở phiên bản con voi, lời kể hết sức ngắn gọn: “Mọi người tán dương nó, điên
cuồng vì nó, lượn vòng quanh nó mãi không thôi” đồng thời với lời kể thì tác giả
dựng lên một bức tranh rực rỡ, đông đúc người xem. Vẽ hình ảnh con người trong
tranh chủ yếu dùng những nét vẽ tượng trưng, ước lệ về tỉ lệ giữa người và cảnh vật.
Có thể thấy cả ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đường nét đều rất đơn giản nhưng
lại gợi lên nhiều ý nghĩa.
Bên cạnh đó, có thể thấy nhờ sự kết hợp giữa văn học và hội họa mà người
đọc, người xem tranh cảm nhận được sự khác biệt giữa hòn đá xanh với những hòn
đá khác. Bản thân nó khác cả về hình thức và đặc biệt nó có tâm trạng, có nỗi nhớ
và nỗi khát khao cháy bỏng như con người.

56


Như vậy, có thể thấy giữa hội họa và văn học trong tác phẩm có sự tác động
qua lại, bổng sung cho nhau. Văn học cùng hội họa tạo nên một câu chuyện giàu
triết lý nhân sinh của cuộc sống. Hòn đá xanh được khoác trên mình hai bộ áo của
ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ màu sắc, đường nét. Hòn đá ấy trải qua nhiều
chặng đường, đi qua bao nhiêu năm tháng để hoàn thành cuộc hành trình của cuộc
đời. Đằng sau mỗi chặng đường đọng lại nhiều dư âm, ám ảnh trong lòng người
đọc. Có những ngọt ngào và cả đắng chát khi trải qua những biến thiên của cuộc
đời. Bắt đầu ra đi từ chốn bình yên, đi qua những năm tháng của cuộc đời, trải qua
những khó khăn, thử thách, những “chiếc gai của cuộc đời”. Và cuối cùng, hòn đá
đã thật sự hạnh phúc khi được trở về bến đỗ.
2.4. Tiểu kết
Trong tác phẩm “Hòn đá xanh”, thông qua những lời kể, người đọc cảm nhận
được nỗi nhớ, nỗi cô đơn của hòn đá và cả chất triết lý mà câu chuyện đem lại.
Thông qua các bức tranh, người xem thấy được bố cục bức tranh với không gian
rộng lớn, những đường nét lãng mạn, bay bổng đôi khi cứng nhắc và hệ thống màu

sắc đa dạng, phong phú. Đặc biệt, tương ứng với lời kể là những bức tranh cụ thể
thuật lại. Đó là sự kết hợp giữa hội họa và văn học. Sự kết hợp giữa văn học và hội
họa trong “Hòn đá xanh” có thể khẳng định là một sự kết hợp tuyệt vời. Tất cả các
yếu tố thuộc về văn học và hội họa cùng nhau kể chuyện. Tác giả viết và vẽ lên hình
ảnh của một hòn đá vô tri, vô giác để kể câu chuyện về cuộc đời, về sự ra đi và trở

57


về. Hòn đá ấy trải qua một cuộc hành trình thật dài cuối cùng dù chỉ còn tồn tại như
những hạt bụi nhỏ, nó cũng rất hạnh phúc vì được trở về. Đời người cũng vậy, đi
qua bao nhiêu xa cách và những thăng trầm trong cuộc sống đến cuối cùng đều
mong muốn được trở về. Nơi trở về đó là nơi ấm áp và bình yên nhất.

58


×