Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

tự tình 2 Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.36 KB, 3 trang )

TỰ TÌNH II

-

-

-

-

Thơ HXH là tiếng nói đồng cảm và trân trọng đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề
cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Về nghệ thuật, thơ hxh đậm đà chất dân gian, hài hòa giữa yếu tố
trào phúng và trữ tình, lộn cả tiếng cười và những giọt nước mắt. điều đó làm nên vẻ đẹp phong
phú cho thơ hxh.
Sống trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn bị coi thường, rẻ rúng, không được học
hành thi cử, bị lễ giáo trói buộc, chịu nhiều thiệt thòi cả ngoài xã hội lẫn trong gia đình. Chính vì
vậy, người phụ nữ không chỉ chịu bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường tình
duyên. Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài bi kịch đó nên bà dễ đồng cảm với thân phận của
người phu nữ. Bà thấu hiểu nỗi khổ của người làm lẽ, bà bênh vực cho người phụ nữ không chồng
mà chửa, bà an ủi người phụ nữ có chồng chết… điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo
gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến mà không ai dám lên tiếng. trong bài thơ “Làm lẽ” bà từng
viết “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lung – chém cha cái kiếp lấy chồng chung”. Thân phận của ng phụ
nữ làm lẽ hay cũng chính là thân phận của bà. Nằm trong mạch càm xúc đó, Tự tình 2 là tiếng nói
thở than về thân phận. Từ vấn đề riêng mang tính cá nhân, bài thơ còn chất chứa những vấn đề
chung của số phận người phụ nữ.
Trước hết, bài thơ là tiếng nói bi kịch duyên phận của người phụ nữ. nỗi niềm buồn tủi, cô đơn của
tác giả được gợi lên trong một không gian và thời gian vô cùng đặc biệt:
“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Không gian và thời gian ấy thường xuất hiện trong văn học gắn liền với hình ảnh con người tâm
sự. trong văn chương cổ trung đại, ta thấy nhiều hình ành này: cô gái trong ca dao một mình trong


đêm “mắt thương nhớ ai – mắt ngủ không yên”, người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” cũng
thức thâu đêm, nghe tiếng “gà eo óc gáy sương năm trống” mà thao thức, mà cô đơn, mà lo lắng
cho chồng, nàng Kiều thì “Nỗi riêng riêng những bàn hoàn – dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm
khăn” khi bán mình chuộc cha hay lúc ở lầu xanh “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh – giật mình mình lại
thương mình xót xa”. Nói để thấy rằng tác giả chắc hẳn phải có điều bất thường trong tâm trạng, có
những nỗi niềm không biết ngỏ cùng ai.
Có lẽ bà đang tự đối diện với chính bản thân mình, để xót thương, để tự vấn. Đêm khuya ở đây
không hề yên tĩnh mà lại “văng vẳng” tiếng trống canh. Từ láy văng vẳng miêu tả những âm thanh
nhỏ từ xa vọng đến, càng gợi cái im vắng của không gian. Tiếng trống canh gấp gáp liên hồi được
cảm nhận qua sự phấp phỏng, bối rối như sợ bước chuyển nhanh chóng, dồn dập của thời gian. Cái
âm thanh “văng vẳng” trong thơ HXH có sức ám ảnh đến não lòng. Ở tự tình 1, “Tiếng gà văng
vẳng gáy trên bom” đã buồn thì ở bài thơ này, sự gấp gáp, liên hồi của tiếng trống vừa là sự cảm
nhận, vừa thể hiện bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời của tâm trạng.
Trước không gian hoang vắng, thời gian nghiệt ngã trôi đi, hxh nhận ra tình cảnh cô đơn trơ trọi
của mình. Thời gian trôi chảy vô tình như không biết nó chứa đựng một sự tàn phá ghê gớm – tàn
phá tuổi trẻ,cũng chính là tàn phá đi nhan sắc, tình yêu và hạnh phúc của đời người. Thời gian trôi
qua, chỉ còn lại sự bẽ bàng: “Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hồng nhan là chỉ má hồng, người đàn bà đẹp. Trơ là sự tủi hổ, bẽ bàng. Cái hồng nhan đẹp đáng lẽ
phải được trân trọng, nâng niu lại phải trơ ra giữa nước non rộng lớn. Từ “trơ” được đảo lên đầu


-

-

-

-

-


câu, đứng riêng ra, ăn hẳn một nhịp vừa nói được thế lẻ loi, trơ trọi lại vừa nói đến sự vô duyên
(trơ ra). Trơ cũng hàm ý mỉa mai, cay đắng, xót xa khi đi với tổ hợp “cái hồng nhan”. Hai chữ
“hồng nhan”- vẻ đẹp của người phụ nữ lại đi với từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai. Thì ra “hồng
nhan” đi với bạc phận, “hồng nhan bị bỏ rơi, chẳng ai đoái hoài đến, đang trơ ra với nước non
(không gian), với thời gian vô thủy vô chung. Càng nghĩ càng thấy phẫn uất, đắng đót, ngậm ngùi.
Đời HXH sao chẳng thể vui với nước non mà chỉ thấy “bảy nỏi ba chìm với nước non”, chỉ thấy
“trơ cái hồng nhan với nước non”. Nghĩa là HXH đau khổ nhưng vẫn vững vàng bản lĩnh như “Đá
vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (bà Huyện Thanh Quan). Đó là sự bướng bỉnh, thách thức, ngang tàn
với cuộc đời, với nước non. Đó chính là bản lĩnh của người phụ nữ họ Hồ.
Như vậy, cái hồng nhan trơ ra với nước non không chỉ là dãi dầu mà còn là cay đắng, vì thế nỗi đau
càng thấm thía, xót xa. Bên cạnh một HXH bản lĩnh lại là một HXH đang xót xa, thương thân tủi
phận mình.
Trong cái tận cùng của sự cô đơn, HXH tìm đến rượu và vầng trăng với mong muốn giải tỏa được
nỗi niềm, thế nhưng:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Càng tìm kiếm điểm tựa, sự đồng cảm thì càng thất vọng. Mượn trăng làm bạn, mượn rượu vơi sầu
nhưng cũng giống như Lí Bạch thời Đường “Rút dao chém nước, nước càng chảy xiết – mượn
chén tiêu sầu, sầu càng sầu thêm”. Giống bao bậc thi nhân, hxh tìm đến đến rượu với mong muốn
mượn cơn say để quên đi sự cô đơn. Người đàn ông lấy rượu giải sầu đã là chuyện đầy vơi của nỗi
niềm, tâm trạng. Người phụ nữ đến với chén rượu độc ẩm đêm khuya mới là việc cực chẳng đã.
Uống rượu mà như uống sầu uống tủi, như nuốt thầm giọt đắng giọt cay. Say có thể lãng quên đi
giây lát nỗi sầu thương. Nhưng “say rồi tỉnh” mới thấm nỗi đau “khi tỉnh rượu lúc tàn canh/ giật
mình mình lại thương mình xót xa”(ND, truyện Kiều). cụm từ say lại tỉnh gợi lên cái vòng luẩn
quẩn, bế tắc trong tâm trạng, trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương. Càng say, càng tỉnh, càng cảm
nhận được nỗi đau thân phận. đi hết vòng say tỉnh của men rượu lại càng ý thức được sâu sắc hơn
nỗi cô đơn của cuộc đời, nỗi buồn đã ngấm sâu vào tâm hồn thì không gì có thể làm vơi bớt được.
Nhà thơ tìm đến trăng, nhưng trăng thì đã “bóng xế khuyết chưa tròn”. Thực cảnh cũng là thực
tình! Vầng trăng của BCTN khiến người ta liên tưởng đến cuộc đời của nữ sĩ, đã xế bóng, đã đi

gần hết con đường mà vẫn chưa một lần trọn vẹn, hạnh phúc vẫn hao khuyết, dở dang. Tuổi xuân
đã qua mà nhân duyên chưa trọn vẹn. hương rượu để lại vị đắng chat, hương tình thoáng qua chỉ
còn phận ẩm duyên ôi. Con người chới với giữa một thế giới mênh mông hoang vắng và bất lực
trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình. Nỗi buồn của HXH trong bài thơ không phải là nỗi buồn
vì đêm tàn canh vắng mà đó là nỗi đau thân phận nhức nhối, xót xa.
Nỗi niềm phẫn uất của HXH trong bài Tự tình I lan tỏa, bao trùm cảnh vật “oán hận trông ra khắp
mọi chòm” thì giờ đây tiếp tục lan tỏa ra cả trời đất:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Nỗi niềm phẫn uất dồn nén, bây giờ trào ra, thấm vào cảnh vật, tiếp cho mọi vật sức công phá. Hai
câu thơ sử dụng phép đảo ngữ một cách độc đáo. Trạng thái của thiên nhiên cũng chính là tâm
trạng con người. Các động từ mạnh xiên, đâm kết hợp bổ ngữ ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh,
ngang ngạnh, phẫn uất, một tâm trạng khác thường, khác người. phép đảo ngữ kết hợp động từ


-

-

-

mạnh diễn tả cái thế vẫy vùng, cựa quậy đầy sức mạnh như vượt qua những ranh giới, khuôn khổ
bình thường của những vật vô tri. Hai câu thơ nói về rêu và đá song lại gợi ra cho người đọc suy
tưởng về những gắng gượng của con người trong cuộc đời. rêu vốn là loài thực vật mềm mỏng, yếu
đuối nhưng lại có thể mang sức mạnh xiê ngang mặt đất. đá chỉ có mấy hòn, ở dưới thấp mà như
vươn lên tận trời cao để đâm toạc chân mây. Hình ảnh không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn mang
những tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng của một con người đầy cá tính và bản lĩnh
không cam chịu, muốn thoát khỏi những ranh giới vốn định sẵn, những khuôn khổ chật chội của số
phận, một con người nhỏ bé nhưng muốn đứng cao hơn thời đại. qua đó thể hiện sức sống mãnh
liệt ngay cả trong tình cảnh bi thương nhất. tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ ấy là niềm khát

khao được sống hạnh phúc.
Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc là thế, bản lĩnh là thế nhưng hai câu cuối bài thơ lại kết thúc
bằng tâm trạng chán chường, buồn tủi:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Ngán là chán ngán, ngán ngẩm. nhà thơ càm thấy ngao ngán, chán chường vì hoàn cảnh cùng số
phận trớ trêu, tủi hổ của mình. Tâm trạng buồn bã được bộc lộ một cách trực tiếp. Đằng sau sự vẫy
vùng, muốn đổi thay của nhân vật trữ tình vẫn còn sự níu giữ của một sợi dây vô hình của thời gian
và thực tế số phận. Xuân đi rồi xuân lại, tạo hóa chơi một vòng quanh luẩn quẩn. “Xuân lại lại” là
quy luật tất yếu của thời gian, đem lại những cảm xúc khác nhau cho mỗi người nhưng với nữ sĩ,
quy luật ấy chỉ đem lại sự nhàm chán, nặng nề. Mùa xuân có sự tuần hoàn còn tuổi trẻ một đi
không trở lại. Nói như thi sĩ Xuân Diệu “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng
hai lần thắm lại”. Đó là tâm sự rất buồn, một nỗi sầu nhân thế vạn cổ, nó xuyên suốt từ thơ cat rung
đại sang hiện đại. Hai từ lại kết hợp với nhau trong một câu thơ khiến âm hưởng lời thơ như trĩu
xuống, đem lại hai nghĩa khác nhau: từ lại thứ nhất mang nghĩa “them lần nữa”, từ lại thứ hai mang
nghĩa “sự tuần hoàn, sự trở lại”. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân.
Nghịch cảnh éo le hơn bởi nghệ thuật tang tiến trong câu thơ cuối: mảnh tình-san sẻ-tí-con con. ở
đây không phải là “Khối tình cọ mãi với non sông” mà là mảnh tình. Mảnh tình đã bé lại còn bị san
sẻ thành ra ít ỏi, cuối cùng chỉ còn tí con con nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ có lẽ được viết
ra từ tâm trạng của người đã mang thân đi làm lẽ. Có làm lẽ thì mới thấm cảnh phải chia năm xẻ
bảy trong chuyện tình cảm “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” (Làm lẽ). Câu thơ cũng khái quát nỗi
lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi họ không được sống hạnh phúc, bị xem thường, rẻ
rúng để rồi có lúc bà phải thốt lên: “Thân này ví biết dường này nhỉ/Thà trước thôi đành ở vậy
xong” (Lấy chồng chung)
Khép lạibài thơ vẫn còn nguyên vẹn bi kịch tình duyên. Sau tiếng thở dài ngao ngán ấy là niềm ao
ước mãnh liệt của nhân vật trữ tình về hạnh phúc và tình yêu. Đó cũng chính là vẻ đẹp của thơ
HXH. Một người phụ nữ không bao giờ hết khát khao ngay cả trong những tình huống bi thảm
nhất. Bài thơ cũng thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo của BÀ CHÚA THƠ NÔM trong việc sử
dụng từ ngữ và xây dựng hình tượng. người đọc không chỉ đồng cảm, trân trọng trước một cuộc
đời nhiều bi kịch, một tâm hồn nhiều khao khát mà còn ao ước về một sự đổi thay để có thể đem

đến hạnh phúc cho HXH nói riêng và cho con người nói chung. Vượt qua ý nghĩa là một bài thơ
giãi bày long mình, Tự Tình II của HXH đã trở thành 1 tp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. bài thơ đã
chạm đến niềm ao ước và khát vọng của con người muôn đời.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×