Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TS Chu Văn Sơn viết về thơ Thanh Thảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.92 KB, 14 trang )

Thanh Thảo,

nghĩa khí và cách
tân


CHU VĂN SƠN


Nghĩ cũng vui, cái duyên thơ Thanh Thảo - Chế Lan Viên thời chống
Mỹ có gì giông giống với Xuân Diệu - Thế Lữ thời tiền chiến. Khi vừa nhận đ-
ợc chùm thơ lạ kí tên Xuân Diệu gửi đến báo Ngày nay của Tự Lực Văn
Đoàn, mắt xanh của con- hổ- nhớ- rừng đã thấy ra chàng hoàng tử tơng lai của
Thơ mới rồi. Nhng chúa sơn lâm vẫn nán mai phục thêm chút (tất nhiên không
phải để xơi tái con mồi nh những con hổ khác!) nên cha vội lăngxê. Không lâu
sau, nhiều bài nữa đã liên tiếp gửi đến, tức thì Thế Lữ hoan hỉ loan báo về
Xuân Diệu bằng những lời trọng đại Loài ngời hãy hiểu con ngời ấy !. Xem
tiếp những hồi sau, ngời đời đã rõ : những gì diễn ra với Xuân Diệu đều y
chang tiên đoán của Thế Lữ. Còn Chế Lan Viên, bấy giờ đang trông coi trang
thơ ở tờ Tác phẩm mới của Hội Nhà Văn. Một hôm, đến tay ông bài thơ lạ
gửi ra từ chiến trờng. Thấy rõ là một bài thơ thật hay, thế mà chả hiểu sao, ông
lại nghĩ nó đau thơng quá, nên...cũng không cho in, và ... cũng nán đợi. Thì ra,
những con hổ về già đều quá là thận trọng ! Một độ sau, vợt qua bao bom đạn,
một loạt bài mới của tác giả kia lại về đợc đến thủ đô. Đến lúc này, thì Chế
Lan Viên đã bạo tay làm phắt một việc xa nay cha từng làm, mà cũng cha từng
có : lăngxê hẳn một chùm cực sai quả, nhiều tới tận mời ba bài ! Ông u ái cá
nhân ? Ông u tiên chiến trờng ? Ông rộng tay với cánh trẻ ? Có thể thế, cũng
có thể không. Mà có khi chỉ đơn giản : phải làm đến thế ông mới đành, mới đã
cũng nên.
Thi đàn chống Mĩ, từ đấy, có Thanh Thảo.



1. Lấp lánh chất ngời
Tôi đã hỏi Thanh Thảo, cái bài đầu lòng duyên may phận rủi đó là gì.
Mới hay là bài Thử nói về Hạnh Phúc. Đọc nó, cứ tiếc, giá hồi ấy Chế Lan
Viên đừng e ngại quá, cứ mạnh dạn in thì còn đã biết mấy! Vì sao ? Vì nó
hay. Vì nó đau thơng mà rắn rỏi ! Và vì ngay từ đó, Thanh Thảo đã là Thanh
Thảo rồi. Nghĩa là quan niệm nhân sinh, quan niệm thơ, lối tạo hình, giọng
điệu, nhất là mối trăn trở của một đời thơ... chừng nh đã định rồi. Tôi rất chú ý
cái đoạn :
1
hạnh phúc nào cho tôi
hạnh phúc nào cho anh
hạnh phúc nào cho chúng ta
hạnh phúc nào cho đất nớc
những câu hỏi cha thể nào nguôi đợc
mảnh đất hôm nay bè bạn chúng ta nằm
nơi máu đổ phải sống bằng thực chất
nơi cao nhất thử lòng ta yêu đất nớc
thử lòng ta chung thuỷ vô t
nơi vỡ vụn dới chân ta những mảng đêm hèn nhát
những gơng mặt ngẩng lên lấp lánh chất ngời.
Có ngời bảo Thanh Thảo là nhà thơ công dân, chỉ trăn trở chuyện bổn
phận với dân nớc, thời cuộc. Cũng đúng thôi. Cũng vẻ vang thôi. Những câu
kia có thể làm bằng. Nhng e cha thật trúng. Chính những tiếng thơ đầu đời đó
còn chứa bằng chứng khác. Tôi quyết rằng, trớc Thanh Thảo cha có thi sĩ nào
viết ra cái câu cuối kì kì vậy. Ngời khác có thể chỉ dừng ở gơng mặt ngẩng
lên lấp lánh. Với họ, thế là đủ, là kiệm lời. Đã lấp lánh, lại còn chất ng-
ời, thì lộ quá, thừa quá. Nhng Thanh Thảo thì cứ phải là lấp lánh chất ngời.
Thậm chí, cứ dứt khoát là Những gơng mặt ngẩng lên lấp lánh chất ngời.
Chữ chất ngời không chịu nằm yên ở tầng hàm ngôn. Nó cứ trồi lên, cứ nhất

thiết phải hiển ngôn. Sao thế ? Nó là nhãn tự của câu chăng ? Không. Không
phải nhãn tự của một câu thơ. Mà là nhãn tự của một đời thơ ! Chẳng phải thế
sao, chất ngời chính là nỗi trăn trở, niềm day dứt cả đời Thanh Thảo ! Khi còn
cầm súng, cũng thế. Khi chỉ chuyên cầm bút thôi, cũng thế : Học làm ngời
cao hơn núi non(Những khoảng sáng khác nhau), tôi yêu / chất ngời đầu
tiên / những giọt sơng lặn vào lá cỏ / qua nắng gắt qua bão tố / vẫn giữ lại
cái mát lành đầy sức mạnh / vẫn long lanh bình thản trớc vầng dơng (Bùng
nổ của mùa xuân), mong một ngày hiện rõ / chất thật mỗi con ngời, ta sẽ
trở lại / con ngời dù biết con đờng kia dài hơn mọi con đờng, phải trả
giá cho mỗi phẩm chất ngời / dù rất nhỏ (Đêm trên cát)... Rõ ràng, mối bận
tâm của thi sĩ này không bó hẹp ở chất công dân, mà rộng lớn hơn, là chất ng-
ời
1
. Căn cốt của chất công dân là chủ nghĩa yêu nớc, căn cốt của chất ngời là
chủ nghĩa nhân văn. Nhân văn là tình yêu lớn, là chất nhân loại phổ quát của
con ngời. Trong tình cảnh đất nớc bị đe dọa, có thể chất công dân là phần nổi
bật trong con ngời, thậm chí, đồng nhất với chất ngời. Song, trở về đời thờng
muôn thuở, chất công dân chỉ là tử số trên mẫu số lớn là chất ngời.
1
Thanh Thảo còn nói đến "chất ngời" bằng nhiều ẩn dụ, ví nh "chất gạo" : Những hạt gạo trên sàng /Sàng
qua lửa qua bom / Qua đắng cay còn nguyên chất gạo (Những ngôi sao của mẹ)
2
Nh thế, quan tâm đến chất ngời viết hoa là quan tâm trực tiếp đến vẻ đẹp
nhân văn. Là tiếp cận con ngời trên tinh thần nhân văn chủ nghĩa. Thêm một
thi sĩ chân chính xuất hiện là một tinh thần nhân văn mới nào đấy lên tiếng, đó
là qui luật. Quy luật ấy không ngoại trừ Thanh Thảo.

*
Nhng, có thi sĩ nào lại chẳng nói đến chất ngời, dù nhiều dù ít. Dừng ở
hai chữ chất ngời rất chung đó thôi, làm sao đủ hình dung Thanh Thảo ! Vậy

là cần đi tiếp : chất ngời mà Thanh Thảo quan niệm là gì ? Cũng ngay trong
thi phẩm đầu tay kia, dờng nh đã có câu trả lời :

chúng tôi không muốn chết vì h danh
không thể chết vì tiền bạc
chúng tôi lạ xa với những tin tởng điên cuồng
những liều thân vô ích
đất nớc đẹp mênh mang
đất nớc thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt
chỉ riêng cho Ngời, chúng tôi dám chết !
đêm nay ai cầm tay nhau vào tiệc cới
ai thức trắng lội sình
ai trầm ngâm viết những câu thơ thông minh
ai trả nghĩa đời mình bằng máu
màu đỏ thật không ồn ào
máu lặng lẽ ớt đầm ngực áo
Day dở mà quyết liệt đến thế này, chỉ có thể là tiếng nói khi cuộc chiến
đã vào hồi khốc liệt nhất. Không còn bồng bột nông nổi, không thể đơn giản
vô t nh hồi đầu. Ngời lính quý vô ngần sinh mệnh bản thân. Nhng vẫn sẵn
sàng xả thân. Xả thân lặng lẽ. Không phải vì vinh quang hay cuồng tín. Chỉ vì
nghĩa lớn. Chỉ để trả nghĩa đời mình bằng máu, thế thôi. Nghĩa, đó là lẽ
sống, lẽ chết, lẽ đời của họ. Nghĩa khí là bản tính, là phẩm giá, là sức mạnh
của họ. Mẫu số chung của chất ngời ở những con ngời ấy chính là nghĩa khí.
Bởi thế, tuy là giải phóng quân đấy, nhng gọi họ là chiến sĩ e không hợp.
Phải gọi là nghĩa sĩ. Nghĩa sĩ mới là vẻ đẹp riêng của ngời lính Thanh Thảo.
Mà không chỉ có nghĩa sĩ của thời đại mới. Rồi đây, anh còn miệt mài viết về
cả những nghĩa sĩ Cần Giuộc (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc), nghĩa sĩ Ba Tơ
(Bùng nổ của mùa xuân), về Trơng Công Định, Nguyễn Trung Trực (Cỏ vẫn
mọc), về Nguyễn Đình Chiểu (Trò chuyện với nhân vật của mình), Cao Bá
3

Quát (Đêm trên cát)... Họ đều là những nghĩa quân, những ngọn nghĩa kì,
những nhà thơ tiết nghĩa. Họ là nghĩa khí muôn năm của dân tộc này. Viết về
tâm t mộ nghĩa, chí khí dấy nghĩa của ngời xa và cả ngời nay là cảm hứng lớn
của đời Thanh Thảo. Với anh, viết nh thế là dấy nghĩa mà cũng là trả nghĩa.
Cho nên, sẽ chẳng có gì là quá lời khi bảo rằng : viết về nghĩa khí và viết bằng
nghĩa khí là một mãnh lực của ngòi bút Thanh Thảo.

2. Lửa và Nớc
Tuy nhiên, Thanh Thảo không phải là nhà đạo đức. Trớc sau, anh là một
thi sĩ. Thơ không thể là những giáo huấn về chất ngời, dù là về nghĩa khí. Thơ
phải là một thế giới tinh diệu thăng hoa từ điệu hồn thi sĩ. Nghĩa khí là tinh
huyết nuôi dỡng cõi thơ Thanh Thảo, cũng là tinh khí tụ kết từ cõi thơ ấy.
Song, nghĩa khí đã hoá sinh thành muôn hình sắc sống động, biến hoá tinh vi
và đan dệt với nhau tạo nên cả một thế giới thi ca. Mà một thế giới thi ca, xét
đến cùng, là sự chuyển hoá của ba hệ thống hình tợng căn bản : hình tợng cái
tôi, hình tợng ngời tình và hình tợng thế giới - chúng là tam vị mà nhất
thể. Đồng thời, thế giới sống động ấy cũng thờng kết tinh vào những biểu t-
ợng căn bản nào thôi. Trong cõi thơ Thanh Thảo, chất ngời nghĩa khí đợc kết
tụ từ những nguyên khí nào, hiển hiện trong những biểu tợng nào ? Ay là :
Lửa và Nớc ! Từ những yếu tính của tự nhiên, chúng đã đầu quân vào thơ, trở
thành những hình tợng, biểu tợng thi ca, không chỉ của riêng Thanh Thảo. Nh-
ng Thanh Thảo đã tựa hẳn vào hai biểu tợng đó để suy nghiệm và in vào chúng
những dấu ấn riêng. Trong t duy nghệ thuật của anh, Lửa và Nớc là tợng hình
kì diệu nhất của những vẻ đẹp Ngời, thậm chí, sự tơng sinh của Lửa và Nớc đã
làm nên mỗi cá thể ngời. : Giọt nớc nào đã khởi sự đời ta,Mỗi chúng mình
là giọt nớc / Uống đất bùn và mặt trời long lanh, Ngọn lửa trong bàn tay
soi tìm đến ngọn nguồn, Những thăng trầm bao năm tháng chiến khu /
Không giập nổi ngọn lửa đằm trong mắt, Ngọn lửa riêng bền bỉ suốt đời
mình, gơng mặt sốt soi vào vẫn sáng / bùng tự nhiên nh lửa trảng dầu,
Thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình / soi sáng đờng đi tới... Sẽ

không thể thấy đợc quan niệm về chất ngời của thi sĩ này, nếu không giải mã
những hình ảnh ấy.
Trớc tiên, Lửa và Nớc hoá sinh thành cặp phẩm chất Can đảm và Trung
thực. Trung thực và can đảm là nguyên khí của những con ngời nghĩa khí. Đây
là những phẩm chất cốt yếu để mỗi cá thể ngẩng cao đầu làm ngời. Không
trung thực và can đảm, làm sao dám là mình, dám hết mình, dám tranh đấu với
phờng bất nghĩa, dám xả thân cho lẽ phải cuộc đời ? Trong chiến tranh, can
đảm và trung thực là phẩm chất cao nhất của một công dân ; trong đời thờng,
can đảm và trung thực là phẩm chất quý nhất của một con ngời. Nó là nơi gặp
gỡ hoà điệu của cả chủ nghĩa yêu nớc và chủ nghĩa nhân văn. Không phải
4
ngẫu nhiên, nét sáng nhất ở những nhân vật Thanh Thảo, bao giờ cũng là can
đảm và trung thực, dù họ là ai : anh lính giải phóng bớc vào tuổi hai mơi hay
anh du kích bng biền gan góc, là ngời Thợng cùng nhóm lửa Ba tơ hay ngời
Khơ me trụ bám địa hình Nam bộ, là Nguyễn Trung Trực thủ lĩnh nghĩa quân
hay Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ địch khái, Cao Bá Quát nhà thơ dấy nghĩa.
Lúc họ dấy nghĩa là lúc vùng tỉnh thức, những đợt sóng đột ngột trào lên, lớt
qua mặt một triều đình khiếp đảm, thành ngọn lửa bùng trong đám lá tối
trời, thành nớc rực cháy... Bằng can đảm và trung thực, họ dám xả thân vì
nghĩa lớn : ta xin đứng lại / chiến đấu nh một con ngời / chặn đờng nỗi sợ /
và chết nh một con ngời / đã vợt lên nỗi sợ. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, lúc
đợc hỏi về đức tính hàng đầu của một ngời làm thơ chân chính - kẻ mang sứ
mệnh phát ngôn cho tự do và sự thật, cho đại nghĩa của nhân gian - Thanh
Thảo đã không đắn đo gì mà xác quyết : đức tính đầu tiên là đừng nói dối...
đức tính thứ hai là đừng hèn
2
. Cũng dĩ nhiên, ở chiều ngợc lại, anh và các
nhân vật của anh sẽ ghét cay ghét đắng sự đớn hèn, khiếp nhợc, thói nô lệ,
cũng nh sẽ dị ứng gay gắt với những kẻ dối trá ba hoa chích choè đánh quả
loanh quanh, những thằng bất nghĩa, cặn bã : có những lúc ra về lòng rỗng

không / vì phải gặp trong cơ quan một thằng cặn bã / tôi chào đất nớc tôi.
Buồn quá / đất nớc cùng tôi lặng lẽ trên đờng. Yêu và ghét là hai phía của
cùng một thái độ, hai mặt biện chứng của một t tởng nghệ sĩ.
Tiếp tục cuộc hoá sinh của mình, cặp nguyên tố Lửa và Nớc còn hoá
thân thành bao chất ngời phong phú khác : Nhiệt huyết và Nhân hậu, Dữ dội
và Âm thầm, Quyết liệt và Tơi mát... Này là hình tợng ngời tình, đối ảnh riêng
t của cái tôi thi sĩ. Trong các trang thơ của anh, nàng cũng là hiện thân sống
động và diệu kì của Lửa và Nớc với thân hình em trong sáng tựa đất đai /
nơi thu hút màu xanh và ngọn lửa, với ngọn lửa chìm trong núm vú hồng
hồng, khiến ngời thơ kinh ngạc : anh cha thấy một dòng sông nào khác /
âm thầm mà dữ dội nh em. Này là hình tợng Nhân Dân, một hình tợng tổng
thể, hiện thân lớn lao nhất cho quan niệm riêng về chất ngời của Thanh
Thảo :Tôi cha biết có nơi nào trên trái đất / ánh mặt ngời lại dịu mát nh nơi
đây... Tôi cha biết có nơi nào trên trái đất / ánh mặt ngời lại mãnh liệt nh
nơi đây... Thế đấy, Nóng và Lạnh, Dơng và Âm, Dữ dội và Âm thầm, Cuồng
nộ và Lặng lẽ, Bất khuất và Hiền hoà, Nồng nàn và Sáng trong, Mãnh liệt và
Dịu mát v.v... đều là những hoá sinh khác nhau của Lửa và Nớc. Chúng kết tụ
nên nghĩa khí con ngời. Lớp lớp những con ngời nghĩa khí ấy đã làm nên đất
nớc này : đất nớc ơi đây hết thảy con Ngời / bóng họ toả mênh mang ngày
nắng gắt / họ đi nh gió họ đứng nh rừng / lúc nằm xuống họ hoá thành mặt
đất. Nói Lửa và Nớc là tợng hình hoặc là cội nguồn của những chất ngời
2
Thanh Thảo - Thơ kích thích cuộc sống (Trả lời một số câu hỏi của bạn đọc báo Tuổi trẻ), tháng 6.1987
5
trong thơ Thanh Thảo, có lẽ, đều phải. Nó là đầu này mà cũng có thể là đầu
kia của quá trình sinh hoá vậy.
Lửa có thể cháy trong Nớc, và Nớc có thể dào lên thành Lửa ! Có vẻ
nghịch lí. Nhng không thế, làm sao có thể tơng sinh ? Nét độc đáo của hình t-
ợng thế giới trong cõi thơ này cũng là sự tơng sinh không cùng của Lửa và N-
ớc. Ngời đọc luôn thấy đầy ắp những tơng sinh nh vậy ở tạo vật thiên nhiên

vây quanh con ngời trong thơ Thanh Thảo : Mặt trời lặn sâu trong nớc để
bùng lên đám lửa dữ dằn, khiến cho Nớc rực cháy và Dòng sông lửa
chảy dọc triền đêm tối, khiến thi sĩ ngỡ ngàng : Có phải trái tim dòng sông
bốc cháy. Ngời đọc cũng luôn thấy Qua mặt nớc lặng yên xanh ngắt / những
ngọn núi đang vùng vẫy chào đời / tiếng nổ vỡ những dòng nham thạch / vọt
lên từng khối lửa khổng lồ. Sinh hoá lạ kì tất nảy nở kết hợp tân kì : Mặt trời
trôi vùn vụt giữa dòng sông, đại dơng bốc cháy, những con sóng bình
minh, và nhất là những ngọn sóng mặt trời, khiến dòng nớc sáng loà nh
kiếm thép...Thật lạ lùng, trong những hình sắc ấy, Lửa và Nớc lại bén duyên
và giao kết với nhau. Nhng, nói đến hệ thống hình ảnh biểu tợng làm nên thế
giới thơ Thanh Thảo, làm sao có thể quên đợc Cỏ. Cỏ đã đầu quân và ngay lập
tức làm vinh danh cho tập thơ đầu tay Dấu chân qua trảng cỏ, cỏ mọc lan tràn
mãnh liệt suốt dọc đờng thơ anh. Sống trong cõi thơ ấy với vô vàn biến hoá, cỏ
tợng trng cho sự đơn sơ, khiêm nhờng, dân dã. Cỏ tợng trng cho sự lãng quên,
bền bỉ. Cỏ là sự sống mãnh liệt, trờng tồn. Cỏ là biểu tợng của tuổi trẻ, tuổi
xuân. Cỏ tợng trng cho nhân hậu và nghĩa khí v.v... Cỏ xanh đó là Thanh Thảo
3
. Không phải là con đẻ trực tiếp của Lửa và Nớc, nhng chính cuộc hoá sinh
lâu dài và sâu xa của những nguyên khí ấy đã sinh thành cỏ Thanh Thảo. Nó là
kết quả diệu kì từ những chuyển hoá bí mật giữa lửa và màu xanh, chuyển
hoá âm thầm của những giọt sơng lặn vào lá cỏ khiến lá non ơi lá non /
nhỏ mềm áp vào mặt ta nóng rực, để cuối cùng tạo nên thứ cỏ sắc mà ấm
lắm phải không em?. Bởi vì, theo cách hình dung của thi sĩ này, cỏ là một
hiện thân gần gũi của chất ngời : tôi yêu / chất ngời đầu tiên / những giọt s-
ơng lặn vào lá cỏ / qua nắng gắt qua bão tố / vẫn giữ lại cái mát lành đầy
sức mạnh / vẫn long lanh bình thản trớc vầng dơng. Ta hiểu vì sao, cỏ xanh
và con ngời nghĩa khí tựa nh một cặp hình tợng song sinh trong thế giới nghệ
thuật Thanh Thảo. Trong cõi thực, Lửa và Nớc tơng khắc nhiều hơn. Nhng
trong thơ Thanh Thảo, chúng lại tơng sinh với vô vàn biến hoá, làm nên một
bối cảnh, một môi sinh riêng cho những con ngời nghĩa khí tồn sinh và khẳng

định mình. Sẽ không ngoa nếu nói rằng : sự sinh hoá của chúng đã tạo nên cõi
thơ Thanh Thảo.

*
3
Anh tên thật là Hồ Thành Công, lấy Thanh Thảo làm bút danh của mình, ngoài các nguyên do này khác,
hẳn phải có niềm thiết tha đến ám ảnh dành cho cỏ.
6

×