Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

tìm hiểu về asean và qua trình ra nhap của VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.22 KB, 8 trang )

MỘT VÀI NÉT VỀ ASEAN HIỆN NAY
ASEAN gồm Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt
Nam, Singapore. Diện tích toàn khối là 4.492.443 km2, chiếm 14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm
3,3% diện tích toàn thế giới.
Quốc gia rộng nhất là Indonesia, tiếp đến là Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Philippines,
Lào, Campuchia, Brunei, Singapore. Dân số giữa năm 2004 là 548,2 triệu người, chiếm dân số
14,1% châu Á và gần 8,6% toàn thế giới; đông nhất là Indonesia, tiếp đến là Philippines, Việt
Nam, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, Singapore, Brunei.
Mật độ dân số đạt 122 người/km2, tương đương với châu Á và gấp 2,6 lần thế giới. Tỷ lệ dân số
thành thị đạt 38,4%, xấp xỉ tỷ lệ của châu Á và thấp hơn tỷ lệ 48% của toàn thế giới; cao nhất là
Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam,
Lào, Campuchia. Tỷ lệ sinh đạt 2,2%, tỷ lệ chết 0,7%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%, cao hơn tỷ lệ
1,3% của châu Á và tỷ lệ 1,2% của toàn thế giới; thấp nhất là Singapore, tiếp đến là Thái Lan,
Myanmar, Việt Nam, Indonesia, Brunei, Philippines, Malaysia, Campuchia, Lào.
Tuổi thọ bình quân đạt 68, cao hơn mức 67 của châu Á và thấp hơn mức 69 của toàn thế giới;
cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Philippines, Indonesia,
Myanmar, Campuchia, Lào.
GDP tính bằng USD theo tỷ giá thực tế của ASEAN năm 2003 đạt khoảng 687 tỷ USD, chiếm
1,9% toàn thế giới; bình quân đầu người đạt khoảng 1.253,2USD, thấp xa so với mức 5.684,2
USD của toàn thế giới. Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương, thì GDP bình quân
đầu người năm 2001 cuả các nước trong khu vực như sau: Singapore 22.680 USD, (năm 2002
là 24.040), tiếp đến là Brunei 19.210, Malaysia 8.750 (năm 2002 đạt 9.120), Thái Lan 6.400,
Philippines 3.840, Indonesia 2.940, Việt Nam khoảng 2.100, Campuchia 1.860, Lào 1.620 (năm
2002 đạt 1.720), Myanmar 1.027.

Khu vực ASEAN cũng là khu vực có tốc độ tăng GDP cao của thế giới. Tổng dự trữ quốc tế của
một số nước khá cao và đang tăng lên. ASEAN cũng là khu vực có kim ngạch xuất khẩu tương
đối cao

UBQG


Việt Nam-ASEAN, 10 năm nhìn lại
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN). Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã đánh dấu bước đi đầu tiên trong tiến trình hội nhập khu vực
và thế giới.
Trong 10 năm gia nhập, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN đạt được nhiều kết quả cả
về 2 phía, cả về nhiều mặt kinh tế, văn hoá, ngoại giao, xã hội... Trong bài này, chúng
tôi chỉ điểm lại về mặt kinh tế và về phía Việt Nam là chủ yếu.
Một vài nét về ASEAN hiện nay
ASEAN hiện có 11 nước (Brunei, Campuchia, Đông Timo, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Singapore). Diện tích toàn khối là
4.492.443 km2, chiếm 14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm 3,3% diện tích toàn thế giới.
Quốc gia rộng nhất là Indonesia, tiếp đến là Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam,
Philippines, Lào, Campuchia, Đông Timo, Brunei, Singapore. Dân số giữa năm 2004 là
548,2 triệu người, chiếm dân số 14,1% châu Á và gần 8,6% toàn thế giới; đông nhất là


Indonesia, tiếp đến là Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào,
Singapore, Đông Timo, Brunei.
Mật độ dân số đạt 122 người/ km2, tương đương với châu Á và gấp 2,6 lần thế giới. Tỷ
lệ dân số thành thị đạt 38,4%, xấp xỉ tỷ lệ của châu Á và thấp hơn tỷ lệ 48% của toàn
thế giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia,
Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Đông Timo.
Tỷ lệ sinh đạt 2,2%, tỷ lệ chết 0,7%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%, cao hơn tỷ lệ 1,3% của
châu Á và tỷ lệ 1,2% của toàn thế giới; thấp nhất là Singapore, tiếp đến là Thái Lan,
Đông Timo, Myanmar, Việt Nam, Indonesia, Brunei, Philippines, Malaysia,
Campuchia, Lào.
Tuổi thọ bình quân đạt 68, cao hơn mức 67 của châu Á và thấp hơn mức 69 của toàn
thế giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam,
Philippines, Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào, Đông Timo.
GDP tính bằng USD theo tỷ giá thực tế của ASEAN năm 2003 đạt khoảng 687 tỷ USD,

chiếm 1,9% toàn thế giới; bình quân đầu người đạt khoảng 1.253,2USD, thấp xa so với
mức 5.684,2 USD của toàn thế giới.
Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương, thì GDP bình quân đầu người
năm 2001 cuả các nước trong khu vực như sau: Singapore 22.680 USD, (năm 2002 là
24.040), tiếp đến là Brunei 19.210, Malaysia 8.750 (năm 2002 đạt 9.120), Thái Lan
6.400, Philippines 3.840, Indonesia 2.940, Việt Nam khoảng 2.100, Campuchia 1.860,
Lào 1.620 (năm 2002 đạt 1.720), Myanmar 1.027.
Khu vực ASEAN cũng là khu vực có tốc độ tăng GDP cao của thế giới. Tổng dự trữ
quốc tế của một số nước đạt khá và đang tăng lên. Khu vực ASEAN cũng là khu vực có
kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu so với GDP, xuất khẩu bình quân đầu người khá.
Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam – ASEAN
Năm tháng đầu năm 2005, xuất khẩu sang thị trường này tăng khá cao, lên tới
46,4%. Tỷ trọng xuất khẩu vào ASEAN năm 2004 đạt 14,3% tổng số xuất khẩu của
Việt Nam.
Trong khu vực Đông Nam Á năm 2004, các nước nhập khẩu từ Việt Nam tính từ cao
xuống thấp là:
- Singapore 1.370 triệu USD;
- Malaysia 601,1 triệu USD;
- Philippines 498,6 triệu USD;
- Thái Lan 491 triệu USD;
- Indonesia 446,6 triệu USD;


- Campuchia 384,6 triệu USD;
- Lào 68,5 triệu USD;
- Myanmar 14,1 triệu USD;
- Đông Timo 4,8 triệu USD (năm 2003);
- Brunei 0,5 triệu USD (năm 2003);
Tuy nhiên, do nhập khẩu từ khu vực ASEAN lớn, nên trong quan hệ buôn bán với khu
vực này, Việt Nam luôn luôn ở vị thế nhập siêu với quy mô lớn và tỷ lệ nhập siêu cao.

Nhập siêu năm 2004 lớn nhất là từ Singapore 2.248,5 triệu USD, tiếp đến là Thái Lan
1.367,1 triệu USD, Malaysia 613,6 triệu USD, Indonesia 216,1 triệu USD,... Việt Nam
chỉ xuất siêu đối với Philippines, Campuchia; xuất siêu không đáng kể đối với Đông
Timo, Brunei.
Đầu tư trực tiếp của những nước trong khu vực vào Việt Nam trong thời gian từ 1988
đến tháng 6/2005 như sau:
- Singapore có 424 dự án, vốn đăng ký đạt 9.037,4 triệu USD, ước thực hiện đạt khoảng
3.613,4 triệu USD, bằng 40% vốn đăng ký; còn hiệu lực 361 dự án, với số vốn 8.130
triệu USD;
- Malaysia có 196 dự án, vốn đăng ký 1.616,7 triệu USD, ước thực hiện khoảng trên
850 triệu USD, bằng trên 50% vốn đăng ký; còn hiệu lực 171 dự án, với số vốn trên
1.438 triệu USD;
- Thái Lan có 169 dự án, vốn đăng ký 1.593,5 triệu USD, ước thực hiện khoảng 750
triệu USD, gần bằng 50% vốn đăng ký; còn hiệu lực 120 dự án, với số vốn trên 1.432
triệu USD;
- Philippines có 30 dự án, vốn đăng ký 265,7 triệu USD; còn hiệu lực 22 dự án, với số
vốn 233,4 triệu USD;
- Indonesia có 19 dự án, vốn đăng ký 253 triệu USD; còn hiệu lực 13 dự án, với số vốn
123,1 triệu USD
- Lào có 6 dự án, với 16,1 triệu USD đăng ký và 6 triệu USD thực hiện;
- Brunei có 5 dự án, với 10,4 triệu USD đăng ký;
- Campuchia có 3 dự án, với 1 triệu USD đăng ký.
Lượng khách của khu vực đến Việt Nam năm 2004 cao nhất là Campuchia 90,8 nghìn
lượt người, tiếp đến là Malaysia 55,7 nghìn lượt người, Thái Lan 53,7 nghìn lượt người,
Singapore 50,9 nghìn lượt người, Lào 34,2 nghìn lượt người, Philippines 24,5 nghìn
lượt người, Indonesia 18,5 nghìn lượt người, Myanmar 1,5 nghìn lượt người.
Sáu tháng đầu năm 2005, tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước của một số nước khá


cao, như Campuchia tăng 118,9%, Philippines tăng 79%, Myanmar tăng 74,9%,

Singapore tăng 72,6%, Thái Lan tăng 55,7%, Malaysia tăng 44,3%, Lào tăng 36,1%,
Indonesia tăng 26,1%. Đó đều là những tốc độ tăng cao hơn nhiều so với tốc độ chung
(23,7%).
Thời gian gia nhập chưa lâu, nhưng quan hệ Việt Nam-ASEAN đã phát triển khá nhanh
và đang hứa hẹn còn phát triển nhanh hơn nữa trong thời gian tới.

Quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước ASEAN từ tháng 7/1995 và bắt đầu thực
hiện Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) từ 1/1/1996,
chương trình này kết thúc vào 1/1/2006. Do trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam
còn thấp so với một số nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, của nhiều ngành sản xuất và dịch vụ còn yếu… và thuế nhập khẩu vẫn còn
là một trong những nguồn thu cho ngân sách, nên chương trình cắt giảm thuế quan
của Việt Nam được xây dựng dựa trên những nguyên tắc chính sau:
1. Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách.
2. Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước.
3. Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho
nền sản xuất trong nước.
4. Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các quy định của Hiệp định CEPT để
tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Có thể kể ra đây một số công việc mà Việt Nam đã thực hiện, đó là:
(a) Xây dựng chương trình cắt giảm thuế quan
Dựa theo 4 nguyên tắc nêu trên, tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình 4
danh mục hàng hoá theo quy định của Hiệp định CEPT như sau:
a) Danh mục loại trừ hoàn toàn: bao gồm 139 dòng thuế không tham gia
AFTA, đây là những mặt hàng có ảnh hưởng đến: an ninh quốc gia, sức khỏe con
người, giá trị đạo đức, lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ… theo như quy định của Hội đồng
AFTA. Ngoài ra Việt Nam còn đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn một số mặt hàng
mà hiện Việt Nam đang phải nhập từ các nước ASEAN song lại không có khả năng
xuất khẩu, hoặc một số mặt hàng hiện đang có thuế suất cao trong biểu thuế nhập

khẩu như: ô tô dưới 16 chỗ ngồi, ô tô tay lái nghịch, chất phế thải, các loại xăng dầu
(trừ dầu thô Việt Nam đang xuất khẩu), đồ dùng đã qua sử dụng…
b) Danh mục loại trừ tạm thời: Danh mục này bao gồm 755 dòng thuế, được


xây dựng theo quy định của CEPT và quy hoạch phát triển đến năm 2010 của các
ngành kinh tế trong nước, nhằm bảo hộ một số ngành đang có tiềm năng phát triển,
đồng thời không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Danh mục này chủ yếu
gồm các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng có thuế suất thấp hơn
20% song được bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế quan như: các loại xe máy, ô tô
(trừ loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi đã nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn), các loại sắt
thép, sản phẩm cơ khí thông dụng, các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu…
Theo quy định của Hội đồng AFTA thì những mặt hàng nào đưa vào chương trình
cắt giảm thuế và được hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước thành viên khác thì
đồng thời phải loại bỏ hàng rào phi thuế quan trong vòng 5 năm sau đó. Do vậy,
nếu mặt hàng nào được đưa vào danh mục loại trừ tạm thời thì sẽ có thêm thời
gian để bảo hộ thông qua việc kéo dài thời hạn thực hiện các biện pháp phi thuế
quan.
Cũng theo quy định của CEPT thì các mặt hàng thuộc danh mục TEL này cần phải
được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế (IL) trong vòng 5 năm, sao cho đến
thời hạn năm 2006 chúng cũng phải đạt mức thuế quan ưu đãi chung từ 0-5%.
c) Danh mục cắt giảm thuế: Danh mục này chủ yếu bao gồm các mặt hàng
hiện đang có thuế suất dưới 20%, tức là các mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu
đãi ngay theo Hiệp định CEPT. Ngoài ra trong danh mục này còn bao gồm một số mặt
hàng hiện có thuế suất cao nhưng Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu, do vậy việc
đưa các mặt hàng này vào danh mục giảm thuế sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến
nguồn thu ngân sách, ngược lại nó sẽ kích thích đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc
được hưởng thuế ưu đãi theo CEPT, khi hàng Việt Nam xuất qua các nước thành
viên.
d) Danh mục nông sản nhạy cảm: bao gồm 51 dòng thuế, là các mặt hàng

nông sản chưa chế biến có yêu cầu bảo hộ cao như: các loại thịt, trứng, gia cầm,
động vật sống, thóc, gạo lức, đường mía… các mặt hàng này hiện đang được áp
dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch, quản lý của Bộ
chuyên ngành….
Để làm căn cứ điều chỉnh cơ cấu trong nước và định hướng cho các doanh nghiệp
xây dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp, năm 1997, Chính phủ Việt Nam phê duyệt
Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA/CEPT 1996-2006. Tiếp đó,
theo công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11/12/2000, Chính phủ thông qua Lịch
trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001-2006. Dựa trên các Lộ trình này,
hàng năm Chính phủ đưa ra Danh mục hàng hóa và thuế suất của VN thực hiện
CEPT (gọi tắt là Danh mục CEPT hoặc Nghị định CEPT).
(b) Thực hiện giảm thuế
Dựa theo sự phân loại danh mục hàng hoá như trên, tiến trình cắt giảm thuế của
Việt Nam đã được tiến hành như sau: Trong hai năm đầu 1996, 1997 Việt Nam
chưa thực hiện việc cắt giảm thuế mà chỉ đưa 875 danh mục các mặt hàng đã có
thuế nhập khẩu từ 0-5% vào danh sách giảm thuế, đáp ứng một cách tự nhiên yêu
cầu giảm thuế nhanh của Hiệp định CEPT, còn chương trình giảm thuế bình


thường chỉ được bắt đầu thực hiện kể từ 1/1/1998. Các bước đi thận trọng này
giúp cho Việt Nam có thêm thời gian cải tiến hệ thống thuế nội địa nhằm đảm bảo
nguồn thu ngân sách và góp phần bảo hộ các nền kinh tế còn non trẻ của chúng ta.
Như vậy, từ năm 1998 Việt Nam mới thực hiện những bước cắt giảm thuế đầu tiên
theo Nghị định 15/1998/NĐ-CP ngày 12/3/1998. Theo Nghị định này trong năm
1998 chúng ta đã đưa thêm 1.161 mặt hàng vào danh mục giảm thuế. Sang năm
1999 theo Nghị định 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 Việt Nam đã nâng danh mục
các mặt hàng giảm thuế lên đến 3.590 mặt hàng. Và trong năm 2000, Chính phủ
đã ban hành Nghị định 09/2000/NĐ-CP ngày 21/03/2000 về danh mục các mặt
hàng giảm thuế theo chương trình CEPT.
Theo nghị định này, trong năm 2000, Nhà nước Việt Nam đưa thêm 640 dòng thuế

từ danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời sang danh mục giảm thuế, như vậy sẽ
có 4.230/6.200 dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu được đưa vào danh mục cắt
giảm thuế. Trong tổng 4.230 dòng thuế thực hiện theo chương trình CEPT của năm
2000 này, có khoảng 2.960 dòng thuế có mức thuế suất từ 0-5% (trong đó có
khoảng 1.690 dòng thuế có thuế suất 0%), còn lại 1.270 dòng thuế có mức thuế
suất 5-50%. Như vậy, đa số các mặt hàng trong danh mục giảm thuế năm 2000 là
các mặt hàng có thuế suất dưới 20%, chỉ có một số ít là có thuế suất trên 20%.
Những mặt hàng có thuế suất dưới 20% là những mặt hàng hoặc không có nhiều
trong quan hệ ngoại thương của Việt Nam hoặc là các mặt hàng mà Việt Nam đang
có thế mạnh xuất khẩu. Các mặt hàng cần bảo hộ như sắt thép, phân bón, giấy,
kính xây dựng, ô tô, xe gắn máy, đường… vẫn còn được để trong danh mục TEL,
GEL.
Đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển 5.550 dòng thuế vào IL (ban hành theo Nghị
định số 21/2002/NĐ-CP ngày 28/2/2002 và Nghị định số 53/2002/NĐ-CP ngày
13/5/2002) (gọi tắt là Danh mục CEPT 2002), chiếm 85% trên tổng số 6.523 dòng
thuế của biểu thuế nhập khẩu (Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung ASEAN –
(AHTN) là 8.770 dòng). Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có
lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006; trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
với mức thuế suất từ 0 đến 20%, trong đó có khoảng 2/3 có mức thuế suất từ 0
đến 5%. Nhóm này đến năm 2006 sẽ giảm mức thuế xuống 0 - 5%. Nhóm thứ hai,
là danh mục loại trừ tạm thời gồm 755 dòng thuế (theo AHTN là 1.415 dòng thuế)
sẽ chuyển sang danh mục cắt giảm IL từ 01/7/2003, các dòng thuế có mức thuế
cao sẽ đưa xuống 20% và giảm dần xuống 0 - 5% vào năm 2006. Danh mục này
bao gồm các nhóm hàng dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả chế biến, clinker, xi
măng, thiết bị vệ sinh, giấy báo, giấy in, giấy vệ sinh, hóa chất, mỹ phẩm, kính xây
dựng, điện tử, điện lạnh, quần áo, giày dép,... Nhóm thứ ba, là danh mục nhạy cảm
gồm hàng nông sản chưa chế biến, chủ yếu cần bảo hộ cao, như thịt, trứng gia
cầm, động vật sống, thóc gạo lức, đường mía.... Nhóm này có 53 dòng thuế (theo
AHTN là 89 dòng thuế) bắt đầu giảm thuế từ 01/01/2004 và kết thúc vào
01/01/2013 với mức thuế cuối cùng là 0 - 5%. Riêng mặt hàng đường sẽ kết thúc

vào 01/01/2010. Nhóm thứ tư, là danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm các sản
phẩm không cam kết trong AFTA vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ
cuộc sống con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật,
lịch sử, khảo cổ học. Việt Nam cũng đưa vào một số mặt hàng cần bảo hộ cao hơn
như ô-tô, xe máy nguyên chiếc có dung tích dưới 250cc. Nhóm này có 158 dòng
thuế (AHTN là 415 dòng). Như vậy, lộ trình cắt giảm theo danh mục phải cắt giảm
ngay IL và danh mục loại trừ tạm thời, lộ trình của Việt Nam chậm hơn sáu nước


thành viên cũ là ba năm. Hai nhóm nhạy cảm và loại trừ hoàn toàn thời gian dài
hơn, đến năm 2010 hoặc 2015.
Theo những khuyến nghị của ASEAN về đẩy nhanh việc thực hiện AFTA, Bộ Tài
chính đã xây dựng Lịch trình đẩy nhanh CEPT giai đoạn 2003-2006 (CV 7955
TC/QHQT ngày 19/7/2002). Tại Hội nghị Hội đồng AFTA (16/9/2002 tại Brunei) cho
phép các nước khó khăn được áp dụng cơ chế linh hoạt trong việc thực hiện đẩy
nhanh AFTA/CEPT (đã được HNCC ASEAN 8 tháng 11/2002 thông qua). Do vậy,
lịch trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA giai đoạn 2003-2006 sẽ là 76% đạt thuế suất 05% vào 2003, 87% đạt thuế suất 0-5% vào 2005 và 100% đạt thuế suất 0-5% vào
2006 trong đó 56% đạt 0%. Việt Nam cũng nhất trí nguyên tắc giảm toàn bộ thuế
quan xuống 0% vào năm 2015 với một số linh hoạt đến 2018.
Ngoài ra, từ tháng 7/2003, Việt Nam cam kết áp dụng Danh mục Thuế quan Hài
hòa Chung ASEAN (AHTN), do đó Danh mục CEPT 2003 sẽ được chuyển đổi theo
biểu thuế nhập khẩu mới. Việc chuyển sang Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung
ASEAN sẽ giúp các doanh nghiệp dễ tra cứu các mã số và tên hàng hóa khi thực
hiện các hoạt động xuất nhập khẩu với các nước ASEAN.
(c) Áp dụng các biện pháp phi thuế quan
Bên cạnh việc cắt giảm hàng rào thuế quan Việt Nam cũng đã chuẩn bị tiến tới việc
cắt giảm hàng rào phi thuế quan theo quy định của CEPT, vì việc mở cửa thị
trường sẽ không có ý nghĩa nếu như hàng rào thuế quan được cắt giảm song hệ
thống phi thuế quan vẫn được duy trì. Cụ thể một mặt hàng dù được cam kết giảm
thuế từ 100% xuống 0% vẫn không thể kinh doanh được nếu như nó bị áp đặt cấm

nhập khẩu.
Hiện Việt Nam đang áp dụng các biện pháp phi thuế như: hạn ngạch, giấy phép,
phụ thu... đến bảo hộ thị trường nội địa. Các biện pháp này không đạt hiệu quả cao
như một số các biện pháp khác mà các nước thường sử dụng như: sử dụng các
quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, bao bì, về mức độ gây ô nhiễn môi trường cho
phép… Do vậy, việc dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan là rất phức tạp và chỉ có thể
thực hiện thông qua việc hài hoà hoá hoặc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế chung
hay công nhận các tiêu chuẩn của nhau. Hiện Việt Nam đang cùng các nước thành
viên ASEAN khác tiến hành hài hòa hóa các biện pháp phi thuế quan nhất là các
biện pháp mang tính kỹ thuật và quản lý chất lượng.
(d) Cải tiến hệ thống hải quan
Để thực hiện tốt yêu cầu của CEPT đẩy mạnh quá trình tự do hoá thương mại giữa
các nước thành viên thuộc ASEAN, việc cải tiến hệ thống hải quan có ý nghĩa quan
trọng. Chế độ hải quan của Việt Nam có nhiều điểm còn cách biệt so với các nước
thành viên ASEAN, vì vậy từ năm 1996 đến nay Hải quan Việt Nam đã và đang
phối hợp với các nước thuộc ASEAN để giải quyết những vấn đề có liên quan tới
Hải quan như:
1. Thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN.


2. Thống nhất phương pháp xác định trị giá để tính thuế.
3. Thống nhất về thủ tục hải quan giữa các nước thành viên ASEAN.
4. Triển khai Hệ thống luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải
quan cho các sản phẩm của chương trình CEPT.
5. Lập tờ khai hải quan chung.
Tóm lại, từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện được những bước đi quan
trọng vừa đảm bảo tính thận trọng, tránh được sự xáo trộn lớn trong hoạt động và
điều hành nền kinh tế, vừa nhanh chóng kịp thời thực hiện lịch trình tham gia AFTA
theo Hiệp định CEPT nhằm đảm bảo tham gia hội nhập một cách có hiệu quả.




×