Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 36 trang )

LỊCH SỬ DÂN TỘC
Truyền thống đồng hành cùng dân tộc của PTPG từ thời Bắc thuộc đến nhà
Tiền Lê.
- HCM nói “PG VN với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”, Qủa đúng như vậy, LS

VN từ thời Bắc thuộc đến đương đại, một quy luật được rút ra đó là sự gắn bó máu thịt
giữa PTPG với dân tộc trên tất cả các lĩnh vực. Trong LS chống Bắc thuộc, các triều đại
độc lập, tự chủ đầu tiên Ngô, Đinh, Tiền Lê và thời đại Lý Trần cực thịnh, một đồng minh
chung thủy là PG và PG cũng có được cái vinh dự lớn lao là được luân lý dân tộc chấp
nhận, hòa nhập vào dân tộc trở thành tinh hoa, cốt tủy của dân tộc và góp phần to lớn đưa
dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của PK phương Bắc
- Trước lúc các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê thành lập, PG đã có một thế đứng vững chãi

trong lòng dân tộc. Lý Bí làm nên nghiệp lớn, vốn được thiền sư Pháp Hiền nuôi dạy từ
cửa Phật. Sau khi giành được độc lập, Lý Bí lên ngôi hiệu là Lý Nam Đế, quốc hiệu là
Vạn Xuân, cho dựng chùa lớn, đặt tên là chùa khai quốc (PG đã có công lớn trong việc
khai sinh ra một nước độc lập). Từ công án của LNĐ đối với PG khẳng định rằng:
Ngay từ TK VI, qua triều đại độc lập có thể đầu tiên của dân tộc sau 600 năm lệ thuộc,
PG đã trở thành 1 nền tảng tinh thần của dân tộc. Sau LNĐ, một thủ lĩnh tự xưng là Lý
Phật Tử đã vào sinh ra tử chống quân xâm lược nhà Tùy.
- Nổi bật hơn hết là vai trò của các thiền sư trong trách nhiệm hộ quốc an dân dưới hai triều

đại Đinh và Tiền Lê, tiêu biểu là hai bậc anh tài hai ngôi sao sáng chói trên bầu trời
Đại Cồ Việt ở TK X là thiền sư Ngô Chân Lưu và Đỗ Pháp Thuận.
- Ngô Chân Lưu đã phò giúp Đinh Tiên Hoàng những kế sách nhằm giữ vững sơn hà xã tắc,

có vậy thiền sư mới được vua ban hiệu là Khuông Việt tức là “khuông phò, giúp đỡ
nước Việt”. Đối với nhà tiền Lê, vai trò của thiền sư: “Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc
biệt được vua kính trọng, phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự”.
Trên mặt trận ngoại giao, Ngô Chân Lưu nổi tiếng với bài từ Ngọc Lang quy.
- Về thiền sư Đỗ Pháp Thuận: “Trong buổi đầu sáng nghiệp của triều Tiền Lê, ông có công



trù tính và quyết định chính sách”. Bằng trí tuệ, sự nhạy bén về chính trị, thiền sư Đỗ
Pháp Thuận khẳng định chắc nịch rằng để đất nước thái bình, triều đại trường tồn, điều
quan trọng bậc nhất là toàn dân đoàn kết. Không chỉ toàn dân đoàn kết, Pháp Thuận đòi
hỏi bậc quân chủ phải hành xử vì quyền lợi nhân dân
- Trên mặt trận ngoại giao, đóng góp của ĐPT hết sức nổi bật. Đối thoại với sứ Tống là Lý

Giác trên chiếc thuyền song song. ĐPT khẳng định nền độc lập của Đại Cồ Việt, đồng
thời biểu lộ quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy bằng chính sức mạnh của dân tộc mình trước
mọi thế lực xâm lược. Điều này đã khiến cho Lý Giác đi từ chỗ thán phục thần dân Đại
Cồ Việt đến sự ngưỡng mộ của vua Lê Đại Hành.
- Nhìn lại LS dân tộc, đặc biệt là LS chống Bắc Thuộc và các triều đại độc lập tự chủ đầu tiên

Ngô, Đinh, tiền lê, điều chúng ta dễ dàng thấy là “PG bên ngoài thì giúp triều đình việc
bang giao, còn bên trong thì chắc cũng đã góp phần đem lại những yếu tố tư tưởng nhân
ái, từ bi, hỷ xả, thuần hậu cho việc trị bình”.
- Tóm lại, tư tưởng siêu việt của PG, sự đồng hành cùng dân tộc của tăng ni, phật tử mà đỉnh

cao là hai thiền sư đó, là những tiền đề tất yếu, khẳng định vai trò của nhà chùa trong đời
sống CT – XH ĐCV, nên khi nhà TL mất chỗ dựa, đất nước đứng trước họa binh đao,
quần thần và nhân dân vẫn 1 lòng ngưỡng mộ và đặt hết niềm tin vào PG về một đất nước
thanh bình. Điều này giúp chúng ta nắm bắt được tại sao thiền sư Vạn Hạnh, nói rộng ra


là PG ĐCV có được vai trò đưa Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra Vương triều Lý vào đầu TK
XI.

Sự nghiệp của Trần Nhân Tông
-


Trần Nhân Tông là một vị hoàng đế mà sự nghiệp nổi hẳn trên cả ba mặt : Giữ nước, dựng
nước và mở nước.

-

A) Sự nghiệp giữ nước của Trần Nhân Tông.

-

Thời Trần Nhân Tông ở ngôi hoàng đế, dân tộc ta phải đương đầu với giặc Mông - Nguyên.
Thế nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt, đều bị đánh bại, trong đó có hai lần diễn ra dưới thời
Trần Nhân Tông.

-

Thực quyền lãnh đạo hai cuộc chiến tranh vẫn thuộc về Trần Nhân Tông. Để chuẩn bị cho
chiến tranh, Trần Nhân Tông ý thức rất sâu sắc về "thế trận lòng dân" hạt nhân để làm nên
chiến thắng. Trần Nhân Tông đã tổ chức hội nghị Bình Than (1282). Đặc biệt, đầu năm 1285,
Trần Nhân Tông đã tổ chức hội nghị Diên Hồng.

-

Vai trò tối cao của Trần Nhân Tông còn thể hiện trong chính sách dùng người. Chúng ta cũng
thấy những ứng xử ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn của Trần Nhân Tông với triều
Nguyên trước, trong và sau chiến tranh.

-

Khi chiến tranh diễn ra, Trần Nhân Tông có mặt hầu như khắp mọi mặt trận để cùng với
tướng lãnh có những quyết sách tối ưu trước những tình thế hiểm nghèo, nổi bật nhất là

những quyết định lui quân hoặc phản công chiến lược.

-

B) Sự nghiệp dựng nước của Trần Nhân Tông.

-

Một là, Trần Nhân Tông tái dựng về một quá khứ huy hoàng của dân tộc bằng việc phong
thần cho những người có công với nước, như Phù Đổng Thiên Vương, Lý Nam Đế, Lý
Thường Kiệt,...

-

Hai là, Trần Nhân Tông là một trong rất ít người đi tiên phong trong việc sử dụng quốc ngữ.

-

Ba là, Trần Nhân Tông đã sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đây được xem như là
mặt nổi bật nhất trong sự nghiệp văn hóa của Trần Nhân Tông.

-

Trần Nhân Tông đã chọn Yên Tử làm trung tâm của Giáo hội Trúc Lâm. Tại đây, trên đỉnh
núi Yên Tử, cùng với việc tu chứng, Trần Nhân Tông có thể quan sát được sự động tĩnh của
các cánh quân xâm lược từ phương Bắc xuống. Mặt khác, Trần Nhân Tông đi khắp các chốn
thôn dã, khuyên dân bỏ những hủ tục, mê tín và thực hành giáo lý Thập thiện.

-


C) Sự nghiệp mở nước

-

Nói đến mở nước là nói đến "Công cuộc Nam tiến” của dân tộc ta.

-

Về sự nghiệp mở nước về phía Nam mà chính Trần Nhân Tông có hai vấn đề sau đây đã đến
lúc cần phải được khẳng định một cách minh bạch:

-

Một là, khi bàn đến cuộc đời và sự nghiệp Trần Nhân Tông có quan điểm cho rằng sau khi
xuất gia tu Phật, Trần Nhân Tông chỉ tập trung lo việc đạo mà quên đi việc đời.

-

Hai là, việc mở nước vượt qua đèo Hải Vân, một dãy núi cao và hiểm trở nhất, chắn ngang
con đường thiên lý Bắc - Nam mà không bằng con đường đao binh; và chắc chắn nếu lịch sử
không chọn cuộc hôn nhân Chế Mân - Huyền Trân mà bằng con đường khác thì xương máu
đồng loại cũng phải chất thành sông núi. Mặt khác, vượt qua đèo Hải Vân đem lại cho Đại
Việt hai cửa biển: Tư Hiền và Đà Nẵng vừa sâu, vừa thuận lợi cho thủy quân; kết hợp với núi


cao hiểm trở không chỉ góp phần bảo vệ biên cương phía Nam mà hơn thế nữa nó đã mở ra
bước phát triển mới về phía Nam của Đại Việt.
-

Một vấn đề đặt ra là phải chăng lịch sử đã chưa có một cái nhìn toàn diện về sự nghiệp của

Trần Nhân Tông? Có điều đáng nói là Đông Hà, thị xã Quảng Trị, Đà Nẵng và Hội An là
những nơi mà dấu ấn mở nước của Trần Nhân Tông rất đậm nét, lại không có một con đường
nào mang tên Trần Nhân Tông.

Các cuộc nổi dậy của nhà chùa vào cuối TK XIX đến đầu TK XX.
Năm 1895, tại chùa Ngọc Long Động, huyện Chương Mỹ, tình Hà Đông, một nhà sư khởi
động cuộc tụ nghĩa với mục tiêu chống TDP, giành độc lập dân tộc. Đó là Vương Quốc
Chính, sau nhiều lần thất bại, VQC xuống tóc khoác áo cà sa, đọc kinh. VQC lập ra hội
Thượng Chí.
- Năm 1898, Võ Trứ quyết định khởi nghĩa. Đi đầu nghĩa quân là 100 dũng sĩ người Thượng
cầm cung tên, kế đó là 400 dũng sĩ người Kinh cầm rựa, xung quanh VT có nhiều vị hòa
thượng giúp sức. Cuộc khởi nghĩa bị TDP trấn áp dữ dội, VT bị bắt và xử tù, Trần Cao Vân bị
kết án tù 3 năm. Thực dân Pháp gọi đây là cuộc CT “Thầy chùa”.
 Hai cuộc khởi nghĩa này đều được sự yểm trợ của tăng ni và tín đồ PG. Tuy thất bại song cho
thấy sau khi PTCV thất bại PG đã trở thành lực lượng chủ yếu trong phong trào k/c vào
những năm bản lề của 2 TK XIX và XX.
- Năm 1912, Nguyễn Hữu Trí lên Campuchia xin phép xây chùa trên núi Tà Lơn. Sau khi tập
hợp LL, đêm 23 rạng 24.3.1913. NHT cho người bí mật vào SG đặt bom tuy nhiên bị phát
hiện. Sau thất bại ông tiếp tục xây dựng LL, bản doanh đặt tại chùa Núi Cấm. Đêm 11 rạng
12.2.1916, 300 dũng sĩ tấn công Dinh Thống đốc và Khám Lớn. Tuy nhiên cũng thất bại.
- Sau ngày ĐCSVN ra đời, thời kì này nhiều chùa trên khắp 3 miền BTN đã góp sức vào việc
xây dựng phong trào C/M. Chùa Động Kỵ là một trong những cơ sở hoạt động của Trung
Thiền và Thiện Chiếu với hội Phật học Kiếm Tế. Chùa đã trở thành 1 căn cứ kháng chiến bí
mật. Năm 1939, chùa bị phát hiện, nhà sư Trí Thiền bị bắt ra Côn Đảo và mất ở đó. Nhà sư
Thiện Chiếu về Sài gòn hoạt động sau đó bị bắt đày ra Côn Đảo. Sau c/m T8 được đưa về đất
liền tiếp tục hoạt động c/m.
- Chùa Linh Thứu là trụ sở của tờ báo dân cày của Mỹ Tho bị TDP phát hiện, Trụ trì Hòa
thượng Thành Đạo bị bắt đến khi c/m t8 thành công mới cứu thoát. Nhà sư Yết Ma Thông
chùa Thới Thượng tham gia k/c Nam kỳ, bị TDP bắt và giết tại Bà Điểm.
- Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tất cả các tăng ni phật tử ở dãy núi Yên Tử đã tham gia kháng

Nhật. Ở Huế, các chùa Từ Đàm, Quốc Ân, Tường Vân, Bảo Quốc thường là nơi tụ họp của
cán bộ Việt minh. Nhiều nhà sư tham gia tích cực góp phần c.m t8 thành công như Thích
Pháp Tràng, Thích Thiện Hào.
- C/m t8 thắng lợi, chính phủ VN DC CH tổ chức tổng tuyển cử (6.1.46), thượng tọa Thích Mật
thể được nhân dân tín nhiệm bầu vào Quốc hội khóa đầu tiên nước VN DC CH.
- Khi TDP quay lại xâm lược nước ta, 19/12/46, tại chùa Trầm (Hà Nội), hưởng ứng lời kêu gọi
của HCM, nhiều tăng ni, phật tử cởi áo cà sa mặc chiến bào chiến đấu anh dũng.
- Ở miền bắc nhà sư Thái Hòa thành lập Tăng gia Cứu Quốc và tổ chức khắp các địa phương
các tổ chức PG CQ. Ở chùa Quán Sứ, cư sĩ Thiền Chửu đã đưa hơn 50 em cô nhi ra vùng giải
phóng, Thích Pháp Long ở chùa Cổ Lễ đã hoạt động tích cực tại vùng kháng chiến. Ở miền
Trung, cư sĩ Tâm Minh, Lê Đình Thám cùng gia đình thoát ly tham gia kháng chiến. Ở trong
N, đa số thanh niên tăng của Phật học đường Trà Vinh đều bỏ học đi theo kháng chiến. Tạp
chí Tinh Tấn do Hòa thượng Minh Nguyệt chủ nhiệm, ra số đầu tiên đã kêu gọi tham gia k/c.
- Từ 1947 – 1954, có rất nhiều thanh nien tăng hy sinh, tiêu biểu như Thích Minh Tâm hy sinh
tại Phong Điền, Huế; Thích Tánh Huyền, hy sinh phía sau chùa Tường Vân; Thích Trí
-


Nghiệm hy sinh tại chiến khu Quảng Trị; Thích Viên Minh và Phật tử Nguyễn Chinh hy sinh
tại mặt trận Phan thiết…
 Kế thừa được tinh thần của Đại sư Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Phật hoàng Trần
nhân Tông.

Vì sao Mỹ chọn Ngô Đình Diệm làm thủ tướng
-

Những nét khái quát về Quốc gia Việt Nam

-


Quốc gia Việt Nam là một chính thể thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp,
tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
năm 1948 và 1955. Thủ đô đặt tại Sài Gòn, Quốc trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt
điện ở Đà Lạt.

-

Về mặt hình thức, nhà nước quốc gia này gần như là một quốc gia quân chủ chuyên chế do
chưa có Hiến pháp và Quốc hội với Quốc trưởng là cựu hoàng Bảo Đại (tương tự nhà nước
Lào và Campuchia được công nhận ngay sau đó), trong khi đó, Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát
tài chính, thương mại và chính sách đối ngoại và quân sự của Quốc gia Việt Nam.

-

Từ năm 1954, theo thỏa thuận của Hiệp định Genève 1954, chính quyền và các lực lượng
quân sự của Liên Hiệp Pháp (bao gồm Quốc gia Việt Nam) theo quân đội Pháp tập kết
vào miền Nam Việt Nam. Cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1955 đã phế truất Quốc trưởng Bảo
Đại, đưa thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Quốc trưởng. Sau đó Quốc trưởng Ngô Đình
Diệm tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến cho Quốc gia Việt Nam. Quốc hội này ban hành Hiến
pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa

-

Những lý do khiến Mỹ chọn Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam

-

Trước nguy cơ thất bại của Pháp ở Đông Dương, Mỹ ngày càng can thiệp sâu hơn vào cuộc
chiến tranh Đông Dương. Ngày 7/5/1954, Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, Mỹ tăng cương thế
lực thay chân Pháp ở Đông Dương. Nhân vật mà mỹ chọn làm tay sai là Ngô Đình Diệm.

Richarrd F. Newcomb viết: "Đối với người Mỹ, Diệm là rất thất hợp. Ông là người Việt Nam
thực sự, 54 tuổi, chống Pháp, chống Cộng. Với một và kinh nghiệm trong thời kỳ làm quan
thuộc địa, và là một người Thiên Chúa giáo (Không bao giờ chú ý đến Việt Nam có 85% dân
số là Phật giáo"

-

Thứ nhất, Ngô Đình Diệm là “người Việt Nam thực sự”, mang quốc tịch Việt Nam chứ
không phải quốc tịch Pháp. Với âm mưu hất cẳng Pháp, mị dân để lập ra chính phủ bù nhìn
thì Mỹ sẽ ưu tiên cho những người không mang quốc tịch Pháp và có thái độ chống Pháp,
thân Mỹ.
Thứ hai, Ngô Đình Diệm lúc này đã 54 tuổi, đó là độ tuổi phù hợp để làm lãnh đạo, bởi vì
dưới 54 tuổi thì còn trẻ chưa có kinh nghiệm, còn trên 50 tuổi thì quá già không đủ minh mẫn
để làm việc.
Thứ ba, Ngô Đình Diệm có 1 lý lịch được Mỹ cho là “tốt đẹp” và dễ tuyên truyền trong dân
chúng. Đó là, cha của Diệm là Thượng Thư Ngô Đình Khả, 1 đại thần đã kiên quyết từ chối
ký vào tờ đơn đày vua Thành Thái nên bị bãi quan. Vì vậy người dân có câu “Đày vua không
Khả, đào mã không Bài” để nói về sự kiện này. Mỹ cho rằng câu nói trên chứng tỏ gia đình
Diệm có truyền thống “trung quân ái quốc”, bên cạnh đó, Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài
trong vế “Đào mã không Bài” lại còn là thông gia của gia đình Diệm nên càng tô đẹp thêm
cho lý lịch “trung quân ái quốc” và chống Pháp của Ngô Đình Diệm
Thứ ba, Ngô Đình Diệm đã có kinh nghiệm làm trong bộ máy cai trị của Triều đình Huế.

-

-

-



-

Năm 1921, khi mới 20 tuổi, ông tốt nghiệp Trường Hậu Bổ tại Hà Nội, được phong chức Tri
huyện Hương Trà (Thừa Thiên Huế). Năm năm sau, năm 1926, ông được bổ nhiệm làm Tri
phủ Hải Lăng (Quảng Trị).

-

Năm 1929, Ngô Đình Diệm nhậm chức Tuần vũ tỉnh Phan Thiết (Bình Thuận). Bốn năm sau,
ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ lại dưới triều Vua Bảo Đại. Đó là năm 1933, khi Ngô
Đình Diệm 32 tuổi, ông là Thượng thư trẻ nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ.

-

Trong thời gian ở Quang trường của mình, Ngô Đình Diệm nổi bật lên vs 2 nét

-

Thứ tư, Ngô Đình Diệm là một người chống cộng quyết liệt, khi làm tri phủ Hải Lăng, Ngô
Đình Diệm đã phát hiện và dập tắt phong trào cộng sản tại đây
Thứ năm, Ngô Đình Diệm không thân Pháp và có thái độ chống Pháp và thân Mỹ rõ rệch.

-

Năm 1933, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm Thượng Thư Bộ Lại nhưng do không được
Pháp trọng dụng nên đã cáo quan về quê. Sau khi Quốc Gia Việt Nam được thành lập, Ngô
Đình Diệm được tiến cử làm thủ tướng nhưng do không được Pháp và Bảo Đại chấp thuận
nên đã quay lưng chống lại Pháp và ngả về phía Mỹ.

-


Cách mạng Tháng Tám thành công, Vua Bảo Đại thoái vị, Chính phủ Trần Trọng Kim tan rã
theo. Rồi Pháp lại nhanh chóng tái chiếm Việt Nam, Bảo Đại tiếp tục được biến thành con cờ
trong tay người Pháp.

-

Năm 1949, Bảo Đại thêm lần nữa mời ông Diệm đứng ra làm Thủ tướng thành lập nội các.
Ông Diệm lại từ chối: "Tôi không tin người Pháp, lại càng không tin vào nền độc lập nửa vời
mà người Pháp vẽ ra".

-

Sau lần từ chối này, ông Diệm cùng Giám mục Ngô Đình Thục và người em ruột là Ngô Đình
Nhu thành lập đảng Xã hội Thiên Chúa giáo.

-

Sau đó, năm 1950, ông Diệm sang Hoa Kỳ, dùng đủ mọi cách để tranh thủ sự ủng hộ của
chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công vì hai lẽ. Thứ nhất, Mỹ đang bận
tham chiến tại Triều Tiên. Thứ hai, người Mỹ không muốn làm mất lòng người Pháp.

-

Thứ sáu, Ngô Đình Diệm là một tín đồ Công giáo nhiệt thành

-

Chính vì vậy, 1 vị Hồng y là Spellman nảy sinh hảo cảm với ông Thục và đồng ý nhận lời
làm trung gian giúp ông Diệm có cơ hội diện kiến với những nhân vật quan trọng trong chính

quyền Hoa Kỳ.

-

Từ sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman, ông Diệm đã tranh thủ được tình cảm của dân biểu
Walter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Đặc biệt là Thượng nghị sĩ John F. Kennydy
rất nhiệt tình với ông Diệm, chính nhờ vậy Diệm đã nhanh chóng kết thân và có mối quan hệ
tốt đẹp với các nhân vật chóp bu của chính quyền Mỹ

-

Và sau đó, vào ngày Song thất, 7/7/1954, với sự ủng hộ của Mỹ, chính phủ do ông Ngô Đình
Diệm thành lập chính thức ra mắt với nội các gồm 18 người, như: Thủ tướng kiêm Nội vụ và
Quốc phòng: Ngô Đình Diệm

Nguyên nhân phong trào phật giáo 1963.
- Ý kiến cho nguyên nhân phong trào không đến từ chính sách giáo trị của chính quyền Ngô
Đình Diệm. Một số công trình khác lại lập luận rằng nguyên nhân của phong trào Phật giáo
miền Nam năm 1963 là do chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, rằng
“ngọn lửa chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm đã âm ỉ nung nấu trong giới Tăng Ni và
Phật tử từ lâu”.


- Ý kiến khác lại cho rằng nguyên nhân phong trào chính là Công điện 9195 của Phủ Tổng
thống Ngô Đình Diệm ban hành ngày 6-5-1963 với nội dung cấm treo cờ Phật giáo thế giới
vào dịp Đại lễ Phật đản 1963. Thực ra, Công điện 9195 “chỉ như là một giọt nước cũng thừa
sức làm chảy tràn ra một bát nước vốn đã quá đầy”, chỉ được xem là duyên cớ của phong
trào. Nếu nói là nguyên nhân thì đây là nguyên nhân trực tiếp.
- Nguyên nhân phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 chính là chính sách giáo trị
một chiều hết sức cao độ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Điều này được hiểu là chính

quyền Ngô Đình Diệm đã thực hiện nhiều chính sách, biện pháp nhằm đưa Thiên Chúa
giáo lên vị trí độc tôn trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội miền Nam.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng, chế độ Ngô Đình Diệm lấy chủ nghĩa duy linh nhân vị làm hệ tư
tưởng chỉ đạo. Thực chất, chủ nghĩa duy linh nhân vị là những ý niệm theo khuôn mẫu của
giáo lý Thiên Chúa giáo.
Hoặc biện pháp cưỡng ép tín đồ Phật giáo cải đạo qua Thiên Chúa giáo thông qua việc học
tập chủ nghĩa duy linh nhân vị. Tại Bình Thiện, “chính quyền địa phương đã tổ chức lớp học
về duy linh rồi lợi dụng lớp học ấy mà xuyên tạc đạo Phật của chúng tôi, dọa nạt và bắt hội
viên của chúng tôi phải ký đơn qua Thiên Chúa giáo, nếu không sẽ đi học tập dài hạn tại quận
và tỉnh”;
+ Về chính trị, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành hàng loạt biện pháp mang tính “trung
cổ” nhằm thực hiện mục tiêu “Thiên Chúa giáo” miền Nam. Cụ thể, mọi chức vụ chủ chốt từ
trung ương đến tỉnh, quận dưới thời Ngô Đình Diệm đều nằm trong tay giáo dân Thiên Chúa
giáo. Ở nông thôn, bằng biện pháp “chỉ định”, dẫn đến hầu hết các xã trưởng, thôn trưởng
đều là Cần Lao Thiên Chúa giáo.
+ Về kinh tế - xã hội, ngay khi vừa lên cầm quyền, Ngô Đình Diệm đã tiến hành chính sách
cưỡng ép và dụ dỗ đồng bào miền Bắc di cư vào Nam với chiêu bài “Đức Mẹ và con trai là
Chúa Giê-su đã vào Nam”; tới tháng 9-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thành lập được
286 làng định cư, trong đó có đến 265 làng Thiên Chúa giáo, mỗi làng do một linh mục đứng
đầu. Trong số 887.895 người di cư vào Nam sau năm 1954 đã có đến 754.710 người là tín đồ
Thiên Chúa giáo, chiếm 85%.
Hoặc với chính sách dinh điền, đối tượng bị cưỡng bức di dân chủ yếu là tín đồ Phật giáo. Và
nếu không chịu theo Thiên Chúa giáo thì “đành nghiến răng, ngậm nước mắt mà đập nhà, bán
ruộng, bồng con, tróng chó ra đi và trở thành tù nhân suốt đường đi cũng như vĩnh viễn ở nơi
họ bị đưa đến”.
Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, các ngành kinh tế chủ chốt đều nằm trong tay những người
Thiên Chúa giáo, được chính quyền hoặc linh mục bảo trợ. Thí dụ, Thiên Chúa giáo được cấp
phát nhiều đất đai để xây dựng trường học, bệnh viện, cũng như hầu hết những tín dụng nông
nghiệp, đặc quyền khai thác gỗ và độc quyền một số ngành xuất nhập khẩu. Ảnh hưởng của
các linh mục rất lớn và đã có nhiều kẻ cơ hội theo Thiên Chúa giáo... Sau này những người

Thiên Chúa giáo Việt Nam cũng phải nhìn nhận là dưới chế độ Diệm họ được ưu đãi.
Trong lúc đó, hoạt động kinh tế của tín đồ Phật giáo bị vu khống, trù dập. Nổi bật nhất là việc
Ngô Đình Cẩn tạo ra “Vụ án gián điệp miền Trung” giả tạo. Nạn nhân chủ yếu là tín đồ Phật
giáo có thế lực về kinh tế bị ghép vào tội làm gián điệp cho Pháp, bị bắt giam, có người bị tra
tấn đến chết, tập trung nhất là ở Huế, như ông Nguyễn Văn Yến (chủ khách sạn Morin, Huế)
bị bắt giam ở Chín Hầm, các ông Nguyễn Đắc Phương (thầu khoán), Trần Bá Nam (thầu
khoán) bị tay chân Ngô Đình Cẩn giết chết; hoặc có nghị định bắt nhân dân miền Nam thực
hiện những tín điều Thiên Chúa giáo: “Cấm hạ và bán thịt heo trên toàn lãnh thổ Việt Nam
Cộng hòa, 3 ngày trong tuần lễ: thứ Ba, thứ Sáu và Chúa nhật, cho đến khi có lệnh mới,...
Trong ba ngày cấm trên đây, thịt heo quay, thịt heo ướp lạnh của những ngày trước còn lại
cũng không được phép bán trong các tiệm, các chợ, mặc dầu dưới hình thức nào”.


+ Về văn hóa - giáo dục, chính sách giáo trị của chính quyền Ngô Đình Diệm thể hiện rất
đậm nét. Tại Dinh Độc Lập, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức lễ Giáng sinh với qui mô
lớn.
- Lễ hành hương tại Nhà thờ Đức Mẹ La Vang, tổ chức ba năm một lần, như ngày 17-8-1961,
lễ dâng hiến Trung tâm Thánh Mẫu và khánh thành “Vương cung Thánh đường” La Vang
được tổ chức rất trọng thể.
- Đối với Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm tìm cách gây trở ngại trong tổ chức hành lễ.
Nổi bật nhất trong chính sách này là chính quyền Ngô Đình Diệm hủy bỏ ngày nghỉ lễ Phật
đản, một lễ trọng đại nhất của Phật giáo. Rồi những tín đồ Phật giáo nhiệt thành, bị chính
quyền Ngô Đình Diệm theo dõi, có khi bị ám sát.
- Chính sách ưu tiên cho Thiên Chúa giáo, kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm
cũng xâm nhập sâu trong học đường. Ví dụ, bắt buộc phải theo một tôn giáo và không thể nói
khác được, hoặc tuyển mộ giáo sư phải theo tôn giáo, ý thức hệ mà chính quyền muốn nâng
đỡ; phải có thiện cảm hay theo ý thức hệ của chính quyền. Đối với sinh viên, học sinh, thí dụ
phải biểu lộ trong bài vở những ý nghĩa, lập trường đối với tôn giáo, ý thức hệ chính thức
mới được nhận vào học”,... Hệ thống trường Thiên Chúa giáo ở miền Nam phát triển nhanh
chóng.

- Đối với việc xét chọn các tác phẩm văn chương hàng năm, những tác phẩm nào nặng lời chỉ
trích Phật giáo, đề cao Thiên Chúa giáo đều được chính quyền Ngô Đình Diệm đánh giá cao,
như tác phẩm “Văn chương bình dân” và “Xây dựng trên Nhân vị”.
- Chính sách giáo trị mà chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành khắp trên các lãnh vực ở
miền Nam đã khiến “tín đồ Thiên Chúa giáo có vẻ đông hơn vì những cuộc rước kiệu trên
đường phố vào những dịp lễ. Những ngày nghỉ lễ của Thiên Chúa giáo được công khai kỷ
niệm nhờ vị Tổng thống ngoan đạo, và trong những dịp lễ chính thức thường có nhiều linh
mục tham dự. Những làng di cư được thiết lập dọc theo các quốc lộ giống hệt như các làng
ngoài Bắc. Những ngọn tháp giáo đường nổi bật trên các cánh đồng lúa và chuông giáo
đường rền vang khắp đồng quê”. Rõ ràng là “bất chấp mọi điều kiện lịch sử và tâm lý dân
tộc, Mỹ - Diệm đã có nhiều cố gắng theo hướng ‘Công giáo hóa’ nhân dân ta, biến Thiên
Chúa giáo thành quốc giáo ở miền Nam”. Dưới con mắt của Phật giáo: “Diệm muốn thống
nhất cả nước thành một khối Công giáo và chuyển các tôn giáo và đảng phái sang Công
giáo. Công giáo ở Việt Nam là chủ nghĩa tư bản. Giáo hội là đại diện của chính phủ. Nếu
anh muốn giàu sang, nếu anh muốn trở thành sĩ quan, anh phải là Công giáo”.

Hoàn cảnh miền Nam Việt Nam trước khi phong trào phật giáo 1963
-Tình hình MN (54 - 63): Pháp thất bại, Mĩ can thiệp sâu vào ĐD, thay chân Pháp.
- Mĩ chọn NDD, NDD từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, từ chối việc tái lập quan hệ bình
đẳng giữa hai miền Nam bắc, tổ chức tuyển cử riêng rẽ, bầu cử Quốc hội lập hiến, ban hành
hiến pháp, lập Đảng Cần Lao nhân vị, phong trào cách mạng quốc gia. Thực hiện các chương
trình cải cách điền địa, khi dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược. Chống lại khát vọng hòa
bình, độc lập, thống nhất đất nước của nhân dân MN.
- 8.1954: PT hòa bình công nhân đấu tranh, nhân dân đấu tranh.
- 1.1959, Hội nghị Tw Đảng 15 đến khởi nghĩa giành chính quyền bằng lực lượng CT và lực
lượng vũ trang.
- 17.1.1960, Đồng khởi, cách mạng miền N chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công => Mặt trận dân tộc giải phóng MNVN ra đời (20.12.1960).
- PT phát triển: mâu thuẫn nội bộ => 11.11.1960: Đảo chính và lật đổ chính quyền NDD,
27.2.1962: 2 phi công trong quân đội Sài Gòn ném bom Dinh Độc Lập.



- Chiến lược CTĐB là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ được tiến
hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn quân sự Mỹ và dựa vào vũ
khí, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ nhằm chống lại các lực lượng c/m
và nhân dân ta. Ấp chiến lược, thực hiện kế hoạch stalay taylor.
- Ấp Bắc (2/1/1963): Bộ máy chính quyền ở nông thôn vỡ mảng lớn và uy thế của Mỹ - Diệm
giảm.
- Mỹ >< NDD + Vụ PG: chế độ NDD đã đi vào giai đoạn kết thúc.
Lưu ý: Vì sao NDD thi hành c/s kỳ thị PG, độc tôn TCG ?
- Dưới chế dộ D chính sách sẽ trở nên hiểm nghèo hơn bất cứ thời gian nào, thời Pháp chúng
ta chắc chắn phải trải qua những ngày tháng khó khăn hơn.
- Bản thân NDD tiêu biểu cho tầng lớp tư sản, đại địa chủ phản động đội lốt TCG có nhiều nợ
máu với nhân dân và mang nặng ý thức phục thù.
- Cha theo Pháp đàn áp khởi nghĩa Phan Đình Phùng.
- NDD chống cộng ở Ninh Thuận (giữ chức quản đạo) tra tấn cộng sản, buộc tay treo lên xà
nhà, cho đi tàu bay. Sự giúp đỡ của Hồng y Spellman NDD trở thành thủ tướng QĐVN. Ông
sử dụng sự nghiệp truyền đạo là thành lũy chống cộng là tiền đồn của CNTB.

Các chính sách kỳ thị của chính quyền NDD về Tư tưởng – chính trị.
-

-

-

-

-


-

-

Hệ tư tưởng của chế độ Ngô Đình Diệm là chủ nghĩa nhân vị, mà Ngô Đình Nhu là kẻ chủ
xướng. Theo Ngô Đình Nhu chỉ có chủ nghĩa nhân vị mới bài trừ được lạc hậu và đẩy lùi
được chủ nghĩa phát xít.
Trong phần mở đầu bản Hiến pháp Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam năm 1956, chủ nghĩa nhân vị
được xem như là tiêu điểm mà hầu hết các lãnh vực quốc gia phải khuôn theo: “Xây dựng
dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị”
Từ năm 1956, chủ nghĩa nhân vị được các linh mục giảng dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn,
tiếp theo NĐD cho thành lập Trung tâm Huấn luyện Nhân vị Vĩnh Long. Ban Giám đốc và
Ban Giảng huấn đều là các linh mục hoặc tín đồ Thiên Chúa giáo (TCG), đặt dưới quyền
quản lý trực tiếp của Ngô Đình Thục. Cán bộ viên chức nhà nước từ Trung ương xuống địa
phương (tỉnh, quận) đều phải về thụ huấn tại Trung tâm Huấn luyện Nhân vị Vĩnh Long
Điều cay đắng cho các học viên khi về Vĩnh Long, họ chỉ nghe các linh mục giảng dạy gần
như hoàn toàn giáo lý Thiên Chúa giáo, mua chuộc theo Thiên Chúa giáo, đồng thời chỉ trích
giáo lý Phật giáo, gây chia rẽ trong nội bộ Phật giáo.
Rất nhiều trường hợp, tín đồ Phật giáo bị bắt bớ, giam cầm, bị đánh đập tra tấn. Có tín đồ
Phật giáo bị thủ tiêu bằng cách chôn sống như các ông Nguyễn Chuyển, Đỗ Thìn.
Để bắt ép tín đồ Phật giáo theo Thiên Chúa giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm còn sử dụng
đến cả phương châm “chiếc gậy và củ cà rốt”.
Trên nền tảng của chủ nghĩa nhân vị, gia đình họ Ngô đẩy mạnh việc xây dựng đảng Cần lao
Nhân vị nhằm làm đội quân chủ lực cho chế độ. Từ cuối năm 1957, sau khi tạm thời vượt qua
những khó khăn buổi đầu, chế độ dường như đã vững mạnh, gia đình họ Ngô biến đảng Cần
lao Nhân vị thành đảng: “Cần lao Thiên Chúa giáo”, lấy tôn giáo làm yếu tố ưu tiên, và độc
nhất cho mọi chính sách. Do chính sách trên đây, bộ máy cai trị của nhà nước Diệm thể hiện
tính chất “giáo trị” một chiều hết sức cao độ.
Đến đầu năm 1963, hầu hết các tỉnh trưởng, thị trưởng đều là người Cần lao Thiên Chúa giáo
Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, hiện tượng “linh mục chế”rất phổ biến. Các linh mục có một

thế lực chính trị rất lớn. Họ không ngần ngại tìm cách đưa con chiên của mình vào thay thế
các quận trưởng hay xã trưởng không Công giáo.
Trong quân đội, chính sách kỳ thị Phật giáo, độc tôn Thiên Chúa giáo của chế độ Ngô Đình
Diệm cũng thể hiện rất rõ nét. Quân đội Diệm “xây dựng theo nguyên tắc 3 Đ (Đảng, Đạo,
Địa phương)”. Với nguyên tắc này, dưới chế độ Diệm, “việc bổ nhiệm các chức vụ quan
trọng trong quân đội thường được nhắm vào tiêu chuẩn: Có chân trong đảng Cần lao (đảng
của chính quyền), có đạo Công giáo”.


-

-

-

-

-

Từ năm 1957, chế độ Diệm đã cho thành lập “Liên đoàn sĩ quan Thiên Chúa giáo” nhằm tập
hợp lực lượng Thiên Chúa giáo trong quân đội để làm nòng cốt và dùng số này để khống chế
bộ phận sĩ quan không cùng tín ngưỡng.
Do vậy, dù cho quân đội Diệm đa số là tín đồ Phật giáo, nhưng sĩ quan chỉ huy phần lớn là tín
đồ Thiên Chúa giáo
Thảm hại hơn nữa là trong quân đội Diệm còn có chính sách ưu tiên cho một thứ quân đội,
một thứ quân đội không nằm trong định chế, nhưng lại có đặc quyền kiểm soát, điều động và
khống chế các bộ phận khác, đó là “quân đội Cần lao”. Lực lượng này khi ẩn khi hiện và chỉ
chịu mệnh lệnh của văn phòng cố vấn mà thôi.
Ở nông thôn Diệm thành lập những đội vũ trang Thiên Chúa giáo đặt dưới quyền chỉ huy trực
tiếp của các linh mục. Đội quân này đông tới 1.200 người gồm toàn tín đồ Thiên Chúa giáo,

được Diệm và ngoại bang ưu tiên trang bị, kể cả việc xây dựng một sân bay lên thẳng. Giới
chỉ huy quân sự Mỹ đã từng tuyên bố “với tinh thần gan dạ này, chủ nghĩa cộng sản dứt khoát
không thể thắng được”.
Chính sách kỳ thị Phật giáo, độc tôn Thiên Chúa giáo của chế độ Ngô Đình Diệm trong quân
đội là một chính sách “Thiên Chúa giáo hoá” miền Nam. Nó là một thảm trạng đối với những
người khác tôn giáo với Diệm, nhất là đối với tín đồ Phật giáo và đã trở thành một trong
những nguồn gốc sâu xa đưa đến sự bất mãn của quân đội Diệm đối với chế độ, mà cuộc đảo
chánh 11-11-1960 và vụ ném bom vào “Dinh Độc lập” ngày 27-2-1962 là những chứng minh
cụ thể.
Ngoài ra, Ngô Đình Diệm còn cho thành lập nhiều tổ chức thanh niên Thiên Chúa giáo, như:
“Thanh niên thôn quê Thiên Chúa giáo”, “Thanh niên thánh nghiệp”, “Sinh viên thánh mẫu”,
“Phong trào hùng tâm trí”... Nhiều linh mục có mặt trong tổ chức “Thanh niên cộng hòa”,
một tổ chức “rường cột” của chế độ, nhằm khống chế thanh niên, khuyến khích thanh niên
theo Thiên Chúa giáo.

Chính sách kỳ thị của chính quyền NDD về Kinh tế - xã hội.
-

Chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm về Kinh tế xã hội được thể hiện
ở nhiều mặt

-

-Trước hết là trong lĩnh vực cưỡng bức di cư, mục đích của Diệm trong việc cưỡng ép, dụ dỗ
theo tín đồ Thiên Chúa giáo vào Nam cốt cho nhân dân có các cảm với cách mạng và để tăng
cường lực lượng hậu thuẫn cho Diệm ở miền Nam.

-

Chính quyền Ngô Đình Diệm dành ưu tiên cho các tín đồ Thiên Chúa giáo nhiều quyền hơn

so với người Phật giáo di cư như giúp đỡ về phương tiện vận chuyển, được phát tiền trợ cấp
nhanh, được hưởng lương thực, thực phẩm tốt, được cấp phát những vùng đất đai màu mỡ để
sinh sống, trong khi đó những người Phật giáo bị kỳ thị, rồi mỗi khi họ xuống tàu còn bị đuổi
lui lại hoặc bị cắt tất cả các phương tiện và sự tiếp tế tối thiểu.

-

Những làng định cư được lập nên thì hầu hết các linh mục đứng đầu, khi đã vào đến miền
Nam thì đồng bào Phật giáo còn bị đuổi ra những nơi tạm cư, ngay cả những vùng đất đã
được đồng bào Phật tử khai phá cũng bị chính quyền Ngô Đình Diệm trắng trợn cướp đi, giao
lại cho Thiên Chúa giáo như trường hợp trục xuất người Nùng ra khỏi đất Bao Hàn.

-

Trong vấn đề di cư: chính sách kỳ thị Phật giáo còn được thể hiện rõ nét qua việc thành lập
các “khu dinh điền”, “khu trù mật” đối tượng bị cưỡng bức di cư chủ yếu là tín đồ Phật giáo,
khi vào đây thì họ bị chia đất xấu, cắt các loại phương tiện, bị cắt hàng tiếp tế và đàn áp đủ
điều. Trong khi các tín đồ Thiên Chúa giáo và các tổ chức Thiên Chúa giáo được ưu tiên về
mọi mặt.


-

Không chỉ trong vấn đề di cư, mà các ngành kinh tế chủ chốt như bán gạo, khai thách rừng,
ngoại thương đều nằm trong tay những người Thiên Chúa giáo dưới sự bảo hộ của chính
quyền hoặc các lĩnh vực.

Các chính sách kỳ thị của chính quyền NDD về Văn hóa – giáo dục.
-


Trong việc trùng tu xây dựng nhà thờ, tượng, chùa, chính quyền Ngô Đình Diệm dành cho
Thiên Chúa giáo nhiều đặc quyền, được cấp đất và tiền để xây dựng, trùng tu trong các ngày
lễ Thiên Chúa giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm cũng tạo điều kiện to lớn cho việc tổ chức
hành lễ, nhất là lễ giáng sinh với quy mô rất lớn.

-

Trong khi đó, đối với Phật giáo chính quyền Ngô Đình Diệm tìm cách gây trở ngại cho việc
tổ chức hành lễ. Nổi bật nhất trong chính sách này là chính quyền Ngô Đình Diệm hủy bỏ
ngày nghỉ lễ Phật đản, một ngày lễ trọng đại của Phật giáo. Một trong những sự việc thể hiện
sự kỳ thị này đó là Công điện 9195 cấm treo cờ Phật khiến bùng lên phong trào Phật giáo
năm 1963

-

Đối với giáo dục thì giáo hội Thiên Chúa giáo chi phối các trường về mặt tinh thần, cốt để
đảm bảo thực hiện nội dung giáo dục duy linh, nhân vị, mà thực tế là nội dung thần học theo
lối kinh viện trung cổ. Hầu hết các giáo sư triết học đều là linh mục hoặc tín đồ Thiên Chúa
giáo. Phần lớn các học bổng đi học nước ngoài đều rơi vào tay các linh mục hoặc sinh viên
Thiên Chúa giáo. Cách tuyển chọn thầy giáo cũng như cách đánh giá kết quả của học sinh
đều xây dựng tiêu chí trên cơ sở ý thức hệ Thiên Chúa giáo.

-

Nắm trong tay sự chi phối nền giáo dục “Đệ nhất Cộng hòa”, nên trong nhà trường, đặc biệt
là trường tiểu học, có lúc người dạy đã tìm mọi cách bôi đen, nhục mạ Phật giáo, tẩy não
ngay từ đầu trong thế hệ trẻ về một tôn giáo đã có chiều sâu trong lòng dân tộc, nhằm dọn
đường đưa những thanh thiếu niên đi đến cải đạo trong một thời gian không xa nữa.

-


Ngoài ra, các tổ chức Thiên Chúa giáo tha hồ xuất bản kinh sách, chương trình Thiên Chúa
giáo có trên đài phát thanh… trong lúc đó Phật giáo bị o ép đủ điều, kinh sách Phật giáo bị
kiểm duyệt gắt gao, đến nổi Phật giáo không dám ra một tờ báo có tính quần chúng dưới gần
10 năm chế độ Ngô Đình Diệm.

-

Chính sách tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư
tưởng, kinh tế - xã hội và văn hóa – giáo dục cho thấy chính quyền Ngô Đình Diệm có chính
sách ưu đãi đối với Thiên Chúa giáo rất đậm nét, tạo mọi điều kiện, cả vật chất lẫn tinh thần
cho giáo hội Thiên Chúa giáo hoạt động và phát triển.

Cương lĩnh phong trào PG năm 1963.
A. Bối cảnh.
- Tháng 6/1954, ngay khi Diệm vừa được Mỹ đưa về làm thủ tướng bù nhìn, giới lãnh đạo

Phật giáo miền Nam đã tỏ ra e ngại.
- Từ ngày đầu Ngô Đình Diệm lập chính quyền bởi sự hậu thuẫn của Mỹ, các cuộc đấu tranh
của tín đồ Phật giáo đã diễn ra âm ỉ và liên tục, tuy nhiên, quy mô đấu tranh nhỏ lẻ, mức
độ cầm chừng.
- Công điện số 9195 của cính phủ Ngô Đình Diệm yêu cầu các địa phương bắt buộc các tôn
giáo thực hiện nghiêm túc quy định của chính phủ về việc treo cờ tôn giáo ( không được
treo cờ ngoài cơ sở tôn giáo – NND ) được chuyển đến chùa Từ Đàm vào lúc 20 giờ 30
phút ngày 6/5/1963.
- Ngay từ khi phong trào bắt đầu (7/5/1963), Phật giáo Việt Nam đã đặt vấn đề công bằng xã
hội một cách cụ thể:


+ Về mục tiêu: “ Bình đẳng và tự do tín ngưỡng Phật giáo ( trong phạm vi nhân quyền )

+ Về đối tượng: “ Chỉ phản đối chính sách bất công, không coi chính phủ, nhất là khồn coi Thiên
Chúa giáo là kẻ đối lập.
- Ngày hôm sau (Phật Đản), từ chùa Diệu Đế, một cuộc diễn hành lớn của quần chúng Phật
giáo Phật tử Huế được tổ chức với những khẩu hiệu “ Tự do tín ngưỡng”, “ Phật giáo bất
diệt”.
- Cho nên ngày 9/5/1963, Phật tử Huế tếp tục biểu tình tố cáo chính quyền tàn sát tín đồ.
II. Cương lĩnh đấu tranh của phong trào Phật giáo năm 1963.
Trước biến cố ở Đài phát thanh Huế, ngày 10/5/1963, trong cuộc mittinh tại chùa Từ Đàm
( Huế ), giới lãnh đạo Phật giáo đã công bố “ Bản tuyên ngôn của Tăng, tín đồ Phật giáo Việt
Nam”, Bản tuyên ngôn này được xem như là Cương lĩnh đấu tranh của phong trào Phật giáo năm
1963.
1)Mục tiêu.
- Bình đẳng và tự do cho tín ngưỡng Phật giáo (trong phạm vi nhân quyền). Được đề ra vào
tối 7/5/1963 mục tiêu này chỉ giới hạn trên phạm vi nhân quyền vì nó chỉ nhằm đòi lại
những quyền lợi trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà cao hơn hết là tín
ngưỡng chứ không vì mục đích chính trị.
- Ngày 10/5/1963 “Bản tuyên ngôn của Tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam” gồm năm nguyện
vọng với nội dụng chủ yếu là đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi công bằng xã hội.
1. “1. Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn Công điện triệt giáo
kì của Phật giáo.
2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng quy chế đặc biệt như các hội truyền giáo
Thiên Chúa đã được ghi trong Dụ số 10.
3. Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.
4. Yêu cầu cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết oan vô tội
và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức”.
- Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm đấu tranh của Tăng, tín đồ Phật giáo miền Nam: “Những
điểm trên đây là nguyện vọng tối thiểu và thiết tha nhất của toàn thể Tăng, tín đồ Phật
giáo trong cả nước. Chúng tôi sẵn sàng hi sinh cho đến lúc nào nguyện vọng hợp lí trên
đây được thực hiện”

- Tuy nhiên, với bản chất giáo phiệt, chính quyền Ngô Đình Diệm xem thường trước những
yêu sách về công bằng xã hội mà Phật giáo đòi hỏi và tin rằng mọi phong trào sẽ bị dập
tắt.
- Chính sách bạo trị của chính quyền Ngô Đình Diệm khiến cho phong trào Phật giáo từ Huế
nhanh chóng lan rộng ra khắp miền Nam. Ngày 9/5/1963, tại Sài Gòn, dưới hình thức một
“lá tâm thư”, gửi toàn thể Tăng, tín đồ, giới lãnh đạo Phật giáo đã vạch trần chính sách
bất công của chính quyền Ngô Đình Diệm trong suốt 9 năm thống trị, đồng thời kêu gọi
“toàn thể Phật giáo đồ, không phân biệt xuất gia hay tại gia, người Việt hay ngoại kiều, hễ
ai còn nhiệt huyết vì đạo, chúng ta hãy tự bình tĩnh, luôn luôn muôn người như một, sẵn
sàng bảo vệ đạo, chết vì đạo”
- Ngày 23/5/1963, để giải thích rõ ràng, cụ thể năm nguyện vọng, giới lãnh đạo Phật giáo
Việt Nam cho công bố bản phụ đính của “Bản tuyên ngôn ngày 10/5/1963”, trong đó
khẳng định lại một lần nữa mục tiêu cuộc vận động: “tranh đấu cho lí tưởng công bình,
chứ không phải đấu tranh với tư cách một tôn giáo chống một tôn giáo”, và “để cho
những nguyện vọng tối thiểu và hoàn toàn thuộc phạm vi tín ngưỡng ghi trong bản tuyên
ngôn và bản phụ đính của chúng tôi được thấu hiểu và chấp nhận”. Bằng phương pháp bất
bạo động, Phật giáo tổ chức cuộc tuyệt thực 48 giờ đồng hồ trên khắp miền Nam bắt
đầu từ 14 giờ 30 ngày 30/5/1963.
2) Về đối tượng đấu tranh.
1. Đối tượng đấu tranh của phong trào Phật giáo chính là chế độ “độc tài, gia đình
trị, giáo trị” của Ngô Đình Diệm. Phong trào Phật giáo không coi Thiên Chúa


giáo là kẻ đối lập vì tôn giáo này hoàn toàn đối lập nhau nhưng Thiên chúa giáo
không làm gì gây trở ngại cho Phật giáo cả. Tuy nhiên, trong quan điểm của giới
lãnh đạo Phật giáo, khi chống chính quyền Ngô Đình Diệm, Phật giáo cũng đồng
thời chống cả Mỹ.
2. Chiến thắng Ấp Bắc đầu năm 1963 chứng tỏ “Mỹ không thể thắng ta được trong
chiến tranh đặc biệt”. Với những thắng lợ bước đầu của cách mạng miền Nam,
phong trào Phật giáo cũng khởi sắc nhanh chóng và công khai, lan rộng, góp phần

đẩy chế độ Diệm – Nhu đi nhanh đến hồi cáo chung.
3) Biện pháp đấu tranh.
- Trong phong trào xuất hiện các hình thức đấu tranh và biện pháp đấu tranh đa dạng và
phong phú, như : Tuyên ngôn, kiến nghị, nghiêm lệnh, cầu siêu, tuyệt thực, biểu tình, rải
truyền đơn, thương lượng….., cao hơn hết là tự thiêu, điển hình nhất là hành động tự
thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức vào ngày 11/6/1963 tại ngã tư đường Phan
Đình Phùng và Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn ), để phản đối chế độ bạo quyền của Ngô Đìn
Diệm.
- Biện pháp đấu tranh chủ yếu là bất bạo động.
1. Bất bạo động (biểu tình, mít tinh, tự thiêu, biểu tình ôn hòa, tuyệt thực, nêu năm nguyện
-

vọng…). Thể hiện:
Trong lời tuyên bố của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết: “Chúng tôi tiến, các đạo hữu hãy tiến
theo chúng tôi để bảo vệ Chánh pháp. Chúng tôi lùi, các đạo hữu hãy khai trừ chúng tôi đi.
Nếu chúng tôi bị giết, các đạo hữu hãy cầu nguyện cho những người đã giết chúng tôi”.
4) Về động lực của phong trào.
- Tuy phong trào chỉ mang màu sắc tôn giáo, nhưng sự thật, đây là sự vùng lên của cả một
dân tộc.
- Trong gần 6 tháng bùng nổ, phong trào Phật giáo miền Nam đã thực sự tạo được dư luận
tích cực, nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân cả nước. Chính sự
hưởng ứng đông đảo của các thành phần tham gia cho thấy, đây là sự kết tinh cao độ của
đạo pháp và dân tộc, của truyền thống yêu nước, yêu dân tộc của tăng ni, Phật tử bao đời.
5) Tính chất.
- Thuần túy tín ngưỡng.
- Thông qua mục tiêu của phong trào đấu tranh là đấu tranh là đòi lại quyền bình đẳng và tự
do tín ngưỡng, nó đã cho chúng ta nhận thấy trong cuộc đấu tranh này thì đó chỉ là đấu
tranh tôn giáo đơn thuần không nhằm mục tiêu về chính trị cũng như những mục tiêu
khác.
*Tại sao phong trào PG năm 1963 ghi đậm nét.

Báo cáo về tôn giáo của ĐH MT GP MN VN lần thứ hai viết: “PT chung của các tôn giáo chống
chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm và đòi tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, PT đấu tranh của đồng bào
PG vừa qua đã ghi đậm nét trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc nhân dân MN”. Sự đậm nét
trong lịch sử đấu tranh gpdt của nhân dân MN được thể hiện ở các mặt sau:
- PT CM tinh thần đấu tranh nổi bật của tăng ni, phật tử MN và tinh thần đấu tranh dân tộc.
- PT góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền NDD, tạo điều kiện cho
CM MN phát triển.

*Câu 9 lấy nơi chỗ câu 8: Cương lĩnh phong trào Phật giáo miền Nam VN 1963
Kế hoạch nước lũ.
1) Vì sao lại gọi là kế hoạch “nước lũ”:


Kế hoạch “nước lũ” hay còn có tên là “Kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp bạo động của Tổng
hội Phật giáo” về bản chất là 1 cuộc hành quân an ninh của Lực lượng đặc biệt quân lực
VNCH nhằm thực thi sắc lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ VNCH do Tổng thống Ngô
Đình Diệm ban bố ngày 20/8.
- Tên gọi “kế hoạch nước lũ” do cố vấn Ngô Đình Nhu đặt ra nhằm ám chỉ 1 kế hoạch diễn ra
với 1 tốc độ nhanh chóng (như 1 dòng nước lũ) trong thời gian ngắn từ ngày 21/8 đến ngày
30/8 nhằm giải quyết dứt điểm “vụ Phật giáo”.
2)Tình hình miền Nam Việt Nam trước “Kế hoạch nước lũ”.
- Ba tháng rưỡi trôi qua kể từ khi phong trào Phật giáo miền Nam bùng nổ, bắt đầu từ cái chết
của 8 Phật tử vào đêm 8/5/1963 tại đài phát thanh Huế, cùng với việc hòa thượng Thích
Quảng Đức tự thêu tại Sài Gòn vào ngày 11/6/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng
đủ mọi biện pháp nhằm đè bẹp phong trào Phật giáo miền Nam nhưng cuộc đấu tranh chính
nghĩa của Phật giáo ngày càng phát triển sâu rộng. .
- Lúc bấy giờ, chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm , 1 chế độ với đặc điểm “là hối mại quyền
thế, gia đình trị, tham nhũng, khinh miệt thuộc hạ và tàn nhẫn với những đòi hỏi của nhân
dân” đang ở vào thế bị cô lập hơn bao giờ hết. Để cứu nguy cho chế độ, chính quyền Ngô
Đình Diệm đã cho thực hiện 1 kế hoạch gọi là “kế hoạch nước lũ”.

3)Mục tiêu của “kế hoạch nước lũ”.
- “Kế hoạch nước lũ” nhằm:
- Thanh toán các phần tử phản loạn và tiêu diệt các mầm mống khuynh đảo Chính phủ VNCH
cụ thể là “Cương quyết thanh trừng các phần tử phản bội và quá khích trong các giới Tăng
Ni, công chức, giáo sư, sinh viên, cũng như trong các đoàn thể nhân dân.
- Thống nhất ý chí toàn dân toàn quân để dốc toàn lực vào cuộc chiến đấu chống Cộng sản và
xây dựng xứ sở, chỉnh hướng cho các tư tưởng thiên lệch.
- Chứng minh cho dư luận quốc nội và quốc ngoại thiện chí của Chính phủ VNCH”
- Bên cạnh những mục tiêu trên, “kế hoạch nước lũ” của chính quyền Ngô Đình Diệm ngoài
việc “bắt giữ giới lãnh đạo Phật giáo, làm cho quần chúng Phật tử như “rắn mất đầu”, từ đó
phong trào đi đến chỗ tan rã, Phật giáo sẽ không có điều kiện phô trương lực lượng khi
C.Lodge đến Sài Gòn nhậm chức đại sứ thay cho Nolting, không những thế còn ngăn chặn
âm mưu đảo chánh của các tập đoàn thân Mỹ khác không ăn cánh với Diệm, chính quyền
Ngô Đình Diệm muốn tỏ cho chủ Mỹ thấy rằng nó có lực lượng có thể làm chủ trong mọi
tình hình...”
4)Biện pháp thực hiện và các lực lượng tham gia vào “kế hoạch nước lũ”.
- Biện pháp thực hiện “kế hoạch nước lũ” .
- Để thực hiện “kế hoạch nước lũ”, chính quyền VNCH sẽ:
- “Nghiêm giam những tên phản loạn quá khích và xúc tiến lập hồ sơ hợp lệ để xin truy tố ra
trước Tòa án Quân sự với tội danh “xâm phạm an ninh công cộng và chống lại Quân đội và
nhân dân công lực”.
- Đồng thời lưới tình báo sẽ được tăng cường, các tổ an ninh nòng cốt sẽ được tổ chức tại các
Ty, Phòng, Sở và đoàn ngũ để truy nã những phần tử phản bội và thanh lộc quyết liệt những
kẻ hoạt đầu. Nhằm quyền lợi tối đại, tối thượng của Quốc gia trong giai đoạn hiện tại”.
Các lực lượng quân lực VNCH tham gia vào “kế hoạch nước lũ”.
- Lực lượng tham gia “kế hoạch nước lũ” bao gồm thành phần các đơn vị như sau:
+“2 Đại đội thuộc Liên Đoàn 31 của Lực lượng Đặc biệt.
- + 1 Đại đội 16 Bảo An.
- + Lực lượng Cảnh sát của Tổng nha Cảnh sát quốc gia”.
5)Diễn biến “kế hoạch nước lũ”.

o Hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm.
- Đúng như kế hoạch đã vạch ra, đêm 20 rạng ngày 21/8/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm
cho quân tấn công đồng loạt hầu hết các ngôi chùa được dùng làm cơ sở đấu tranh trên khắp
miền Nam, cụ thể là:
-


+ “Ngày 20/8/1963, chính phủ huy động cảnh sát, quân đội và lực lượng đặc biệt đồng loạt
tấn công các chùa trung tâm tại Sài Gòn và Huế là các chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Từ Đàm,
Diệu Đế, Linh Quang cùng các chùa lớn làm căn cứ cho cuộc tranh đấu của Phật giáo trên cả
nước, bắn nát mặt tượng Phật, bắt giam 1.400 nhà sư cùng các lãnh đạo Tổng hội Phật giáo
Việt Nam và Uỷ ban Liên phái, dùng dây thép gai vây quanh các chùa không cho Phật tử ra
vào
- + “Ở chùa Xá Lợi ngày 21/8/1963, hai vị lãnh đạo Tổng Hội Phật giáo Việt Nam là Hòa
thượng Thích Tịnh Khiết và Thượng tọa Thích Tâm Châu bị bắt”.
- + Ngay sau khi bị bắt, lãnh đạo Tổng Hội Phật giáo Việt Nam thiền sư Tịnh Khiết được thả
về chùa Ấn Quang. Tất cả các những người phụ tá cho ông vẫn bị giam giữ.
- Tất cả thành viên Ban Chấp Hành Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn và Huế bị bắt tại nhà
riêng. Nhiều trí thức, sinh viên ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo cũng bị bắt.
- + Sáng 21/8/1963 lệnh thiết quân luật được ban bố ở các thành phố lớn của miền Nam Việt
Nam. Xe phóng thanh của chính quyền loan tin "chính phủ đã diệt xong bọn phản động".
Chính quyền rải truyền đơn và hiệu triệu khắp nơi.
- Sau khi trấn áp Phật giáo, chính quyền hỗ trợ thành lập Ủy ban Liên Hiệp Phật giáo Thuần
Túy do thiền sư Nhật Minh đứng đầu với mục đích tạo ra hình ảnh Phật giáo không chống đối
chính quyền.
- Sự phản ứng quyết liệt của Tăng ni, Phật tử miền Nam đối với “kế hoạch nước lũ”.
- Tăng Ni, Phật tử đã chống trả mãnh liệt, cho đến lúc kiệt sức thì bị bắt tống lên xe chở vào
trại giam. Hầu hết các nhà sư trong giới lãnh đạo PG đã bị bắt trong cuộc tấn công này.
- Ở chùa Ấn Quang, thì cuộc tấn công của lực lượng Diệm cũng vấp phải sự kháng cự mãnh
liệt của Tăng tín đồ Phật tử: “Việc khám xét chùa Ấn Quang cũng gặp trở ngại vì chùa đã tổ

chức phòng thủ và báo động. Khi lực lượng an ninh tiến vào chùa thì gặp một hàng rào kẽm
gai có truyền điện nên một số nhân viên ta bị điện giật và bị thương. Một số Tăng Ni canh
gác trong chùa dùng gậy định chống trả lúc đầu, nhưng sau đó lại rút lui lên lầu. Các sư liền
sử dụng máy phóng thanh kêu gọi đồng bào quanh vùng thức dậy để chứng kiến quân đội tấn
công chùa. Trong chùa, trống đánh ầm ĩ để báo động và sử dụng điện thoại để liên lạc với các
chùa khác.”
o Sự phản ứng của các tầng lớp nhân dân đối với “kế hoạch nước lũ”.
- Sau cuộc tấn công vào chùa chiền, phong trào Đô thị miền Nam nói chung và phong trào Phật
giáo nói riêng không những không bị đè bẹp mà còn phát triển sâu rộng trong hầu hết các
tầng lớp nhân dân.
-

-

Ngày 21/8/1963, sinh viên Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ bãi khóa.

-

Ngày 22/8/1963 khoa trưởng Y Khoa Sài Gòn bác sĩ Phạm Biểu Tâm từ chức rồi bị bắt. Ngày
hôm sau, sinh viên Y khoa vận động sinh viên các trường khác liên kết thành lập Ủy ban Chỉ
đạo Sinh viên Liên khoa.

-

Sau ngày 24/8/1963, các phân khoa đại học và trường trung học lớn tại Sài Gòn đều bị cảnh
sát phong toả. Sinh viên và học sinh bãi khóa và vận động các giáo sư từ chức.

-

Ngày 25/8/1963, 300 sinh viên học sinh tổ chức biểu tình tại Công trường Diên Hồng phía

trước chợ Bến Thành trong lúc chính quyền đang ban bố lệnh giới nghiêm. Cảnh sát bắn vào
đoàn biểu tình giết chết nữ sinh Quách Thị Trang. Khoảng 200 người bị bắt giữ. Xác Quách
Thị Trang bị cảnh sát mang đi. - Lên án hành động trên đây của chính quyền Ngô Đình Diệm,
trong Lời tuyên bố ngày 18-8-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên án tội ác của chính quyền
NDD. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam.

o

Phản ứng của dư luận quốc tế về “kế hoạch nước lũ”.


-

Một số nhà báo Mỹ bị lực lượng Diệm đánh khi họ đang chứng kiến vụ tự thiêu này. Dư luận
Mỹ sôi nổi phản đối Diệm.

-

Liên hiệp quốc trong phiên họp ngày 7-10-1963 tại New York của Liên Hợp Quốc khi bàn
đến vấn đề PG Việt Nam. Đại biểu Sri Lanka tố cáo chính quyền NĐD đàn áp Phật giáo và vi
phạm nhân quyền, và đề nghị cử một phái đoàn sang miền Nam điều tra “vụ PG”.

-

Ngày 22/8/1963, thống chế Sarit Thanarat, thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập một hội nghị
sơ bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật giáo Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc.
6)Hậu quả của “kế hoạch nước lũ”.

-


Tới lúc này, tất cả các lực lượng bất mãn với chính phủ Ngô Đình Diệm đã đoàn kết thành
một khối coi chính phủ Ngô Đình Diệm là độc tài, gia đình trị, phân biệt tôn giáo, không thể
chấp nhận được cho miền Nam Việt Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã mất hết đồng minh
trong nước và quốc tế. Dư luận thế giới và cả Hoa Kỳ đều phản đối chính phủ Việt Nam
Cộng hòa đã đàn áp Phật giáo.

-

Ngày 20 tháng 8 năm 1963 chính phủ dùng vũ lực tấn công Phật giáo thì ngay hôm sau Hoa
Kỳ cử đại sứ mới là Cabot Lodge đến Sài Gòn với chính sách hoàn toàn mới đối với chính
phủ Ngô Đình Diệm. Các lãnh đạo Quân lực Việt Nam Cộng hoà liên hệ với các lực lượng
chính trị bất mãn và các giới chính trị và tình báo Hoa Kỳ để tham khảo một giải pháp loại bỏ
chế độ độc tài của anh em Diệm – Nhu – Cẩn.

-

Ngày 1.11.1963, Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã làm đảo chính thành công lật đổ chính phủ
Tổng thống Ngô Đình Diệm, giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu,
sau đó mở phiên toà xử tử cố vấn Trung phần Ngô Đình Cẩn. Cuộc đảo chính này chấm dứt
nền Đệ nhất Cộng hoà của miền Nam Việt Nam.

Sự nhập cuộc của SV, HS VN trong PTPG 1963.
- Huế là nơi đầu tiên SV nhập cuộc dưới dạng một tín đồ PG. Huế là trung tâm chính trị triều

đình thứ hai của VNCH. Ngày 17/8/1963, SV nhập cuộc, với tư cách là 1 thực thể đoàn
thể của SV, vì chính quyền NDD cách chức Cao Văn Luận.
- Tình hình trên khiến giảng viên viện đại học Huế nói chung, trường ĐH SP nói riêng khó

thể giữ thái độ thờ ơ, im lặng. Ngày 17/8/1963, viên chức trong trường ĐH SP Huế và

hầu hết giảng viên các trường Đh thuộc Viện ĐH Huế từ chức, nghỉ việc.
- 14h ngày 17/8/1963, đông đảo SV Viện ĐH Huế, họp tại giảng đường C, ra kiến nghị yêu

cầu chính quyền NDD tìm mọi phương sách để Quý vị khoa trưởng và giảng viên đã từ
chức và đảm nhiệm lại chức vụ của mình; thu hồi lệnh bãi chức Cao văn Luận, quyết định
bãi khóa cho đến khi những nguyện vọng đó được thỏa mãn.
- SV ĐH Huế cùng với SV các trường thuộc Viện ĐH Huế tổ chức biểu tình, kéo đến tòa Đại

biểu Chính phủ. Sau đó SV kéo về khuôn viên trường ĐH SP Huế để tiếp tục cuộc đấu
tranh
- Tối ngày 17/8, qua đài phát thanh huế. Trình Giảo Kim do NDD thao túng, phát đi thông

cáo phủ nhận cuộc biểu tình và quyết định tuyên bố bãi khóa vào chiều 17/8 của SV Viện
ĐHH. Phản đối điều đó, sáng 18/8, tại giảng đường C, một cuộc hội thảo có gần 500 SV


tham dự, tuyên bố tẩy chay ban chấp hành cũ. BCH lâm thời gồm có 7 SV và cố vấn đoàn
gồm 6 giảng viên.
- Cùng với huế, PT đấu tranh chống NDD ngày càng lên cao ở các đô thị miền Nam. Để cứu

nguy cho tình thế này, NDD cho thưc hiện kế hoạch nước lũ. SV và tăng ni, Phật tử chống
trả quyết liệt.
- Thực tế, trong cuộc đụng đầu quyết liệt giữa nhân dân các đô thị miền Nam với NDD trong

năm 1963, giảng viên và SV trường ĐHSP Huế ngay từ đầu đã nhập cuộc, tích cực tham
gia đấu tranh, góp phần nhỏ bé của mình làm “ lung lay tận gốc chế độ bù nhìn… đế
quốc Mỹ buộc phải thay đổi tay sai, phế bỏ NDD hòng để cải thiện tình hình chính trị và
quân sự để cứu vãn thất bại”.
- Những ngày sau 21/8, nhiều bộ trưởng, khoa trưởng, giáo sư đại học từ chức ở SG. Ngày


22/8, một nhóm giáo chức SG rải truyền đơn lên án NDD tấn công chùa và kêu gọi tri
thức vùng dậy đấu tranh.
- Về phía SV, 22/8 Ủy ban chỉ đạo SV Liên khoa được thành lập. 24/8 đổi lại là Ủy ban chỉ

đạo SV và HS.
- Ủy ban này “tuyên bố bãi khóa, nghỉ học để đấu tranh cho tự do tín ngưỡng”. Hầu hết các

trường ĐH, CĐ ở SG đều bãi khóa.
- Sáng 25/8, thanh niên, SV, HS SG từ nhiều hướng khác nhau đổ về trước chợ Bến Thành tổ

chức biểu tình lên án NDD. Cảnh sát Diệm bắn vào đoàn biểu tình, nữ sinh Quách Thị
Trang hy sinh
- Tại Huế, các trường ĐH đã hoàn toàn đóng cửa sau quyết định bãi khóa của SV và sự từ

chức của toàn thể giáo sư. Sau đêm tấn công chùa, sân vận động Tự Do của thành phố đã
biến thành một trại giam khổng lồ để giam giữ SV và HS.
- Ngày 28/8, Chủ tịch HCM ra lời Tuyên bố nghiêm khắc lên án chính quyền NDD đàn áp dã

man Tăng ni, Phật tử và khủng bố, bắt bớ giáo sư, SV, HS miền Nam.
- Ngày 1/9, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, gửi công hàm cho các vị nguyên thủ cho các nước

châu Á và châu Phi, vạch rõ chính sách đàn áp phật giáo của NDD.
- PT bãi khóa, biểu tình trong SV, HS vẫn tiếp tục nổ ra. Tại các tỉnh, HS các trường công lập

và tư thục cũng liên tục bãi khóa, biểu tình chống chế độ. Có thể nói rằng những ngày
cuối tháng 8 và đầu tháng 9, với sự mở rộng PT ra khắp mọi giới đồng bào, với sự xuất
hiện khẩu hiệu không chỉ dừng lại ở chỗ chống Diệm mà cả chống Mỹ, phong trào PG
MN VN đã đạt đến đỉnh cao của nó.
- Cũng trong thời gian này, nhiều đoàn thể được gấp rút thành lập để đối phó với tình hình


như Đoàn thanh niên cứu nguy PG, Đoàn Thanh niên Quốc tuệ, Việt Nam thanh niên ái
quốc đoàn, Thanh niên Tăng đoàn Việt Nam.

Ý nghĩa lịch sử của phong trào phật giáo
-

Trước tiên muốn hiểu ý nghĩa lịch sử của phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 thì ta
phải hiểu như thế nào là ý nghĩa lịch sử. Theo giáo sư Phan Ngọc Liên định nghĩa : ý nghĩa
lịch sử có nghĩa là điều cần thiết, có tác dụng về lịch sử rút ra từ một sự kiện, ví dụ như ý
nghĩa lịch sử của sự thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương


-

Diễn ra trong một thời gian chưa đầy sáu tháng, nhưng phong trào Phật giáo miền Nam Việt
Nam năm 1963 đã ghi một dấu ấn sâu sắc trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân ta.

-

(3 ý nghĩa)

-

Đầu tiên, .Phong trào chứng minh tinh thần đấu tranh bất khuất của Tăng Ni và Phật
tử Việt Nam trong tinh thần đấu tranh dân tộc

-

Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu Tây lịch. Cốt tủy của Phật giáo là Từ bi

Hỷ xả, Cứu khổ cứu nạn.

-

Trải qua quá trình hình thành và phát triển của mình Phật giáo đã chứng tỏ tinh thần đấu tranh
bất khuất của mình trong phong trào giải phóng dân tộc.

-

Ví dụ điển hình nhất là trong bối cảnh đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị nô lệ dưới ách Bắc
thuộc, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận một cách tự nguyện và đã thâm nhập
rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, từ vua quan cho đến thứ dân. Phật giáo đã đã góp phần
to lớn trong phong trào đấu tranh giành độc lập suốt 1000 năm Bắc thuộc.

-

Chính sự đan xen của những nguồn lực này cho phép Tăng Ni, Phật tử cùng mọi giới đồng
bào miền Nam tham gia trong phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 phát huy
cao nhất tinh thần yêu nước, yêu đạo vốn là truyền thống lâu đời và quý báu của Phật giáo
Việt Nam, để đối đầu với “chính sách bất công gian ác” của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Điều đó giải thích tại sao trước sự đàn áp hết sức khốc liệt của kẻ thù, hàng hàng, lớp lớp
Tăng Ni, Phật tử và đồng bào miền Nam vẫn kiên trì giữ vẫn ý chí đấu tranh.

-

Có biết bao hình ảnh hào hùng trong cuộc đấu tranh một mất một như là hình ảnh quần chúng
nhân dân tại Đài phát thanh Huế; hình ảnh của những thanh thiếu niên, nhi đồng Phật tử đưa
cao những khẩu hiệu trên đường phố Huế “Phản đối bất công gian ác!”, “Hãy giết chúng tôi
đi”; hình ảnh 400 Tăng Ni biểu tình ngồi trước Quốc hội Diệm trước giờ tuyệt thực, hình ảnh
hàng hàng, lớp lớp sinh viên, học sinh Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh khác bất chấp lệnh giới

nghiêm, xuống đường biểu tình phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm tấn công chùa chiền và
giương cao những khẩu hiệu bài Mỹ;

-

Cao hơn hết là hình ảnh của những nhà sư ngồi bất động trong ngọn lửa cháy phừng phực,
với một tâm nguyện cao đẹp là “chúng sinh an lạc”, nổi bật là hình ảnh của nhà sư Thích
Quảng Đức. Tất cả chính là sự kết tinh cao độ truyền thống yêu nước, yêu dân tộc của nhân
dân ta

-

Dù trong hoàn cảnh lịch sử nào, Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ tự tách mình ra khỏi khối
cộng đồng dân tộc. Trong lầm than nô lệ, Phật giáo đã cùng với dân tộc vùng lên đánh đổ ách
thống trị bạo tàn. Trong sự hưng thịnh của đất nước Việt Nam có sự góp sức của Phật giáo.

-

Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 không chỉ nhằm chống chính sách đàn
áp tôn giáo mà còn mang ý nghĩa đấu tranh chống chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ.

-

Thứ hai, Phong trào góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ Ngô Đình
Diệm, tạo điều kiện cho cách mạng miền Nam phát triển

-

Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 là một sự kiện lịch sử nổi bật trong
phong trào đô thị miền Nam thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( 1954-1975).


-

Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam từ tháng 7-1954.
Nhưng chín năm sau, Diệm bị gạt khỏi chính quyền không thương tiếc bằng cuộc đảo chính
quân sự ngày 1-11-1963. Tại sao lại như vậy ? Câu trả lời có thể tìm ngay trong chính sách
dùng tay sai của Mỹ và bản chất của chính quyền đó.


-

Nhưng nguyên nhân quan trọng hơn cả là do phong trào đấu tranh cách mạng và yêu nước
của nhân dân miền Nam ngày càng phát triển và liên tục giành thắng lợi, trong đó có phong
trào đô thị, trực tiếp là Phật giáo năm 1963.

-

Trước hết cần hiểu rõ thái độ của Phật giáo miền Nam đối với chế độ Ngô Đình Diệm. Năm
1954, khi Ngô Đình Diệm mới nắm quyền ở miền Nam, Phật giáo đã tỏ thái độ rõ ràng và
cho rằng: “ Cuộc sống sẽ ngặt nghèo hơn hơn dưới chế độ Diệm...”.

-

Tiếp theo, khi chính quyền Ngô Đình Diệm lấy chủ nghĩa nhân vị thống trị nhân dân miền
Nam, Phật giáo đã chỉ ra rằng: “ Chủ nghĩa nhân vị là một thủ đoạn bịp bợm nhằm làm cho
Thiên Chúa giáo trở nên hấp dẫn…”.

-

Năm 1963, Phật giáo dấy lên phong trào đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi quyền bình

đẳng tôn giáo

-

Cùng với phong trào đấu tranh chính trị ngày càng lên cao ở các đô thị, đặc biệt là phong trào
Phật giáo, quân đội Diệm liên tiếp thất bại nặng nề ở nông thôn và đồng bằng trước các đòn
tấn công của quân giải phóng, mở đầu là chiến thắng Ấp Bắc ( 2-1-1963 ).

-

Sau Ấp Bắc, dần dần kế hoạch của Mỹ trong chiến lược “ Chiến tranh đặc biệt ” đứng trước
nguy cơ pha sản. Mâu thuẫn Mỹ-Diệm càng trở nên căng thẳng và Mỹ đã bí mật lựa chọn
phương án “ thay ngựa giữa dòng ”.

-

Thực ra, từ sau Ấp Bắc, Nhà Trắng đã tính đến phương án thay Diệm, tuy nhiên vẫn còn thái
độ chờ xem, chưa dứt khoát. Từ khi phong trào Phật giáo nổ ra và trước thất bại liên tiếp của
quân đội Diệm, chính quyền Kennedy thấy rằng, trên thực tế chính quyền Diệm không những
không có sức thu phục nông dân mà ngay ở thành phố chính quyền cũng mất hết chỗ dựa xã
hội. Một chính quyền như thế thì không thể nào đáp ứng được chính sách của Mỹ đối với
miền Nam Việt Nam

-

Chính đây là động lực chủ yếu khiến Nhà Trắng “ bật đèn xanh ” cho nhóm tướng lĩnh Sài
Gòn, do Dương Văn Minh đứng đầu, làm cuộc đảo chính lật đổ Diệm-Nhu ( 1-11-1963 ) đưa
đến sự cáo chung chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và nền “ Đệ nhất cộng hòa ’’do
Mỹ dày công nuôi dưỡng. Bàn về âm mưu của Mỹ trong việc gạt bỏ anh em Ngô Đình Diệm,


-

Rõ ràng, chính sự lớn mạnh của phong trào cách mạng miền Nam là yếu tố quyết định đưa
đến sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, phải khách quan mà thừa nhận rằng,
phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 là một bộ phận của phong trào đô thị, phong trào
cách mạng của nhân dân miền Nam chống Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm.

-

Nói cách khác, phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 là yếu tố tích cực góp
phần quan trọng vào sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm. Ý nghĩa cao nhất của phong trào
chính là chỗ đó

-

Thứ ba, Sự thống nhất các hệ phái Phật giáo miền Nam Việt Nam

-

Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 đã mở ra một bước ngoặt mới đối với sự
phát triển của Phật giáo Việt Nam, mà sự kiện quan trọng nhất là sự thống nhất của các hệ
phái Phật giáo miền Nam trong một tổ chức duy nhất: Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất.

-

Kể từ thập niên 30, cùng với sự chuyển mình của dân tộc, Phật giáo Việt Nam cũng đã có
những bước phát triển mới. Năm 1931, tại Sài Gòn, hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời.
Tiếp theo, hội An Nam Phật học thành lập ở Huế (1932), rồi hội Phật giáo Bắc Kỳ cũng được
thành lập ở Hà Nội năm 1934.

Năm 1951, một Đại hội Phật giáo toàn quốc được tổ chức tại chùa Từ Đàm (Huế). Đại hội
quyết định thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam, bầu ra Ban quản trị và suy tôn Hoà

-


thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ. Như thế, từ đầu những năm 50, bắt đầu xuất hiện một
hình thức giáo quyền Phật giáo Việt Nam, một tổ chức chung cho Phật giáo Việt Nam ở cả ba
kỳ.Tổ chức này tuy còn lỏng lẻo, nhưng đây là một hiện tượng mới trọng lịch sử Phật giáo
Việt Nam.
-

Sau năm 1954, ở miền Nam, do chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm đi ngược lại
khát vọng của nhân dân miền Nam là hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; mặt khác, trong
chính sách cai trị, chính quyền Ngô Đình Diệm cố làm cho Thiên Chúa giáo phát triển thành
quốc đạo, nhằm đẩy lùi Phật giáo xuống hàng thứ yếu, làm cho Phật giáo dần dần đi đến chỗ
tàn lụi và bị tiêu diệt

-

Tình hình đó đòi hỏi các hệ phái Phật giáo phải tìm cách mở rộng thế lực, phát triển tổ chức,
chuẩn bị đội ngũ để có thể đương đầu với chính quyền Ngô Đình Diệm, Một tình hình thực tế
là dù cho anh em Ngô Đình Diệm thi hành một chính sách kì thị Phật giáo hết sức khắc
nghiệt, nhưng Phật giáo miền Nam thời kỳ này vẫn phát triển cả về bề rộng và chiều sâu.

-

Đến khi phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 diễn ra, do yêu cầu cần phải có
lực lượng và tổ chức để đối đầu với chế độ bạo quyền Ngô Đình Diệm, xu hướng thống nhất
Phật giáo được tiến hành, đó là sự ra đời của Uỷ ban Liên phái bảo vệ Phật giáo, bao gồm 11

hệ phái Phật giáo ở miền Nam.

-

Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, Phật giáo miền Nam tiếp tục củng cố và phát
triển tổ chức. Từ ngày 31/12/1963 đến ngày 4/1/1964, 11 hệ phái Phật giáo ở miền Nam đã
họp đại hội tại chùa Xá Lợi (Sài Gòn). Đại hội đã nhất trí thông qua việc thống nhất hai tông
phái Phật giáo (Bắc tông và Nam tông) ở miền Nam, trong một tổ chức duy nhất với tên gọi
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

-

Sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một hệ quả tất yếu của phong trào
Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963. Nó đánh dấu một bước phát triển mới của Phật
giáo miền Nam Việt Nam trong công cuộc hoằng dương Chánh pháp và phục vụ dân tộc, làm
cho Phật giáo miền Nam có them thế và lực để cùng với nhân dân miền Nam tiếp tục đấu
tranh đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến ngày thắng lợi.

-

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất, một cơ
duyên rất thuận lợi cho các hệ phái Phật giáo trong cả nước thống nhất. Tháng 11/1981, Đại
hội đại biểu thống nhất Phật giáo cả nước đã được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất là một thành viên tham gia. Đại hội đã lập ra Giáo hội Phật giáo
Việt Nam. .

Tổ chức Phật giáo miền Nam Việt Nam sau năm 1963.
-

Sau ngày 1/11/1963, uy thế Phật giáo lên cao ở các đô thị và những vùng bị tạm chiến. Sở dĩ

như vậy không phải vì Phật giáo là lực lượng trực tiếp lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm mà
chính là ở chỗ Phật giáo là lực lýợng ðã dám công khai “tuyên chiến” với chính quyền NĐD
bằng nhiều hình thức khác nhau.

-

Sau khi chế độ NDD sụp đổ, Phật giáo có điều kiện thuận lợi để phục hồi, phát triển. Phật
giáo bắt tay tổ chức và củng cố lực lượng.

-

Phật giáo không có một tổ chức giáo hội với đầy đủ thẩm quyền để ban hành giáo luật. Giáo
lý phật giáo đề cao khả năng tự ngộ của mỗi chúng sinh. Tinh thần tự do của Phật giáo không
chấp nhận giáo điều cứng nhắc. Vì vậy từ khi truyển vào nước ta, ngay cả khi hung thịnh
nhất, như dưới thời Lý-Trần, dù được công nhận là quốc giáo, PG vẫn không có một giáo
quyền chung cho tất cả các hệ phái.


-

Năm 1951, một Đại hội PG toàn quốc được tổ chức tại chùa Từ Đàm (Huế), Đại hội quyết
định thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam, bầu ra một ban quản trị và suy tôn Hòa thượng
Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ. Từ đầu những năm 1950, bắt đầu xuất hiện một hình thức
giáo quyền PG VN cho cả ba kỳ. Tổ chức này tuy còn lỏng lẽo, chưa thống nhất hết thảy mọi
hệ phái PG, nhưng đây là 1 hiện tượng mới.

-

Sau năm 1954, do chính sách của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đi ngược lại khát vọng
hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước của nhân dân VN. Tình hình đó đòi hỏi các hệ phái PG

phải tìm cách mở rộng thế lực, phát triển tổ chức để đương đầu với chính quyền NĐD. Dẫn
đến sự ra đời của Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo ngày 4-6-1963, bao gồm 11 tông phái và
đoàn thể PG ở miền Nam. Lãnh đạo là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.

-

Sau khi chính quyền NđD sụp đổ, PG MN tiếp tục củng cố và phát triển tổ chức. Từ ngày 3112-1963 đến ngày 4-1-1964, 11 tông phái PG ở MN họp đại hội tại chùa Xá Lợi. Đại hội đã
thông qua việc thống nhất các hệ phái PG ở MN, hình thành nên 1 tổ chức duy nhất với tên
gọi là Giáo hội PG VN Thống nhất.

-

Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Viện Tăng thống. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết được suy tôn
lên ngôi vị Tăng thống. Dưới VTT là Viện Hóa đạo do 1 viện trưởng đứng đầu. Tại địa
phương như miền, tỉnh, thành, quận có 1 ban đại diện. Giáo hội PG tổ chức và củng cố các
đoàn thể như: Thiện tín Bắc tông, Thiện tín Nam tông…

-

Cho đến năm 1975, Giáo hội PG VN Thống nhất đã tổ chức chiếm đa số tín đồ và hầu hết các
phong trào PG đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn đều do tổ chức PG này khởi
xướng và lãnh đạo.

-

Tuy nhiên, khách quan mà thừa nhận rằng bản thân Giáo hội PG VN thống nhất từ khi thành
lập năm 1964 đến 1975 cũng thực sự không thống nhất. Sở dĩ như vậy là vì một mặt do chính
sách chia để trị của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Dưới nhãn quan chính trị của Mĩ và chính
quyền Sài Gòn, nếu PG mà thống nhất lại sẽ là một trở ngại lớn đối với sự thống trị của họ.
Việc chính quyền Trần Văn Hương cho thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam (1964) rồi

Nguyễn Văn Thiệu cho khai sinh Phật giáo Việt Nam Quốc tự (1966) đối lập với Giáo hội PG
VN thống nhất là những minh chứng cụ thể.

-

Mặt khác, trong hàng ngũ Phật giáo có nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, ngoài Mĩ và chính
quyền Sài Gòn thì các chính đảng, chính khách ở các đô thị miền Nam đều cố lôi kéo PG.
Trong giáo hội PG VN Thống nhất ở thời điểm chúng ta đang nghiên cứu có mấy xu hướng
chủ yếu. Thích Trí Quang, nhân vật đóng vai trò chính trong phong trào PG MN năm 1963,
có ảnh hưởng lớn đối với PG miền Trung. Thích Tâm Châu được xem là 1 phần tử phái hữu,
thỏa hiệp với chính quyền Sài Gòn. Thích Thiện Minh, nhân vật lãnh đạo thanh niên Phật tử,
có uy tín là người tiến bộ. Mâu thuẫn nội bộ chính của Phật giáo miền Nam là mâu thuẫn
giữa phái hữu Thích Tâm Châu và phái chủ trương tranh đấu của Thích Trí Quang. Tình hình
này đã chi phối rõ nét phong trào Phật giáo miền Nam VN (1964-1968).

Tham khảo: Sau khi Diệm đổ, 11 vị phái tổ chức đại hội tại chùa Xá lợi để thống nhất Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam. Trước đây không có giáo hội vì từ năm 54 – 63 bị khống chế, ràng
buộc bởi dụ số 10 (chỉ TCG và tin lành là được thành lập giáo hội) diễn ra vào năm 1950
dưới thời bảo đại, tay chân Pháp, mang tính chất kỳ thị Phật giáo.
Chính quyền NDD sau năm 1964, thành lập Đảng Cần lao, tổ chức thanh niên cộng hòa,
phong trào cách mạng quốc gia – Ngô Đình Nhu (mở rộng của Đảng cần lao, đưa ra khẩu
hiệu Bài phong, diệt cộng, đả thực), những chính sách dưới thời thực dân được Diệm lưu
dụng để chống PG. Đến 1951, tổng hội PGVN thành lập, gồm 6 hội tập hợp lại. Mục tiêu là
loại bỏ Dụ số 10.


Tổ chức của THPGVN gồm 2 viện: Viện Tăng Thống (thời nhà Đinh): Vị trí đứng đầu PG,
bây giờ người ta gọi là pháp chủ và viện Hóa Đạo. Thích Phổ Tuệ đứng đầu PGVN sau khi
lật đổ Diệm, hội đồng chứng minh trung ương thay cho viện Tăng Thống, từ khi thành lập
đến nay gồm: Tâm Châu, Thiện Hoa, Tín Thủ.

Lưu ý: Tăng thống là chức vụ quản lý tăng sự được triều đình phong và coi là người đứng
đầu Phật giáo cả nước thời phong kiến và quân chủ. Ngày nay, từ tăng thống được hiểu là
người đứng đầu Phật giáo trong một nước, hoặc của một giáo hội và chức vụ này thường do
các tổ chức giáo hội quyết định.
Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập năm 1963, đã sử dụng lại danh vị này
để gọi vị lãnh đạo cao nhất của giáo hội, theo đó có 5 vị Tăng thống của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất là:
Đệ nhất Tăng thống (1964-1973) Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.
Đệ nhị Tăng thống (1973-1979) Hòa thượng Thích Giác Nhiên.
Đệ tam Tăng thống (1979-1991) Hòa thượng Thích Đôn Hậu.
Đệ tứ Tăng thống (1991-2008) Hòa thượng Thích Huyền Quang.
Đệ ngũ Tăng thống (2008-nay) Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Tổng hội PG VN có thể gọi là tiền thân của Hội PG thống nhất VN ở miền Bắc và Giáo hội
PG VN thống nhất ở miền Nam sau năm 1954. Đứng đầu tổng hội là tăng thống Hòa thượng
Thích Tịnh Khiết, 3 vị phó tăng thống là: Thượng tọa Thích Tâm Châu (MB), Thượng tọa
Thích Thiện Minh (MT), Thượng tọa Thích Thiện Hoa (MN). Do Mai Thọ Truyền chủ tọa.

Cuộc đấu tranh chống chính quyền quân phiệt của Phật giáo miền Nam
những năm 1964- 1965.
-

Ngay sau khi đảo chính, phong trào truy quét dư đảng Cần lao được dấy lên khắp toàn miền
Nam, nhất là ở Huế và các tỉnh miền Trung.

-

Ngày 26/3/1964, sinh viên, học sinh và đông đảo tín đồ Phật giáo Huế biểu tình đòi xử tử
Phan Quang Đông. Trước áp lực của nhân dân Huế, ngày 9/5/1964, chính quyền Nguyễn
Khánh buộc phải xử tử Phan Quang Đông tại sân vận động Tự Do.


-

Ngày 8/8/1964, Nguyễn Khánh ra Huế, bị quần chúng bao vây tại Tòa Đại biểu Chính phủ.

-

Ngày 14/8/1964, giới lãnh đạo Phật giáo ra thông bạch, vạch rõ rằng

-

“ . Phật giáo đồ đang bị trả thù khắp nơi.

-

Cuộc vận động của Phật giáo bị xuyên tạc.

-

Sự có mặt các phần tử bất hảo của chế độ cũ trong các cơ cấu và cấp bộ của chính quyền là
nguyên nhân chính gây nên tình trạng bi đát hiện nay và sự đe dọa thường xuyên cho Phật
giáo và dân chúng”.

-

16/8/1964, “Hội đồng Quân đội cách mạng” do Nguyễn Khánh đứng đầu cho ra đời “ Hiến
chương Vũng Tàu”, thực chất là thiết lập chế độ độc tài quân phiệt, Nguyễn Khánh được
phong: “Chủ tịch Việt Nam Cộng hòa” kiêm Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Hội đồng
quân đội, khiến cho phong trào Phật giáo bùng phát mạnh mẽ.



-

Ngày 20/8/1964, tại Sài Gòn, 5.000 tín đồ Phật giáo họp nghe diễn giả của mình công kích
Nguyễn Khánh, tố cáo rằng trong mấy tháng cầm quyền, Nguyễn Khánh đã giết chết 24 Phật
tử, bắt giam hàng ngàn tín đồ,…

-

Ngày 21-8-1964, 2000 sinh viên, học sinh Huế biểu tình tại công viên Quách Thị Trang
(trước trường Quốc Học và Hai Bà Trưng ) kêu gọi bãi khóa, bãi thi để tranh đấu chống độc
tài quân phiệt. Cũng ngày nay, tại Sài Gòn, 500 sinh viên mở hai cuộc hội thảo vạch mặt
chính sách độc tài của Nguyễn Khánh, sau đó bao vây Dinh Gia Long đòi Nguyễn Khánh từ
chức, đòi thủ tiêu “ Hiến Chương Vũng Tàu ”.

-

Ngày 22-8-1964, tại Huế, sinh viên, học sinh và các giới đồng bào tộc trung tại trường Đại
học Khoa học để đọc tuyên cáo, lời kêu gọi, sau đó biểu tình rầm rộ qua các đường phố.

-

Ngày 23-8-1964, giáo viên chức Viện Đại học Huế ra tuyên ngôn vạch rõ: “Hội đồng quân
đội cách mạng” đã xâm phạm tự do của nhân dân và không còn đủ khả năng lãnh đạo quốc
gia;

-

Cùng ngày, tại Trường Đại học Sư Phạm, lực lượng sinh viên học sinh tranh đấu tổ chức phát
thanh. Trên tường các trường đại học được viết đầy các khẩu hiệu: “Đả đảo Nguyễn Khánh”,
“Đả đảo độc tài quân phiệt!”, “Xé bỏ Hiến chương Vũng Tàu”.


-

Ngày 24-8-1964, cuộc bãi khóa trở nên toàn diện ở Huế. Buổi chiều, gần 1000 giáo chức
trung, tiểu học công tư thục tổ chức biểu tình phản đối độc tài, đả đảo Hiến chương 16-81964, đồng thời ra tuyên ngôn khẳng định lập trường tranh đấu đòi tự do dân chủ; trong lúc
đó, sinh viên, học sinh chiếm Đài phát thanh, tổ chức phát thanh lên án Nguyễn Khánh.

-

Nguyễn Khánh buộc phải “Xuống thang”. Sáng ngày 25-8-1964, Đài Phát thanh Sài Gòn
thông báo: “ Chủ tịch Việt Nam cộng hòa” sẽ sớm thành lập nội các mới, sẽ tu chỉnh lại hiến
chương, sẽ bớt giờ giới nghiêm, sẽ nới rộng sự kiểm duyệt báo chí, sẽ lập tòa án quân sự để
xét xử dư đảng Cân lao tay chân Diệm –Nhu.

-

25-8-1964, kỷ niệm một năm ngày Phật tử Quách Thị Trang hi sinh, tại Sài Gòn, có khoảng
200.000 người, trong đó đa số là tín đồ Phật tử và sinh viên, học sinh biểu tình trước chợ Bến
Thành. Trong cuộc biểu tình này, sinh viên đã “ bí mật” xây dựng tượng đài Quách Thị
Trang.

-

Tại Huế, ngày 28-8-1964, toàn thể giáo chức Viện Đại học Huế ra thông cáo khẳng định: “
Không thừa nhận Tam đầu chế Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh. Nhằm
xoa dịu tình hình, ngày 8-9-1964, Nguyễn Khánh thành lập Thượng Hội đồng Quốc gia gồm
16 ủy viên, Phan Khắc Sửu giữ chức Chủ tịch.

-


Ngày 8-12-1964, bằng Đạo luật 001/64, chính quyền Trần Văn Hương cho thành lập Tổng
Giáo hội Phật giáo Việt Nam với âm mưa gây chia rẽ, làm suy giảm lực lượng Phật giáo.
Ngày 11-12-1964, giới lãnh đạo Phật giáo ra tuyên bố cho rằng chính phủ Trần Văn Hương
có những hành động đàn áp, tàn sát Phật giáo và “về các mặt đều giống chế độ Ngô Đình
Diệm ngày trước”. Ngày 17-12-1964, Lực lượng học sinh Bảo vệ Tự do Dân chủ ra lời kêu
gọi ủng hộ cuộc tuyệt thực cử giới lãnh đạo Phật giáo.

-

Ngày 20-12-1964, cuộc “đảo chính bộ phận” diễn ra, Thượng Hội đồng Quốc gia” bị giải tán,
song Trần Văn Hương vẫn giữ chức Thủ tướng. Phong trào Phật giáo vẫn tiếp tục diễn ra.

-

Tại Sài Gòn, ngày 3-1-1965, Phật giáo tổ chức mít tinh tại Việt Nam Quốc Tự. Ngày 7-11965, hàng trăm ngàn người tuyệt thực phản đối Trần Văn Hương khủng bố tôn giáo.

-

Ngày 27-1-1965, Nguyễn Khánh làm “đảo chính toàn bộ” giải tán chính phủ Trần Văn
Hương. Ngày 19-2-1965, một cuộc đảo chính khác diễn ra, Nguyễn Khánh bị lật đổ và bị
buộc phải lưu vong ra nước ngoài. Cùng với những chiến thắng của Quân Giải Phóng, ở đô


thị phong trào Phật giáo liên tục diễn ra góp phần tạo được thế liên hoàn giữa 3 vùng chiến
lược rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị; hình thành bàn đạp ,hành lang để đưa cán bộ
cách mạng và chủ trương vào bên trong, xây dựng và phát triển cơ sở cách mạng nội thành,
tạo thế cho phong trào đô thị phát triển. Chính quyền Sài Gòn đang đứng trước nguy cơ suy
sụp.

Câu 16: Nguyên nhân của phong trào phật giáo miền Nam 1966

-

-

Nguyên nhân sâu xa
Thứ nhất, Sự đảo lộn về đời sống kinh tế-xã hội miền Nam trước việc Mỹ đưa quân vào
miền Nam Việt Nam.
Nhằm tháo gỡ những bế tắc trước đó, Mỹ thay chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đã bị phá
sản bằng chiến lược “chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân tham chiến ở miền Nam. Và để
đảm bảo cho chiến lược mới này Mỹ gạt bỏ chính quyền Phan Huy Quát, đưa Nguyễn Văn
Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lên nắm chính quyền, đánh dấu sự tái lập chế độ quân phiệt ở miền
Nam. Thời Thiệu-Kỳ đóng vai trò bù nhìn trên sân khấu chính trường Sài Gòn
Đời sống của nhân dân các đô thị bị đảo lộn hơn bao giờ hết. Vật giá tăng vọt, lạm phát “phi
mã”. Tờ New York Times (4-5-1966) viết: “Có lẽ kẻ địch ngoan cố nhất ở Nam Việt Nam
không phải là Việt Cộng, mà là lạm phát. Hiện nay có 52 tỉ đồng đang lưu hành so với 32 tỉ
đồng cách đây chỉ một năm thôi, nghĩa là tăng vọt hơn 60%...”.

-

Theo chân quân đội viễn chinh là nạn du đãng, sách báo, phim ảnh, văn hóa phẩm đồi trụy du
nhập ào ạt vào miền Nam. Tất cả diễn ra hàng ngày trước mắt người dân đô thị. Trong lúc đó
ở nông thôn quân đội Mỹ ngụy ra sức đốt phá xóm làng, cày ủi nương vườn, bắt lính, bắn giết
đồng bào.

-

Với sự có mặt của quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam là một sự xâm lược thô bạo chủ quyền
độc lập của nhân dân ta, nó đã kích động mạnh mẽ tinh thần dân tộc của mọi tầng lớp nhân
dân, trong đó có những người theo Phật giáo.


-

Thứ hai, Các chính sách kì thị đàn áp Phật giáo của chính quyền Sài gòn dưới thời Nguyễn
Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ.

-

Mỹ đưa tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ nắm chính quyền (19-6-1965). Cụ
thể, vào đầu năm 1966, với âm mưu phá vỡ truyền thống yêu nước, yêu đạo của Phật giáo
Việt Nam, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cho tay chân đập phá tượng Quách Thị
Trang ở Sài Gòn; tiếp theo, với âm mưu làm suy yếu Phật giáo, chính quyền Sài Gòn do
Thiệu – Kỳ nắm giữ, tìm cách chia rẽ nội bộ Phật giáo bằng cách nắm lấy cánh hữu trong giới
lãnh đạo Phật giáo.

-

Việc Nguyễn Văn Thiệu ký Sắc luật 23/67 công nhận Hiến chương của phái Việt Nam Quốc
Tự do Thích Tâm Châu đứng đầu là một minh chứng. Hơn thế nữa, thời Nguyễn Văn ThiệuNguyễn Cao Kỳ cầm quyền, dư đảng Cần lao vẫn được dung túng và nắm giữ những chức vụ
then chốt trong bộ máy chính quyền, bản thân Nguyễn Văn Thiệu là một Cần lao hạng nặng,
từng là tay chân đắc lực của chế độ Ngô Đình Diệm.

-

Mặc khác, cũng như dưới thời Ngô Đình Diệm, chính quyền Thiệu-Kỳ vẫn tiếp tục giành cho
Thiên Chúa giáo những ưu đãi


-

Do những chính sách trên của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, nhất là

việc Mỹ đẩy mạnh “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và “chiến tranh phá hoại” ở miền Bắc,
nên theo cách nhìn của Phật giáo, chiến tranh đã giết hại thường dân vô tội cả hai miền NamBắc và gây ra những hậu quả khốc hại cho toàn thể dân tộc Việt Nam.

-

Từ những tư liệu trên cho thấy rằng các chính quyền Sài Gòn sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô
Đình Diệm (1-11-1963), từ chính quyền Nguyễn Khánh đến chính quyền Nguyễn Văn ThiệuNguyễn Cao Kỳ, dưới những hình thức và biện pháp khác nhau vẫn thực hiện chính sách kỳ
thị Phật giáo.

-

Thứ ba, Một số động thái của chính quyền Thiệu-Kỳ.

-

Nhằm đối phó với phong trào cách mạng miền Nam nói chung, phong trào Phật giáo nói
riêng, đang lên mạnh, ngày 24 – 6 – 1965, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ
vừa lên cầm quyền liền cho ban hành tình trạng chiến tranh:

-

“Điều thứ nhất: Nay ban hành tt́nh trạng chiến tranh trên toàn lănh thổ Việt Nam Cộng ḥa.

-

Điều thứ 2: Ủy nhiệm Ủy ban Hành pháp Trung ương, suốt trong thời kỳ tình trạng chiến
tranh, áp dụng các biện pháp thích ứng để bảo vệ lãnh thổ và trật tự an ninh công cộng.

-


Điều thứ 3: dụ này được ban hành theo lệnh khẩn cấp.

-

Trong bối cảnh các tầng lớp nhân dân đô thị miền Nam, đa số là tín đồ Phật giáo, đang sục
sôi khí thế đấu tranh vì hòa bình Việt Nam, thì ngày 7 – 2 – 1966, tại hội nghị Honnululu
(Hawaii), Tổng thống Johnson cam kết ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, tăng
cường nổ lực chiến đấu, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.

-

Bàn về nguyên nhân cuộc nổi dậy của Phật giáo vào đầu năm 1966, Jerrold Schecter cho
rằng: “Đối với người Việt Nam, hội nghị Honululu đã quy định chắc chắn việc Tổng thống
Johnson tán thành Thủ tướng Kỳ và chỉ rõ quyết tâm của Mỹ tiếp tục chiến tranh. Nhưng đối
với Phật giáo, việc Mỹ tăng cường binh lực và hội nghị Honululu là những dấu hiệu phải bắt
tay hành động”3.

-

Robert Topmiller có một cái nhìn bao quát hơn cho rằng: “một yếu tố trong năm 1965 dẫn tới
khủng hoảng Phật giáo năm 1966. Việc bắt đầu ném bom kéo dài ở miền Bắc trong tháng
Hai, việc bộ binh Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và sự ra đời của phong trào Hòa bình trong tháng
Ba, sự thăng chức Thủ tướng của tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ vào tháng Sáu, và việc
Lodge trở lại chức đại sứ vào tháng Tám, khiến cuộc đụng đầu một bên là Phật giáo với khát
vọng chấm dứt chiến tranh thông qua việc chuyển tiếp của một chính phủ dân sự và bên kia
Mỹ và chính quyền Sài Gòn muốn tăng cường, đẩy mạnh chiến tranh, tất yếu diễn ra”1.

-

Từ những tư liệu trên cho thấy cuộc đụng đầu quyết liệt giữa Phật giáo với chế độ quân phiệt

Thiệu – Kỳ do Mỹ dựng lên là điều không tránh khỏi.

-

Duyên cớ trực tiếp

-

Sự bùng nổ phong trào đấu tranh của Phật giáo năm 1966 bắt nguồn từ mâu thuẫn chóp bu
của chính quyền Sài Gòn.

-

Nguyễn Cao Kỳ tố cáo giới lãnh đạo Phật giáo với sự đồng lõa Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh
quân đoàn I Sài Gòn, mưu toan cắt miềnTrung ra khỏi “Việt Nam Cộng Hòa”. Ngày 11 – 31966, Nguyễn Cao Kỳ với cương vị Thủ tướng chính quyền Sài Gòn ra lệnh cắt chức Nguyễn
Chánh Thi, Tư lệnh vùng I Chiến thuật; đồng thời gạt Nguyễn Chánh Thi ra khỏi “Ủy ban
lãnh đạo quốc gia”. Theo giới lãnh đạo Phật giáo, “Kỳ đã khuynh loát Hội đồng Quân lực để
tăng cường quyền hành cho nhóm Thiên Chúa giáo miền Bắc, những người ủng hộ chiến


tranh”5. Nắm lấy sự mâu thuẫn nội bộ chính quyền Sài Gòn, giới lãnh đạo Phật giáo phát
động phong trào đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Thiệu – Kỳ.
-

KẾT LUẬN

-

Với những hành động mới của Mỹ và chính sách của chính quyền Thiệu-Kỳ từ lúc lên cầm
quyền đến năm 1966 thì tình hình miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là sự hội đủ nguyên nhân

sâu xa và duyên cớ trực tiếp. Chính điều đó đã châm ngòi cho phong trào Phật giáo diễn ra vô
cùng sôi nổi và mạnh mẽ, là cuộc đấu tranh tất yếu của cái thiện, chính nghĩa đối với sự tàn
bạo, ngang ngược của chính quyền Thiệu-Kỳ.
Lưu ý: 3 sự kiện quan trọng trong PT PG MN năm 1963:
- Sáng ngày 8/5, cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm bắt đầu từ 6h30. Khi đoàn
rước phật qua cầu Gia Hội vào đường Trần Hưng Đạo thì một số biểu ngữ xuất hiện như: Cờ PG
quốc tế không thể bị triệt hạ, phản đối chính sách bất công gian ác… điều này cho thấy cuộc đấu
tranh của quần chúng Phật tử ngay từ đầu đã trực tiếp đối đầu với chính quyền NDD và khẳng
định quyết tâm đấu tranh dù phải hy sinh.
- Ngày 11/6, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, Hòa thượng Thích Quảng Đức
đã anh dũng tự thiêu.
- Kế hoạch nước lũ.

So sánh phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 với phong
trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1966.
1. Điểm giống nhau.
Phong trào Phật giáo năm 1963, 1966 có những điểm chung như:
- Đểu là những phong trào yêu nước của các Tăng ni, Phật tử lấy ngọn cờ Phật giáo làm đầu
để quy tụ, tập hợp lực lượng đấu tranh. Là những phong trào có ý nghĩa hết sức to lớn góp
phần quan trọng trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Cả hai phong trào đều xuất phát từ chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Sài Gòn.
- Phong trào Phật giáo năm 1963, 1966 đều có tính chất dân tộc và dân chủ.
+ Tính chất dân tộc: Sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp xã hội.
+ Tính chất dân chủ: Trong phong trào Phật giáo năm 1963, giới lãnh đạo Phật giáo đặt mục
tiêu là “tranh đấu cho ý tưởng tôn giáo bình đẳng trong khuôn khổ công bằng xã hội” và đòi
chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành “chính sách tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo”.
Trong phong trào Phật giáo năm 1966, vấn đề tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo vẫn tiếp
tục đặt ra.
- Cả hai phong trào đều có chủ trương sử dụng phương pháp bất bạo động.
+ Phong trào Phật giáo năm 1963:

- Sử liệu chứng minh:
> Ngày 11-6-1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư đường Phan Đình
Phùng và Lê Văn Duyệt.
> Ngày 15-8-1963, tại Huế, gần 1.000 sinh viên, học sinh biểu tình phản đối chính
quyền Ngô Đình Diệm cướp xác Thích Thanh Tuệ.


×