Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Chính sách “Ngoại giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 69 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**********

VƢƠNG MẠNH THỌ

CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC”
CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI
KHU VỰC MÊ KÔNG ĐẦU THẾ KỈ XXI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ BÍCH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Cô giáo –
ThS. Nguyễn Thị Bích, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp, từ khâu chọn lựa đề tài đến hoàn chỉnh nội dung chi tiết. Những
góp ý vô cùng quý báu của cô đã giúp tôi có những hiểu biết sâu sắc hơn về
đề tài khóa luận và gợi mở cho tôi phƣơng pháp tổng hợp tài liệu và nghiên
cứu hiệu quả.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong khoa,
cũng nhƣ các thầy cô giáo trong trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà Nội 2 đã luôn
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành 4 năm Đại học một cách thuận lợi
nhất.
Cuối cùng, tôi vô cùng biết ơn gia đình, ngƣời thân và bạn bè đã động


viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết khóa luận.
Hà Nội, ngày tháng 05 năm 2017
Sinh viên
Vƣơng Mạnh Thọ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng.
Hà Nội, ngày tháng 05 năm 2017.
Sinh Viên
Vƣơng Mạnh Thọ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB:

Ngân hành Phát triển Châu Á

ASEAN:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ĐBSCL:

Đồng bằng sông Cửu Long

ILC:


Uỷ ban Luật quốc tế

LHQ:

Liên Hiệp Quốc

LMCM:

Cơ chế Hợp tác Lan Thƣơng- Mê Kông

LMC:

Cơ chế hợp tác Mê Kông – Lan Thƣơng

MRC:

Uỷ hội sông Mê Kông

NATO:

Tổ chức Hiệp ƣớc Bắc Đại Tây Dƣơng

NGO:

Tổ chức phi chính phủ

SEA:

Tổ chức đánh giá môi trƣờng chiến lƣợc


WB:

Ngân hàng thế giới

WCD:

Ủy ban thế giới về đập


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................4
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ...................................................6
4. Phƣơng pháp và phƣơng pháp luận nghiên cứu ...............................................7
5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................8
6. Bố cục của khóa luận ........................................................................................8
CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH “NGOẠI
GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỈ XXI ........................................9
1.1. KHÁI NIỆM “NGOẠI GIAO NƢỚC” (Water diplomacy) .........................9
1.1.1. Khái niệm Ngoại giao ............................................................................9
1.1.2. Khái niệm “Ngoại giao nƣớc” (Water diplomacy) .............................11
1.1.3. Đặc điểm của “Ngoại giao nƣớc” (Warter diplomacy) ........................14
1.2. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC MÊ KÔNG ĐẦU THẾ KỈ XXI .16
1.2.1. Tình hình thế giới .................................................................................16
1.2.2. Tình hình tiểu vùng Mê Kông ..............................................................18
1.3. CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỈ XXI
...................................................................................................................................20
Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................24

CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO
NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẦU THẾ KỈ XXI .....26
2.1. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA
TRUNG QUỐC Ở KHU VỰC MÊ KÔNG ..............................................................26
2.1.1. Trong lĩnh vực chính trị - an ninh .......................................................26
2.1.2. Trong lĩnh vực kinh tế ..........................................................................32
2.1.3. Trong lĩnh vực văn hóa – Xã hội .........................................................36


2.2. PHẢN ỨNG CỦA CÁC QUỐC GIA Ở KHU VỰC TIỂU VÙNG MÊ
KÔNG .......................................................................................................................39
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG
QUỐC ĐẦU THẾ KỈ XXI ........................................................................................44
2.3.1. Đối với Trung Quốc .............................................................................44
2.3.2 Đối với tiểu vùng Mê Kông ..................................................................47
PHẦN KẾT LUẬN ..........................................................................................53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................55


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bƣớc vào thế kỉ XXI, trên thế giới đang phải đối mặt với những thay
đổi to lớn, nhƣ là tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ,
quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra khắp trên thế giới, sự thay đổi khí hậu, sự
phụ thuộc xuyên biên giới, sự thay đổi của bối cảnh chính trị xã hội trong việc
đối phó với những thách thức về nƣớc. Vì vậy, nƣớc đang trở nên nhạy cảm
hơn và dễ bị tổn thƣơng trƣớc những thay đổi của tình hình thế giới. Trong
khi đó, tài nguyên nƣớc đƣợc lên kế hoạch và quản lý ở mức độ không chắc
chắn cao hơn. Ngoài việc là một nguồn lực dễ bị tổn thƣơng, nƣớc đang trở
thành một vấn đề phức tạp hơn.

“Ngoại giao nước” không phải là một khái niệm lý thuyết. Đó là một
hành động, một quá trình cần thiết và cấp thiết để cho phép các thế hệ hiện tại
và tƣơng lai tiếp cận với điều quan trọng này. Sử dụng tài nguyên một cách
bền vững là cần thiết để đối phó những thách thức này, dó đó cần phải tiến
hành ngoại giao nƣớc.
Các dòng sông quốc tế đang ngày càng đƣợc quan tâm để đáp ứng nhu
cầu phát triển dân số và kinh tế. Quá trình phát triển tạo sức ép lên các nguồn
nƣớc hiện có làm sâu sắc thêm những nhu cầu cạnh tranh giữa các quốc gia,
các khu vực nông thôn và thành thị, các nhóm sử dụng khác nhau và chính
bản thân các hệ sinh thái của các dòng sông. Thách thức đặt ra là cân bằng
những nhu cầu cạnh tranh này theo cách công bằng và bền vững cho thế hệ
hôm nay và mai sau.
Dòng sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng nối liền 6
quốc gia Trung Quốc, Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Với
khoảng 4.800km chiều dài, con sông quốc tế này tạo ra nhiều sinh cảnh độc
đáo, các hệ sinh thái giàu có và nhiều vùng châu thổ phì nhiêu. Cho đến cuối
1


thế kỉ XX, sông Mê Kông vẫn còn giữ đƣợc nhiều nét nguyên vẹn do chƣa bị
ngăn đập trên phần lớn dòng chảy. Tuy nhiên, lƣu vực sông Mê Kông trong
thời gian gần đây trở nên ngày càng sôi động với nhiều diễn biến phát triển
nóng gây không ít tranh cãi. Dòng sông quốc tế này đang chứng kiến xu thế
cạnh tranh với tâm điểm là việc sử dụng nguồn nƣớc của mỗi quốc gia phục
vụ nhu cầu phát triển của riêng mình đi đôi với những hậu quả và thách thức
tiềm tàng cho các quốc gia khác.
Bối cảnh phát triển lƣu vực sông Mê Kông, sự sôi động của lƣu vực
sông Mê Kông bắt đầu từ những năm cuối thế kỉ XX. Nền kinh tế mới nổi
trong khu vực là một Trung Quốc đang trỗi dậy đứng trƣớc cơn khát năng
lƣợng phục vụ nhu cầu tăng trƣởng nóng. “Tốc độ phát triển kinh tế của

Trung Quốc luôn dẫn đầu thế giới. Để duy trì được tốc độ phát triển kinh tế
bền vững như hiên nay, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” [6; tr.5] . Bắt buộc Trung quốc phải đƣa ra những chính sách đối ngoại
của mình để có thể thực hiện đƣợc mục tiêu “giấc mộng Trung Quốc, phục
hưng vĩ đại Trung Hoa” [42] .
Một trong những cách thức để Trung Quốc có thể thực hiện âm mƣu
của mình là thực hiện chính sách “ngoại giao láng giềng” mà trọng yếu là
các quốc gia ở khu vực sông Mê Kông.
Ở vị thế là các quốc gia hạ nguồn, MRC đang đứng trƣớc nguy cơ phải
gánh chịu nhiều tác động to lớn chƣa thể lƣờng trƣớc từ các chƣơng trình, dự
án phát triển trên dòng chính ở phía thƣợng nguồn. Với viễn cảnh các kịch
bản phát triển của các quốc gia láng giềng, MRC rất cần có các giải pháp ứng
phó và hạn chế tối đa nguy cơ trở thành nạn nhân của những tính toán, sắp đặt
trái với tinh thần hợp tác phát triển trong lƣu vực.

2


Do vậy, khi tìm hiểu chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc
trong những năm đầu thế kỉ XXI là một việc làm có ý nghĩa trên cả hai
phƣơng diện khoa học và thực tiễn.
Về phƣơng diện khoa học, việc nghiên cứu chính sách “ngoại giao
nước” của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI nhằm tìm hiểu
những nhân tố, quá trình thực hiện và triển khai, những tác động của loại
hình ngoại giao mới này. Mặc dù, hình thành sau và nằm trong các loại hình
ngoại giao truyền thống nhƣ ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại
giao văn hóa nhƣng ngoại giao nƣớc đã có những bƣớc tiến mới trong chính
sách ngoại giao của Trung Quốc trong việc sử dụng nguồn nƣớc để tiến hành
ngoại giao. Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu này làm nổi bật đặc điểm,
tính chất của chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong những năm vừa qua.

Về phƣơng diện thực tiễn, việc nghiên cứu này góp phần lý giải những
biến động của tình hình chính trị - kinh tế thế giới, khu vực trong những năm
vừa qua, cũng nhƣ những tác động của nó đến các nƣớc láng giềng trong khu
vực, trong đó có Việt Nam.
Đối với bản thân tác giả là một sinh viên nghiên cứu, ở vị trí là sinh
viên chuyên ngành lịch sử thì việc lựa chọn đề tài này để nghiên cứu là một
việc làm thiết thực và có ý nghĩa chuyên môn, giúp bạn đọc nhìn nhận một
cách chính xác hơn về chính sách ngoại giao của Trung Quốc ở khu vực Mê
Kông đầu thể Kỉ XXI.
Từ những lí do trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài: Chính sách
“Ngoại giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp nhằm đƣa ra một số dẫn chứng cụ thể về âm mƣu
cũng nhƣ chính sách mà Trung Quốc đang thực hiện ở khu vực Mê Kông đầu
thế kỉ XXI.

3


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc là một
đề tài tƣơng đối mới mẻ và đang thu hút các giới học giả và các nhà nghiên
cứu trên thế giới, nhƣng đến nay, giới khoa học chƣa có công trình nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này. Các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung đến
chính sách ngoại giao năng lƣợng, an ninh năng lƣợng, chính sách ngoại giao
nƣớc lớn, chính sách ngoại giao của Đặng Tiểu Bình, chính sách ngoại giao
Láng giềng… Mặc dù vậy, một số tác phẩm đã cung cấp nguồn tƣ liệu rất
quan trọng để tác giả thực hiện đề tài.
Thứ nhất, trong tác phẩm “Nghệ thuật ngoại giao của Đặng Tiểu Bình”
của tác giả Phó Diệu Tổ, xuất bản năm 1999. Tác giả đã đƣa ra khá nhiều
nhƣng thay đổi trong chính sách ngoại giao của Đặng Tiểu Bình, trong đó có

cả chính sách ngoại giao láng giềng. Tuy nhiên, tác phẩm vẫn cƣa làm rõ
chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với khu vực Mê Kông.
Thứ hai, trong cuốn sách “Theo đuổi giấc mơ Trung Hoa: Những thay
đổi thể chế của nền ngoại giao Trung Quốc dưới thời Tập Cận bình” của các
tác giả Zhao Kejin và Gao Xin (chủ biên), đƣợc tác giả Trần Mai Nhung biên
dịch, NXB trƣờng đại học Thanh Hoa, xuất bản năm 2015. Các tác giả giới
thiệu các hệ thống nền ngoại giao của Trung Quốc, nền ngoại giao đƣợc lãnh
đạo bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc, những thay đổi trong hệ thống ngoại
giao sau đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII và nguyên nhân
của sự chuyển đổi đó. Tác phẩm chỉ khái quát qua những thay đổi trong chính
sách ngoại giao ở Trung Quốc chứ chƣa đề cập sâu đến chính sách ngoại giao
mà Trung Quốc thực hiện khu vực Mê Kông.
Thứ ba, trong tác phẩm “Giấc mộng Trung Hoa: Tư duy nước lớn và tư
thế chiến lược của Trung Quốc trong thời kì hậu Hoa Kỳ” (2017) của tác giả
Lƣu Minh Phúc làm chủ biên, công ty xuất bản hữu nghị Bắc Kinh, Trung
4


Quốc xuất bản năm 2017. Đây là một trong những cuốn sách mới đƣợc xuất
bản ở Trung Quốc. Tác giả đã đƣa ra những quan điểm, phản ánh khá rõ
những tham vọng của các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong việc xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Mỹ sau cuộc khủng hoảng kinh tế, bằng cách điều chỉnh chính
sách đối ngoại của Trung Quốc để đƣa đất nƣớc vƣơn lên đứng đầu thế giới.
Tuy nhiên, tác phẩm mới chỉ chủ yếu đề cập đến những thay đổi trong chính
sách ngoại giao nƣớc lớn và ngoại giao láng giềng của Trung Quốc, chƣa đi
sâu tìm hiểu về chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực Mê Kông trong
những năm đầu thế kỉ XXI.
Ngoài ra, còn một số bài tạp chí đề cập đến chính sách ngoại giao của
Trung Quốc đầu thế kỉ XXI nhƣ: “Tác động của chính sách thương mại Trung
Quốc đến nền kinh tế Việt Nam và một số hàm ý” của tác giả Nguyễn Thị

Loan đƣợc đăng trong Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng, Kỳ II,
tháng 3/2016; “Các đập nƣớc của Trung Quốc và tác động đến an ninh khu
vực”, của tác giả Nhật Linh, đƣợc in trong tạp chí nghiên cứu biển Đông
(4/2016); “Điều chỉnh chính sách kinh tế của Trung Quốc năm 2016 và tác
động tới Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Thƣờng Lạng, đƣợc in trên Tạp chí
nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (5/2016).... Công trình nghiên cứu “Quan hệ Việt
– Trung trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, những vấn đề đặt ra và đối sách
xử lý giai đoạn 2011 – 2020”,Viện Nghiên cứu Trung Quốc - Viện khoa học
xã hội Việt Nam. Hay trong Luận văn thạc sỹ “Ngoại giao năng lượng của
Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI”, của tác giả Nguyễn Thị Loan;….
Trên cơ sở của những cuốn tài liệu đã đƣợc tiếp cận, tác giả cảm thấy
hầu hết các tài liệu này chủ yếu đề cập đến chính sách ngoại giao của Trung
Quốc đầu thế kỉ XXI nhƣng còn rất chung chung, chƣa làm rõ đƣợc chính
sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc đầu thế kỉ XXI.

5


Chính vì vậy , đề tài: Chính sánh “ngoại giao nước” của Trung Quốc ở
khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI là một đề tài tƣơng đối mới.
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhƣ tên đề tài đã xác định, đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là
chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế
kỉ XXI.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở đã xác định đối tƣợng của khóa luận là chính sách “ngoại
giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI. Tác giả đã
đƣa ra những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, Khóa luận tập trung phản ánh những nhân tố tác động đến

chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc, cụ thể:
- Khóa luận phân tích một cách có hệ thống mối quan hệ giữa ngoại
giao và “ngoại giao nước”, tính bức thiết cần phải tiến hành ngoại giao nƣớc.
Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra đƣợc khái niệm “ngoại giao nước” và
nhữngđặc điểm của chính sách ngoại giao nƣớc.
- Khóa luận khái quát về tình hình thế giới, khu vực Mê Kông đầu thế
kỉ XXI và sự trỗi dậy vƣơn lên mạnh mẽ của Trung Quốc trong những năm
đầu thế kỉ XXI.
- Phân tích, đánh giá những nhân tố tác động thúc đẩy Trung Quốc tiến
hành chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực Mê Kông trong những năm
đầu thế kỉ XXI.
Thứ hai, Khóa luận phân tích đƣợc chính sách “ngoại giao nước” của
Trung Quốc thực hiện ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI, bao gồm các lĩnh
vực chính trị - an ninh; kinh tế và văn hóa - xã hội. Từ đó đƣa ra phản ứng của
6


các nƣớc ở khu vực Mê Kông trƣớc chính sách của Trung Quốc trong những
năm đầu thế kỉ XXI.
Thứ ba, bƣớc đầu đánh giá những tác động của chính sách “ngoại giao
nước” của Trung Quốc đối Trung Quốc và đối với nền kinh tế - chính trị khu
vực Mê Kông nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong những năm
đầu thế kỉ XXI.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu của khóa luận: là quá trình Trung Quốc
tiến hành chính sách “ngoại giao nước” trên phạm vi khu vực Mê Kông, đặc
biệt là vùng hạ lƣu của khu vực sông Mê Kông (bao gồm: Mianma, Thái Lan,
Lào, Campuchia, Việt Nam).
Phạm vi thời gian khóa luận tập trung nghiên cứu: là những năm đầu
đầu thế kỉ XXI, để thuận tiện cho việc nghiên cứu chúng tôi lấy thập niên đầu

tiên (2000-2016) của thế kỉ XXI làm giới hạn về mặt thời gian. Đây là khoảng
thời gian mà Trung Quốc tiến hành chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực
Mê Kông một cách khá rõ nét.
4. Phƣơng pháp và phƣơng pháp luận nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả đã dựa trên cơ sở phƣơng pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và dựa vào những
quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong vấn đề nghiên cứu
lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài khóa luận thuộc chuyên ngành lịch sử thế giới cận đại và hiện
đại, nên trong quá trình nghiên cứu tác giả đã vận dụng hai phƣơng pháp
chính là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lô-gíc để giải quyết các vấn đề
7


do đề tài đặt ra. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều các phƣơng pháp khác
nhƣ: phƣơng pháp sƣu tầm, phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng pháp liên ngành,
phƣơng pháp tổng hợp…
5. Đóng góp của khóa luận
Về mặt lí luận, việc nghiên cứu chính sách “ngoại giao nước” của
Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI nhằm:
- Tìm hiểu những nhân tố thức đẩy quá trình Trung Quốc thực hiện
chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực Mê Kông,
- Quá trình thực hiện và triển khai chính sách “ngoại giao nước” của
Trung Quốc và phản ứng của các nƣớc ở hạ nguồn Mê Kông khi Trung Quốc
thực hiện chính sách này
- Những tác động của loại hình ngoại giao mới này. Mặt khác, thông
qua việc nghiên cứu này làm nổi bật đặc điểm, tính chất của chính sách đối
ngoại của Trung Quốc trong những năm vừa qua.

Về phƣơng diện thực tiễn, việc nghiên cứu này góp phần lý giải những
biến động của tình hình chính trị - kinh tế thế giới, khu vực trong những năm
vừa qua, cũng nhƣ những tác động của nó đến các nƣớc láng giềng trong khu
vực, trong đó có Việt Nam.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phụ lục. Đề tài còn đƣợc cấu trúc gồm có 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Những nhân tố tác động đến chính sách “ngoại giao nước”
của Trung Quốc đầu thế kỉ XXI
Chƣơng 2: Quá trình thực hiện chính sách “ngoại giao nước” của
Trung Quốc và những tác động đầu thế kỉ XXI

8


CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC ĐẦU
THẾ KỈ XXI
1.1. KHÁI NIỆM “NGOẠI GIAO NƢỚC” (Water diplomacy)
1.1.1. Khái niệm Ngoại giao
Từ “ngoại giao” trong tiếng Anh là “Diplomacy”. Ban đầu, từ
“diplomatics” đƣợc dùng để chỉ việc bảo quản và đánh giá các tƣ liệu và
công văn chính thức, chủ yếu là các điều ƣớc quốc tế.
Đến thế kỷ XVIII, các tài liệu ngoại giao ngày càng có nghĩa là những
tài liệu liên quan đến quan hệ quốc tế, và từ “diplomatic corps”1 bắt đầu đƣợc
sử dụng. Năm 1796, nhà triết học ngƣời Anh Edmund Burke dùng cụm từ
“double diplomacy”2 để lên án chính sách ngoại giao nƣớc đôi của Pháp
trong chiến tranh Napoleon, và kể từ đó thuật ngữ “diplomacy” đã đƣợc sử
dụng rộng rãi gắn liền với chính trị quốc tế và chính sách đối ngoại.
“Ngoại giao” theo cách hiểu phổ biến nhất là việc thực hiện các mối

quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền thông qua liên lạc, thƣơng lƣợng, gây
ảnh hƣởng cũng nhƣ điều chỉnh những khác biệt. Hoạt động ngoại giao đã
xuất hiện từ lâu đời ở nhiều nền văn minh trên thế giới, tiêu biểu nhƣ ở Trung
Quốc và Hy Lạp cổ đại.
Trải qua nhiều thế kỷ, việc tiến hành công tác ngoại giao chính thức
thƣờng đƣợc thực hiện qua việc cử các phái đoàn ngoại giao đến các quốc gia
khác nhau. Điều này tạo nên hệ thống liên lạc rõ ràng tuân thủ theo các

1

Diplomatic corps (tức Phái đoàn Ngoại giao) là cơ quan tập thể của các nhà ngoại giao ở nƣớc ngoài đƣợc

công nhận cho một quốc gia hoặc cơ quan cụ thể.
2

Double diplomacy (tức ngoại giao kép) là một biến thể của ngoại giao tiêu chuẩn với bản đồ chuẩn. Mỗi

ngƣời trong số bảy ngƣời chơi điều khiển hai sức mạnh lớn thay vì một, nhƣng mỗi sức mạnh tuyệt vời cũng
đƣợc kiểm soát bởi hai ngƣời chơi.

9


nguyên tắc đƣợc công nhận giữa các quốc gia hữu quan nhƣ: trao đổi đại sứ,
duy trì hoạt động các đại sứ quán ở thủ đô và sự tham gia vào các cuộc họp
hay đàm phán.
Mặc dù vậy, hiện vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
ngoại giao. Theo nhà ngoại giao, nhà báo ngƣời Anh Harold Nicolson,
“Trong ngôn ngữ nói, từ “ngoại giao” được sử dụng để ám chỉ nhiều nội
dung rất khác nhau. Nó được hiểu là quan hệ đối ngoại, trong các trường hợp

khác lại ngụ ý là đàm phán. Từ đó cũng được sử dụng để nói đến cơ quan ở
nước ngoài của Bộ Ngoại giao. Cuối cùng từ đó còn có nghĩa là khả năng đặc
biệt khôn khéo trong đàm phán quốc tế và với nghĩa xấu là xảo quyệt trong
thương lượng”[5; tr.174].
Trong khi đó, từ điển của Pháp “Le Nouveau Petit Robert” định nghĩa:
Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến các mối quan hệ giữa các
quốc gia nhƣ đại diện quyền lợi của một chính phủ ở nƣớc ngoài, quản lý
công việc quốc tế, hƣớng dẫn và tiến hành đàm phán giữa các quốc gia.
Tại Việt Nam, giáo trình “Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại
giao” đƣa ra định nghĩa nhƣ sau: “Ngoại giao là một khoa học mang tính
tổng hợp, một nghệ thuật của những khả năng, là hoạt động của các cơ quan
làm công tác đối ngoại và các đại diện có thẩm quyền làm công tác đối ngoại
của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền hạn của quốc gia, dân tộc ở
trong nước và trên thế giới, góp phần giải quyết các vấn đề quốc tế chung,
bằng con đường đàm phán vá các hình thức hoà bình khác” [5; tr.175-176].
Hay trong “Từ điển Ngoại giao” của Liên Xô trƣớc đây do
A. Gromyk chủ biên thì ngoại giao đƣợc hiểu là công cụ thực hiện chính sách
đối ngoại của quốc gia, là tổng thể những biện pháp phi quân sự, những
phƣơng pháp, thủ thuật đƣợc sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm
của yêu cầu nhiệm vụ; hoạt động chính thức của ngƣời đứng đầu nhà nƣớc,
10


chính phủ, bộ trƣởng, bộ ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nƣớc
ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và
nhiệm vụ chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia,
pháp nhân và công dân mình ở nƣớc ngoài. “Đồng thời ngoại giao là nghệ
thuật đàm phán nhằm ngăn chặn hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm
cách thoả hiệp và đưa ra những giải pháp có thể được các bên chấp nhận
cũng như việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế” [4; tr.34].

1.1.2. Khái niệm “Ngoại giao nƣớc” (Water diplomacy)
Từ thuở sơ khai của xã hội loài ngƣời, nƣớc đã là nguồn cội của thách
thức, đổi mới và tiến bộ. Mọi ngƣời cần có nƣớc mỗi ngày với vô số mục đích
để đảm bảo sự sống, sức khỏe và sinh kế. Nhu cầu của con ngƣời ngoài việc
đƣợc phản ánh qua nhu cầu của tự nhiên, nhu cầu này chịu sự điều chỉnh của
chế độ thủy văn (gồm hạn hán và lũ lụt tức là khi sẽ có lúc có quá nhiều hay
quá ít nƣớc) thì còn chịu tác động của chính sách ngoại giao của các quốc gia
trong việc quản lí nguồn nƣớc xuyên biên giới.
Lợi ích liên quan đến nƣớc và các quan điểm về sử dụng nƣớc hiệu quả
nhất phục vụ cho lợi ích quốc gia rõ ràng là rất đa dạng. Giải quyết sự phức
tạp và đa dạng này là một thách thức xã hội và chính trị mà nếu áp dụng
phƣơng thức quản lý và quan hệ đối ngoại về nƣớc một cách áp đặt từ trên
xuống, bằng “mệnh lệnh - kiểm soát” sẽ không mang đến các giải pháp lâu
bền [40].
Với rất nhiều đòi hỏi khác nhau về cách thức sử dụng và quản lý nƣớc,
việc lựa chọn cách thức nào có thể ảnh hƣởng đến quyền lợi và lợi ích của
nhiều bên liên quan. Đối tƣợng có thể bị ảnh hƣởng bởi các lựa chọn này rất
đa dạng tùy theo từng vấn đề, từng mục đích sử dụng nƣớc có liên quan và
phạm vi của ảnh hƣởng ở cấp độ: cấp địa phƣơng, quốc gia, lƣu vực, khu vực
hay toàn cầu. Quyết định yếu kém trong các trƣờng hợp này có thể sẽ có thể
11


tạo ra sự tức giận, lờ đi hay làm mất đi quyền dùng nƣớc của các quóc gia
đang sử dụng nguồn nƣớc chung và có thể dẫn đến tranh chấp và xung đột.
Để ngăn ngừa và giải quyết xung đột về nƣớc, mối quan hệ về ngoại
giao nƣớc đƣợc đƣa ra tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác về nƣớc. Ngoại
giao và các công cụ so sánh hiện đang đƣợc áp dụng bởi nhiều quốc gia, nhà
nƣớc và phi nhà nƣớc để tạo điều kiện cho sự hợp tác đó. Ngoại giao nƣớc sẽ
giúp nâng cao và cải thiện hiệu quả của quá trình ngoại giao. Đây là tầm quan

trọng tối đa để xác định các yếu tố tác động đến sự hợp tác tại các cấp khác
nhau. Sự sẵn có, phân bổ và việc tiếp cận tài nguyên nƣớc xác định hạnh
phúc, thịnh vƣợng và ổn định xã hội trên toàn thế giới. Hiện tại, nhƣ nhu cầu
nƣớc ngọt tăng, tiếp cận đến các nguồn nƣớc ngọt trở thành vấn đề ngày càng
cấp thiết. Sự tiếp cận không bình đẳng kết hợp với các vấn đề khác của xã hội
(thất nghiệp, phân biệt đối xử trong xã hội,…) có thể làm sâu sắc hơn phân
chia giữa các quốc gia và tăng tiềm năng cho xung đột có thể xảy ra. Theo
Swyngedouw: "trên thực tế, không đồng đều quản lí hay kiểm soát nước luôn
là kết quả của kết hợp địa lý và điều kiện, lựa chọn kỹ thuật và chính trị sắp
đặt và nước. Bất bình đẳng phải được hiểu ngày càng trở thành kết quả của
sự tương tác lẫn nhau giữa ba yếu tố này " [41].
Trong trƣờng hợp xung đột tiềm ẩn các bên liên quan sẽ cần tìm cách
để giải quyết các vấn đề căng thẳng, để ngăn ngừa sự leo thang. Tuy nhiên,
một số bên có thể có lợi nhuận từ vấn đề đó, hoặc thậm chí thúc đẩy, xã hội
bất ổn và xung đột, vì họ có thể đạt đƣợc những ảnh hƣởng chính trị, đóng
cửa, và củng cố đảng cầm quyền của các quốc gia đó. Trong mối liên kết chặt
chẽ giữa các quốc gia với thế giới, nƣớc phải là một phần không thể tách rời
của bất kỳ thảo luận về nông nghiệp, năng lƣợng, y tế công cộng, vận chuyển,
môi trƣờng và tƣơng lai. Tuy nhiên, “vấn đề về nước rất phức tạp để quản lý,
vì những khớp nối phức tạp của họ với nhiều vấn đề trong tự nhiên và các
12


lĩnh vực xã hội, đến một địa điểm chia sẻ nguồn nước là cả vấn đề, cũng như
tìm ra các giải pháp khả thi là khó khăn do phân chia các giá trị và lợi ích”
[6; tr.92]. Gắn liền những khác biệt này đòi hỏi thoả thuận một quá trình
ngoại giao thuận lợi. “Ngoại giao nước” dựa trên một cách tiếp cận lợi ích
lẫn nhau, có thể đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong ngăn ngừa,
giảm nhẹ và giải quyết các mâu thuẫn nƣớc đang gia tăng.
Khái niệm về “ngoại giao nước” đƣợc xác định bởi các học giả khác

nhau và các tổ chức theo cách khác. Tuy nhiên, họ đều chia sẻ một sự hiểu
biết chung về tầm quan trọng của việc phải tiến hành “ngoại giao nước” bao
gồm các quyền lợi của nhiều quốc gia và các bên liên quan trong quá trình
hợp tác. Thực tiễn cho thấy xung đột liên quan đến vấn đề nƣớc ngăn chặn và
giải quyết vấn đề nƣớc phần lớn là kết quả của các quá trình nghiên cứu và
tìm hiểu thực tế, đàm phán, hòa giải và hòa giải có nguồn gốc từ một sự hiểu
biết sâu sắc về xã hội, văn hoá, kinh tế, môi trƣờng điều kiện và bối cảnh
chính trị của các quóc gia. Điều này đƣợc hỗ trợ bởi một đội ngũ các học giả
đánh giá và phân tích, tích hợp hệ thống nƣớc.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả đƣa ra khái niệm ngoại
giao nƣớc nhƣ sau: “Ngoại giao nước” bao gồm tất cả các biện pháp của nhà
nƣớc và các tổ chức phi nhà nƣớc có thể thực hiện để ngăn ngừa hoặc phòng
chống, giải quyết xung đột và tạo thuận lợi hợp tác liên quan đến khả năng có
nƣớc, phân bổ hoặc sử dụng bên ngoài và bên trong các quốc gia, công cộng
và tƣ nhân của các bên liên quan. Do đó, “ngoại giao nước” là những nỗ lực
liên quan có thể và sẽ diễn ra tại nhiều cấp tùy thuộc vào từng tình huống,
đƣợc chứng minh thông qua các nghiên cứu thực hiện dựa vào khuôn khổ
phát triển trong văn bản pháp lí. “Ngoại giao nước” có thể liên quan đến việc
đàm phám giữa các lãnh đạo cấp cao chính thức, sự tƣơng giao ngoại giao

13


giữa các quốc gia hoặc xây dựng mối quan hệ thông qua cuộc đối thoại không
chính thức.
1.1.3. Đặc điểm của “Ngoại giao nƣớc” (Warter diplomacy)
“Ngoại giao nước” là một nhánh của ngoại giao, áp dụng cho các cơ
chế song phƣơng và đa phƣơng để đàm phán về các vấn đề nƣớc với nhau và
giữa các quốc gia. Ngoại giao nƣớc là các vấn đề đối thoại, đàm phán và hòa
giải các xung đột lợi ích giữa các quốc gia cùng sử dụng chung một nguồn

nƣớc. Ngoại giao nƣớc bao gồm năng lực thể chế và chính trị quyền lực của
các quốc gia. Có rất nhiều kinh nghiệm ngoại giao, trong đó các phƣơng pháp
kỹ thuật và chính trị đƣợc tích hợp trong cùng một quá trình đàm phán nhƣ:
Đàm phán theo Công ƣớc của Liên Hợp Quốc năm 1997, về Sử dụng
không liên quan đến nguồn nƣớc quốc tế. Ví dụ đã chứng minh sự tích hợp
các vấn đề chính trị và kỹ thuật này mang lại những thỏa hiệp trong vấn đề
phân phối nƣớc và cải thiện môi trƣờng tâm lý nhằm thiết lập cho giải quyết
cuộc đấu tranh chính trị lớn hơn.
“Ngoại giao nước” (song phƣơng, đa phƣơng) là một công cụ để thực
hiện một số các mục tiêu liên quan đến lợi ích quốc gia của nhà nƣớc. Đó là
về đối thoại, đàm phán và giải quyết xung đột lợi ích giữa các quốc gia sử
dụng chung một nguồn nƣớc. Ngoại giao nƣớc có cùng đặc tính đề cập đến
trƣớc đó với mục đích kết luận các thỏa thuận về nƣớc, trong chiến lƣợc và kế
hoạch chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia của các nƣớc.
“Ngoại giao nước” liên quan đến năng lực thể chế và chính trị quyền
lực của các quốc gia. Tại các cơ quan đa phƣơng, quá trình ra quyết định là
khác nhau. Điển hình là Ủy ban Luật quốc tế (ILC) làm việc trên 25 năm trở
lên để đƣa ra một văn bản có thể chấp nhận đƣợc Đại hội đồng LHQ về Công
ƣớc về nƣớc năm 1997. Vì vậy, các công cụ ngoại giao nƣớc và kỹ thuật khác

14


nhau về đối thoại và các công cụ của “ngoại giao nước” là cần thiết để giải
quyết vấn đề phức tạp về quản lý nguồn nƣớc. Quá trình “ngoại giao nước”
sẽ thúc đẩy tốt hơn việc giải quyết các vấn đề trong việc sử dụng chung nguồn
nƣớc. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng trống trong ứng dụng của chính sách
“ngoại giao nước” đối với khu vực Mê Kông. Xây dựng năng lực và đào tạo
trong lý thuyết đàm phán, và kỹ năng là rất cần thiết để giải quyết xung đột về
nƣớc; đặc biệt nhấn mạnh vào đàm phán dựa trên sở thích, truyền thông xây

dựng kỹ năng và hỗ trợ đạt đƣợc thỏa thuận về nƣớc, hòa giải và vai trò và
phẩm chất của ngƣời hòa giải. Ngoài ra, các lời khuyên ngoại giao nƣớc để
đạt đƣợc thành công trong nƣớc các cuộc đàm phán có thể đƣợc trình bày.
Mặc dù các nhà nghiên cứu, các tổ chức đã đƣa ra định nghĩa khác nhau
về ngoại giao nƣớc, nhƣng đều có chung thỏa thuận xung quanh ba đặc điểm
cơ bản và có liên quan:
Thứ nhất, “ngoại giao nước” cần phải lồng ghép nhiều quan điểm.
Ngoại giao nƣớc giải quyết các vấn đề về chia sẻ tài nguyên nƣớc đòi hỏi các
nhà thủy văn, kỹ sƣ, các nhà chính trị gia, các nhà kinh tế học, các nhà xã hội
học và tất cả các bên liên quan cùng hợp tác để phát triển một sự hiểu biết đa
dạng về tính chất đa diện của nhu cầu về nƣớc và giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, “ngoại giao nước” có vai trò và tầm quan trọng của đàm
phán, hòa giải và truyền thông liên văn hoá. Ngoại giao nƣớc tìm kiếm các
giải pháp đƣợc đàm phán thông báo bởi khoa học và công nghệ để giúp giải
quyết các vấn đề về cấp nƣớc và chất lƣợng và nhu cầu cạnh tranh nguồn
nƣớc.
Thứ ba, “ngoại giao nước” sẽ hỗ trợ quá trình ngoại giao rộng lớn hơn.
Tham gia vào “ngoại giao nước” giống nhƣ là một doanh nghiệp song
phƣơng hoặc đa phƣơng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xác định
khu vực và chính sách đối ngoại quốc tế. Tạo cơ hội để phát triển lẫn nhau
15


trong mối quan hệ và hợp tác quốc tế. Hợp tác về các khía cạnh khoa học và
xây dựng năng lực cũng có thể cung cấp một lộ trình cho các hình thức đối
thoại chính trị khác.
1.2. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC MÊ KÔNG ĐẦU THẾ
KỈ XXI
1.2.1. Tình hình thế giới
Bƣớc vào thế kỷ XXI, thế giới ngày càng thay đổi nhanh chóng và các

quốc gia cũng phải điều chỉnh để theo kịp với những xu thế của thời đại. Gần
một thập kỷ qua, trên thế giới tồn tại song song các xu thế chủ yếu:
Thứ nhất, xu thế đa cực hóa và dân chủ hóa đời sống chính trị quốc tế
xuất hiện từ đầu thập niên 1990 và đang ngày càng phát triển. Nếu cho rằng
cục diện quốc tế từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt đến nay là “nhất siêu đa
cường”, thì cục diện trong 5-10 năm sau sẽ hƣớng tới “đa cường nhất siêu”.
Nói cách khác, trƣớc kia nƣớc Mỹ là siêu cƣờng duy nhất nắm quyền chi phối
thế giới, các nƣớc tranh thủ quan hệ tốt với Mỹ; thì ngày nay các nƣớc lớn
hợp tác nắm quyền chi phối thế giới, cạnh tranh gay gắt với Mỹ trên mọi lĩnh
vực. Trung Quốc từ vị thế yếu nhất trong các nƣớc lớn, đang nhanh chóng lớn
mạnh vƣơn tới vị trí đứng đầu các nƣớc này [7; tr.65].
Thứ hai, hòa bình và ổn định là một trong những xu thế nổi trội của
thời đại. Tƣơng quan lực lƣợng quốc tế thời gian qua có lợi cho bảo vệ hoà
bình, vì vậy tình hình quốc tế về tổng thể tƣơng đối ổn định. Điều này phù
hợp với nhu cầu của Trung Quốc muốn có môi trƣờng hòa bình để tập trung
phát triển kinh tế.
Mặt khác, “một sự chuyển dịch quyền lực toàn cầu về mức độ tổn
thương biểu hiện ở nguy cơ tiềm ẩn của các cuộc xung đột quân sự toàn cầu”
[7; tr.382]; cùng với sự tăng trƣởng kinh tế nhanh chóng nhƣng không bền

16


vững bên trong Trung Quốc, đã đƣa ra một khả năng có thể xảy ra sự chống
đối quy mô lớn. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã học đƣợc rằng “một cuộc
đối đầu quân sự với Mỹ và hoặc với Nhật Bản sẽ là một tai họa đối với nước
này” [44].
Do đó, Trung Quốc đồng thời phải vừa tránh một cuộc xung đột quân
sự, đặc biệt với Mỹ và những đồng minh thân cận; vừa đẩy mạnh các mối
quan hệ đồng minh song phƣơng và đa phƣơng với nhiều đối tác thƣơng mại

và chính trị.
Toàn cầu hóa và khu vực hóa là xu thế chủ đạo thứ ba của thế giới. Các
quốc gia đều ƣu tiên phát triển kinh tế, cạnh tranh trở nên vô cùng gay gắt,
nhiều cơ hội nhƣng cũng nhiều thách thức. Hợp tác toàn cầu và khu vực
không ngừng tăng lên, cách mạng khoa học - kỹ thuật đƣợc đẩy nhanh, sự phụ
thuộc giữa các nƣớc ngày càng chặt chẽ… Xu thế này buộc Trung Quốc nói
riêng, và các nƣớc khác nói chung, phải có những chính sách, chiến lƣợc gắn
liền với thế giới, hội nhập với thế giới, tận dụng cơ hội, gạt bỏ trở ngại để
vƣơn lên.
Tuy nhiên, thế giới vẫn đứng trƣớc nhiều vấn đề nan giải, thách thức
cần giải quyết. Chủ nghĩa bá quyền và chính trị cƣờng quyền vẫn tồn tại, xung
đột cục bộ ở một vài nơi vẫn xảy ra. “Thực tế chính trị thế giới gần hai thập
niên qua cho thấy địa – chiến lược vẫn là tiêu điểm của các mối quan hệ
chính trị rường cột trên thế giới” [7; tr.253-254]. NATO vẫn tiếp tục quá
trình Đông tiến. Các nƣớc lớn vẫn không ngừng tăng cƣờng tiềm lực quân sự,
chạy đua vũ trang. Cạnh tranh quyền lực ở các đại dƣơng và không gian vũ
trụ vẫn gia tăng. Các cuộc chiến tranh cục bộ ở Kosovo (1999), ở Afghanistan
(2001), Iraq (2003) hay ở Libya (2011) không đơn thuần chỉ là vấn đề nhân
đạo, nhân quyền, dân chủ hay chống khủng bố.

17


Kinh tế toàn cầu mất cân đối nghiêm trọng, hậu quả của cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới 2008 vẫn kéo dài đến tận bây giờ. Mối đe doạ an ninh
quốc tế và khu vực luôn rình rập và an ninh khu vực ngày càng ra tăng, lấn át
các vấn đề quốc tế nóng bỏng…
Ngoài ra, những vấn đề không chủ yếu trƣớc đây nhƣ đƣờng thủy,
quyền lợi của các quốc gia từ các dòng sông, tăng trƣởng dân số thế giới,
nguồn năng lƣợng mới, biến đổi khí hậu đang trở thành trọng điểm của quan

hệ quốc tế hiện nay. Những vấn đề hoặc đề tài thảo luận trên không chỉ dẫn
đến biến đổi hình mẫu quan hệ quốc tế, mà còn đòi hỏi các quốc gia phải đổi
mới tƣ duy, cập nhật tri thức, điều chỉnh góc nhìn nghiên cứu, thay đổi biện
pháp nghiên cứu, nếu không sẽ không theo kịp nhịp bƣớc của thời đại mới.
Bên cạnh đó, những thách thức này cũng đặt ra cơ hội cho Trung Quốc tham
gia nhiều hơn vào tiến trình giải quyết các vấn đề toàn cầu, đóng góp tiếng nói
và nâng cao vị thế của một nƣớc lớn trên trƣờng quốc tế.
1.2.2. Tình hình tiểu vùng Mê Kông
Sông Mê Kông dài 4.909 km, là con sông Mê Kông dài thứ 12 bắt
nguồn từ trên vùng núi cao 5000 m của cao nguyên Tây Tạng, Trung Quốc.
Tổng diện tích toàn lƣu vực là 795.000 km2 , gồm một phần chảy qua Trung
Quốc, Mianma, một phần ba chảy qua Thái Lan, toàn bộ Lào và Campuchia,
một phần năm chảy qua lãnh thổ Việt Nam đổ ra Biển Đông [8; tr.17].
Sông Mê Kông đƣợc chia làm hai phần, Thƣợng lƣu vực gồm phần
diện tích nằm trên lãnh thổ Trung Quốc và Mianma có diện tích 189.000 km2
(chiếm 24% diện tích lƣu vực) và phần Hạ lƣu vực, gồm phần diện tích nằm ở
bốn nƣớc Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam có diện tích là 606.000
km2 (chiếm 76% diện tích lƣu vực) [8; tr.24].

18


Không thể phủ nhận đƣợc những vai trò to lớn mà sông Mê Kông đem
lại cho các quốc gia có sông chảy qua. Sông Mê Kông quả xứng đáng là mạch
máu chính cho các nƣớc hạ nguồn của nó. Khoảng 70 – 80% lƣơng thực sản
xuất ở các quốc gia Thái Lan, Lào, Mianma và Việt Nam đều lấy nƣớc từ
sông Mê Kông, khoảng 50% diện tích lƣu vực sông Mê Kông đƣợc sử dụng
để sản xuất nông nghiệp và chúng ta có thể mạnh dạn khẳng định lƣu vực
sông Mê Kông là vựa lúa lớn nhất thế giới với hai cƣờng quốc xuất khẩu lúa,
gạo lớn là Thái Lan và Việt Nam. Gần 70 triệu dân dọc theo lƣu vực sông Mê

Kông sử dụng nguồn nƣớc này để sản xuất, sinh sống và sinh hoạt hàng ngày.
Do đó, tài nguyên nƣớc sông Mê Kông đƣợc khẳng định là quan trọng nhất,
đƣợc quan tâm nhiều nhất [9; tr.43].
Trong giai đoạn gần đây, tiềm năng phát triển của khu vực Mê Kông đã
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tƣ và các đối tác phát triển. Nắm bắt
đƣợc xu thể hội nhập khu vực và quốc tế. Đến nay, tại khu vực Mê Kông đã
hình thành nhiều cơ chế hợp tác trong nội khối các nƣớc Mê Kông cũng nhƣ
giữa các nƣớc Mê Kông với các đối tác lớn nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn
Độ,…. đặc biệt với Trung Quốc – một quốc gia ở vùng thƣợng nguồn [11;
tr.62].
Tiềm năng thuỷ điện của sông chính Mê Kông và các con sông nhánh
Mê Kông là rất dồi dào. Sông Mê Kông xếp thứ 10 trên thế giới về khối lƣợng
nƣớc. Tiềm năng thuỷ điện của dòng sông ƣớc tính 1000 tỷ KWh/năm về sản
lƣợng [8; tr 54].
Trong tiềm năng này, Lào và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chiếm phần
lớn nhất, tiếp đến là Mianma, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Dọc theo
dòng sông và các sông nhánh của sông Mê Kông có thể xây dựng hơn 100

19


×