Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Việc phân định biển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1991-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 72 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

======

BÙI LÝ HƢƠNG

VIỆC PHÂN ĐỊNH BIỂN TẠI
KHU VỰC NGOÀI CỬA VỊNH BẮC BỘ
GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1991-2015

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Trần Thị Thu Hà –
giảng viên bộ môn Lịch Sử - Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, ngƣời đã
dành rất nhiều thời gian và công sức tận tình chỉ bảo, định hƣớng và tháo gỡ
những vƣớng mắc trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, hỗ trợ tôi có
đƣợc những kỹ năng cần thiết để tôi có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này.
Tôi xin dành lời cảm ơn tới các giảng viên trong Khoa Lịch Sử, trƣờng
Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, đóng góp ý kiến và chỉnh sửa để bài
khóa luận của tôi có thể hoàn thiện hơn.
Tôi cũng xin đƣợc dành lời cảm ơn tới các thầy, cô đang công tác tại
Trung tâm Thƣ viện trƣờng Học viện Ngoại giao đã tạo điều kiện cho tôi có
thể tìm kiếm tài liệu để hoàn thành bài khóa luận này.


Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới những
ngƣời thân trong gia đình và bạn bè, những ngƣời đã luôn bên cạnh tôi khích
lệ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Bùi Lý Hƣơng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, do
tôi thực hiện với sự tham gia góp ý của các thầy cô giáo và tham khảo các tài
liệu.
Tôi xin cam đoan đề tài không trùng lặp với các đề tài khác và chịu
trách nhiệm về những thắc mắc đối với đề tài của tôi.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Bùi Lý Hƣơng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt
ASEAN
VBB

Tên tiếng Anh
Association of Southesast
Asian Nations

Tokin Gulf

Tên tiếng Việt
Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á
Vịnh Bắc Bộ


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu vấn đề .................................................... 3
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................. 3
5. Đóng góp khóa luận ................................................................................................... 4
6. Bố cục khóa luận ........................................................................................................ 4
Chƣơng 1: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC PHÂN ĐỊNH
BIỂN TẠI KHU VỰC NGOÀI CỬA VỊNH BẮC BỘ GIỮA VIỆT NAM VÀ
TRUNG QUỐC ................................................................................................. 5
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ LỢI ÍCH KINH TẾ KHU VỰC NGOÀI CỬA
VỊNH BẮC BỘ .............................................................................................................. 5
1.1.1. Vị trí địa lí ............................................................................................... 5
1.1.2. Lợi ích của Việt Nam và Trung Quốc tại khu vực ngoài cửa VBB .........10
1.2. YẾU TỐ PHÁP LÝ ............................................................................................13
1.2.1. Công ƣớc Geneva về luật biển năm 1958 ............................................. 13
1.2.2. Công ƣớc Liên Hợp Quốc về luật biển quốc tế năm 1982 ................... 15
1.2.3. Tuyên bố của khu vực về Biển Đông ..............................................................23
1.3. LỊCH SỬ PHÂN ĐỊNH VỊNH BẮC BỘ GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG
QUỐC............................................................................................................................26

1.4. THỰC TIỄN PHÂN ĐỊNH RANH GIỚI BIỂN GIỮA VIỆT NAM VÀ
CÁC QUỐC GIA TRONG KHU VỰC.....................................................................32


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐÀM PHÁN VIỆC PHÂN ĐỊNH BIỂN TẠI
KHU VỰC NGOÀI CỬA VỊNH BẮC BỘ GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG
QUỐC GIAI ĐOẠN 1991-2015 ..................................................................... 40
2.1. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƢƠNG PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI TRÊN BIỂN CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC . 40
2.1.1. Một số nguyên tắc phân định biển tại khu vực ngoài cửa VBB giữa Việt
Nam và Trung Quốc .....................................................................................................40
2.1.2. Một số phƣơng pháp giải quyết vấn đề phân định biển tại khu vực ngoài cửa
VBB giữa Việt Nam và Trung Quốc ..........................................................................42
2.2. HIỆN TRẠNG GIẢI QUYẾT PHÂN ĐỊNH BIỂN TẠI KHU VỰC NGOÀI
CỬA VBB GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 1991-2015 ....44
2.2.1. Quan điểm của Việt Nam và Trung Quốc về phân định khu vực biển ngoài
cửa VBB ........................................................................................................................44
2.2.2. Quá trình đàm phán phân định khu vực ngoài cửa VBB giữa Việt Nam
và Trung Quốc.................................................................................................45
2.2.2.1. Giai đoạn 1991-2001 ......................................................................................45
2.2.2.2.Giai đoạn 2001-2015 .......................................................................... 47
2.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT TRONG VIỆC PHÂN ĐỊNH TẠI KHU VỰC BIỂN
NGOÀI CỬA VBB......................................................................................................54
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 60
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 61


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Phân định biển và quá trình hoạch định đƣờng ranh giới giữa hai hay
nhiều quốc gia có các vùng biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau cũng nhƣ việc
xác định ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa luôn
là vấn đề cốt yếu của Luật biển quốc tế hiện đại. Sau khi Công ƣớc của Liên
Hợp Quốc về Luật biển 1982( Công ƣớc Luật biển 1982) có hiệu lực, vấn đề
phân định biển ngày càng trở nên bức thiết, bởi nó liên quan đến vấn đề chủ
quyền, các lợi ích kinh tế, an ninh- quốc phòng của các quốc gia cũng nhƣ
quyền tự do biển cả của các nƣớc giáp biển. Việc phân định biên giới biển,
ranh giới biển giữa các quốc gia là một quá trình phức tạp, lâu dài, đòi hỏi
nghiên cứu kỹ lƣỡng các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế.
Trong bối cảnh tình hình Biển Đông tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp,
việc hai nƣớc Việt – Trung tiến hành đàm phán phân định biển tại khu vực
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ (VBB) có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo cơ
sơ pháp lý cho quản lý và khai thác các vùng biển của hai nƣớc, đồng thời tạo
đà để hai bên tiếp tục sử dụng luật pháp quốc tế vào giải quyết những tranh
chấp tại Biển Đông.Tuy nhiên, việc đàm phán còn nhiều vấn đề cần giải quyết
và chƣa có bƣớc tiến triển do quan điểm của hai bên còn nhiều khác biệt, do
vậy, tiến trình đàm phán sẽ tiếp tục kéo dài và có nhiều diễn biến phức tạp.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài “Việc phân định biển
tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc giai
đoạn 1991-2015” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Qua đề tài này ,em
mong muốn sẽ hệ thống và tổng hợp đƣợc những nội dung cơ bản về việc
phân định biển, đánh giá đƣợc thực trạng đàm phán cũng nhƣ quan điểm mỗi
bên đƣa ra. Đồng thời đánh giá cũng nhƣ đƣa ra một số nhận xét về vấn đề
phân định biển tại khu vực ngoài cửa VBB giữa Việt Nam và Trung Quốc.

1


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Do đàm phán phân định biển tại khu vực ngoài cửa VBB giữa Việt Nam
và Trung Quốc là một vấn đề hoàn toàn mới, đang trong quá trình đàm phán
nên cho đến nay cả trong và ngoài nƣớc chƣa có một công trình nghiên cứu
nào viết về vấn đề này đƣợc công bố.
Tuy nhiên, lý luận chung liên quan đến phân định biển luôn là vấn đề
quan trọng đƣợc nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm. Các công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề phân định biển nhƣ: Luận án Tiến sĩ của Lê
Quý Quỳnh với đề tài “Các vùng biển Việt Nam: Chế độ pháp lý và phân
định”, tại Đại học Quốc gia Hà Nội- Luận án đã nghiên cứu cơ sở lý luận việc
điều chỉnh chế độ pháp lý của vùng biển và phân định biển bằng các quy
phạm luật quốc tế và quốc gia; Luận văn thạc sĩ của Phạm Công Dƣơng với
đề tài “ Vấn đề phân định tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam
và Trung Quốc theo công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982”, tại Học
viện Ngoại giao- Luận văn đã nghiên cứu các nguyên tắc và giải pháp phân
định tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.
Một số tạp chí nhƣ: Lê Công Phụng (2001), “Hiệp định phân định Vịnh
Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá giữa Việt Nam – Trung Quốc trong
Vịnh Bắc Bộ”, Tạp chí cộng sản, Số 2, Hà Nội.Nguyễn Bá Diến (2007), “Vấn
đề phân định biển trong luật biển quốc tế hiện đại”, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, Số 1, Hà Nội.Nguyễn Bá Diến (2009), “Quy chế pháp lý
quốc tế chung về biển, đảo và những vấn đề cần áp dụng cho Hoàng Sa,
Trƣờng Sa”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 25, Hà
Nội.
Ngoài ra, cũng có nhiều bài báo, tạp chí viết về vấn đề phân định các
vùng biển trên Biển Đông theo Công ƣớc Luật biển 1982. Nhƣ vậy, đã có
nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của tác giả nghiên cứu về những vấn đề
lý luận chung liên quan đến phân định biển. Song để đáp ứng nhu cầu phân
định biển hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc tại khu vực ngoài cửa VBB

2



thì chƣa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về vấn đề này, do
vậy đề tài góp một phần quan trọng vào việc nghiên cứu và giải quyết nhu
cầu bức thiết của nƣớc ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu vấn đề
- Mục đích:
Đề tài tập trung phân tích, đánh giá thực trạng việc phân định tại khu
vực ngoài cửa VBB giữa Việt Nam và Trung Quốc.
- Nhiệm vụ:
+Nêu lên những yếu tố tác động đến việc phân định biển tại khu vực
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt làm rõ đƣợc
việc phân định các vùng biển theo Công ƣớc Luật biển 1982.
+ Phân tích đƣợc tác động thực trạng qua các vòng đàm phán và quan
điểm của mỗi nƣớc về vấn đề phân định biển ngoài cửa VBB.
+ Rút ra những điểm tích cực và hạn chế của việc phân định khu vực
ngoài cửa VBB.
- Phạm vi
+ Về không gian: Đề tài nghiên cứu các vấn đề pháp lý dựa vào Công
ƣớc Luật biển 1982, các quan điểm của mỗi bên để áp dụng giải quyết cụ thể
tại khu vực ngoài cửa VBB giữa Việt Nam và Trung Quốc.
+ Về thời gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu từ năm 1991 đến 2015, đặc
biệt từ năm 2006 (năm 2006, thời điểm hai nƣớc Việt Nam và Trung Quốc
tiến hành cuộc họp vòng I Nhóm công tác liên hợp về phân định biển ngoài
cửa VBB). Ngoài ra còn một số phán quyết hoặc các sự kiện đã từng xảy ra
trƣớc năm 1991.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liệu:
+ Các công trình nghiên cứu của các học giả về vấn đề Vịnh Bắc Bộ
nhƣ: Nguyễn Bá Diễn, Lê Quý Quỳnh, Lê Công Phụng, Lê Tuấn Thanh


3


+ Các tạp chí nghiên cứu trong và ngoài nƣớc nhƣ: Tạp chí Đông Nam
Á, Thông tấn xã Việt Nam…
+ Các bài viết nghiên cứu Biển Đông trên các trang Web nhƣ:
nghiencuubiendong.net…
- Phương pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp đƣợc sử dụng chủ yếu là
phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic, ngoài ra sử dụng phƣơng pháp so
sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp và tiếp cận hệ thống…
5. Đóng góp khóa luận
- Về mặt lý luận: Khóa luận là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề
phân định tại khu vực biển ngoài cửa VBB giữa Việt Nam và Trung Quốc
dƣới góc nhìn lịch sử, góp phần nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc
phân định tại một khu vực cụ thể, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận
trong lĩnh vực này.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần cung
cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, tài liệu tham khảo cho những ngƣời quan
tâm đến vấn đề phân định biển tại khu vực ngoài cửa VBB. Đồng thời, khóa
luận là nguồn tƣ liệu trong nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề Biển Đông.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận,Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục, khóa luận bao gồm 2 chƣơng:
Chương 1: Những yếu tố ảnh hƣởng đến việc phân định biển tại khu
vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Chương 2: Thực trạng đàm phán việc phân định biển tại khu vực
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 19912015.

4



Chƣơng 1:
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC PHÂN ĐỊNH BIỂN TẠI
KHU VỰC NGOÀI CỬA VỊNH BẮC BỘ GIỮA VIỆT NAM VÀ
TRUNG QUỐC
1.1.

ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ LỢI ÍCH KINH TẾ KHU VỰC
NGOÀI CỬA VỊNH BẮC BỘ

1.1.1. Vị trí địa lí
Vùng biển Vịnh Bắc Bộ giới hạn từ vĩ độ 17o00 N đến 21o40 N và
105o40E đến 109o40E. Vùng biển ngoài cửa VBB đƣợc tính từ đƣờng cửa
vịnh ra đến khu vực quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa bờ biển lục địa miền
Trung của Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Diện tích toàn Vịnh
khoảng 126.250 km2(36.000 hải lý vuông). Nơi hẹp nhất của vùng biển ngoài
cửa VBB là đƣờng đóng cửa VBB (theo Hiệp định phân định VBB năm 2000
giữa Việt Nam và Trung Quốc), có chiều rộng khoảng 131 hải lý (243 km), là
đƣờng nối từ mũi Oanh Ca ( đảo Hải Nam ) đi qua đảo Cồn Cỏ đến bờ biển
lục địa Việt Nam. Nơi có khoảng cách rộng nhất của vùng biển ngoài cửa
VBB khoảng 222 hải lý (411 km) tính từ mũi Ba Làng An (Quảng Ngãi, Việt
Nam) đến mũi Mả Liu Thẩu (đảo Hải Nam, Trung Quốc). Phần Vịnh phía ta
có khoảng 1.300 hòn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất
liền nƣớc ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130
km.Vùng biển vịnh Bắc Bộ phía Việt Nam là vùng biển nông, đáy biển tƣơng
đối bằng phẳng, có 2 vịnh kín là vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long. Độ sâu
vịnh Bắc Bộ không lớn, trung bình 38,5m, sâu nhất không quá 100m. Vịnh có
hai cửa: eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với
bề rộng khoảng 35,2 km2 (19 hải lý) và cửa chính của Vịnh từ đảo Cồn Cỏ

(Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng khoảng 207,4 km2 (112 hải
lý).

5


Khu vực này là ngƣ trƣờng lớn kéo dài từ trong VBB ra ngoài cửa vịnh
về phía Đông và Đông Nam của đảo Cồn Cỏ, tàu thuyền đánh cá của ngƣ dân
ta từ nhiều tỉnh thƣờng đánh bắt tại đây. Khu vực này tồn tại tranh chấp ngƣ
trƣờng giữa Việt Nam và Trung Quốc, phía Trung Quốc thƣờng xua đuổi, bắt
giữ, xử phạt tàu cá của ngƣ dân ta hoạt động ở khu vực Tây và Tây Bắc quần
đảo Hoàng Sa.
Vùng biển ngoài cửa VBB liên quan đến hai nƣớc Việt Nam và Trung
Quốc có đặc điểm hình thái chung của đƣờng bờ biển tƣơng đối đơn giản, có
xu hƣớng tƣơng đối đồng nhất. Trong đó, bờ biển phía Trung Quốc nằm trên
đảo Hải Nam, chạy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam, sau đó chuyển Đông Bắc
– Tây Nam và là bờ biển của đảo, có tổng chiều dài khoảng 114 hải lý
(211km). Bờ biển phía Việt Nam là bờ biển của lục địa, chạy theo hƣớng Tây
Bắc – Đông Nam qua 5 tỉnh, thành phố là Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà
Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi; có tổng chiều dài khoảng 149 hải lý (276
km). Ở vùng biển này, ven bờ biển Việt Nam có một số đảo cách xa bờ (từ 8 –
10 hải lý) và mũi nhô ra phía biển nhƣ :
Đảo Cồn Cỏ: còn có tên gọi khác nhƣ Hòn Cỏ, Thảo Phù, đảo Con Hổ
hay Hòn Mệ. Đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị, có diện tích tự nhiên khoảng
2.5km2, dân số khoảng 600 ngƣời (năm 2013), cách đất liền khoảng 15 hải lý, ở
vị trí tọa độ 17010’ vĩ bắc và 107021’ kinh đông; có độ cao trung bình từ 7 10m so với mực nƣớc biển, điểm có độ cao lớn nhất là 63m. Đảo có ngƣ trƣờng
rộng khoảng 9.000 km2 với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế. Đảo Cồn Cỏ có
vị trí chiến lƣợc án ngữ toàn bộ phần bờ biển Trung bộ, gồm nhiều tuyến
đƣờng hàng hải trong nƣớc và quốc tế, do đó nó có vai trò rất lớn trong công
tác phòng thủ, bảo vệ an ninh quốc phòng vùng lãnh thổ, lãnh hải và là một địa

bàn quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội của hệ thống đảo, hải đảo và

6


vùng biển Việt Nam. Đảo Cồn Cỏ đƣợc hƣởng 50% hiệu lực theo Hiệp định
phân định VBB năm 2000 giữa hai nƣớc Việt Nam và Trung Quốc[22].
Bán đảo Sơn Trà: nằm trong địa bàn phƣờng Thọ Quang- quận Sơn
Trà- Đà Nẵng, trong đó Mũi Ghê của bán đảo Sơn Trà là điểm mà Đà Nẵng
vƣơn ra biển Đông xa nhất (mũi Đà Nẵng). Sơn Trà có diện tích 4439 ha đất
liền và biển, cách trung tâm thành phố 8km về phía Đông Bắc; có đỉnh cao nhất
là 696m so với mực nƣớc biển và nhiều đỉnh cao trên 500m. Bán đảo Sơn Trà
có chiều dài từ Đông sang Tây là 15km, chỗ rộng nhất là 6km, chỗ hẹp nhất là
2km. Với vị trí độc đáo của mình, Sơn Trà không chỉ giúp Đà Nẵng trở thành
một khu an toàn về hàng hải mà còn là đài khí tƣợng thủy văn cho cƣ dân trong
vùng [19].
Cù Lao Chàm: Là một cụm đảo trực thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách bờ biển Cửa Đại khoảng 8 hải lý (15km)
và đã đƣợc Cù lao Chàm bao gồm 8 đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn
Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông. Dân số trên các hòn đảo
này gồm khoảng 3000 ngƣời tập trung tại hai bãi chính trên Hòn Lao đó là bãi
Làng và bãi Hƣơng, nơi đây còn gắn liền với di tích văn hóa Chăm pa cùng với
lịch sử hình thành thƣơng cảng Hội An nổi tiếng một thời. Với hệ động thực
vật phong phú và những di tích lịch sử hàng trăm năm trƣớc, ngày 29/5/2009,
Cù Lao Chàm đƣợc UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới
trong phiên họp thứ 21 của Ủy ban Điều phối quốc tế chƣơng trình con ngƣời
và sinh quyển diễn ra tại đảo Jeju, Hàn Quốc [20].
Đảo Lý Sơn:Đảo Lý Sơn là huyện đảo duy nhất của Quảng Ngãi, nằm
về phía Đông Bắc, cách đất liền 15 hải lý (tính từ cảng Sa Kỳ ra). Toàn huyện
có 2 đảo: Đảo Lớn (còn gọi là Cù Lao Ré) và Đảo Bé (Cù Lao Bờ Bãi) gồm 3

xã: An Vĩnh, An Hải và An Bình (Đảo Bé). Diện tích tự nhiên gần 10km2. Dân
số trên 21000 ngƣời, có khoảng 60% hộ dân sống bằng nghề biển, 30% hộ dân

7


sống bằng nghề nông(chủ yếu là trồng hành, tỏi, ngô) và 10% hộ dân sống
bằng các nghành nghề khác. Lý Sơn nằm trên con đƣờng biển từ Bắc vào Nam
và nằm ngay cửa ngõ của Khu kinh tế Dung Quất cũng nhƣ của cả khu vực
kinh tế trọng điểm miền Trung. Vị thế này của Lý Sơn đã đƣa huyện đảo trở
thành đơn vị hành chính quan trọng và có vai trò đảm bảo an ninh chủ quyền
quốc gia trên biển [24].
 Diện tích, khoảng cách vùng biển liên quan ngoài cửa VBB
[3;tr.36]
Mục

Khu vực (vùng biển), khoảng cách

Diện tích, chiều dài
(km2, km)

1.

Chiều dài đƣờng cơ sở của Việt Nam (tính
từ đảo Lý Sơn – A10 đến đảo Cồn Cỏ -

150km2

A11)
2.


Nơi hẹp nhất vùng biển ngoài cửa VBB
(là đường đóng cửa vịnh, được nối từ mũi
Oanh Ca, thuộc đảo Hải Nam của Trung

243 km2

Quốc đi qua đảo Cồn Cỏ đến bờ biển
Quảng Trị của Việt Nam)
3.

Nơi rộng nhất vùng biển ngoài cửa VBB
(đường nối mũi Ba Làng An đến mũi Mả

411 km2

Liu Thẩu)
4.

Diện tích vùng biển ngoài cửa VBB tính
trong phạm vi giữa đƣờng cơ sở của hai
nƣớc (điểm nối từ Cồn Cỏ - Lý Sơn – Mả
Liu Thẩu – Oanh Ca)

5.

Chiều dài đƣờng bờ biển Việt Nam (tính

8


56.800 km2


từ tọa độ 16057’40” B – 107008’42” Đ

276 km2

thuộc bờ biển Quảng Trị đến tọa độ
15014’ B – 108057’ Đ thuộc mũi Ba Làng
An, bờ biển Quảng Ngãi)
6.

Chiều dài đƣờng bờ biển Trung Quốc (tính
từ mũi Oanh Ca đến mũi Mả Lui Thẩu

211 km2

thuộc bờ Tây Nam, Đông Nam đảo Hải
Nam)
7.

Tỷ lệ chiều dài đƣờng bộ biển liên quan
giữa Việt Nam/ Trung Quốc theo mục (5) 276/211 km = 1,3/1
và (6)

8.

Diện tích vùng biển ngoài cửa VBB tính
trong phạm vi giữa đƣờng bờ biển của hai
nƣớc (điểm nối từ tọa độ 16057’40” B –


57.630 km2

107008’42” Đ thuộc mũi Ba Làng An, bờ
biển Quảng Ngãi – mũi Oanh Ca – mũi
Mả Liu Thầu của đảo Hải Nam )
9.

Diện tích vùng chống lấn giữa đƣờng
trung tuyến bờ - bờ và đƣờng trung tuyến

1.245 km2

giữa hai đƣờng cơ sở trong phạm vi của
mục (4) và (8)
10.

Khoảng cách mũi Đà Nẵng (Việt Nam ) –
mũi Tran Chinh (Đảo Hải Nam – Trung

262 km

Quốc)
11.

Chiều dài đƣờng bờ biển Việt Nam (tính
từ tọa 16057’40” B – 107008’42” Đ thuộc
bờ biển Quảng Trị đến mũi Đà Nẵng)

9


157 km


12.

Chiều dài đƣờng bờ biển Trung Quốc (tính
từ mũi Oanh Ca đến mũi Tran Chinh)

13.

Tỷ lệ chiều dài đƣờng bờ biển liên quan
giữa Việt Nam/ Trung Quốc theo mục (11)
và (12)

14.

107 km

157 km/107 km=
1,46/1

Diện tích vùng biển ngoài cửa VBB tính
trong phạm vi giữa đƣờng cơ sở hai nƣớc
(điểm nối từ Cồn Cỏ - Mũi Đà Nẵng – Mũi

28.710 km2

Tran Chinh – Oanh Ca)
15.


Diện tích vùng biển ngoài cửa VBB tính
trong phạm vi giữa đƣờng bờ biển của hai
nƣớc (điểm nối từ tọa độ 16057’40” B –

31.040 km2

107008’42” Đ thuộc bờ biển Quảng TRị mũi Đà Nẵng – mũi Tran Chinh- Oanh
Ca)
16.

Diện tích vùng chống lấn giữa đƣờng
trung tuyến bờ - bờ và đƣờng trung tuyến

1.100 km2

giữa hai đƣờng cơ sở trong phạm vi của
mục (14) và (15)

1.1.2. Lợi ích của Việt Nam và Trung Quốc tại khu vực ngoài cửa
VBB
Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lƣợc quan trọng đối với Việt Nam và Trung
Quốc cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh. Vịnh cũng là nơi chứa đựng tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt là hải sản và dầu khí.
Về hải sản, đại bộ phận các ngƣ trƣờng chính là nằm gần bờ biển Việt
Nam và Tây Nam đảo Bạch long Vĩ. Vịnh Bắc Bộ là một trong những ngƣ
10


trƣờng và nguồn cung cấp hải quan quan trọng cho hai nƣớc Việt Nam và

Trung Quốc.
Khu vực giữa vịnh và cửa vịnh có bồn trũng Sông Hồng có khả năng chữa
dầu khí. Xung quanh khu vực đảo Vị Châu (phía Đông Bắc vịnh) gần bờ biển
Trung Quốc đã phát hiện và khai thác một số mỏ dầu nhỏ, ở khu vực Đông
Phong cách đƣờng kinh tuyến 108003'13" khoảng 15 hải lý về phía Tây, Trung
Quốc công bố đã phát hiện đƣợc mỏ khí có trữ lƣợng khoảng 80 tỷ m3.
Hoạt động tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí ngoài cửa VBB của Việt
Nam bao gồm diện tích phần phía Đông – Đông Nam lô 111, lô 112 và các lô
từ 113 đến 119 và 141 đến 143 (Sơ đồ 3), nơi có mực nƣớc biển từ 50 đến hơn
2000m (khu vực lô số 140 - 143) và có diện tích khoảng 106.906 km2. Theo sơ
đồ phân bố các bể trầm tích Đệ Tam Việt Nam (sơ đồ 2), khu vực ngoài cửa
VBB bao gồm diện tích phần nam bể trầm tích Sông Hồng và diện tích bể trầm
tích Tây Hoàng Sa.
Bể trầm tích Sông Hồng nằm trong khoảng 105030’ – 110030’ kinh độ
Đông, 14030’ – 21000 vĩ độ Bắc. Về địa lý, bể Sông Hồng có một phần nhỏ
diện tích nằm trên đất liền thuộc đồng bằng Sông Hồng, còn phần lớn diện tích
thuộc vùng biển VBB và biển miền Trung thuộc các tỉnh từ Quảng Ninh, đến
Bình Định. Đây là một bể có lớp phủ trầm tích Đệ Tam dày hơn 14 km, có
dạng hình thoi kéo dài từ miền võng Hà Nội ra VBB và biển miền Trung. Tổng
diện tích của cả bể khoảng 220.000 km2, bể Sông Hồng về phía Việt Nam
chiếm khoảng 126.000 km2 trong đó phần đất liền miền võng Hà Nội và vùng
biển nông ven bờ chiếm khoảng hơn 4000 km2.
Bể Hoàng Sa là bể nằm ở vùng nƣớc sâu, nằm ngoài và có phƣơng cấu
truc vuông góc với địa lũy Tri Tôn. Phía Bắc – Đông Bắc bể Sông Hồng là bể
Tây Lôi Châu (Beibu Wan), bể này có phƣơng gần vuông góc với bể Sông

11


Hồng và giữa chúng không có ranh giới bể, tạo nên một đới phủ trầm tích chữ

Y.
Đối với Việt Nam:
Lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí ở khu vực của phía Việt Nam tại khu
vƣc ngoài cửa VBB có thể chia làm 2 giai đoạn:
-Giai đoạn trước năm 1990: Đây là giai đoạn nghiên cứu, thực hiện các
Hợp đồng thu nổ địa chấn 2D và khảo sát từ - trọng lực. Kết quả nghiên cứu đã
xác định đƣợc các bể trầm tích Đệ Tam tại thềm lục địa Việt Nam và các đơn
vị cấu trúc chính của từng bể, trong đó có bể trầm tích Sông Hồng, bể Hoàng
Sa. Đáng chú ý là trong hai năm 1973-1974, Việt Nam (chính quyền miền Nam
Việt Nam) đã hợp tác với các công ty Western Geophysical và Geophycial
Services Inc (Hoa Kỳ) tiến hành các khảo sát địa chấn 2D: (1) Dự án WA74HS (3.373km) khảo sát khu vực từ ngoài khơi bờ biển miền Trung bao trùm
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, gồm các lô dầu khí hiện nay 141, 142, 143
và 144; (2)Dự án WA74-PKB (5.328km) khảo sát ven biển Phú Khánh. Kể từ
sau khi thành lập Tổng cục Dầu khí năm 1975 (tiền thân của Tập đoàn dầu khí
Việt Nam ), hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí đƣợc tiếp tục triển khai mạnh
mẽ, rộng khắp trên toàn bộ thềm lục địa và trong vùng đặc quyền kinh tế 200
hải lý của Việt Nam, bao gồm cả khu vực Hoàng Sa, Trƣờng Sa, Tƣ Chính –
Vũng Mây [3;tr.39].
-Giai đoạn sau 1990 đến nay: Đây là giai đoạn nghiên cứu chi tiết và tiến
hành khoan các giếng tìm kiếm thăm dò dầu khí (chủ yếu tại phần diện tích
Nam bể trầm tích Sông Hồng) tại các lô khu vực cửa VBB (lô 111 - 119).
Riêng đối với các lô 117, 118, Việt Nam đang hợp tác chặt chẽ với tập đoàn
ExxonMobil (Mỹ), đã có phát hiện dầu khí và hiện nay đang xây dựng chƣơng
trình phát triển, trong một vài năm tới sẽ tiến tới khai thác. Tại khu vực các lô

12


143 và 144, Việt Nam cũng đã hoàn thành công việc khảo sát địa chấn
[3;tr.40].

Đối với Trung Quốc:
Hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí của Trung Quốc tại khu vực ngoài
cửa VBB (phần phía Đông bể Sông Hồng) đã đƣợc triển khai rất sớm (từ
những năm 1970), đƣợc triển khai liên tục và thƣờng xuyên vƣợt qua đƣờng
trung tuyến, xâm phạm các lô dầu khí của Việt Nam, điển hình là các hoạt
động:
-Năm 1997, Trung Quốc đã ký thỏa thuận phát triển mỏ Ledong ở khu
vực cửa VBB với Công ty ARCO của Mỹ. Cũng trong năm này, Trung Quốc
đã đƣa giàn khoan KANTAN – 03 vào hoạt động tại khu vực có tọa độ
17026’42” B, 108019’05” Đ, thuộc lô 113 của ta, cách Việt Nam 63 hải lý, hoàn
toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công
ƣớc Luật biển 1982.
-Năm 1998 mở thầu quốc tế 05 lô khu vực VBB, trong đó phạm vi hai lô
khu vực ngoài cửa vịnh lấn sang lô 111, 113 của ta.
-Năm 2004, Trung Quốc lại tiếp tục đƣa giàn khoan KANTAN – 03 vào
hoạt động tại lô 113 của Việt Nam.
- Năm 2006, Trung Quốc cũng đã tiến hành khảo sát địa chấn khu vực
Đông Bắc lô 113 + lô 111 Đông Nam bằng tàu Tân Hải và khảo sát 3D trên
diện tích khoảng 11.000 km2 tại lô 141 và 142 của Việt Nam (sơ đồ 3).
1.2.

YẾU TỐ PHÁP LÝ

1.2.1. Công ƣớc Geneva về luật biển năm 1958
Tại hội nghị quốc tế về luật biển đƣợc tổ chức ở Geneva (Thụy Sĩ) năm
1958, lần đầu tiên một hội nghị quốc tế đƣợc tổ chức với quy mô mở để bàn
luận về chế độ pháp lý của đại dƣơng và chi tiết hóa việc sử dụng các vùng
biển của đại dƣơng. Hội nghị đã nghiên cứu các dự thảo quy chế về biển mà

13



Ủy ban Liên hợp quốc về luật biển đã chuẩn bị. Trên cơ sở đó Hội nghị đã
thông qua đƣợc bốn Công ƣớc điều chỉnh chế độ pháp lý các vùng biển và
việc đánh bắt cá ở thế giới đại dƣơng. Các Công ƣớc đó là:
1. Công ƣớc về lãnh hải và vùng tiếp giáp (có hiệu lực ngày 10/9/1964).
2. Công ƣớc về thềm lục địa (có hiệu lực ngày 10/6/1964).
3. Công ƣớc về biển quốc tế (có hiệu lực ngày 30/9/1962).
4. Công ƣớc về đánh bắt cá và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật ở biển
cả (có hiệu lực ngày 20/3/1966).
Nhƣng đó là một kết quả còn khá khiêm tốn vì đại dƣơng đang tồn tại
rất nhiều vấn đề cấp thiết mà Hội nghị lần này còn chƣa đồng thuận.
Về bản chất, Hội nghị đã pháp điển hóa phần lớn các quy phạm luật biển
quốc tế hiện đại, lựa chọn các quy phạm dƣới dạng tập quán pháp quốc tế và
các quy phạm điều ƣớc điều chỉnh các quan hệ về chế độ pháp lý các vùng
biển và các hoạt động khác ở thế giới đại dƣơng. Phần giới thiệu của Công
ƣớc về biển đã nhấn mạnh rằng nội dung của Công ƣớc có tính chất nhƣ
Tuyên bố chung về các nguyên tắc của luật quốc tế, điều đó cũng có nghĩa là
nội dung Công ƣớc đã phản ảnh bản chất luật tập quán chung. Công ƣớc về
biển cả đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cái nhìn tổng thể của cộng đồng
về biển cả, cũng nhƣ lấy kết quả làm cơ sở để phát triển luật biển quốc tế
trong tƣơng lai.
Có thể nhận thấy rằng, việc thông qua các Công ƣớc Geneva về luật biển
năm 1958 đã khẳng định luật quốc tế đã bƣớc sang một giai đoạn phát triển
tiến bộ, vì các nguyên do sau đây:
Một là, trong Công ƣớc Geneva năm 1958 về thềm lục địa, lần đầu tiên
trong lịch sử pháp lý có các quy phạm phối hợp ở tầm quốc tế về đặc quyền
của các quốc gia ven biển trong quản lý nguồn tài nguyên ở thềm lục địa và
về giới hạn chiều rộng của nó. Tuy nhiên, trong giai đoạn sau đó, cùng với sự


14


phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các quốc gia mong
muốn thiết lập giới hạn mới về chiều rộng của thềm lục địa bằng các tiêu chí
mới cho phù hợp với luật quốc tế hiện đại và với vị thế của từng quốc gia (cần
nhấn mạnh, cho đến nay đang song tồn hai điều ƣớc quốc tế điều chỉnh quy
chế về thềm lục địa, đó là: Công ƣớc Geneva năm 1958 về thềm lục địa và
Công ƣớc Liên hợp quốc về luật biển 1982);
Hai là, Công ƣớc Geneva năm 1958 về vùng tiếp giáp cũng là một điểm
nhấn mới trong luật quốc tế vì đây là lần đầu tiên các quy phạm về khái niệm
và về quy chế pháp lý vùng tiếp giáp đƣợc ghi nhận trên cơ sở của một điều
ƣớc quốc tế đa phƣơng.
Công ƣớc Geneva năm 1958 về thềm lục địa định nghĩa thềm lục địa là
vùng đáy biển và lòng đất dƣới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia
ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này và
có ranh giới ngoài đƣợc xác định bởi hai tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn độ sâu: 200m – một tiêu chuẩn ấn định;
Tiêu chuẩn khả năng khai thác – một tiêu chuẩn động, mâu thuẫn với
tiêu chuẩn trên và chỉ phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật khai thác thềm lục địa
của quốc gia ven biển.
1.2.2. Công ƣớc Liên Hợp Quốc về luật biển quốc tế năm 1982
Công ƣớc về luật biển 1982 là điều ƣớc quốc tế tổng hợp (một bộ luật),
là mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực pháp điển hóa vì sự phát triển tiến bộ
của các quy phạm pháp luật quốc tế, đồng thời quy định cụ thể hóa hơn so với
Công ƣớc Geneva về luật biển năm 1958. Công ƣớc về luật biển 1982 đã quy
định chế độ pháp lý của đại dƣơng và điều chỉnh các dạng hoạt động cơ bản
về sử dụng, nghiên cứu, khai thác và chinh phục đại dƣơng phục vụ cho các
điều kiện phát triển kinh tế – xã hội hiện đại. Cần nhấn mạnh rằng, lần đầu
tiên trong Công ƣớc về luật biển 1982 có những quy phạm rất đặc biệt (Điều


15


311) điều chỉnh đƣợc sự “thăng bằng” về quyền và lợi ích giữa các quốc gia
có vị thế khác nhau: các quốc gia hùng mạnh, các quốc gia công nghiệp phát
triển, các quốc gia đang phát triển và các quốc gia ven biển.
Phân định biển là một vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia
nói riêng và an ninh quốc tế nói chung, đảm bảo việc khai thác và sử dụng
biển vì sự trƣờng tồn của con ngƣời. Việc phân định biển không chỉ có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định biên giới lãnh thổ quốc gia trên
biển đối với mỗi quốc gia có biển, mà đây còn là một vấn đề có tính nhạy cảm
vì liên quan trực tiếp đến chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích của các quốc
gia có liên quan. Do đó, để giảm thiểu xung đột lợi ích quốc gia, việc phân
định biển phải đƣợc tiến hành một cách hợp lý, tôn trọng và tuân thủ hệ thống
pháp luật quốc tế, cũng nhƣ những chứng cứ pháp lý – lịch sử đã đƣợc ghi
nhận và tồn tại trong lịch sử phát triển dân tộc ở mỗi quốc gia.
Công ƣớc về luật biển 1982 đã quy định cụ thể và rõ ràng về khái niệm,
quy chế cũng nhƣ phạm vi các vùng biển. Các quốc gia ven biển không chỉ có
lãnh hải rộng 12 hải lý, mà còn có những vùng biển khác nhƣ vùng đặc quyền
kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa rộng tối đa tới 350 hải lý tính từ đƣờng
cơ sở. Mặc dù, các quy định trong Công ƣớc về luật biển 1982 đã tạo điều
kiện tối đa để các quốc gia có biển mở rộng một cách đáng kể chủ quyền, các
quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình nhƣng thực tiễn còn nhiều các
vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các quốc gia có bờ biển nằm tiếp
liền hoặc đối diện nhau. Đó cũng chính là nguyên nhân làm phát sinh xung
đột, có nguy cơ đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế khu vực (ví dụ nhƣ
ASEAN), cũng nhƣ trên toàn thế giới (ví dụ nhƣ châu Á – Thái Bình Dƣơng).
Về phân định lãnh hải
Theo Công ƣớc về luật biển 1982, chiều rộng của lãnh hải đƣợc định chế

không quá 12 hải lý tính từ đƣờng cơ sở. Tuy nhiên, khi phân định ranh giới

16


lãnh hải có thể xuất hiện các “yếu tố” có thể ảnh hƣởng đến phân định ranh
giới lãnh hải. Ví dụ nhƣ sự hiện diện của các đảo và các công trình nhân tạo
trên biển v.v… Công ƣớc Geneva về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm
1958 (khoản 1, Điều 12) và Công ƣớc về luật biển 1982 (Điều 15) đã quy
định về việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia có bờ biển kề
nhau hoặc đối diện nhau: Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện
nhau, không quốc gia nào đƣợc quyền mở rộng lãnh hải ra quá đƣờng trung
tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của đƣờng cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận
ngƣợc lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trƣờng hợp do có
những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch
định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác.
Quy định trên đã ghi nhận phƣơng pháp đƣờng trung tuyến cách đều,
cũng nhƣ mở ra khả năng để các quốc gia liên quan có thể thoả thuận về một
giải pháp phân định khác dựa trên cơ sở có tính đến các yếu tố nhƣ danh
nghĩa lịch sử hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể về
danh nghĩa lịch sử hoặc hoàn cảnh đặc biệt chƣa đƣợc hai Công ƣớc nói trên
quy định cụ thể dẫn đến thiếu cơ sở pháp lý cụ thể để các quốc gia có liên
quan tiến hành đàm phán, thoả thuận về việc thừa nhận có sự hiện diện của
danh nghĩa lịch sử hay hoàn cảnh đặc biệt cũng nhƣ mức độ ảnh hƣởng của
các yếu tố này đến giải pháp phân định ranh giới lãnh hải. Thực tiễn quốc tế
về phân định lãnh hải và vùng tiếp giáp thƣờng gặp các “hoàn cảnh đặc biệt”
sau đây: Hình dạng bất thƣờng của bờ biển; sự hiện diện của các đảo; tuyến
đƣờng và luồng hàng hải…
Công ƣớc về luật biển 1982 không có qui định riêng biệt về phân định

vùng nội thuỷ và vùng tiếp giáp lãnh hải. Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ
quốc tế, khi phân định vùng nội thuỷ, các quốc gia có biển thƣờng áp dụng

17


tƣơng tự nhƣ các định chế đƣợc quy định tại Điều 15 Công ƣớc về luật biển
1982; còn việc phân định vùng tiếp giáp lãnh hải thì phức tạp hơn vì các điều
khoản quy định về vùng biển này nằm chung trong Phần II “Lãnh hải và vùng
tiếp giáp” của Công ƣớc về luật biển 1982. Việc đặt tên mục của Phần II,
Công ƣớc về luật biển 1982 là “Lãnh hải và vùng tiếp giáp” có thể là một quy
định “mở” để các quốc gia liên quan có thể áp dụng những quy định về phân
định lãnh hải trong Điều 15 Công ƣớc về luật biển 1982 cho việc phân định
vùng tiếp giáp lãnh hải.
Về phân định vùng đặc quyền kinh tế:
Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia không thiết lập vùng tiếp giáp
lãnh hải, mà chỉ thiết lập vùng đặc quyền kinh tế; bởi vì, vùng tiếp giáp lãnh
hải là một bộ phận đặc thù của vùng đặc quyền kinh tế; là hai vùng biển thuộc
quyền chủ quyển của quốc gia ven biển. Quy chế pháp lý vùng đặc quyền
kinh tế cũng điều chỉnh các hoạt động ở vùng tiếp giáp lãnh hải. Đây là hai
vùng biển nằm bên ngoài đƣờng biên giới quốc gia trên biển nên trong trƣờng
hợp xuất hiện nhu cầu về phân định ranh giới giữa vùng tiếp giáp lãnh hải,
các quốc gia có thể áp dụng (hay viện dẫn) Điều 74 “Hoạch định ranh giới
vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện
nhau” Công ƣớc Liên hợp quốc về luật biển năm 1982. Điều 74 Công ƣớc về
luật biển 1982 quy định nhƣ sau:
Một là, việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các
quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau đƣợc thực hiện bằng con
đƣờng thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế nhƣ đã nêu ở điều 38 Quy
chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng (khoản 1);

Hai là, nếu không đi tới đƣợc một thỏa thuận trong một thời gian hợp lý
thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV (khoản 2);

18


Ba là, trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan,
trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp
tạm thời có tính chất thực tiễn và không phƣơng hại hay cản trở việc ký kết
các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời
không phƣơng hại đến hoạch định cuối cùng (khoản 3);
Bốn là, khi một điều ƣớc đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan,
các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế
đƣợc giải quyết theo đúng điều ƣớc đó (khoản 4).
Về phân định thềm lục địa
Phân định thềm lục địa đƣợc quy định trong Điều 83 của Công ƣớc về
luật biển 1982. Cụ thể nhƣ sau:
Một là, việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ
biển tiếp liền hay đối diện nhau đƣợc thực hiện bằng con đƣờng thỏa thuận
theo đúng luật pháp quốc tế nhƣ đã đƣợc nêu ở Điều 38 Quy chế Tòa án quốc
tế để đi tới một giải pháp công bằng (khoản 1);
Hai là, nếu không đi tới một thỏa thuận trong một thời hạn hợp lý thì các
quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV Công ƣớc (khoản 2);
Ba là, trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia
hữu quan trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các
giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và không để phƣơng hại hay cản trở
việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp
tạm thời không phƣơng hại đến việc hoạch định cuối cùng;
Bốn là, khi một điều ƣớc đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan,
các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới thềm lục địa đƣợc thực

hiện theo đúng điều ƣớc đó [1].
Nhƣ vậy, việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ
biển tiếp liền hay đối diện nhau đƣợc ƣu tiên thực hiện bằng con đƣờng thỏa

19


×