1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VI ỆN CHÍNH TR Ị QU ỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
PHẠM VĂN HÙNG
KHÝA C¹NH TRIÕT HäC
TRONG MO M¦êNG HßA B×NH
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 62 22 03 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đăng Sinh
HÀ NỘI - 2017
1
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, lu ận án là công tr ình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận án
là trung th ực và chưa được công bố trong các công tr ình
khác.
Nghiên cứu sinh
Phạm Văn Hùng
2
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Ban Đào tạo, Khoa Triết
học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Trần Đăng Sinh đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Nghiên cứu sinh
Phạm Văn Hùng
3
4
MỤC LỤC
4
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử tộc người, người Mường đã tạo dựng nên một
nền văn hoá phong phú và giàu bản sắc. Trong đó, Mo Mường là nghi lễ tín
ngưỡng trung tâm trong đời sống tinh thần của người Mường và quy tụ hầu
hết các giá trị tư tưởng và văn hóa của người Mường. Chúng tôi chọn vấn đề
Khía cạnh triết học trong Mo Mường Hòa Bình làm đề tài nghiên cứu trong
luận án xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, Hòa Bình là "quê hương" tập trung sinh sống của người
Mường từ lâu đời. Điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội ở đây đã hình thành nên một
nền văn hoá Mường đặc trưng và phát triển các giá trị của Mo Mường đến mức
độ điển hình. Một số mường ở Hoà Bình có sự phân hoá rõ ràng giữa Mo,
Trượng, Mỡi1;có những dòng Mo Mường lớn với quy mô lễ thức đồ sộ và vốn
lời phong phú. Từ khi được phát hiện, Mo Mường Hoà Bình đã thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nghiên cứu Mo
Mường Hòa Bình vẫn tồn tại những khoảng trống và sự khác biệt. Do vậy,
nghiên cứu Mo Mường Hòa Bình đòi hỏi phải xem xét dưới nhiều góc độ, phải
bóc tách nhiều tầng lớp giá trị và phải hiểu nó trong mối quan hệ của nhiều
ngành khoa học, trong đó có triết học.
Thứ hai, Mo Mường Hòa Bình là hiện tượng văn hóa dân gian mang
tính nguyên hợp, hàm chứa tư tưởng triết học độc đáo về vũ trụ và nhân
sinh của tộc người Mường. Tuy nhiên, trong những năm qua, nghiên cứu tư
tưởng triết học Việt Nam trong lĩnh vực văn hoá dân gian vẫn ít được quan
tâm thực hiện. Những nghiên cứu về tư tưởng triết học Việt Nam chủ yếu
giới hạn trong phạm vi tư tưởng của người Việt. Tư tưởng của các tộc người
khác, trong đó có tư tưởng của người Mường vẫn là một khoảng trống. Do
1 Mo là nghi lễ tín ngưỡng được tổ chức trong đám tang để tiễn đưa linh hồn người chết về mường Ma (thế giới của
người chết). Trượng và Mỡi là nghi lễ tín ngưỡng có nhiệm vụ đuổi ma tà hại người và chữa bệnh cho người sống.
6
vậy, nghiên cứu khía cạnh triết học trong Mo Mường Hòa Bình là một hướng
nghiên cứu cần thiết góp phần tìm hiểu tư tưởng của người Mường, đồng
thời khẳng định và luận chứng cho sự tồn tại của tư tưởng triết học Việt
Nam trong lĩnh vực văn hóa dân gian.
Thứ ba, nghiên cứu khía cạnh triết học trong Mo M ường Hòa Bình
góp phần làm sáng tỏ nh ững giá tr ị đ ộc đáo c ủa Mo M ường Hòa Bình
trong kho tàng tư tưởng, văn hóa Vi ệt Nam và nhân lo ại. Qua đó, cung c ấp
thêm những căn cứ khoa học để đưa Mo M ường Hòa Bình tr ở thành di s ản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân lo ại 2. Việc nghiên cứu này còn cần
thiết vì nó góp phần thực hiện chủ tr ương của Đ ảng ta là: Xây d ựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đ ậm đà b ản s ắc dân t ộc [17, tr.
293]; đồng thời phải khai thác, phát huy nh ững giá tr ị và s ắc thái văn hóa
riêng của các tộc người nhằm củng cố s ự th ống nh ất dân t ộc, t ạo nên s ự
thống nhất trong tính đa dạng và phong phú c ủa n ền văn hóa Vi ệt Nam
[17, tr. 305]. Theo chủ tr ương này, vi ệc nghiên c ứu nh ững hi ện t ượng văn
hoá dân gian của các tộc người, trong đó có Mo M ường Hoà Bình c ủa t ộc
người Mường sẽ giúp nh ận diện nh ững s ắc thái đ ặc tr ưng làm nên di ện
mạo của tư tưởng, văn hóa Việt Nam và phát huy giá tr ị c ủa nó trong cu ộc
sống hiện nay.
Thứ tư, người Mường là tộc người có mối quan hệ gần gũi với người
Việt. Tộc người này chậm biến đổi hơn so với người Việt và còn lưu giữ
được nhiều yếu tố tư tưởng, văn hóa của người Lạc Việt. Trong hoàn cảnh
tư tưởng và văn hóa của người Việt đã, đang bị biến đổi, nhiều yếu tố bị mai
một thì việc tìm hiểu khía cạnh triết học trong Mo Mường Hoà Bình có thể
giúp chúng ta nhận thức sáng tỏ hơn tư tưởng của người Việt xưa về vũ trụ
2Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bìnhđang phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng với các nhà khoa học
tiến hành nghiên cứu, thẩm định và lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Mo Mường Hòa Bình là di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
7
và nhân sinh. Qua đó, chúng ta thấy được tính độc đáo trong tư duy dân gian
và thêm trân trọng các giá trị tư tưởng, văn hóa truyền thống của dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án phân tích làm sáng tỏ một số nội dung và giá trị triết h ọc
trong Mo Mường Hòa Bình.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án.
- Trình bày khái lược về bản chất, cấu trúc, c ơ sở hình thành và xu
hướng biến đổi của Mo Mường Hòa Bình.
- Phân tích nội dung của vũ trụ quan và nhân sinh quan trong Mo
Mường Hòa Bình.
- Phân tích giá trị của vũ trụ quan và nhân sinh quan trong Mo M ường
Hòa Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu khía cạnh triết học trong Mo Mường Hoà Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Mo Mường Hòa Bình được nghiên cứu từ khía cạnh triết h ọc thông
qua vũ trụ quan và nhân sinh quan của nó với tính chất là m ột nghi l ễ tín
ngưỡng trong quá trình vận động từ quá khứ đến hiện tại, đ ồng th ời phân
biệt với nghi lễ Trượng và Mỡi.
- Mo Mường Hòa Bình là một chỉnh thể gồm lễ thức Mo, lời Mo và diễn
xướng Mo. Tuy nhiên, luận án tập trung nghiên cứu nội dung lời Mo vì nó thể
hiện khá trọn vẹn vũ trụ quan và nhân sinh quan của người Mường trong Mo
Mường Hòa Bình. Các lễ thức Mo và quá trình diễn xướng Mo chịu sự chi phối
chủ yếu của quan niệm dân gian Mường về vũ trụ và nhân sinh được lưu giữ
trong lời Mo.
- Để đảm bảo tính thống nhất của đối tượng nghiên cứu, luận án chủ
8
yếu sử dụng lời Mo trong cuốn Vốn cổ văn hóa Việt Nam3. Ngoài ra, chúng tôi
cũng tham khảo thêm lời Mo trong một số cuốn như: Mo Mường (Mo Mường
và nghi lễ tang ma), Mo Mường Hòa Bình, Tang lễ cổ truyền của người
Mường.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án sử dụng cơ sở lý luận của c hủ nghĩa Mác - Lênin về mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, m ối quan h ệ gi ữa các hình thái
ý thức xã hội;tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm , đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về dân tộc,văn hóa và tín ngưỡng, tôn giáo.
- Luận án sử dụng một số lý thuyết nghiên cứu chuyên ngành khác
như: lý thuyết tương đối văn hoá, lý thuyết vùng văn hoá, lý thuyết biểu
tượng(4),...
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện ch ứng và duy v ật
lịch sử; kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phương pháp thống nh ất
giữa lịch sử và logic, phương pháp thống nhất giữa phân tích và t ổng h ợp,
phương pháp so sánh, phương pháp thông diễn h ọc, ph ương pháp văn b ản
học, phương pháp điền dã, phương pháp hệ thống - cấu trúc và một số
phương pháp khác.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
3 Việc tiếp cận trực tiếp lời Mo gặp nhiều khó khăn vì: thứ nhất, mỗi ông Mo chỉ thuộc một dung lượng lời Mo
nhất định và không muốn ngâm lời Mo ngoài tang lễ; thứ hai, lời Mo được diễn xướng trong tang lễ rất khó nghe
và khó hiểu (ngay cả với người Mường) vì nó chứa nhiều từ cổ; thứ ba, ông Mo quan niệm ngâm Mo để cho ma
nghe nên ông ít quan tâm đến người nghe; thứ tư, tang lễ Mường hiện nay chỉ còn tổ chức một vài lễ thức cơ bản
nên chỉ một phần nhỏ dung lượng lời Mo được ông Mo diễn xướng trong tang lễ. Thực tế trên cùng với việc lời
Mo Mường Hòa Bình tồn tại nhiều dị bản khác nhau nên chúng tôi phải dựa vào một bản Mo để tạo nên tính
thống nhất của đối tượng nghiên cứu. Trong luận án, chúng tôi chủ yếu sử dụng bản lời Mo trong cuốn Vốn cổ
văn hóa Việt Nam vì đây là bản Mo được kết hợp từ phần tư liệu của Trương Sỹ Hùng và đặc bệt là phần tư liệu
của Bùi Thiện sau mấy chục năm nghiên cứu, sưu tầmtại nhiều vùng mường ở Hòa Bình. Bản lời Mo Mường Hoà
Bình trong cuốn Vốn cổ văn hóa Việt Nam đảm bảo tính khoa học và tính đại diện để sử dụng làm tư liệu nghiên
cứu về Mo Mường Hòa Bình.
4() Trong khuôn khổ dung lượng có hạn của luận án, chúng tôi không có điều kiện trình bày nội dung của các lý
thuyết này vì phải ưu tiên cho phần nội dung của luận án.
9
- Luận án làm rõ bản chất, cấu trúc, cơ sở hình thành, t ồn t ại và xu
hướng biến đổi của Mo Mường Hòa Bình dưới góc độ triết học.
- Luận án là nghiên cứu triết học chuyên biệt đầu tiên về vũ trụ quan
và nhân sinh quan trong Mo Mường Hòa Bình.
- Luận án bước đầu đề cập đến một số giá trị triết học trong Mo
Mường Hòa Bình thông qua vũ trụ quan và nhân sinh quan c ủa nó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung thêm một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về Mo Mường Hòa Bình.
- Nội dung của luận án có ý nghĩa quan trọng để tiến hành nh ững
nghiên cứu tiếp theo về ảnh hưởng của Mo Mường Hòa Bình đ ối v ới đ ời
sống của tộc người Mường ở Hòa Bình.
- Luận án góp phần nghiên cứu tư tưởng triết học Việt Nam trong
lĩnh vực văn hóa dân gian.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong h ọc t ập, nghiên
cứu và giảng dạy những môn học liên quan đến tư tưởng triết h ọc Việt
Nam, tín ngưỡng và văn hóa dân gian Việt Nam,...
7. Kết cấu củaluận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, tài liệu tham kh ảo và ph ụ
lục; luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
Chương 1: Khái lược về Mo Mường Hòa Bình
Chương 2: Nội dung vũ trụ quantrong Mo Mường Hòa Bình
Chương 3: Nội dung nhân sinh quantrong Mo Mường Hòa Bình
Chương 4: Giá trị của vũ trụ quanvà nhân sinh quan trong Mo Mường Hòa
Bình
10
11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Các công trình nghiên cứu chung về Mo Mường (bao g ồm Mo
Mường Hòa Bình)
1.1. Các công trình nghiên cứu về bản chất và cấu trúc của Mo M ường
Người Mường là tộc người thiểu số và sinh sống tập trung ở vùng
đồi núi nên trong suốt thời kỳ phong kiến họ ít được quan tâm. Nh ững
nghiên cứu về người Mường và văn hóa Mường, trong đó có Mo M ường
mới được bắt đầu tiến hành từ thập niên 30 của thế kỷ tr ước.
Cuốn sách Người Mường - Địa lý nhân văn và xã h ộih ọc [15] của
J.Cuisinier được coi là công trình đ ầu tiên gi ới thi ệu v ề các l ễ th ức Mo và
diễn xướng Mo trong tang lễ của người M ường. Theo tác gi ả, đám tang
của người Mường diễn ra trong 12 ngày đêm, trong đó có 10 đêm đ ọc Mo
liên tục: đêm thứ nhất - Các thủ tục nhập quan; đêm thứ hai - Kể Đẻ đất
đẻ nước; đêm thứ ba - Nhìn Mường; đêm thứ tư - Đi thăm tổ tiên; đêm thứ
năm - Đi hầu kiện; đêm thứ sáu - Cuộc bán hoa; đêm thứ bảy - Xin đuông;
đêm thứ tám - Mo xuống; đêm thứ chín - Vần Va; đêm thứ mười - Nhắn
nhủ, dạy cư xử cách sống . Tuy nhiên, do mục đích của cuốn sách là nghiên
cứu chung về người Mường nên tác giả m ới ch ỉ miêu t ả m ột s ố nét c ơ b ản
về Mo Mường chứ chưa nghiên cứu sâu nghi l ễ này. Trong ph ần Nghi lễ
ma chay, tác giả chủ yếu thuật lại quá trình chu ẩn b ị cho các bu ổi đ ọc Mo
trong tang lễ mà không đề cập đến các giá tr ị trên nhi ều ph ương di ện c ủa
Mo.
Năm 1976, một phần lời Mo Mường Hoà Bình được in trong cuốn sách
Đẻ đất đẻ nước - Thơ dân gian dân tộc Mường [104] của Bùi Thiện, Thương
Diễm, Quách Giao. Trong quá trình gộp tư liệu nghiên cứu và sưu tầm lại với
12
nhau, ba tác giả nhận thấy 10 trong số 21 roóng 5 của Mo Tlêu6có sự trùng
hợp gồm: Đẻ đất, Đặt năm tháng, Đẻ trứng Điếng, Xin lửa, Trồng dâu nuôi
tằm, Làm nhà, Hỏi vợ, Cổn chu kéo lội, Đốt nhà tranh Chu, Săn Muông .Họ đã
thống nhất loại bỏ một phần bị coi là mê tín dị đoan ra khỏi cuốn sách.
Cuốn sách mắc phải hạn chế khi đặt roóng Nhìn Mường, Đối kiện và Cuổi
lìa vào phần phụ lục; đồng thời coi nó chỉ như một bộ phận có liên quan
đến MoĐẻ đất đẻ nước. Việc làm này đã phá vỡ tính hệ thống của Mo
Mường do sự chi phối của quan điểm bài trừ mê tín dị đoan thời kỳ đó 7. Tuy
còn một số hạn chế nhưng cuốn sách đã thể hiện sự cố gắng của các tác giả
trong quá trình nghiên cứu và sưu tầm lời Mo Mường. Lời Mo từ nguyên gốc
tiếng Mường dịch sang tiếng Việt ít nhiều lột tả được những nét văn hóa
độc đáo của tộc người Mường.
Cuốn sách Tuyển tập truyện thơ Mường (Thanh Hóa) [1] của Vương
Anh, Hoàng Anh Nhân ra đời dựa trên khối tư liệu khổng lồ được sưu tầm
trong một thời gian dài từ những người Mường am hiểu văn hóa và thông
thạo ngôn ngữ. Trong quá trình nghiên cứu, hai tác giả đã cố gắng sắp xếp
văn bản theo trật tự phù hợp với các sự kiện lịch sử, tâm lý, tình cảm và
phong tục của tộc người Mường; đồng thời đảm bảo tính chính xác của
ngôn ngữ Mường trong quá trình dịch sang tiếng Việt. Mặc dù vậy, cuốn
sách vẫn mắc phải một số hạn chế trong cách gọi tên khoa học và dịch
thuật. Phần lời Mo chuyển sang tiếng Việt chứa khá nhiều yếu tố được hiện
đại hóa với lối văn vần chau chuốt khiến cho bản sắc của tộc người Mường
5Roóng trong tiếng Mường có nghĩa là "một đoạn", giống với từ róng trong tiếng Việt.Roóng Mo tương ứng với
chương Mo. Một số mường ở Hòa Bình gọi là cát Mo, áng Mo hay rằng Mo.
6Mo Tlêu còn được gọi là Mo kể chuyện hay MoĐẻ đất đẻ nước.
7Thời kỳ này, Mo Mường bị coi là hiện tượng mê tín, dị đoan. Nhiều địa phương đã cấm tổ chức nghi lễ Mo
trong tang lễ, nhiềuông Mo bị tịch thu đồ nghề và bị cấm làm Mo. Do vậy, để tránh những rắc rối, các nhà
nghiên cứu, sưu tầm chỉ tập trung vào phần Mo kể chuyện, bởi đây là phần Mo phản ánh nội dung thần thoại và
truyền thuyết của người Mường.
13
thể hiện trong Mo Mường giảm đi khá nhiều.
Cuốn sách Mo (sử thi và thần thoại) dân tộc Mường [2] là thành quả
nghiên cứu, sưu tầm sau nhiều năm lăn lộn thực tế của Vương Anh và một số
người khác8 ở Thanh Hoá. Nội dung sách giới thiệu về Mo tang lễ - một pho
sử thi Mường đồ sộ với hai phần ngôn ngữ Việt và Mường. Quy mô bản Mo
gồm 113 roóng, có dung lượng mỗi phần khoảng 22.990 câu thơ Mo. Cuốn
sách đã chứng tỏ một tầm mới của những người làm công tác nghiên cứu, sưu
tầm và dịch thuật Mo Mường. Đây là một công trình công phu được hoàn
thành sau một quá trình lâu dài nghiên cứu, sưu tầm Mo Mường của các tác
giả.
Cuốn sách Vốn cổ văn hoá Việt Nam [42] được hoàn thành từ sự kết
hợp phần tư liệu của Trương Sỹ Hùng và Bùi Thiện nghiên cứu, sưu tầm ở
mường Vang9 và nhiều mường khác của Hòa Bình . Đến công trình này, phần
lời Mo Mường có diện mạo khá hoàn chỉnh, được chia thành 61 roóng với
khoảng 20.290 câu thơ Mo. Mỗi roóng Mo đều có phần chú thích và khảo dị,
tạo thuận lợi cho những người nghiên cứu không phải mất nhiều thời gian
tra cứu và so sánh giữa các dị bản. Cuốn sách đã kế thừa thành tựu nghiên
cứu của nhóm Vương Anh và nhóm Bùi Thiện trước đó nên đảm bảo tính
chính xác cao hơn. Khi xem xét lời Mo của các công trình đã được công bố thì
bản lời Mo trong cuốn Vốn cổ văn hóa Việt Nam đáp ứng khá tốt tính đại
diện và tính khoa học về mặt tư liệu văn bản để tiến hành nghiên cứu về
Mo Mường Hòa Bình.
Trong luận án tiến sĩ "Những bình diện cấu trúc của Mo Mường "
[100], Bùi Văn Thành áp dụng ph ương pháp h ệ th ống - c ấu trúc đ ể phân
8Công trình Mo (sử thi và thần thoại) dân tộc Mườngdo Vương Anh chủ biên cùng với sự tham gia của Bùi Nhị
Lê, Phạm Tố Châu và Lê Thành Hiểu.
9Hai tác giả hoạch định bản trục và lấy 6 dị bản để khảo tả. Phần tiếng Việt là sự ráp lại, đối chiếu, so sánh, chọn
lựa từ nguồn tư liệu nghiên cứu, sưu tầm của Bùi Thiện trong suốt 20 năm, được Trương Sỹ Hùng chỉnh lý; phần
tiếng Mường do Bùi Thiện phiên âm.
14
chia cấu trúc Mo Mường thành ba b ộ ph ận c ơ b ản g ồm: các l ễ th ức Mo,
diễn xướng Mo và ngôn bản Mo. Tác gi ả đã có nh ững phân tích đ ể ch ỉ ra
quá trình phát sinh m ột số y ếu t ố cấu thành Mo. Lu ận án giúp ng ười đ ọc
hình dung được một phần quá trình v ận động và quy mô đ ồ s ộ c ủa Mo
dưới góc độ văn học dân gian. Nh ững k ết qu ả nghiên c ứu trong lu ận có ý
nghĩa quan trọng để mở ra một h ướng ti ếp c ận m ới và có cái nhìn toàn
diện hơn về Mo Mường nói chung, Mo M ường Hòa Bình nói riêng.
Năm 2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình giới thiệu cuốn sách Mo
Mường Hoà Bình [125]. Trong đó, phần lời Mo được kết cấu thành bốn bộ
phận gồm: Mo sử thi, Mo nhòm, Mo cuổi lìa10 và Mo nghi lễ. Lời Mo có cả phần
phiên âm tiếng Mường và dịch sang tiếng Việt với q uy mô văn bản đồ sộ gồm
46 roóng, mỗi phần có khoảng 24.530 câu thơ Mo . Nội dung tư liệu của
cuốnMo Mường Hoà Bình được nghiên cứu, sưu tầm từ 12 ngày đêm Mo
thông qua việc phục dựng lại một đám tang cổ truyền của người Mường ở
xóm Lầm thuộc trung tâm của mường Bi xưa 11. Mo mường Bi có nội dung
mộc mạc nhưng cũng đã phản ánh khá đầy đủ về văn hoá Mường nói chung,
văn hóa Mường Hòa Bình nói riêng.
Cuốn sách Mo Mường [81] của Bùi Văn Nợi đ ược hoàn thành sau
một thời gian dài nghiên c ứu, s ưu t ầm Mo M ường ở m ường Bi. L ời Mo
bao gồm phần phiên âm tiếng M ường và ph ần d ịch sang ti ếng Vi ệt, dung
lượng mỗi phần khoảng gần 20.000 câu th ơ Mo . Tác giả đã chia cơ cấu
của Mo Mường theo th ời gian làm Mo g ồm 16 đêm Mo. Nhìn chung, cu ốn
sách đã giới thiệu khá tr ọn v ẹn ph ần l ời Mo M ường trong n ếp Mo c ủa
một ông Mo cụ thể ở mường Bi - Hòa Bình. Tuy nhiên, cũng gi ống nh ư
10Mo cuổi lìa là phần Mo nói về việc linh hồn người chết dặn dò và chia lìa (cuổi lìa) người sống trước khi ra đi
vĩnh viễn về thế giới riêng của họ - thế giới mường Ma.
11Mường Bi là mường lớn nhất trong các mường ở Hòa Bình trước đây, ngày nay thuộc huyện Tân Lạc, tỉnh
Hòa Bình. Năm 2002, Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Hòa Bình đã tiến hành phục dựng 12 đêm Mo Mường
trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học Nghiên cứu, sưu tầm Mo Mường ở Mường Bi, Tân Lạc - Hòa Bình.
15
một số công trình khác, tác gi ả m ới ch ỉ xem xét Mo M ường thu ần túy ở
phần lời và xác định bản chất c ủa nó là s ử thi th ần tho ại đ ược di ễn
xướng trong tang lễ của người M ường.
Cuốn Mo Mường Hòa Bình và Mo Mường đã thể hiện sự cố gắng của
tỉnh Hòa Bình và Bùi Văn Nợi trong việc lưu giữ vốn lời của Mo mường Bi.
Mo mường Bi có cốt cách riêng, tương đối ngắn gọn và lưu giữ được khá
nhiều yếu tố cổ. Tuy nhiên, nó không thể hiện rõ nét quá trình biến đổi, bổ
sung và hoàn thiện của Mo so với một số mường khác ở Hòa Bình. Nghiên
cứu Mo Mường Hòa Bình với tính chất là một nghi lễ tang ma đòi hỏi phải có
sự cẩn trọng khi lựa chọn lời Mo mường Bi vì ở đây không có sự phân hóa
giữa Mo, Trượng và Mỡi.
Trong cuốn sách Tang lễ cổ truyền người Mường, Quyển 3 [129], Bùi
Huy Vọng khẳng định, Mo là nghi lễ quan trọng nhất trong tang lễ c ủa
người Mường. Nghi lễ Mo chỉ được tổ chức khi có người chết, có ông Mo và
có điều kiện vật chất (đồ lễ, đạo cụ,...) để tiến hành trong một kho ảng
thời gian nhất định. Theo tác giả, nghi lễ Mo trong tang l ễ gồm hai ph ần:
thứ nhất, các lễ thức Mo gắn với cách trình bày mâm cúng và đồ vật cần có
trong nghi lễ; thứ hai, ông Mo và nội dung lời Mo. Trong cuốn sách, tác gi ả
cũng đã giới thiệu 10 lễ thức Mo và 10 roóng Mo tương ứng với khoảng
5.920 câu thơ Mo.
Năm 2015, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc cho ra mắt công trình sưu
tầm, nghiên cứu công phu của Bùi Thiện về các loại hình nghi lễ tín ngưỡng
của người Mường bao gồm Mo, Trượng, Mỡi là Đẻ đất đẻ nước và phong tục
đạo lý nhân văn Mường [109].Cuốn sách tập trung những nội dung quan
trọng nhất của Mo Mường bao gồm phần Mo Đẻ đất đẻ nước12; các roóng Mo
chuyển kiếp về với tổ tiên và đạo lý Mường; tế trời đất, tổ tiên và mại nhà xe;
12Bùi Thiện chia Mo Đẻ đất đẻ nước thành hai phần gồm: Sử thi về vũ trụ, về cuộc chiến sinh tồn và đạo lý
trong tang hiếu và thờ lễ.
16
cầu mát lành.Bên cạnh đó, tác giả còn giới thiệu đôi nét về Mo - Trượng - Mỡi,
đồng thời trình bày một số điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng.
Nếu như việc nghiên cứu, sưu tầm Mo Mường ở Hòa Bình và Thanh
Hóa đã được thực hiện trong một thời gian khá dài thì việc nghiên cứu, sưu
tầm Mo Mường ở vùng Sơn La được tiến hành muộn hơn. Đến thời điểm
này, có hai cuốn sách nghiên cứu, sưu tầm tiêu biểu nhất về Mo Mường ở
vùng Phù Yên - Sơn La với cả phần phiên âm tiếng Mường và dịch ra tiếng
Việt do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Đinh Văn Ân thực hiện gồm: Mo Đường lên trời [3] với 43 roóng, trong đó phần phiên âm tiếng Mường
khoảng 9.620 câu thơ Mo; Mo - kể chuyện Đẻ đất đẻ nước [4] với 10 roóng,
trong đó phần phiên âm tiếng Mường khoảng 3.570 câu thơ Mo.
Như vậy, những nghiên cứu về bản chất và cấu trúc của Mo Mường,
trong đó có Mo Mường Hoà Bình đã được các nhà nghiên cứu trong nước
quan tâm tiến hành từ những năm thập niên 60 của thế kỷ trước. Trong
vòng hơn nửa thế kỷ, các nhà nghiên cứu, sưu tầm đã nhiệt huyết làm việc
và giới thiệu được nhiều công trình về Mo Mường có quy mô từ vài nghìn
đến vài chục nghìn câu thơ Mo. Các công trình này đã xác lập Mo Mường trên
phương diện văn bản học và mang lại nguồn tư liệu tin cậy để tiến hành
những nghiên cứu tiếp theo về Mo Mường, trong đó có Mo Mường Hòa Bình.
1.2. Các công trình nghiên cứu về cơ sở hình thành và xu h ướng bi ến
đổi của Mo Mường
Trong quá trình khảo cứu, chúng tôi nhận thấy không có nhiều nghiên
cứu đề cập trực tiếp đến cơ sở hình thành và xu hướng biến đổi của Mo
Mường. Một vài bài viết khẳng định Mo Đẻ đất đẻ nước(Mo Tlêu) ra đời sớm
17
hơn Mo Tuông và Mo Vái13. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề thời điểm ra đời
của MoĐẻ đất đẻ nướcvẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau.
Cao Huy Đỉnh trong bài viết: "Về quá trình hình thành dị bản Đẻ đất
đẻ nước sưu tầm ở Thanh Hóa " [19] cho rằng, MoĐẻ đất đẻ nước hình
thành và hoàn chỉnh trên cơ sở người Mường đã là một tộc người cụ th ể
(như hiện nay) ở trên một vùng cư trú nhất định. Thời kỳ đó bao g ồm quá
trình tách khối Lạc Việt thành người Việt và người Mường, khi kinh t ế
vùng đồng bằng đã phát triển cao, có sự giao l ưu mạnh mẽ v ới văn hóa Hán
và hình thành ngôn ngữ, văn học truyền miệng Mường. Khác v ới quan
điểm của Cao Huy Đỉnh, Phan Hồng Ngư trong bài viết: " Hình thành nên tác
phẩm Đẻ đất đẻ nước là do sự gia công của nhiều thời đại " [73] cho rằng,
Đẻ đất đẻ nước là kết quả của một quá trình hình thành ở những giai đoạn
muộn hơn giai đoạn ra đời của thần thoại hay sử thi. Theo tác gi ả, không
nên xem Đẻ đất đẻ nước xuất hiện trong một thời kỳ nhất định nào. Nó là
kết quả của cả một quá trình, có sự gia công của nhiều th ời đại, có s ự đóng
góp của nhiều nền văn hóa, trong đó có cả văn hóa M ường và Kinh ở các
giai đoạn khác nhau.
Nhận định của Cao Huy Đỉnh và Phan Hồng Ngư trong hai bài viết trên
không giúp xác định được thời điểm Mo Mường ra đời. Bởi vì, Đẻ đất đẻ
nước đã lưu hành rất sớm trong dân gian Mường trước khi được quy tụ vào
Mo Mường ở giai đoạn muộn hơn. Tuy nhiên, quan điểm của hai nhà nghiên
cứu giúp định hướng cho chúng tôi nhận thức về sự hình thành Mo Mường
trên cơ sở các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa trong một quá
trình lịch sử lâu dài.
13Một số nhà nghiên cứu phân chia cấu trúc lời Mo Mường theo ba bộ phận gồm: Mo Tuông, Mo Vái và Mo Tlêu.
Mo Tuông bao gồm các roóng Mo kể về hành trình linh hồn xin dáng hình mới sau cái chết; sự tích các đồ dùng;
mời các vị thần linh về ban sức mạnh thiêng cho chuông, thanh kiếm và mời gọi thánh sư về giúp ông Mo hành lễ.
Mo Vái là những roóng Mo nói về cảnh vật và cuộc sống ở mường Ma và mường Trời (có nhà nghiên cứu gọi là
Mo xuống - Mo lên). Mo Tlêu kể về quá trình hình thành vũ trụ, lịch sử vạn vật, muôn loài và nguồn gốc thủy tổ
loài người.
18
Trong cuốn sách Diễn xướng Mo - Trượng - Mỡi [105], Bùi Thiện nhận
định: "Thời gian ra đời của các ông Mo cũng chỉ khoảng năm trăm năm, bởi
lẽ ở trên bàn thờ của ông Mo lâu năm nhất cũng chỉ có đến chín đời 14" [105,
tr. 20]. Theo tác giả, không ai có thể nắm được cụ thể nguồn gốc xuất x ứ
của Mo Mường. Trong dân gian Mường tồn tại một số huyền thoại giải thích
Mo đã có từ thời "đẻ đất đẻ nước"; Mo do Phật truyền dạy hay do người
Mường phát minh ra và sau này học thêm của người mường Trời. Sự giải
thích về nguồn gốc ra đời của Mo Mường được Bùi Thiện nêu ra như trên có
tính huyễn hoặc và không giúp tìm ra được sự thật về nguồn gốc xuất hiện
của nó. Yếu tố huyễn hoặc ấy không chỉ được thêu dệt nên bởi tâm thức
dân gian mà còn do chính các ông Mo đã chủ đích làm cho nó trở nên ly kỳ và
linh thiêng trước cộng đồng.
Trong cuốn sách Tang lễ cổ truyền người Mường, Quyển 1 [127], Bùi
Huy Vọng khẳng định, sơ khởi của nghi lễ đám tang Mường chắc chắn chưa
có Mo mà chỉ có một ông thầy hay một người phụ trách lo phần cúng khấn
trong các nghi lễ. Khi xã hội Mường phát triển đến một giai đoạn nhất định,
với nền văn học dân gian phong phú gồm các truyện thơ dân gian thì nghi lễ
Mo mới xuất hiện trong tang lễ của người Mường. Theo tác giả, người
Mường không có chính sử ghi chép nên không thể biết chính xác nghề Mo ra
đời khi nào. Đồng quan điểm với Bùi Thiện, tác giả cho rằng khi căn cứ vào
các đời làm Mo của một nổ15 Mo thể hiện trên mâm thờ thánh sư ông Mo thì
nghề Mo đã hình thành ở thời Lê Sơ (thế kỷ XV). Bởi vì, nổ Mo truyền nghề
được lâu nhất là khoảng 10 đời. Như vậy, ý kiến của Bùi Huy Vọng cũng
không tiến xa hơn được Bùi Thiện và nó cũng không làm sáng tỏ hơn về
14Mỗi đời làm Mo tương ứng với một đôi đũa và một bát cơm trên mâm thờ. Chúng tôi chưa phát hiện ông Mo
nào khai man thêm đời làm Mo. Tuy nhiên, chúng tôi không loại trừ khả năng có ông Mo cho thêm bát đũa để
tăng thêm uy tín cho nổ Mo của mình.
15Nổ Mo là gốc khởi phát của một bộ Mo được sáng tác từ một vị thánh sư (sư tổ) với quy mô, giọng điệu, cơ
cấu lễ thức và hệ thống lời khác với các bộ Mo khác.
19
hoàn cảnh ra đời của Mo Mường.
Trong bài viết "Sự hình thành, tồn tại và vận động của Mo Mường "
[101], Bùi Văn Thành đã đề cập đến hai yếu tố c ơ bản quy đ ịnh s ự hình
thành Mo Mường gồm: thứ nhất, Mo Mường hình thành từ ứng xử của
người Mường trong việc giải quyết vấn đề cái chết. Sự ứng x ử đó xu ất
phát từ quan niệm tìm một thế giới khác cho người chết, do con ng ười
không dễ dàng chấp nhận sự mất đi vĩnh viễn của đồng loại; thứ hai, Mo
Mường hình thành như là một sản phẩm sáng tạo văn hóa và nh ư mọi hiện
tượng văn hóa khác, sự hình thành của Mo chịu sự tác động c ủa đi ều ki ện
tự nhiên, cách thức sản xuất và những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định.
Như vậy, tác giả đã bước đầu nêu ra những yếu tố thuộc về c ơ s ở nh ận
thức, cơ sở kinh tế xã hội và văn hóa của Mo Mường.
Trong quá trình nghiên cứu về Mo Mường, đa số các nghiên c ứu ch ủ
yếu tiếp cận phần lời Mo dưới góc độ văn học dân gian. Vì v ậy, có r ất ít
nghiên cứu tiếp cận Mo Mường như một nghi lễ tín ngưỡng toàn v ẹn và đ ề
cập đến xu hướng biến đổi của Mo Mường nói chung, Mo Mường Hòa Bình
nói riêng.
Bùi Kim Phúc trong cuốn sách Nghi lễ Mo trong đời sống tinh thần
người Mường [85] khẳng định, trong quá khứ và cả tương lai đã và sẽ có
những "cuộc cách mạng" về Mo và ông Mo được coi là ch ủ th ể quan tr ọng
nhất trong những "cuộc cách mạng" đó. Ông Mo phải có nh ững thay đổi
trong hành lễ và điều chỉnh cách ứng xử để phù hợp với cuộc s ống ở t ừng
thời điểm và hoàn cảnh cụ thể. Nhìn chung, cuốn sách m ới chỉ t ập trung
phân tích về vai trò của ông Mo trong đ ời s ống tinh th ần ng ười M ường ở
mường Bi. Tác giả có phần thiếu chính xác khi nh ận đ ịnh r ằng trong quá
khứ và tương lai đã và sẽ có nh ững "cuộc cách m ạng" v ề Mo. B ởi vì, Mo
Mường dù đã có một quá trình bi ến đ ổi lâu dài nh ưng ch ưa có s ự thay đ ổi
20
về chất.
Trong cuốn sách Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Mường ở
Hoà Bình [28], Nguyễn Thị Song Hà nhận định: hiện nay người Mường ở
Hòa Bình không còn quá quan trọng việc phải tổ ch ức Mo linh đình đ ể th ể
hiện vị thế gia đình và tỏ lòng hiếu kính của con cháu v ới cha m ẹ, ông bà
lúc qua đời. Họ nhận thức rằng, việc tổ chức Mo cho người ch ết v ượt quá
khả năng kinh tế của gia đình sẽ là một gánh nặng đối v ới con cháu. Vì v ậy,
Mo trong tang lễ Mường sẽ ngày càng được tinh gọn , song vẫn đảm bảo
được những lễ thức quan trọng mang đ ậm sắc thái M ường, đ ồng th ời phù
hợp với quy định của Nhà nước và từng đ ịa ph ương. Các cu ộc Mo ngày
càng được rút ngắn và chủ yếu được tiến hành trong m ột đêm.
Trong cuốn sách Tang lễ cổ truyền người Mường,Quyển 2[128], Bùi
Huy Vọng đã phân tích về xu hướng biến đổi số lượng lễ thức Mo , quan hệ
giữa tang chủ với ông Mo và Chí chuốc(16) trong quá trình tổ chức Mo. Theo
tác giả, so với Mo trong tang lễ cổ truyền thì số lượng các lễ th ức Mo hiện
nay đang có xu hướng bị cắt giảm nhiều. Hiện nay, tang l ễ M ường ch ỉ còn
tổ chức từ 3 đến 4 lễ thức bắt buộc. Ông Mo trong xã h ội M ường đang có
xu hướng hoạt động chuyên nghiệp như một nghề mưu sinh và quá trình
tổ chức Mo đang có dấu hiệu thương mại hoá do s ự chi ph ối của các quan
hệ kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do trọng tâm của cuốn sách là nghiên c ứu
về tang lễ cổ truyền của người Mường nên xu hướng này ch ỉ đ ược tác gi ả
đề cập như một sự gợi mở ban đầu.
2. Các công trình nghiên cứu về vũ trụ quan và vũ trụ quan trong Mo
Mường (bao gồm Mo Mường Hòa Bình)
2.1. Các công trình nghiên cứu về vũ trụ quan
16()Chí chuốc là tên gọi dân gian của người Mường dùng để chỉ nghề của người chuyên đi giúp việc chuẩn bị
cho tang lễ. Chí chuốc có trách nhiệm phụ giúp tang chủ và ông Mo chuẩn bị đồ cúng tế. Trong quan niệm dân
gian Mường, Chí chuốc là người gánh đồ cho linh hồn người chết về thế giới mường Ma.
21
Nghiên cứu vũ trụ quan của một tín ngưỡng, tôn giáo, một tộc người
hay một trường phái triết học đã được đề cập đến trong nhiều công trình.
Tuy nhiên, các công trình này th ường trình bày tr ực ti ếp n ội dung vũ tr ụ
quan mà ít quan tâm đến vấn đề lý luận về vũ trụ quan.
Cuốn sách Vũ trụ quan[26] của Trần Văn Giàu là một trong số rất ít
nghiên cứu đã bước đầu đề cập đến lý luận về vũ trụ quan. Theo tác giả:
"Mỗi khoa học nghiên cứu một bộ phận của vũ trụ… Cho nên, các khoa học
càng gom góp được nhiều tài liệu bao nhiêu, thì càng thấy phải tổng kết các
phát kiến ấy bấy nhiêu. Tổng kết các phát kiến để có một quan niệm tổng
quát về vũ trụ. Quan niệm tổng quát về vũ trụ, được gọi tắt là vũ trụ quan"
[26, tr. 9-10]. Từ góc độ tiếp cận vũ trụ quan theo vấn đề cơ bản của triết
học, tác giả xác định có ba nội dung chính trong vũ trụ quan gồm: tồn tại
của ngoại giới, tức là thế giới bên ngoài con người (vật chất, không gian,
thời gian) tồn tại khách quan hay phụ thuộc vào ý thức; quan hệ giữa tồn tại
và tư tưởng (giữa tồn tại và tinh thần cái nào có trước, tác động lẫn nhau ra
sao?); đồng nhất giữa tồn tại và tư tưởng (con người có thể hiểu biết được
sự vật không?). Tác giả cho rằng, ngoài ba nội dung trên thì nguồn gốc sự
sống cũng là một vấn đề quan trọng của vũ trụ quan.
Các tác giả cuốn Đại từ điển tiếng Việt quan niệm: "Vũ trụ quan
được hiểu như thế giới quan" [135, tr.1785], tức là "cách thức nhìn nh ận và
giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội thành hệ thống" [135, tr. 1494].
Theo cách giải thích này, vũ trụ quan được đồng nhất v ới thế gi ới quan 17.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu triết học, các nhà nghiên c ứu không s ử d ụng
hai khái niệm với ý nghĩa đồng nhất như vậy. Thông th ường, th ế giới quan
17Khái niệm "thế giới quan" được I. Cantơ sử dụng lần đầu tiên trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán xuất
bản năm 1970, dùng để chỉ thế giới quan sát được với nghĩa là thế giới trong sự cảm nhận của con người.
22
được hiểu là "toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản
thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó" [132,
tr. 12]. Với ý nghĩa này, thế giới quan là những quan niệm chung chất về thế
giới, là phương thức tinh thần - thực tiễn của sự chiếm lĩnh hiện th ực. Nó
không chỉ là nội dung của những quan niệm về thế giới (tự nhiên, con người
và xã hội) mà còn là cách thức tự ý thức của con người, bao gồm cả niềm tin
và giá trị - dạng điều chỉnh quan trọng nhất của hoạt động sống và giao tiếp
[87 tr. 156 -157].
Một số công trình nghiên cứu như: Người Mường ở Hòa Bình [123]
của Trần Từ; Lịch sử tư tưởng Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ
biên(chương III. Tư tưởng của cư dân buổi đầu dựng nước doHà Văn Tấn
viết)[115]; Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức Việt cổ [140]củaTrần
Quốc Vượng,... đã sử dụng thuật ngữ vũ trụ luận khi phân tích quan ni ệm
về vũ trụ của người Mường và người Việt. Mặc dù, có một sự gần gũi nh ất
định giữa vũ trụ luận và vũ trụ quan nhưng hai khái niệm này có n ội hàm
khác nhau và là hai cách tiếp cận khác nhau. Trong triết h ọc và khoa h ọc
phương Tây, vũ trụ luận (cosmology18) được hiểu là lý thuyết nghiên cứu
nguồn gốc, sự tiến hóa và cấu trúc của vũ trụ; là một hệ thống quan niệm
có tính logic và khái quát trong các lý thuyết hay học thuy ết v ề vũ tr ụ (vũ
trụ vật lý). Do vậy, khó có thể khẳng định quan niệm dân gian c ủa ng ười
Mường hay người Việt về vũ trụ đã đạt đến trình độ vũ trụ luận nếu hi ểu
theo ý nghĩa đầy đủ của thuật ngữ này. Tuy nhiên, bỏ qua nh ững ý nghĩa
được sử dụng trong khoa học tự nhiên và triết học ph ương Tây, đ ồng th ời
18Cosmology cùng với lý thuyết nghiên cứu về bản chất của vũ trụ (bản thể luận theo nghĩa hẹp) tạo thành hai
nhánh của bản thể luận (theo nghĩa rộng - ontology) - lý luận nghiên cứu về bản chất của mọi tồn tại . Từ điển
Merriam Webster giải thích thuật ngữ vũ trụ luận(cosmology) theo hai nghĩa:thứ nhất, một nhánh của lý thuyết
siêu hình có mối liên hệ với bản chất tự nhiên của vũ trụ; một lý thuyết hay học thuyết mô tả sự sắp đặt tự nhiên
của vũ trụ; thứ hai,một nhánh của thiên văn học có mối liên hệ với nguồn gốc, cấu trúc, và các mối quan hệ
không - thời gian của vũ trụ [136]. Theo Bách khoa thư Triết học của Đại học Standford thì vũ trụ luận
(cosmology) được hiểu là những cố gắng của con người trong việc tìm hiểu ý nghĩa về vũ trụ với các học thuyết
về vũ trụ [137].
23
tập trung vào ý nghĩa của thuật ngữ vũ trụ luận trong nghiên cứu tư tưởng
của mỗi cộng đồng người thì có thể hiểu một cách tương đối: Vũ trụ luận là
quan niệm và cách lý giải của con người về vũ trụ. Ở khía cạnh này, có thể
thấy, nhiều vấn đề được đề cập trong vũ trụ luận cũng được đề cập đến
trong vũ trụ quan.
Trần Ngọc Thêm trong cuốn sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam
[102] đã tiếp cận vũ trụ quan của người Việt dưới góc độ văn hóa. Tác gi ả
phân chia văn hóa nhận thức của người Việt thành nhận th ức v ề vũ tr ụ và
nhận thức về con người. Nhận thức về vũ trụ giữ vai trò quan trọng, nó chi
phối và ảnh hưởng tới nhận thức về con người vì con người là m ột bộ
phận của vũ trụ. Theo tác giả, nhận th ức về vũ trụ của người Vi ệt bao g ồm
nhận thức về không gian (các tư tưởng Âm dương, Ngũ hành, Bát quái) và
nhận thức về thời gian (lịch pháp). Trong đó, thuyết Âm d ương gi ải thích
bản chất của vũ trụ và vạn vật; thuyết Ngũ hành, Bát quái thì giải thích
cấu trúc của vũ trụ và vạn vật [102, tr. 110].
Trong cuốn sách Thi ca bình dân Việt Nam: Tòa lâu đài văn hóa dân tộc,
Tập 3: Vũ trụ quan [54], Nguyễn Tuấn Long và Phan Canh cho rằng: "... nói
đến vũ trụ quan tức là nói đến những bầu trời vũ trụ trong tư tưởng giới...
Xưa nay, nói đến vũ trụ quan, người ta chỉ đề cập những học thuyết của các
triết gia. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận bất cứ một kẻ nào sống trong vũ
trụ, đều có những suy tư khi cảm giới con người tiếp xúc với các hiện tượng
bên ngoài, thì chúng ta cũng phải thừa nhận mỗi người, mỗi lớp người đều
có một vũ trụ quan, hoặc giống nhau, hoặc khác nhau" [54, tr. 6-7].
Mặc dù, các công trình nghiên cứu nêu trên không tr ực ti ếp đ ề c ập
đến khái niệm vũ trụ quan nhưng đã xác định một số nội dung c ủa vũ tr ụ
quan như: vấn đề bản chất của vũ trụ, vấn đề không gian và th ời gian c ủa
24
vũ trụ, vấn đề nguồn gốc sự sống của các l oài và con người trong vũ trụ.
Đây là những nội dung chủ yếu trong vũ trụ quan của hầu hết các cộng
đồng người, các trường phái triết học và các triết gia.
Trong một số cuốn sách viết về lịch sử triết học như: Lịch sử triết học
phương Đông [114] của Nguyễn Đăng Thục; Đại cương Lịch sử triết học
phương Đông cổ đại [10] của nhóm tác giả Doãn Chính, Nguyễn Thế Nghĩa,
Trương Văn Chung, Vũ Tình thường đề cập đến tư tưởng triết học của các
nhà tư tưởng Trung Quốc và các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại ở các vấn
đề vũ trụ quan, nhân sinh quan và nhận thức luận. Theo đó, vũ trụ quan
trong triết học phương Đông cổ đại bao gồm các vấn đề về sự hình thành,
bản chất của vũ trụ và vạn vật. Cuốn sách Lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam [12] do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên đã tìm hiểu, phân tích vũ trụ
quan của người Việt cổ thể hiện qua một số thần thoại và trống đồng. Theo
các tác giả: "Việc giải mã những ký hiệu trên mặt trống đồng cho thấy
người Việt cổ đã hình thành một vũ trụ quan rõ ràng gồm 4 thế giới..." [12,
tr. 43].
Nhìn chung, thuật ngữ vũ trụ quan đã được sử dụng trong một số
cuốn sách về lịch sử triết học phương Đông và lịch sử tư tưởng triết h ọc
Việt Nam. Tuy nhiên, các cuốn sách về lịch sử triết h ọc, đặc bi ệt là l ịch s ử
triết học phương Tây thường trình bày quan niệm về vũ trụ trong thế gi ới
quan. Mặc dù các công trình nghiên cứu trên đây chưa đề cập đến khái niệm
vũ trụ quan, song một số vấn đề của vũ trụ quan đã được nêu ra. Đây là
nguồn tư liệu quan trọng giúp chúng tôi đưa ra quan niệm về vũ trụ quan và
xác định những vấn đề cơ bản khi nghiên cứu về vũ trụ quan trong Mo
Mường Hòa Bình.
25
2.2. Các công trình nghiên cứu về vũ trụ quan trong Mo Mường
Trong cuốn sách Người Mường ở Hoà Bình [123], Trần Từ (bút danh
của Nguyễn Từ Chi) đã khám phá vũ trụ luận của người Mường qua nghi lễ
Mo trong tang lễ Mường dưới góc độ dân tộc học. Theo tác giả, quan niệm cổ
truyền của người Mường chia vũ trụ thành ba tầng và bốn thế giới gồm: tầng
giữa là mường Pưa (mường Bằng), tầng trên là mường Trời, tầng thấp nhất
là mường Pưa Tịn (mường Bằng dưới) và mường Vua Khú. Bên cạnh quan
niệm "vũ trụ ba tầng - bốn thế giới" là quan niệm "vũ trụ hai bên" gồm
mường Người và mường Ma. Những phát hiện trên của Trần Từ đã mở ra
hướng nhận thức quan trọng cho những nghiên cứu tiếp theo về vũ trụ quan
của người Mường trong Mo Mường Hòa Bình. Trên cơ sở đó, chúng tôi bổ
sung, phát triển một số nội dung mới trong quan niệm về cấu trúc vũ trụ,
đặc biệt là trình bày quan niệm về quá trình hình thành vũ trụ và nguồn gốc
sự sống mà tác giả chưa đề cập đến trong nghiên cứu của mình.
Trong cuốn sách Thử tìm hiểu những yếu tố tư tưởng triết học trong
thần thoại Việt Nam [49], khi đề cập đến thần thoại Mường, tác giả Phúc
Khánh dẫn ra chi tiết chim Ác - các và Ùa - quê 19 ấp mỗi quả trứng trong
những khoảng thời gian khác nhau (50 ngày và 100 ngày) để đẻ ra con
người thuộc nhiều dân tộc. Từ đó, tác giả nhận định: "Ng ười x ưa đã bước
đầu biết được cái giới hạn mà một vật này hay hiện tượng này chuy ển
thành vật khác, hiện tượng khác... Tất nhiên, yếu tố biện ch ứng này còn
hoàn toàn tự phát và có tính chất trực quan" [49, tr. 38]. Theo tác gi ả, bên
cạnh yếu tố duy vật mộc mạc và biện chứng tự phát, về cơ bản thần thoại
Mường20 có tính chất duy tâm thần linh chủ nghĩa; thế giới th ần linh ngày
19Chim Ác - các, Ùa - quê mà tác giả Phúc Khánh nhắc tới trong cuốn sách của mình chính là chim Ây - Ứa
trong Mo Mường Hòa Bình.
20Thần thoại Mường được lưu giữ trong Mo Mường.