Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Học thuyết kinh tế của Keynes

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.34 KB, 4 trang )

John Maynard Keynes
John Maynard Keynes là nhà kinh tế học Anh, được các học giả phương Tay coi là một trong những người có
tính sáng tạo nhất trong lịch sử văn hoá tư tưởng nhân loại vào nửa đầu thế kỷ 20. Thật vậy, ông là nhà kinh tế
học có ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế học phương Tây hịện đại và chính sách kinh tế của chính phủ.
Bố của ông là John Neville Keynes (1852-1949), là một trong những nhà kinh tế và giáo dục nổi tiếng, 18841911 giảng dạy Luân lý học ở trường ĐH Cambridge trong 27 năm, năm 1910-1925 là trưởng phòng giáo vụ
trường ĐH Cambridge và có viết hai quyển sách là “Logic hình thức” xuất bản 1884 và “Phạm vi và phương
pháp của kinh tế chính trị học” xuất bản năm 1891.
J.M. Keynes sinh ngày 05-06-1883 tại Cambridge, học trường công Idon, đạt giải thưởng huy chương vàng về
các môn toán học, Anh văn và VĂn học cổ điển. Năm 1902, 19 tuổi học chuyên toán ở học viện Hoàng gia
thuộc trường ĐH Cambridge.
Năm 1905 thi đỗ, sau khi tốt nghiệp, ông tiếp tục ở lại Cambridge học triết học với A. Whitehead, học kinh tế
học với Marshall-người theo trường phái cổ điển mới và Bigô người kế tục của Marshall.
Năm 1906, sau khi thi tuyển đựợc vào làm việc ở Bộ sự vụ Ấn Độ của chính phủ hai năm.
Năm 1908, nhận lời mời của Marshall về làm việc tại Học viện Hoàng gia thuộc trường ĐH Cambridge. Tại đây
ông giảng các môn nguyên lý kinh tế học và lý luận về tiền tệ, cùng năm đó ông viết lụân án “Bàn về xác suất”,
nhờ đó mà ông trở thành cán bộ nghiên cứu của Học viện Hoàng gia. Từ đó ông chia thời gian làm việc của
mình, một phần làm việc cho Học vịện Hoàng gia-giảng dạy tại trừờng ĐH Cambridge, một phần làm vịêc cho
Chính phủ hoặc giới tài chính tiền tệ cho đến năm 1942.

ông sáng lập ra câu lạc bộ kinh tế chính trị học, và đạt giảm thưởng Adam Smith do viết cuốn
“Phương pháp xây dựng chỉ số”. Từ 1909 đến 1915, trong thời gian ở Cambridge, ông không
những là nhà Toán học, mà còn đạt nhìều thành tựu về mặt kinh tế học và bắt đầu thu hút được
sự chú ý của mọi người. Trong suốt thời gian dài từ năm 1911 đến năm 1944 ông kiêm chức
chủ biên “Tạp chí kinh tế” của hiệp hội Kinh tế Hoàng gia. Từ 1913 đến 1914, giữ chức thư ký
ủy ban tiền tệ và tài chính Ấn Độ của Hoàng gia.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông chuyển từ trường ĐH Cambridge về Bộ Tài chính,
đường công danh thụân lợi, luôn luôn được trọng dụng và đề bạt, năm 1919 là trưởng đoàn đại
biểu tài chính tham dự hội nghị hòa ước Versailles ở Pari, nhưng do ý kiến bất đồng nên ông
đã tách khỏi đoàn đại biểu Anh. Sau khi trở về Cambridge với nổ lực bản thân, ông đã thành
lập “Hệ thống kinh tế học ứng dụng”.
Từ năm 1921 đến 1938, ông đã hoạt động đầu tư tiền tệ và trở thành thương gia giàu có, đồng


thời kiêm chức hội đồng quản trị công ty hỗ trợ bảo hiểm nhân thọ toàn quốc. Năm 1925 kết
hôn với diễn viên chính Liubovskaia của đoàn múa ba lê Nga, sinh được hai người on. Từ
1929 đến 1931, nhận chức ủy viên ủy ban điều tra tài chính và công nghiệp Michael Milon.
Mục đích chính của tổ chức này là quan tâm tới khó khăn về mặt trù bị và gom góp tiền vốn
của các xí nghiệp nhỏ. Năm 1930, ông giữ chức chủ tịch ủy ban cố vấn kinh tế nội các.
Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, một lần nữa ông lại là thành viên chủ yếu của ủy
ban tư vấn của bộ tài chính, trở thành nhân vật có tác dụng vô cùng quan trọng của giới tài
chính Anh trong thời chiến, ông rất quan tâm chú ý đến vấn đề tài chính do chiến tranh đem lại
và đã từng phụ trách đàm phán với Mỹ về vấn đề này.
Từ 1941 trở đi, ông công tác tại ngân hàng Anh. Năm 1942 ông được phong làm Nam tước
Tilon – Lord Keynes of Tilon. Năm 1944 ông đã dẫn đầu đoàn đại biểu Anh đến Mỹ tham dự
hội nghị tài chính tiền tệ quốc tế tổ chức tại thành phố Forest, trong hội nghị này ông đã có tác
dụng rất quan trọng, ông đã tích cực vạch kế hoạch thành lập hai tổ chức là tổ chức quỹ tiền tệ
quốc tế và Ngân hàng thế giới về tái thiết và phát triển do ông làm thống đốc. Năm 1945 ông
làm trưởng đoàn đại biểu tham gia đàm phán xin vay vốn của Mỹ. Năm 1946 đi Mỹ tham gia
hội nghị lần thứ nhất của tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng thế giới. Mất năm 63 tuổi
do bệnh tim.


Cuộc cách mạng của J.M. Keynes.
Sự thay đổi to lớn và sâu sắc về lý luận kinh tế phương tây và chủ trương chính sách của nó vào những năm 30
của thế kỷ 20 mà tiêu chí là sự công bố tác phẩm của J.M. Keynes. Trước J.M. Keynes, lý luận kinh tế truyền
thống cho rằng, cung sẽ tự động tạo ra cầu, cơ chế thị trường sẽ làm cho tất cả mọi mặt của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa trở nên cân đối, chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa hoàn toàn tốt đẹp, không có gì thiếu sót, không cần
phải có sự điều tiết, chủ trương tự do thả nổi, tự do cạnh tranh, tự do sản xuất, tự do mua bán.
Nhưng từ năm 1929 đến năm 1933, thế giới tư bản chủ nghĩa xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng
và kéo dài. Trước cuộc khủng hoảng đó, lý luận truyền thống chịu bó tay không có cách gì giải quyết, lý luận
kinh tế thị trường tự do mà lý luận truyền thống chủ trương và các chủ trương chính sách của nó đã bị đả kích
mạnh mẽ. Trong tình hình đó, theo yêu cầu của hiện thực kinh tế tư bản chủ nghĩa, lần đầu tiên J.M. Keynes
đứng ra phê phán và công kích lý lụân truyền thống, đưa ra hệ thống lý luận và chủ trương chính sách khác với

kinh tế học truyền thống, do đó xuất hiện cái gọi là “cuộc cách mạng Keynes”. J.M. Keynes cũng được gọi là
“Copernicus của lĩnh vực kinh tế học”. Cuộc cách mạng của J.M. Keynes, trên thực tế bao gồm năm bộ phận.
- Thứ nhất: Tiến hành một cuộc cách mạng về nhận thức đối với chế độ tư bản chủ nghĩa. Lý lụân truyền thống
cho rằng chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa là tốt nhất, không có gì thiếu sót, kinh té thị trường tự do thả nổi sẽ tự
động điều chỉnh và đi vào thế cân bằng, đạt đến sự bố trí tối ưu về tài nguyên, và có đầy đủ công ăn việc làm.
J.M. Keynes đã gạt bỏ giáo điều này. Ông thừa nhận các khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản, như thất nghiệp và
sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập, khả năng khủng hoảng trong việc thả nổi nền kinh tế của tư bản chủ
nghĩa.
- Thứ hai: Dùng thuyết nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để thay thế thuyết tự do kinh doanh trong trào lưu
kinh tế.
- Thứ ba: Về lý luận đã điều chỉnh học thuyết kinh tế truỳên thống, xây dựng hệ thống lý luận mới. Lý luận
truyền thống đặc biệt là từ Say trở lại tin theo giáo lý “sản xuất sẽ tự động tạo ra nhu cầu”, và lấy đó để phủ
định tính hiện thực của khủng hoảng kinh tế thừa phổ biến. J.M. Keynes xuất phát từ “Ba quy luật kinh tế lớn”,
rút ra kết luận nhu cầu có hiệu quả của tư bản chủ nghĩa sẽ không gây ra hiện tượng cung vượt cầu, hàng hoá do
nhà máy sản xuất ra không bán được, nhà máy không thể không thu hẹp satn xuất, giảm bớt nhân công.
- Thứ tư: Về mặt chính sách, cuộc cách mạng J.M. Keynes đã phủ nhận chính sách kinh tế tự do chủ nghĩa của
tư bản chủ nghĩa: tự do thả nổi, không cần can thiệp của nhà nước, xác nhận trong tình hình không có sự can
thiệp của nhà nước vào hoạt đỘng kinh tế, xã hội tư bản chủ nghĩa tất sẽ không đủ cầu có hiệu quả, từ đó không
thể có đầy đủ công ăn việc làm, chủ trương mở rộng chức năng của nhà nước, can thiệp một cách toàn diện vào
kinh tế, cho rằng đây là con đường duy nhất để chế độ kinh tế hiện hành tránh đựợc “hủy diệt toàn diện”. Về
mặt vận dụng chính sách cụ thể chủ trương áp dụng chính sách số hụt tài chính mở rộng, dùng chính sách lạm
phát tiền tệ để thay thế chính sách tiền tệ truyền thống.
- Thứ năm: Về phương pháp phân tích đã mở ra phương pháp phân tích kinh tế vĩ mô hiện đại, nghiên cứu tổng
lượng và nguyên nhân dao động của nó, để phân biệt với cái khác trước đây chỉ nghiên cứu sự phân tích kinh tế
vi mô về hành vi kinh tế của hàng hoá đơn lẻ, và của chủ thể hành vi kinh tế đơn lẻ.
Thực chất của cuộc cách mạng J.M. Keynes là đáp ứng nhu cầu thực tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền, thoát ra
khỏi lý luận truyền thống lấy tự do thả nổi làm nội dung căn bản để phân tích sự cân bằng, xây dựng học thuyết
kinh tế mới và chủ trương chính sách lấy việc quản lý nhu cầu và sự can thiệp của chính phủ làm tư tưởng trung
tâm, thoát ra khỏi cảnh cùng quẫn là kinh tế tư bản chủ nghĩa đành chịu bó tay trước khủng hoảng kinh tế, điều
chỉnh một chút dưới tiền đề duy trì và tăng cường sự thống trị của tư bản, từ đó làm cho nó tránh được sự hủy

diệt toàn diện.
Học Thuyết Kinh Tế Của J.M. Keynes
Điều mà J.M. Keynes ngay từ thời gian đầu đã tin tưởng sâu sắc và tuyên truyền vẫn là tư tưởng kinh tế chủ
nghĩa cổ điển mới mà đại biểu là Marshall và Pigou, chủ yếu nặng về nghiên cứu lý luận tiền tệ và chính sách
tiền tệ, nhưng lúc đó đã biểu hiện rất rõ ông chú trọng dùng lý luận để giải quyết vấn đề kinh tế thực tế, đặc
điểm cá tính mạnh mẽ xuyên suốt các giai đoạn trong cả cuộc đời của ông.
Tác phẩm kinh tế đầu tiên ông viết là “Tiền tệ và tài chính Ấn Độ”. J.M. Keynes chưa từng đến Ấn Độ, quyển
sách này chỉ là dựa trên những tư liệu ông tích lũy trong thời gian ông công tác tại Bộ sự vụ Ấn Độ của chính
phủ, tư tưởng cơ bản của cuốn sách là tuyên truyền chế độ kim bản vị, nhấn mạnh quan hệ của đồng tiền Ấn Độ
và đồng Bảng Anh.
Năm 1919, sau khi dự hòa ước Paris và từ chức vì quan điểm bất đồng, ít lâu sau ông viết quyển “Hậu quả kinh
tế của hòa ước”, cho rằng điều khoản hòa ước là hà khắc, là không công bằng, phản đối việc đòi nước Đức bồi
thường chiến tranh quá nặng, cho rằng như vậy sẽ dẫn đến sự méo mó của nền kinh tế Đức. Quyển sách này sau
khi xuất bản, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, làm J.M. Keynes nổi tiếng nhanh chóng.


Năm 1923 xuất bản cuốn “thuyết cải cách tiền tệ”, dựa vào thuyết số lượng tiền tệ truyền thống, ông đã phân
tích mối quan hệ của lưu thông tiền tệ và mức giá cả, và mối quan hệ giữa mức giá cả và mức sản xuất, phản đối
khôi phục chế độ kim bản vị trước đại chiến, chủ trương thực hiện ổn định vật giá và mức sản xuất bằng cách
quản lý tiền tệ.
Năm 1925, xuất bản cuốn “Hậu quả kinh tế của ngài Churchill”, ông đã phê bình thẳng thắng sự bất lực của
chính phủ thời chiến về việc giải quyết vấn đề thất nghiệp trong một thời gian kéo dài, chủ trương nhờ phương
thức vay vốn để xây dựng công trình công cộng làm biện pháp bổ cứu, và tiếp tục phản đối việc khôi phục chế
độ kim bản vị và khôi phục tỷ suất hối đoái trở lại như thời trước đại chiến.

sự biến đổi sức mua của đồng tiền với sự biến động của tích lũy và đầu tư.
Những điều trên đây là sự trình bày và phân tích quan trọng của ông về vấn đề tiền tệ. Cuộc
khủng hoảng 1929-1933 đã bao trùm toàn thế giới, tỷ lệ thất nghiệp ở nước Anh trong thời kỳ
chiến tranh chưa bao giờ thấp hơn 5%, có lúc còn đạt đến mức nghiêm trọng là gần 20%. Một
loạt vấn đề đó buộc J.M. Keynes phải suy nghĩ, ông đã thay đổi quan điểm từ chủ nghĩa tự do

thả nổi chuyển sang quan điểm nhà nước can thiệp vào kinh tế. Đồng thời, những biện pháp
mà một số nước Âu Mỹ đã dùng để can thiệp vào kinh tế, đặc biệt là “chính sách mới” do tổng
thống Mỹ Roosevelt thực hiện đã trực tiếp gợi ý cho J.M. Keynes. Năm 1926, ông phát biểu
bài “sự kết thúc của chủ nghĩa tự do thả nổi”, đưa ra một cách rõ ràng tính tất yếu của việc
quản lý đối với nền kinh tế. Năm 1933 ông phát biểu “con đường đi tới phồn vinh”, trình bày
rõ thêm một bước về tác dụng điều tiết vốn có của chính sách tài chính đối với nền kinh tế
quốc dân.
Sau khi tác phẩm nổi tiếng và quan trọng nhất của ông là “Lý thuyết chung về việc làm, lãi
suất và tiền tệ” ra đời, lập tức dẫn đến một cuộc tranh luận lớn và kịch liệt, nhưng hai bên
tham gia tranh luận đều công nhận phương pháp tư tưởng mới của ông. Việc công bố và thực
hiện “sách trắng về chính sách việc làm” vào năm 1944 chứng tỏ nhà nước đã chính thức thừa
nhận chủ nghĩa keynes. Cùng năm tại hội nghị Betton Woods, một phương án nhằm mục đích
thành lập Đồng minh thanh toán quốc tế, tức là phương án keynes, do J.M. Keynes chủ trương
thông qua các phương thức tỷ suất hối đoái ổn định và tỷ suất hối đoái biến động để thực hiện
buôn bán nhiều bên, đồng thời chuẩn bị thành lập một tổ chức quốc tế - tức là quỹ tiền tệ quốc
tế sau này – và đơn vị tiền tệ quốc tế “Bank”, nhưng đại biểu của Mỹ tẩy chay, cuối cùng
không được chấp nhận, mà chọn “phương án White” do Mỹ đưa ra, điều này đối với J.M.
Keynes quả là một thất bại không nhỏ.
Sau khi J.M. Keynes mất, làm thế nào để lý giải, ké thừa và phát triển tư tưởng của ông. Các nhà kinh tế theo
học thuyết Keynes, đều đưa ra kiến giải của mình, đặc biệt là sau khi thực hiện rộng rãi học thuyết Keynes đã
nảy sinh hàng loạt vấn đề mới, thất nghiệp và lạm phát đã xảy ra cùng một lúc vào những năm 70, mỗi người
một ý, tranh cãi liên miên, và hình thành cái gọi là “học thuyết hậu Keynes”, “học thuyết Keynes mới”, hoặc
“học thuyết Keynes hiện đại”.
Việc sửa đổi bổ sung và phát triển đối với tư tưởng Keynes của họ chủ yếu biểu hiện: Phát triển việc phân tích
so sánh trạng thái tĩnh ngắn hạn trước đây thành phân tích trạng thái động dài hạn, lấy việc phân tích quá trình
bổ sung cho việc phân tích bình quân, lấy nguyên lý gia tốc bổ sung thuyết số nhân, đưa ra các loại thuyết dao
động kinh tế và thuyết tăng trưởng kinh tế, cụ thể hóa các chính sách kinh tế, phác họa ra con đường kinh tế
tăng trưởng ổn định.
Học thuyết hậu Keynes đại thể phân thành hai phái, một phái là “trường phái cổ điển tổng hợp mới”-còn gọi là
trường phái chính sau Keynes, hay trường phái chính hiện đại, đại biểu là nhà kinh tế học Mỹ P.A. Samuelson,

một phái là “trường phái Cambridge mới”, đại biểu là nhà kinh tế học Anh Joan Robinson.
Trường phái chính sau Keynes, là một trong hai truwofng phái lớn của học thuyết Keynes, bất lụân là trong giới
lý luận kinh tế phương tây hay là trong thực tiễn chính sách kinh tế phương tây nó đều giữ địa vị thống trị.
Từ “cổ điển tổng hợp mới” là do nhà kinh tế học Mỹ P.A. Samuelson đưa ra vào đầu những năm 50, đồng thời
vận dụng nó trong trong cuốn “kinh tế học”, tái bản lần thứ ba năm 1955 của ông đã đưa ra khái niệm này, từ đó
được truyền bá rộng rãi, về sau vấp phải sự trách cứ từ nhiều phía trong lần tái bản thứ 8 vào năm 1970, ông
không sử dụng từ “cổ điển tổng hợp mới”, mà thay nó bằng “Dòng kinh tế học chính sau Keynes”, để nói rõ học
không những thuộc học thuyết Keynes, mà còn là dòng chính của nó. Nhưng đến khi tái bản lần thứ 12 vào năm
1985, thì cụm từ “dòng kinh tế học chính sau Keynes” biến mất, mà gọi nó bằng cái tên khái quát là “kinh tế


hịện đại”, muốn dùng nó để thể hịên rõ là kinh tế học của ông tuy lấy lý luận kinh tế vĩ mô của Keynes là chỉ
yếu, nhưng đồng thời lại tiếp tục thu được một số quan điểm của lý luận kinh tế học truyền thống và kinh tế học
phi học thuyết Keynes đương thời. Ngoài P.A. Samuelson ra còn có các nhà kinh tế học khác của trường phái
này như R. Solo, A.Okun, J.S. Ducsenberry, J.Jobin, W.W. Heller ....
NHững quan điểm lý lụân chính là:
Thứ nhất: Cho rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại là chế độ “kinh tế hỗn hợp”, tức là tạo nên bởi hai bộ phận: kinh
tế thị trường và kinh tế có kiểm soát-sự điều tiết của nhà nước, là chế độ xí nghiệp tự do do nhà nước điều tiết.
Trong chế độ kinh tế này, uy quyền của nhà nước và sức bật của tư nhân phối hợp với nhau, từ đó có thể bảo
đảm đầy đủ công ăn việc làm và ổn định tăng trưởng kinh tế. “thuyết kinh tế hỗn hợp” trở thành tiền đề cho việc
phân tích lý lụân của ông.
Thứ hai: Thông qua sự phân tích cân đối chung tổng hợp lý luận kinh tế vĩ mô lấy thu nhập bình quân của
Keynes với lý lụân kinh tế vĩ mô lấy giá cả làm trung tâm của chủ nghĩa cổ điển mới, hình thành lý luận có vai
trò quyết định về thu nhập hiện đại. Cho rằng các ngành kinh tế tư hữu, do hoạt động kinh tế chịu sự chi phối
của cơ chế giá cả thị trường, cho nên phương pháp phân tích của chủ nghĩa cổ điển mới vẫn là thích hợp. Còn
trong các ngành kinh tế công hữu, do chỗ nhà nước quản lý kinh tế, nên phương pháp phân tích của chủ nghĩa
cổ điển mới về cơ bản vẫn là thích hợp. Nhưng do mục tiêu của kinh tế công và tư không thống nhất, cái trước
nặng vì “bình đẳng, cái sau nặng vì “hiệu suất”, đồng thời giữa hai cái đó tồn tại quan hệ thay thế cho nhau, do
đó cần chú ý đến cả hai mục tiêu trong cùng một lúc. Điều đó đòi hỏi phải xoá bỏ hố ngăn cách giữa Keynes và
Marshall về mặt lý luận.

Thứ ba: Về mặt biến động kinh tế và tăng trưởng kinh tế, lấy thuyết sức sản xuất giới hạn truỳên thống làm cơ
sở, cho rằng sự tăng trưởng kinh tế khong những quyết định bởi sự biến động của ba tổng lượng đầu tư, tiêu
dùng và tích lũy, mà còn quyết định bởi ảnh hưởng của sự cung cấp và biến động về kỹ thuật của những yếu tố
sản xuất có thể thay thế như tiền công, lao động....., đồng thời xây dựng nên mô hình tăng trưởng kinh tế kết
hợp giữa lý lụận về thu chi của Keynes với lý lụân về yếu tố sản xuất của chủ nghĩa cổ điển mới.
Thứ tư: Về “khủng hoảng thừa”, khó giải quyết của nền kinh tế phương tây lúc bấy giờ, trường phái này cho
rằng đó là lý do các nguyên nhân như đặc điểm sự cung cấp của ngành vi mô xuất hiện những sự không bình
thường các khoản chi phúc lợi xã hội tăng, cơ cấu thị trường lao động và kỹ thuật thay đổi, thị trường có tính
chất chưa đầy đủ...., lại thêm các xí nghịệp độc quyền và công đoàn thay nhau kiểm soát vật giá và tiền công, từ
đó hình thành nạn thất nghịêp và tiền công cũng tăng lên ssong song, cùng lúc nảy sinh lạm phát tiền tệ và nạn
thất nghiệp.
Về mặt chính sách kinh tế, ông cho rằng chính sách kinh tế nên có sáu mục tiêu. Về mặt vĩ mô có bốn, tức là
đầy đủ công ăn việc làm; vật giá ẩn định; kinh tế tăng trưởng; và thu chi quốc tế cân bằng. Về mặt vi mô có hai
mục tiêu, tức là làm cho thu nhập quốc dân trở nên đồng đều và bố trí hợp lý, phối hợp giữa hiệu suất kinh tế
với tài nguyên một cách hiệu quả. Để các mục tiêu này không có xung đột với nhau, đưa ra một loạt chủ trương
chính sách trong đó chủ yếu gồm:
Thú nhất: Thực hiện sự phối hợp giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, tức là thực hiện phối hợp giữa
chính sách tài chính bành trướng và chính sách tiền tệ thu hẹp, hoặc chính sách tài chính thu hẹp và chính sách
tiền tệ bành trướng, để tăng thêm được đầu tư và lại không đến nổi dẫn đến lạm phát.
thứ hai: Dựa theo tình hình khác nhau của thj trường cá biệt, ngành cá biệt mà xây dựng các chính sách thuế
khác nhau, áp dụng tỷ suất lợi tức khác nhau, điều kiện tín dụng và lượng tiền vay khác nhau làm cho chính
sách tàI chính và chính sách tiền tệ trở thành có tính chất vi mô.
Thứ ba: Do nhà nước tìm cách quản lý tiền công và thu nhập, để kiểm soát được xu thế tăng lên của chúng.
Thứ tư: Xây dựng chính sách thị trường lao động, tiến hành chỉ đạo công ăn việc làm và đào tạo lại sức lao
động, để giải quyết vấn đề thất nghiệp và thiếu người làm song song tồn tại.
Thứ năm: Thông qua các phương thức quảng cáo tiếp thị...., để cung cấp thông tin về hàng hóa, chỉ đạo tiêu
dùng, tránh hiện tượng cung cầu không ăn khớp trong quá trình tăng trưởng kinh tế và dao động trên thị trường.
Ngoài hối suất, họ còn đưa ra một số biện pháp như thực hiện thả nổi, kiểm soát, ngoại thương, ngoại hối.




×