Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

LVTS 2014 một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.18 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

GIÁP MẠNH HUY

MéT Sè VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN VÒ B¶O VÖ
C¸C QUYÒN CON NG¦êI B»NG PH¸P LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. LÊ VĂN CẢM

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Các kết quả nêu trong Luận
văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người cam đoan



Giáp Mạnh Huy


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN
CON NGƯỜI BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.......... 9
1.1.

Ý nghĩa và khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật hình sự....................................................................................... 9

1.1.1.

Ý nghĩa của việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự....... 9

1.1.2. Khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự ......... 9
1.2.

Đặc điểm của việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật hình sự .................................................................................... 10


1.3.

Nội dung của việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự Việt Nam ........................................................................... 11

1.3.1. Nội dung của việc bảo vệ các quyền con người bằng một số chế
định thuộc Phần chung PLHS .......................................................... 12
1.3.2. Nội dung của việc bảo vệ các quyền con người bằng một số chế
định thuộc Phần các tội phạm PLHS ................................................ 38
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 45
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG NHỮNG QUY
PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI.....47


2.1.

Một số vấn đề về thực trạng những quy phạm Phần chung
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành có liên quan đến việc
bảo vệ các quyền con người ........................................................... 47

2.1.1. Những quy phạm thuộc chế định Đạo luật hình sự có liên quan
đến việc bảo vệ các quyền con người ............................................... 47
2.1.2. Những quy phạm thuộc chế định Tội phạm có liên quan đến việc
bảo vệ các quyền con người ............................................................. 51
2.1.3.

Những quy phạm thuộc chế định Các tình tiết loại trừ tính chất tội
phạm của hành vi có liên quan đến việc bảo vệ các quyền con người .. 57


2.1.4. Những quy phạm thuộc chế định Trách nhiệm hình sự có liên
quan đến việc bảo vệ các quyền con người ...................................... 59
2.1.5. Những quy phạm thuộc chế định Hình phạt có liên quan đến việc
bảo vệ các quyền con người ............................................................. 61
2.1.6. Những quy phạm thuộc chế định Các biện pháp tha miễn có liên
quan đến việc bảo vệ quyền con người ............................................ 65
2.2.

Một số vấn đề về thực trạng những quy phạm Phần các tội
phạm pháp luật hình sự Việt Nam có liên quan đến việc bảo
vệ các quyền con người .................................................................. 71

2.2.1. Những quy phạm thuộc chế định Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người có liên quan đến
việc bảo vệ các quyền con người ..................................................... 71
2.2.2. Những quy phạm thuộc chế định Các tội xâm phạm các quyền tự
do, dân chủ của công dân có liên quan đến việc bảo vệ các quyền
con người ......................................................................................... 78
Kết luận chương 2 ...................................................................................... 85


Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG
QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON
NGƯỜI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ......................................... 86
3.1.

Thực tiễn áp dụng pháp những quy phạm Phần chung pháp
luật hình sự Việt Nam có liên quan đến việc bảo vệ các quyền
con người và giải pháp hoàn thiện ................................................ 86


3.1.1. Thực tiễn áp dụng những quy phạm Phần chung pháp luật hình
sự Việt Nam có liên quan bảo vệ các quyền con người tại tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2009 - 2014 ................................................... 86
3.1.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật:............................................. 91
3.2.

Thực tiễn áp dụng những quy phạm Phần các tội phạm pháp
luật hình sự Việt Nam có liên quan đến việc bảo vệ các quyền
con người và giải pháp hoàn thiện ................................................ 99

3.2.1. Thực tiễn áp dụng những quy phạm pháp luật Phần các tội phạm
pháp luật hình sự Việt Nam có liên quan đến việc bảo vệ các
quyền con người tại tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009 - 2014 .............. 99
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện ........................................................... 101
Kết luận chương 3 .................................................................................... 106
KẾT LUẬN ............................................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 109


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009)

BPCC:

Biện pháp cưỡng chế


BPTM:

Biện pháp tha miễn

CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CQĐT:

Cơ quan điều tra

HPBS:

Hình phạt bổ sung

HPC:

Hình phạt chính

LHS:

Luật hình sự

NNPQ:

Nhà nước pháp quyền

PLHS:

Pháp luật hình sự


QĐHP:

Quyết định hình phạt

TCN:

Trước công nguyên

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TPHS:

Tư pháp hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VPPL:

Vi phạm pháp luật


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Số liệu xét xử các loại tội phạm tại tỉnh Bắc Giang từ
năm 2009 đến năm 2014

87

Bảng 3.2: Số liệu các loại hình phạt được áp dụng trong xét xử án
hình sự tại tỉnh Bắc Giang từ năm 2009 đến năm 2014

88

Bảng 3.3: Số liệu về các biện pháp tha miễn được áp dụng từ 2009
đến 2014 tại tỉnh Bắc Giang

90

Bảng 3.4: Số lượng các vụ án hình sự xét xử về Các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
và Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
tại tỉnh Bắc Giang từ năm 2009 đến năm 2014

100



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền con người là những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận
chung của nền văn minh nhân loại [10, tr.15].
Trong lịch sử, bảo vệ quyền, lợi ích của con người là nguyên nhân và
cũng là mục đích ra đời của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói
riêng. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi chế độ chính trị, xã hội
cũng như ở mỗi quốc gia khác nhau thì pháp luật bảo vệ quyền con người thể
hiện khác nhau và quyền con người cũng được hiểu khác nhau.
Tuyên ngôn nhân quyền đưa ra một chuẩn mực chung về quyền con
người cho tất cả các quốc gia. Tại điều 1 nêu “Tất cả mọi người sinh ra tự
do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền” [42, Điều 1]. Từ đó, chúng ta
nhận thấy một điều rằng “quyền con người” là dành cho tất cả mọi người
trên cơ sở đảm bảo lợi ích chung cho cả cộng đồng trong một xã hội dân
chủ. Tại Điều 29 quy định:
Trong việc hưởng thụ các quyền và tự do, mỗi cá nhân chỉ có
thể bị pháp luật hạn chế các quyền và tự do đó vì mục đích đảm bảo
sự thừa nhận và tôn trọng các quyền và tự do của người khác cũng
như nhằm đảm bảo những yêu cầu về trật tự công cộng, đạo đức và
phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ [42, Điều 29].
Với sự ra đời của Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến các quyền con người đã
được ghi nhận một cách trân trọng và tập trung thành 01 chương riêng biệt, đó
là Chương 2 với tên gọi "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân" với tổng số 36 điều luật.

1



Với quy định tại khoản 1 Điều 14 "Ở nước Cộng hòa xã hôi chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật" [33, Điều 14, khoản 1], Hiến pháp 2013 không chỉ thừa nhận về mặt
pháp lý các quyền con người trên 02 phương diện là quyền con người nói
chung và quyền công dân nói riêng mà còn khẳng định một cách rõ ràng cơ chế
bảo vệ, bảo đảm thực hiện các quyền này trong thực tiễn đó chính là Hiến pháp
và pháp luật.
Tư tưởng bảo vệ các quyền con người được thể hiện rõ nét thông qua
việc Hiến pháp 2013 đã quy định rõ các trường hợp quyền con người,
quyền công dân bị hạn chế. Ngoài những trường hợp này, quyền con người,
quyền công dân đòi hỏi phải được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện
bởi toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội. Theo đó, quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế trong bốn (04) trường hợp được quy định tại
khoản 2 Điều 14 bao gồm:
- Vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia
- Vì lý do trật tự, an toàn xã hội
- Vì lý do đạo đức xã hội
- Vì lý do sức khỏe của cộng đồng [33, Điều 14, khoản 2].
Đồng thời thông qua quy định tại khoản 2 Điều 14, Hiến pháp 2013
cũng quy định rõ cách thức duy nhất để có thể hạn chế quyền con người,
quyền công dân đó là theo quy định của pháp luật. Theo đó quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo các quy định của pháp luật chứ
không thể bị hạn chế bằng bất cứ hình thức nào khác.
Quyền con người, quyền công dân là quyền vốn có, quyền tự nhiên của
mỗi con người. Những quyền này được Hiến pháp và pháp luật thừa nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm nên đã được nâng lên thành quyền hiến định, quyền

2



luật định. Tuy nhiên việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân của
mỗi người, mỗi cá nhân trong xã hội không thể tùy tiện, vô lối mà phải đặt
trong những khuôn khổ nhất định, có như vậy mới đảm bảo được tính ổn định
và phát triển bền vững của xã hội từ đó có tác động ngược trở lại trong việc
bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn.
Khuôn khổ mà tác giả luận văn muốn đề cập đến ở đây chính là "việc thực
hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc
gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác" (quy định tại khoản 4
Điều 15 Hiến pháp 2013).
Điều 16 Hiến pháp 2013 thực sự là một minh chứng rõ nét cho tính nhân
văn, nhân đạo của bản Hiến pháp này. Điều 16 Hiến pháp 2013 khẳng định:
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội [33, Điều 16].
Không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận về mặt pháp lý một cách khái quát
các quyền cơ bản của con người, của công dân gồm các quyền về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội mà Hiến pháp 2013 còn ghi nhận nội dung cụ
thể của từng loại quyền trong các nhóm quyền cơ bản nêu trên, trong số đó có
một số quyền liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự từ Điều 19 đến Điều 43.
Trên tinh thần đó, pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ các quan hệ xã
hội trong đó con người là chủ thể được bảo vệ khỏi sự xâm phạm của
những hành vi nguy hiểm trái với chuẩn mực xử sự chung của toàn xã hội,
mà kết quả của hành vi đó trái với lợi ích của xã hội. Trong quá trình đó,
pháp luật hình sự Việt Nam buộc phải có những quy định về việc hạn chế
quyền của người phạm tội nhằm mục đích trừng trị, răn đe, và giáo dục vì
lợi ích của cộng đồng.
Vấn đề đặt ra là quy định của pháp luật hình sự phải cân bằng giữa việc
bảo vệ quyền lợi ích đúng đắn (toàn xã hội ghi nhận) của mỗi cá nhân, tổ chức


3


và xã hội với việc hạn chế, tước bỏ một số quyền của người phạm tội nhằm
mục đích bảo vệ quyền con người. Pháp luật hình sự Việt Nam với những quy
định của mình mục đích cuối cùng là đảm bảo trật tự xã hội từ đó đảm bảo
quyền con người chung cho cả cộng đồng và đối với từng cá nhân cụ thể.
Với sự ra đời của Hiến pháp 2013, nhu cầu hoàn thiện PLHS nói chung
và BLHS nói riêng với tư cách là một trong những công cụ hữu hiệu nhất của
Nhà nước trong việc bảo vệ các quyền con người cho phù hợp với tinh thần
của bản hiến pháp mới này là tất yếu và khách quan.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã lựa chọn đề tài “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình
sự Việt Nam” làm luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu khoa học về vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật hình sự là vấn đề quan trọng và cần thiết. Vấn đề này đòi hỏi những quan
điểm, những nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau với nhiều khía cạnh và
góc nhìn khác nhau. Thực tế vấn đề này cũng được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu với nhiều công trình, bài viết có giá trị.
Trước hết phải kể đến một số công trình nghiên cứu chuyên sâu trong
ngành khoa học luật hình sự Việt Nam như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học quốc gia Hà Nội "Bảo vệ các
quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam" do GS.TSKH Lê Văn
Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí và TS.Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì đề tài,
nghiệm thu năm 2006.
- Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Đại học quốc gia Hà Nội
"Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật về tư pháp hình sự - lý luận,
thực trạng và hoàn thiện pháp luật" (Mã số QĐ.TĐ.10.16) triển khai từ năm

2010 đến năm 2013 do GS.TSKH Lê Văn Cảm làm chủ trì.

4


- Sách chuyên khảo "Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các
quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền" do GS.TSKH Lê Văn Cảm làm chủ biên, Nxb. Tư pháp
Hà Nội, 2007.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản cấp Đại học Quốc gia Hà Nội
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân theo luật hình sự Việt Nam” do TS. Trịnh Tiến Việt chủ trì,
nghiệm thu năm 2008. Kết quả: Tốt và đã được Nxb. Chính trị Quốc gia in
thành sách chuyên khảo năm 2010.
- Sách tham khảo của TS.Trần Quang Tiệp "Bảo vệ quyền con người
trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự", NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2004.
- Sách chuyên khảo do TS.Võ Thị Kim Oanh chủ biên "Bảo đảm quyền
con người trong tư pháp hình sự Việt Nam", NXB Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, 2010.
Tiếp đó là loạt bài viết “Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con
người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự” của GS.TSKH Lê Văn
Cảm (đăng trên các số 11; 12, 13 và 14 năm 2006 của Tạp chí Toà án nhân
dân); các bài viết “ Những vấn đề pháp lý cơ bản về luật hình sự quốc tế và
việc bảo vệ quyền con người” của TS. Trịnh Tiến Việt, Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội (đăng trên các số 8, 9 và 10 năm 2009 Tạp chí Toà án nhân
dân); "Bảo vệ quyền con người trong các quy định của Phần chung của Bộ
luật hình sự năm 1999" của NCS.Phan Anh Tuấn; "Bảo vệ quyền trẻ em bằng
pháp luật hình sự trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999" của
TS.Trần Quang Vinh; "Bảo vệ quyền con người thông qua các quy định củ
Phần chung Bộ luật hình sự về hình phạt tử hình" của Ths.Vũ Thị Thúy.

Các nghiên cứu nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau với
phạm vi khác nhau về việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình
sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng có ý nghĩa quan

5


trong trong lý luận và thực tiễn bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự ở Việt Nam.
Với tình hình trên, đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ
các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam" sẽ được nghiên cứu
ở cấp độ luận văn thạc sỹ một cách tương đối toàn diện, đầy đủ và đảm bảo
được tính logic, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học
đã được công bố.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu
Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam là một
vấn đề rộng, đa dạng và phức tạp. Do trình độ nghiên cứu khoa học còn hạn
chế và trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ có thể đưa ra
những vấn đề nào mà theo quan điểm của tác giả là cơ bản và quan trọng hơn
cả liên quan đến bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt
Nam. Trên cơ sở làm rõ được một số vấn đề lý luận cơ bản và nội dung của
một số quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về bảo vệ các quyền
con người, tác giả mạnh dạn chỉ ra một vài điểm mà theo quan điểm cá nhân
của tác giả là còn thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong những quy phạm mà tác
giả có điều kiện nghiên cứu. Đồng thời nêu lên một số vấn đề cơ bản liên
quan đến thực trạng áp dụng một số quy phạm pháp luật hình sự về bảo vệ các
quyền con người ở nước ta. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tương đối tổng
hợp, luận văn sẽ đề xuất một vài giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả thực thi trên thực tế của một số quy phạm pháp luật hình sự Việt

Nam trong việc bảo vệ các quyền con người.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:

6


- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ các quyền con
người bằng pháp luật hình sự.
- Nghiên cứu một số quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam cơ bản
trong việc bảo vệ các quyền con người. Từ đó chỉ ra một vài điểm thiếu sót
trong những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về bảo vệ
các quyền con người
- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự
Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn tập trung nghiên cứu việc bảo
vệ các quyền con người dưới góc độ luật hình sự thông qua một số quy phạm
PLHS Việt Nam cơ bản của 06 chế định thuộc Phần chung bao gồm: Đạo luật
hình sự; Tội phạm; Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi; Trách
nhiệm hình sự; Hình phạt và Các biện pháp tha miễn; 02 chế định thuộc Phần
các tội phạm bao gồm: Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người và Chương các tội xâm phạm quyền tự do, dân
chủ của công dân. Nội dung cốt lõi của luận văn là xoay quanh vấn đề bảo vệ
các quyền con người bằng một số quy phạm pháp luật hình sự cơ bản dưới
góc nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn áp dụng. Do vậy, việc nghiên cứu
đề tài sẽ được giới hạn trong phạm vi ba nội dung chính sau đây:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ các quyền con người bằng
pháp luật hình sự Việt Nam;

- Một số vấn đề về thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành bảo vệ các quyền con người;
- Tìm hiểu một số vấn đề về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt
Nam trong việc bảo vệ các quyền con người và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ

7


Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc
xây dựng Bộ luật hình sự.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, qui nạp, đối
chiếu, so sánh, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm
công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề
trong nội dung luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Những đóng góp của luận văn thể hiện trên một số phương diện sau đây:
Thứ nhất: Vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt
Nam được nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và tương đối toàn diện.
Thứ hai: Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất một
số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện một vài quy phạm pháp luật hình sự cơ
bản về bảo vệ các quyền con người, nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ các
quyền con người bằng pháp luật hình sự trên thực tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng
pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Một số vấn đề về thực trạng những quy phạm pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành có liên quan đến việc bảo vệ
các quyền con người.
Chương 3: Một số vấn đề về thực tiễn áp dụng những quy phạm pháp
luật hình sự Việt Nam hiện hành có liên quan đến việc bảo
vệ các quyền con người và giải pháp hoàn thiện

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI
BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Lý luận bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam
là một vấn đề rộng lớn và phức tạp. Trong phạm vi luận văn của mình, tác giả
luận văn chỉ đề cập những vấn đề lý luận mà theo quan điểm của tác giả là cơ
bản và quan trọng nhất.
1.1. Ý nghĩa và khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật hình sự
1.1.1. Ý nghĩa của việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự
Trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền đích thực nào, các quy
định của pháp luật hình sự đều có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng là
nhằm bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân với
tư cách là những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung
của nền văn minh nhân loại tránh khỏi không chỉ sự xâm hại có tính
chất tội phạm của công dân khác, mà còn tránh khỏi sự tùy tiện của

một số quan chức trong bộ máy công quyền đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn vi phạm thô bạo pháp chế và dân chủ, áp dụng sai các quy
định của pháp luật hình sự vì các động cơ vụ lợi, cá nhân ... [11, tr.7].
1.1.2. Khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Hiện nay trong khoa học luật hình sự, có không ít công trình nghiên
cứu về vấn đề bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng. Tuy nhiên việc định nghĩa và đưa ra
khái niệm thế nào là bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự mới chỉ
được TSKH.GS Lê Văn Cảm đề cập trong Đề tài trọng điểm cấp ĐHQGHN về

9


"Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật về tư pháp hình sự - Lý luận,
thực trạng và hoàn thiện pháp luật" theo đó:
Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền là sự ghi nhận (điều chỉnh)
đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành pháp và
sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp các quy định của PLHS để làm
cho các quy định đó phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm
tương ứng của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự,
được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống
nhất và triệt để bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng
như những người có chức vụ của các cơ quan này trong thực tiễn
điều tra, truy tố và xét xử, đồng thời góp phần tạo nên lòng tin của
công dân vào sự nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự
bình đẳng của pháp luật, sức mạnh và uy tín của bộ máy công
quyền, tính nhân đạo và dân chủ của xã hội dân sự và nhà nước
pháp quyền nói chung [18, tr.92].
Theo tôi, bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự là việc

Nhà nước thông qua BLHS và các văn bản hướng dẫn ghi nhận về mặt
pháp lý một cách rõ ràng và đầy đủ các quyền, tự do của con người đồng
thời đưa ra một cơ chế nhằm đảm bảo việc thực thi các quy định này trong
thực tiễn cũng như những chế tài để xử lý kịp thời và nghiêm minh các
hành vi xâm phạm các quyền, tự do này.
1.2. Đặc điểm của việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật hình sự
Từ khái niệm nêu trên, việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự có một số đặc điểm cơ bản như sau:

10


Thứ nhất, bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự là sự ghi
nhận của Nhà nước về mặt pháp lý các quyền, tự do của con người thông qua
các quy định của BLHS và hệ thống các văn bản hướng dẫn. Việc ghi nhận
này không phải chỉ mang tính chung chung mà phải rõ ràng và đầy đủ.
Thứ hai, bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự là việc
Nhà nước đưa ra một cơ chế để đảm bảo việc thực thi các quy định bảo vệ các
quyền con người của BLHS và các văn bản hướng dẫn trên thực tế. Cơ chế
này được thể hiện ở việc Nhà nước trao thẩm quyền thực thi các quy định nêu
trên cho 03 cơ quan TPHS gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
đồng thời cũng quy định việc các cơ quan TPHS này khi thực hiện thẩm
quyền của mình ở từng giai đoạn tương ứng phải tuân theo một trình tự đặc
biệt được pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Thứ ba, bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự là việc Nhà
nước đưa ra những chế tài nhằm xử lý kịp thời và nghiêm minh các hành vi
xâm phạm các quyền con người. Việc xử lý này không chỉ được đặt ra với đối
tượng là người phạm tội mà còn được đặt ra với ngay cả các cơ quan TPHS
được Nhà nước trao thẩm quyền thực thi các quy định bảo vệ các quyền con

người của BLHS và các văn bản hướng dẫn trên thực tế.
1.3. Nội dung của việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự Việt Nam
Tư tưởng bảo vệ các quyền con người là tư tưởng xuyên suốt toàn bộ
nội dung của BLHS Việt Nam. Tuy nhiên trong phạm vi của một luận văn
thạc sỹ, tác giả chỉ đề cập đến nội dung bảo vệ các quyền con người bằng các
quy định được xem là cơ bản và quan trọng hơn cả của 06 chế định thuộc
Phần chung (Đạo luật hình sự, Trách nhiệm hình sự, Tội phạm, Hình phạt,
Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, Các biện pháp tha miễn)
và 02 chế định thuộc Phần các tội phạm (Chương XII và Chương XIII).

11


1.3.1. Nội dung của việc bảo vệ các quyền con người bằng một số chế
định thuộc Phần chung PLHS
1.3.1.1. Việc bảo vệ các quyền con người bằng một số quy phạm của
chế định đạo luật hình sự
Đạo luật hình sự là văn bản quy phạm PLHS do Quốc hội ban hành
theo trình tự luật định, quy định chủ yếu về tội phạm và hình phạt, ngoài ra
còn quy định về nhiệm vụ, các nguyên tắc của LHS và các chế định pháp lý
hình sự khác.
Hiện nay văn bản pháp lý duy nhất ở Việt Nam thỏa mãn tất cả các dấu
hiệu đã nêu ở trên của đạo luật hình sự chính là Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009).
a/ Bằng việc ghi nhận một cách chính thức về mặt pháp lý một số khía
cạnh cơ bản của quyền con người trong xã hội hiện đại bao gồm: "quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân", "tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người" và "quyền tự, do, dân chủ của công dân" là những khách thể loại
quan trọng được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, BLHS đã thực sự trở

thành một trong những công cụ pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ các
quyền của con người ở Việt Nam hiện nay.
b/ Để bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của con người
bằng PLHS chống lại sự tùy tiện, chuyên quyền trong nhận thức và hành vi của
một bộ phận quan chức thoái hóa, biến chất và vụ lợi khi thực thi công vụ,
BLHS năm 1999 bằng các quy phạm trong Phần chung về 1) nhiệm vụ của
BLHS (đoạn 2 Điều 1) đã ghi nhận tư tưởng “tội phạm và hình phạt đối với
người phạm tội” phải được luật hình sự quy định, 2) nguyên tắc xử lý mọi hành
vi phạm tội “phải được phát hiện kịp thời…theo đúng pháp luật” (khoản 1 Điều
3) và bằng cách đó, đã phản ánh ở một mức độ nhất định nguyên tắc pháp chế
được thừa nhận chung của nền TPHS tiến bộ và nhân đạo “Nullum crimen,

12


nulla poena sine lege” (Không có tội phạm, không có hình phạt nếu không có
luật quy định) với tư cách là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của chính
sách hình sự (CSHS) nói chung và của PLHS quốc gia nói riêng [11, tr.7].
c/ Vấn đề bảo vệ các quyền con người còn được BLHS phản ánh thông
qua việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự của những người phạm
tội. Theo đó việc xác định trách nhiệm hình sự của những người phạm tội
phải căn cứ và tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà
họ gây ra từ đó phân hóa cụ thể vai trò của từng người phạm tội. Điều này đặc
biệt có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm hình sự của những người
phạm tội đối với trường hợp vụ án có tính chất đồng phạm.
d/ Nguyên tắc nhân đạo là một trong hai nguyên tắc cơ bản và quan
trọng nhất của BLHS trong việc bảo vệ các quyền con người. Tư tưởng của
nguyên tắc này đã được các nhà làm luật hình sự Việt Nam ghi nhận thông
qua quy định về hiệu lực thời gian của đạo luật hình sự. Theo đó vấn đề hiệu
lực hồi tố hay hiệu lực trở về trước đối với những hành vi xảy ra trước khi

Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 có hiệu lực chỉ được áp dụng theo một
nguyên tắc duy nhất đó là có lợi cho người phạm tội. Có nghĩa là việc áp
dụng hiệu lực hồi tố phải tuân thủ theo nguyên tắc nếu có lợi cho người
phạm tội thì mới được phép áp dụng và ngược lại, nếu không có lợi cho
người phạm tội thì tuyệt đối không được phép áp dụng. Nguyên tắc này đã
cho thấy quyền lợi của người phạm tội đã được Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 đặc biệt chú trọng bảo vệ và hạn chế sự lạm dụng các quy định bất
lợi cho người phạm tội ở mức tối đa.
e/ Việc bảo vệ các quyền của người phạm tội còn được các nhà làm luật
hình sự Việt Nam ghi nhận thông qua việc thu hẹp dần phạm vi trấn áp hình
sự. Đây được coi là một trong những xu hướng phát triển cơ bản của PLHS
Việt Nam trong tiến trình hội nhập hiện nay.

13


1.3.1.2. Việc bảo vệ các quyền con người bằng một số quy phạm của
chế định tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [32, Điều 8].
Vấn đề bảo vệ các quyền con người mà ở đây là quyền của người
phạm tội đã được BLHS đặc biệt chú trọng bảo vệ thông qua một số quy
phạm của chế định tội phạm ở Phần chung. Điều này xuất phát từ 02

nguyên nhân cơ bản sau:
- Tội phạm là một chế định quan trọng của PLHS;
- Việc xác định hành vi của một người có bị coi là tội phạm hay không
không chỉ tác động trực tiếp đến quyền của người thực hiện hành vi đó (xác
định người đó có phải chịu TNHS hay không) mà còn có tác động rất lớn đến
chính sách hình sự của một quốc gia nói chung và công tác phòng ngừa tội
phạm nói riêng.
a/ Minh chứng đầu tiên cho việc bảo vệ các quyền con người bằng các
quy định về tội phạm chính là việc BLHS đã đặt ra một “ngưỡng giới hạn” để
xem xét một hành vi thế nào thì bị coi là tội phạm và đâu không phải là tội
phạm thông qua quy định về khái niệm tội phạm.
b/ Việc các nhà làm luật Việt Nam đưa ra chế định về các giai đoạn
thực hiện tội phạm đã thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo trong chính sách hình sự

14


của nước ta. Bởi lẽ, nếu theo đúng nguyên tắc xác định TNHS thì một người
bị xem xét TNHS khi người đó phạm một tội được BLHS quy định. Điều này
có thể được hiểu là một người có hành vi hội tụ đủ các cấu thành của một tội
phạm được BLHS quy định là phải chịu TNHS. Tuy nhiên việc đưa ra chế
định về các giai đoạn thực hiện tội phạm đã tạo điều kiện cho người phạm tội
chỉ phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình ở chính giai đoạn mà
người đó thực hiện chứ không phải chịu TNHS về tội phạm ở giai đoạn hoàn
thành hoặc chỉ phải chịu TNHS khi họ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
c/ Tư tưởng nhân đạo trong BLHS một lần nữa được thể hiện thông qua
quy định về khái niệm đồng phạm.
d/ Việc BLHS không buộc người có hành vi không tố giác tội phạm là
người ruột thịt hoặc thân thích gần đối với người phạm tội phải chịu TNHS

(trừ trường hợp tội phạm mà họ không tố giác thuộc trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng hoặc tội xâm phạm an ninh quốc gia) cũng là một biểu hiện rõ
nét của tư tưởng nhân đạo trong BLHS khi đề cao giá trị của gia đình, giá trị
của chữ "hiếu", chữ "nghĩa"... vốn là những giá trị tinh thần mang tính nhân
văn sâu sắc và làm nên nét đặc thù của con người Việt Nam.
1.3.1.3. Việc bảo vệ các quyền con người bằng một số quy phạm về
những tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi
Trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là tình
tiết được điều chỉnh trong PLHS mà khi có căn cứ do luật định
thì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi là tội
phạm và do vậy, người gây ra thiệt hại đó không phải chịu
TNHS [9, tr.504].
Nhà làm luật hình sự Việt Nam đã tạo ra một "tấm lá chắn" bảo vệ
những chủ thể mặc dù trên thực tế đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

15


nhưng LHS quy định không phải là tội phạm trước nguy cơ bị tước đoạt hoặc
hạn chế quyền, tự do bởi một hệ thống các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm
của hành vi. Ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc của những quy định này
được thể hiện ở 03 mức độ khác nhau cụ thể:
- Thứ nhất, mặc dù chủ thể đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của hành
vi tương ứng nào đó bị LHS cấm tuy nhiên nếu việc thực hiện hành vi này
thuộc các trường hợp được BLHS ghi nhận là có tác dụng loại trừ tính chất tội
phạm của hành vi (sẽ được liệt kê ở phần dưới) thì họ không phải chịu TNHS.
Và theo đó cũng không có việc áp dụng hình phạt hay bất cứ biện pháp cưỡng
chế nào khác về hình sự đối với họ.
- Thứ hai, nguyên nhân sâu xa của việc loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi mà chủ thể đã thực hiện trong các trường hợp được BLHS quy định

là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là: mặc dù việc gây ra
(hoặc có khả năng gây ra) thiệt hại về hình thức có thể coi là hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhưng lý do khiến chủ thể gây ra (hoặc có khả năng gây ra)
thiệt hại này là để "bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác" hoặc do bản thân chủ thể
"không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi"
hoặc "đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình". Những lý do nêu trên
được xã hội thừa nhận là chính đáng, được Nhà nước khuyến khích và do đó
hành vi gây ra (hoặc có khả năng gây ra) thiệt hại mà chủ thể đã thực hiện
được nhà làm luật coi là "hợp pháp về mặt pháp lý" [12, tr.8] nên chủ thể
không phải chịu TNHS.
- Thứ ba, mục đích cuối cùng mà nhà làm luật muốn hướng tới khi đưa
ra các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi chính là vạch ra một
ranh giới rạch ròi giữa tội phạm và những hành vi "gần tội phạm" (không phải

16


là tội phạm) từ đó dẫn đến hậu quả pháp lý về mặt hình sự là truy cứu hay
không truy cứu TNHS. Có thể hiểu các hành vi mà chủ thể đã thực hiện trong
các trường hợp được nhà làm luật quy định là tình tiết loại trừ tính chất tội
phạm của hành vi là các hành vi "gần tội phạm" bởi lẽ nếu đối chiếu với các
dấu hiệu cơ bản của tội phạm thì chúng thiếu đi một trong các dấu hiệu này.
Theo đó mặc dù đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chủ thể
thực hiện hành vi "gần tội phạm" không phải chịu TNHS. Quy định này
không chỉ hạn chế phạm vi những hành vi bị coi là tội phạm mà quan trọng
hơn nó đã hạn chế chính việc hạn chế hoặc tước đoạt quyền, tự do của một
nhóm người bị xem là "nguy hiểm cho xã hội" khi họ đáp ứng những điều
kiện do PLHS quy định.

Về mặt lý luận thì các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi
bao gồm: tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể; sự kiện
bất ngờ; do người chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện; do người không có
năng lực TNHS thực hiện; phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết.
a/ Về tình tiết "tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng
kể". Tư tưởng bảo vệ các quyền con người của BLHS thông qua quy phạm
này được thể hiện như sau:
- Nhà làm luật không buộc chủ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội phải chịu TNHS hay hành vi mà chủ thể đã thực hiện được loại trừ tính
chất của tội phạm là vì về mặt khách quan - tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi là "không đáng kể" do đó chủ thể thực hiện hành vi được xem là
không nguy hiểm cho xã hội.
- Nhà làm luật cũng bảo vệ các khách thể loại của BLHS thông qua quy
định chủ thể chỉ được giải phóng khỏi TNHS khi và chỉ khi tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện là "nhỏ nhặt" [12, tr.10].
b/ Về tình tiết "do người chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện". Tư tưởng

17


bảo vệ các quyền con người của BLHS thông qua quy phạm này được thể
hiện như sau:
- Chủ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được xem là
không nguy hiểm cho xã hội và do đó họ không phải chịu TNHS hoặc bị áp
dụng hình phạt hay bất cứ biện pháp cưỡng chế nào khác về hình sự vì xét về
yết tố chủ thể - khi thực hiện hành vi họ chưa đủ khả năng nhận thức và điều
khiển được hành vi của mình hay nói cách khác họ "chưa đạt đến độ tuổi để
có khả năng nhận thức được hoặc khả năng điều khiển được hành vi do mình
thực hiện" [12, tr.9].
- Các khách thể loại của BLHS cũng được bảo vệ thông qua quy định

chủ thể chỉ được giải phóng khỏi TNHS khi và chỉ khi họ thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong điều kiện không đủ khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của mình.
c/ Về tình tiết "không có năng lực TNHS". Tư tưởng bảo vệ các quyền
con người thông qua quy định này được thể hiện như sau:
- TNHS không được đặt ra đối với chủ thể đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong trường hợp này bởi khi thực hiện hành vi họ không có
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
- Các khách thể loại được BLHS bảo vệ được bảo vệ trước sự xâm
phạm của hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chủ thể thực hiện thông qua quy
định chủ thể chỉ được giải phóng khỏi TNHS khi và chỉ khi họ thực hiện hành
vi vì họ không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
d/ Về tình tiết "sự kiện bất ngờ". Nét nhân văn, nhân đạo của quy định
này được thể hiện như sau:
- Chủ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải chịu
TNHS hoặc bị áp dụng hình phạt hay bất cứ biện pháp cưỡng chế nào khác về
hình sự vì họ đã thực hiện hành vi trong điều kiện hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của hành vi hoàn toàn nằm ngoài ý chí chủ quan của họ.

18


×