Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 128 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HỒ THANH VINH






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2014



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



HỒ THANH VINH






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt





HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Hồ Thanh Vinh












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN
THÀNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
8
1.1.
Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm
8
1.1.1.
Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm
8
1.1.2.
Cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm
12
1.2.
Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của các giai đoạn trong tội
phạm chưa hoàn thành
16
1.2.1.
Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chưa hoàn thành
16
1.2.2.
Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của chuẩn bị phạm tội
18
1.2.3.
Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của phạm tội chưa đạt
23
1.3.
Quy định trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về
tội phạm chưa hoàn thành

30
1.3.1.
Bộ luật hình sự Liên bang Nga
30
1.3.2.
Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
33
1.3.3.
Bộ luật hình sự Nhật Bản
35

Chương 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƢA
HOÀN THÀNH THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH
37
2.1.
Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
chưa hoàn thành
37

5
2.1.1.
Khái niệm, cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự
đối với tội phạm chưa hoàn thành
37
2.1.2.
Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
chưa hoàn thành
45
2.2.

Quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành
49
2.2.1.
Khái niệm và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với tội
phạm chưa hoàn thành
49
2.2.2.
Các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành
51
2.2.3.
Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa
hoàn thành
57
2.3.
So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành
với các dạng tội phạm khác
59
2.3.1.
So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành
đối với trách nhiệm hình sự của trường hợp tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội
59
2.3.2.
So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành
với trách nhiệm hình sự của tội phạm hoàn thành
61

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN
THÀNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

64
3.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về tội phạm chưa hoàn thành
64
3.1.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về chuẩn bị phạm tội
64
3.1.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về phạm tội chưa đạt
69
3.2.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành
80

6
3.2.1.
Dưới góc độ chính trị - xã hội
80
3.2.2.
Dưới góc độ lý luận - thực tiễn
82
3.3.
Những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành
86
3.3.1.

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
chuẩn bị phạm tội
86
3.3.2.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
phạm tội chưa đạt
87

KẾT LUẬN
93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97

PHỤ LỤC
102

7


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
3.1
So sánh tỷ lệ chuẩn bị phạm tội và tội phạm hoàn thành
thông qua 100 bản án hình sự sơ thẩm và 100 quyết định
giám đốc thẩm về hình sự

65
3.2
So sánh tỷ lệ phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành
thông qua 100 bản án hình sự sơ thẩm và 100 quyết định
giám đốc thẩm về hình sự
70


8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là một hiện tượng xã hội
tiêu cực gắn liền với đời sống của con người. Hiện tượng tiêu cực này xâm
hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cho nên
chúng ta luôn phải đấu tranh để phát hiện, ngăn chặn nhanh chóng, kịp thời
hiện tượng này nhằm giảm bớt tác hại cho xã hội do nó gây ra.
Trong quá trình nghiên cứu tội phạm, thông thường hay chú tâm đến
tội phạm hoàn thành, do đó tội phạm chưa hoàn thành ít được đề cập, chú
trọng. Song, nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành sẽ giúp chúng ta rất
nhiều trong công tác phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn tội phạm nguy hiểm có
thể xảy ra, là một trong những mục tiêu trong yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm, bảo vệ các lợi ích của Nhà nước và của công dân, đặc biệt là ngăn
chặn từ "trứng nước" và ngăn ngừa những hậu quả (thiệt hại) đã gây ra cho
Nhà nước, xã hội, cho cơ quan, tổ chức và cho công dân, qua đó còn góp phần
phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt được công minh, chính
xác và đúng pháp luật [8, tr. 440].
Ngoài ra, nếu nắm vững về tội phạm chưa hoàn thành sẽ giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về tội phạm, giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm của Nhà
nước được tốt hơn. Vì tội phạm chưa hoàn thành xảy ra trước tội phạm hoàn

thành, nó là điều kiện, tiền đề của hoạt động tội phạm hoàn thành. Hơn nữa,
trong khoa học luật hình sự Việt Nam, xung quanh vấn đề tội phạm chưa hoàn
thành còn nhiều nội dung cần nhận thức thống nhất, cũng như cần làm sáng tỏ
vấn đề trách nhiệm hình sự trong từng giai đoạn của tội phạm chưa hoàn
thành. Bên cạnh đó, cũng chưa có công trình khoa học nào tổng kết lý luận,
đánh giá thực tiễn áp dụng về vấn đề tội phạm chưa hoàn thành, trong khi
chính sách hình sự trước yêu cầu mới của đất nước đòi hỏi cần điều chỉnh

9
theo phương châm "việc không để tội phạm xảy ra xét về hiệu quả kiểm soát
tội phạm luôn được đánh giá cao hơn là việc kịp thời phát hiện, xử lý tội
phạm" [53, tr. 24]. Đặc biệt, điểm 3.1. tiểu mục 3 phần IV - Định hướng cơ
bản sửa đổi Bộ luật hình sự trong Đề cương định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ
luật hình sự số 7724/ĐC-BSTBLHS (SĐ) ngày 24/9/2012 quy định:
Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự liên quan
đến khái niệm và phân loại tội phạm, cơ sở của trách nhiệm hình sự,
nguồn của luật hình sự, nguồn của luật hình, các giai đoạn phạm
tội, các chế định đồng phạm, phạm tội có tổ chức, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vấn đề quyết định hình phạt [1].
Hay gần đây, ngày 10/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1236/QĐ-TTg về việc "Phê duyệt kế hoạch tổng kết thi hành
Bộ luật hình sự năm 1999". Theo đó, việc tổng kết này nhằm đánh giá một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thực tiễn hơn mười năm thi hành Bộ
luật hình sự năm 1999, từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình
sự, trong đó có tội phạm chưa hoàn thành, góp phần đáp ứng yêu cầu mới của
đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm ổn
định lâu dài, thúc đẩy phát triển đất nước.
Như vậy, vì các lý do trên mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự
Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành đã có nhiều
công trình khoa học đề cập ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên so với các chế
định khác, thì tội phạm chưa hoàn thành ít được quan tâm nghiên cứu hơn, vì
đa số tập trung vào tội phạm hoàn thành. Do những điều kiện nhất định, tội
phạm chưa hoàn thành cũng không được thống kê số liệu một cách đầy đủ
phục vụ cho công tác điều tra nghiên cứu của tác giả, các nhà nghiên cứu

10
cũng như các học viên. Qua tìm hiểu, đã có một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu, giáo trình, bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến vấn đề tội
phạm chưa hoàn thành như sau:
* Nhóm thứ nhất - sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, bao
gồm: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm: Mục V - Chế định về các giai đoạn thực
hiện tội phạm, Chương thứ tư - Tội phạm, Sách chuyên khảo Sau đại học:
Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) ThS. Lâm Minh Hạnh, Chương VIII - Các giai đoạn
phạm tội, trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật
hình sự việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986; 3) PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Chí: Chương Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung), GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 4) PGS.TS. Lê Thị Sơn: Bài IV - Một
số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm, trong sách: Luật hình sự Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999;
5) PGS.TS. Lê Thị Sơn: Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ
chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2013; cũng như một số công trình của các nhà khoa học
Liên bang Nga trong phần tài liệu tham khảo của các sách chuyên khảo nói trên.
* Nhóm thứ hai - các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, bao gồm:
1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm: Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và

mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 2/2002; 2) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai
đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số
4/2002; 3) TS. Trịnh Tiến Việt: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa
đạt, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 4/2002; 4) PGS.TS. Lê
Thị Sơn: Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm
chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2007; 5) PGS.TS Trần Văn Độ: Hoàn thiện
các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí

11
Tòa án nhân dân, số 5/1999; 6) PGS.TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình
phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật
học, số 4/2001; v.v
* Nhóm thứ ba - các luận văn, luận án, bao gồm: 1) Hoàng Đức Ngọc:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2010; Bùi Thị Chinh Phương: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo
luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2011; v.v…
Tuy nhiên, các công trình trên đây mới chỉ đề cập giải quyết đến khái
niệm, các đặc điểm cơ bản, việc quyết định hình phạt trong một giai đoạn của
tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, mà
chưa có công trình nào đi sâu và tổng quan về tội phạm chưa hoàn thành, lý
giải cơ sở của việc phân chia tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn
thành, các nguyên tắc và nội dung trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
trong giai đoạn này, cũng như phân tích và giải quyết các vấn đề cùng một lúc
xung quanh cả hai giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
3. Mục đích, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản
chất và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chưa hoàn thành nói chung, giai
đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nói riêng, đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự về tội phạm chưa hoàn thành, qua đó, đề xuất hoàn
thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm nghiên cứu, giải quyết một số
vấn đề xung quanh tội phạm chưa hoàn thành trong luật hình sự Việt Nam -

12
khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa
hoàn thành, kết hợp nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng pháp luật hình sự
trong thực tiễn đối với tội phạm chưa hoàn thành thông qua các báo cáo tổng
kết, chuyên đề của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng như thông
qua một số bản án hình sự điển hình.
3.3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự
Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về công tác đấu
tranh, phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác tư pháp trong thời gian tới", và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020", Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020",
cũng như các công trình khoa học của các nhà khoa học, luật gia trong và
ngoài nước.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể của khoa học luật hình sự
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, đối chiếu; v.v… Từ đó, có

13
sự tổng hợp kiến thức, rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất các kiến
nghị, giải pháp hoàn thiện liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành để các nhà
làm luật nước ta có thêm tư liệu tham khảo sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự
Việt Nam.
5. Những điểm mới về mặt khoa học và đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu độc lập dựa trên kết quả tìm hiểu,
tra cứu, phân tích, lập luận, làm rõ về mặt lý luận một số vấn đề về tội phạm
chưa hoàn thành như: khái niệm, các dấu hiệu khách quan, chủ quan, làm rõ
các nội dung về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, để từ đó có thể đưa ra
những kiến giải lập pháp và mô hình khoa học về tội phạm chưa hoàn thành
(chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt).
Ngoài ra, về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, làm sáng tỏ bức
tranh khái quát về tình hình tội phạm chưa hoàn thành trong đời sống xã
hội thông qua các báo cáo tổng kết, chuyên đề của các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tòa án, cũng như thông qua đánh giá các bản án hình sự. Ngoài ra,
luận văn còn làm sáng tỏ một số tồn tại, bất cập trong quá trình áp dụng
pháp luật trong thực tiễn. Vì vậy, luận văn còn có ý nghĩa chính trị, xã hội
và pháp lý quan trọng trong việc đánh giá mức độ thực hiện tội phạm. Bởi vì
xác định đúng sự kiện thực hiện tội phạm do cố ý sẽ có cơ sở cho việc xác
định phạm vi mà mức độ trách nhiệm hình sự một cách có căn cứ và đúng
pháp luật. Từ đó, giúp cho cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án xác định

đúng trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt một cách có căn cứ đầy đủ,
đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các
nhà nghiên cứu, các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên đại học ở
các cơ sở đào tạo về luật trong cả nước, cũng như phục vụ việc sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự Việt Nam sắp tới.

14
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội phạm chưa hoàn thành theo
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành
theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về tội phạm chưa hoàn thành và những kiến nghị hoàn thiện.



15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ PHÂN CHIA CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN
TỘI PHẠM
1.1.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm
Khoa học luật hình sự trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng,
đa phần đều phân biệt các giai đoạn phạm tội, như là cách thức để nhận biết

dấu hiệu của từng thời điểm mà tội phạm thực hiện.
Trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga thể hiện qua các quan
điểm nổi bật đã được GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết trong Sách chuyên khảo
Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 về khái niệm đang nghiên cứu như sau:
1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực
hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của
hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm
(B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn
nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với
nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt
hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực
hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính
chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết
thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô) [8, tr. 440-441].
Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các nhà khoa học luật hình
sự, về cơ bản, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác
nhau về tội phạm chưa hoàn thành và nói chung đều thừa nhận chỉ những tội

16
phạm do phạm tội cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, bằng ý chí
chủ quan của mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai
đoạn phạm tội.
GS.TSKH. Lê Văn Cảm viết:
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo
một trình tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng
việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội
phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thể hiện sự cố
ý phạm tội của chủ thể [8, tr. 441].

Hay tác giả Trần Văn Đượm lại đưa ra quan điểm tương tự và liệt kê
các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm là "các bước trong quá trình thực hiện
tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành" [Dẫn theo 44, tr. 176].
Hay gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: "Các giai đoạn phạm tội
được hiểu là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở từng thời điểm, bao gồm:
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [56, tr. 156]; v.v
Nói chung, từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể rút ra những
điểm chung cơ bản của các giai đoạn thực hiện tội phạm là chỉ ở các tội cố ý,
người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước được hậu quả của hành vi đó, người phạm tội bằng ý chí chủ quan của
mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai đoạn phạm
tội. Từ đó cũng có thể hiểu, các giai đoạn thực hiện tội phạm không có trong
tội phạm vô ý, bởi trong tội phạm vô ý người phạm tội không nhận thức được
hành vi nguy hiểm cho xã hội, không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi đó và cũng không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho
xã hội bởi hành vi đó.

17
Như vậy, trong phạm tội cố ý, có hai hình thức lỗi (hay còn gọi là hai
dạng) cố ý là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Như vậy vấn đề đặt ra cho các
giai đoạn thực hiện tội phạm là hình thức lỗi cố ý trực tiếp hay hình thức lỗi
cố ý gián tiếp, hay chung cho cả hai hình thức lỗi cố ý. Hầu hết các nhà hình
sự học, luật gia cho rằng các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra với tội
phạm thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp [3, tr. 223]. Lý giải cho quan
điểm này, các tác giả đều cho rằng, ở lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội khi
thực hiện một loạt hành vi như chuẩn bị công cụ, phương tiện, vạch kế hoạch,
bàn bạc, rủ rê, lôi kéo người khác tham gia; v.v… và tiến hành thực hiện hành
vi phạm tội. Do đó, người phạm tội không thể không nhận thức được hậu quả

nguy hiểm cho xã hội của hành vi thực hiện, không thể không mong muốn
cho hậu quả xảy ra.
Cũng có trường hợp đối với những tội có cấu thành hình thức bằng
không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt. Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm (Điều 314
Bộ luật hình sự); Tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự); v.v
Cũng có một số quan điểm cho rằng người phạm tội với hình thức lỗi
cố ý gián tiếp cũng trải qua các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Cũng trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một xử sự
phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp
phạm tội cố ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới
nhưng họ chấp nhận việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng
ta vẫn có thể và cần phải đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ,
vì việc không xảy ra là do nguyên nhân khách quan, còn chủ quan
người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc nó xảy ra. Ngoài ra, về
mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi cần

18
xét xử về hình sự và việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên
cơ sở thừa nhận nguyên tắc: Các giai đoạn thực hiện tội phạm và
trách nhiệm hình sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho
cả trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp [19, tr. 68-69].
Do đó, việc đặt ra cho các giai đoạn thực hiện tội phạm với hình thức
lỗi cố ý gián tiếp là chưa thật chính xác, bởi vì trong tội phạm do lỗi cố ý gián
tiếp, người phạm tội không nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, không mong muốn hậu quả xảy ra, nên không thể có các giai đoạn chuẩn
bị phạm tội cũng như phạm tội chưa đạt.
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định các giai đoạn thực hiện tội phạm

bao gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Tuy
nhiên, Bộ luật hình sự cũng chỉ nêu chuẩn bị phạm tội tại Điều 17, phạm tội
chưa đại tại Điều 18, còn tội phạm hoàn thành không quy định thành một điều
luật cụ thể mà được phản ánh thông qua nội dung của 276 tội danh trong Phần
các tội phạm Bộ luật này. Trong đó, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên
của các giai đoạn thực hiện tội phạm và là giai đoạn có ảnh hưởng lớn đến kết
quả phạm tội. Các giai đoạn kế tiếp là phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành. Có thể nói việc quy định cách phân chia các giai đoạn thực hiện tội
phạm như vậy, thể hiện tính hợp lý cao về khoa học và thực tiễn. Điều 2 Bộ
luật hình sự quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự
quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [32]. Như vậy, việc quy định rõ
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự là cơ sở để xác
định mức độ và tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó làm cơ sở
cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự một cách chính xác, hợp tình, hợp lý,
bảo đảm sự chặt chẽ trong quyết định hình phạt, thể hiện được các nguyên tắc
pháp chế và công bằng, để Tòa án đưa ra được các quyết định hình phạt một
cách công minh, chính xác, không để lọt tội phạm và người phạm tội, nhưng
cũng không làm oan người vô tội.

19
Ngoài ra, thực tiễn xét xử ở nước ta từ trước đến nay hầu hết chỉ thừa
nhận các giai đoạn thực hiện tội phạm do lỗi cố ý mà không đặt ra vấn đề các
giai đoạn thực hiện tội phạm đối với lỗi cố ý trực tiếp, bởi vì trong tội phạm
do lỗi cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, thờ ơ,
bàng quan với hậu quả xảy ra. Hậu quả xảy ra không phải là mục đích của
người phạm tội.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau:
Các giai đoạn phạm tội là các bước của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý
(trực tiếp) do luật hình sự quy định, phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội ở từng thời điểm khác nhau, bao gồm chuẩn bị phạm

tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm chính
của các giai đoạn thực hiện tội phạm như sau:
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước, các giai đoạn phát
triển nhất định mà tội phạm trải qua gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và tội phạm hoàn thành.
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm được quy định trong luật hình sự.
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ được đặt ra đối với tội phạm
thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm phản ánh tính chất và mức độ nguy
hiểm khác nhau của hành vi phạm tội ở từng thời điểm trong quá trình thực
hiện tội phạm (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành).
1.1.2. Cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm
Trên thế giới, khoa học luật hình sự vẫn còn nhiều quan điểm khác
nhau về sự phân chia các giai đoạn tội phạm. GS.TS. Nguyễn Niên trong cuốn
sách chủ biên "Những vấn đề cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt
Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986 đã tổng kết như sau:

20
Trong khoa học luật hình sự Liên Xô cũ, A.A. Gertsendon
chỉ ra rằng, có 5 giai đoạn phạm tội: 1) Giai đoạn hình thành ý định;
2) Giai đoạn biểu lộ ý định; 3) Giai đoạn chuẩn bị phạm tội; 4) Giai
đoạn phạm tội chưa đạt; 5) Giai đoạn hoàn thành tội phạm. Trong
cuốn "Giáo trình luật hình sự Xô Viết", A.A Piontkovski không
công nhận hình thành ý định là một giai đoạn của quá trình phạm
tội, mà coi giai đoạn biểu lộ ý định là giai đoạn đầu tiên. Giáo sư
N.D.Durmanjev lại cho rằng chỉ có ba giai đoạn phạm tội: 1) Chuẩn
bị phạm tội; 2) Phạm tội chưa đạt; 3) Tội phạm hoàn thành. Hầu hết
các giáo trình luật hình sự của Liên Xô cũ đều chia ba giai đoạn như
vậy; v.v [28, tr. 119].

Còn ở Việt Nam, trước đây, vấn đề này đã được đặt ra từ thế kỷ XV
trong Bộ luật Hồng Đức của triều Lê. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt kỹ thuật
lập pháp, vấn đề này không được đề cập một cách rõ ràng. Nó được thể hiện
qua các điều luật cụ thể và có thể rút ra bốn giai đoạn là: Âm mưu phạm tội;
chuẩn bị phạm tội; phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Ở Bộ luật
Hồng Đức, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được gọi bằng tên khác,
được quy định thành những tội phạm cụ thể, có cấu thành tội phạm cụ thể và
những hình phạt riêng.
Trong khi đó, hiện nay, ở nước ta có hai quan điểm chính về cách
phân chia số lượng các giai đoạn thực hiện tội phạm.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, các giai đoạn thực hiện tội phạm bao
gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong
đó, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là
các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [19, tr. 66]. Có cùng quan điểm về cách
phân chia số lượng các giai đoạn thực hiện tội phạm, TS. Trịnh Tiến Việt
cũng đưa ra khái niệm như sau: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong

21
quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [55, tr. 25]; v.v Quan điểm này cũng đã
được ghi nhận trong cả Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Ở Phần chung Bộ luật hình sự quy định các trường hợp tội phạm chưa hoàn
thành: Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (Điều 17 và Điều 18); trong
Phần các tội phạm quy định trường hợp tội phạm hoàn thành. Người phạm tội
nếu thực hiện hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ở Phần các
tội phạm thì khi đó tội phạm đã hoàn thành. Nếu khi người phạm tội chỉ thực
hiện được một hay một số hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ở
Phần các tội phạm (hậu quả chưa xảy ra và việc không thực hiện được đến
cùng là do nguyên nhân khách quan), thì khi đó tội phạm được coi là chưa

hoàn thành.
- Quan điểm thứ hai lại cho rằng, các giai đoạn thực hiện tội phạm
gồm có hai giai đoạn là chuẩn bị phạm tội và thực hiện tội phạm. Còn phạm
tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành chỉ là trường hợp riêng biệt của giai đoạn
thực hiện tội phạm, chứ không thể coi là những giai đoạn chính thức được.
Trong trường hợp phạm tội chưa đạt, người phạm tội chưa thực hiện được tội
phạm đến cùng hoặc có thể thực hiện tội phạm đến cùng nhưng kết quả mong
muốn không đạt được. Còn trong trường hợp tội phạm hoàn thành, người
phạm tội đã thực hiện được đầy đủ mọi hành vi phạm tội và đạt được kết quả
mong muốn. Như vậy, quan điểm này cho rằng, rõ ràng là phạm tội chưa đạt
và tội phạm hoàn thành chỉ là những trường hợp riêng biệt của quá trình thực
hiện tội phạm [16, tr. 117]; v.v
Theo chúng tôi, quan điểm thứ nhất được ghi nhận trong Bộ luật hình
sự hiện hành, cụ thể hơn và sát thực tế hơn. Có thể nói đây là quan điểm phù
hợp với diễn biến khách quan của quá trình phạm tội; phù hợp với yêu cầu
đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước; quan điểm này đồng thời đảm bảo sự
chính xác trong phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, từ đó bảo vệ được

22
quyền tự do của công dân, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội.
Trong thực tiễn, không phải tất cả trường hợp người phạm tội đều tiến
hành tất cả các giai đoạn từ chuẩn bị phạm tội, đến phạm tội chưa đạt và tội
phạm hoàn thành. Nếu tội phạm được thực hiện tuần tự từ giai đoạn đầu đến
giai đoạn cuối thì có nghĩa tội phạm đã hoàn thành. Có những trường hợp sau
khi có ý định phạm tội, người phạm tội lập tức thực hiện ngay ý định mà
không có sự chuẩn bị gì hết (không trải qua giai đoạn chuẩn bị phạm tội).
Hoặc có trường hợp người phạm tội mới bắt tay vào chuẩn bị công cụ phương
tiện phạm tội hay tạo ra những điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm
thì bị bắt giữ. Hoặc người phạm tội sau khi đã tạo ra được nhiều điều kiện cần

thiết để thực hiện tội phạm và đã bắt tay vào thực hiện tội phạm nhưng lại
không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan (hậu quả
không xảy ra); v.v
Ở Việt Nam hiện nay, luật hình sự không quy định việc biểu lộ ý định
phạm tội là một giai đoạn phạm tội. Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự quy
định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…" [32]. Như vậy, những gì
không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không phải là tội phạm. Ý
định phạm tội là những suy nghĩ, tính toán hình thành trong đầu óc con người.
Ý định phạm tội chỉ thể hiện ra bên ngoài và có khả năng gây ra nguy hiểm
cho xã hội khi người đó thực hiện hành vi. Khi ý định chưa thể hiện ra bằng
hành vi thì nó vẫn nằm trong đầu óc con người, chưa tác động đến thế giới
khách quan, vì vậy nó chưa có khả năng gây ra những nguy hiểm cho xã hội.
Biểu lộ ý định phạm tội là việc thể hiện ý định ra ngoài bằng lời nói, chữ viết,
cử chỉ, điệu bộ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp (như đe dọa). Ý định có thể
có hai chiều hướng: hoặc có thể được suy nghĩ, tính toán thêm để quyết định
thể hiện ra bên ngoài bằng hành động, hoặc có thể bị thay đổi, từ bỏ vì
nguyên nhân nào đó (khách quan hoặc chủ quan). Như vậy, ý định phạm tội
chưa biết có được thực hiện trong thực tế hay không. Tóm lại, ý định chưa

23
được thể hiệu ra ngoài bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ, điệu bộ… thì không phải
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà không phải là hành vi nguy hiểm cho xã
hội thì không phải là tội phạm. Tuy nhiên, trong thời kỳ chiến tranh ở nước ta,
cũng có những trường hợp đặc biệt, do yêu cầu đấu tranh chống tội phạm của
Nhà nước và do tính chất quan trọng của khách thể tội phạm nên có thời
điểm, Nhà nước ta quy định đối với các tội phản cách mạng thì chỉ cần có
"âm mưu phạm tội" cũng bị trừng trị, ví dụ: "Âm mưu phạm tội và hành động
phạm tội đều bị trừng trị" (Điều 2, Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng
ngày 30/6/1967) [39, tr. 25]. Bởi vì, các nhà làm luật cho rằng khi đã có âm
mưu thì ý thức chống đối của người phạm tội không nằm trong lĩnh vực tư

tưởng nữa. Trong giai đoạn hiện nay, do tình hình chính trị đã thay đổi nên
trong pháp luật hình sự Việt Nam, quy định này đã bị bãi bỏ và được thay
bằng quy định "hoạt động nhằm lật đổ" trong tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự), "đe dọa" trong tội đe dọa giết
người (Điều 103 Bộ luật hình sự).
Từ những quan điểm nêu trên và theo quy định trong Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành, cũng như việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, chúng
ta có thể nhận định: Cơ sở để phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm
chính là tính chất của những hành vi được thực hiện với hình thức lỗi cố ý và
thời điểm kết thúc những hành vi đó.
1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC GIAI ĐOẠN
TRONG TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chƣa hoàn thành
Cho đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam chưa ghi nhận nội dung về
khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành, mà chỉ đưa ra khái niệm pháp lý về
hai giai đoạn của tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt (Điều 17, 18 Bộ luật hình sự) và là giai đoạn riêng, độc lập so với tội
phạm hoàn thành.

24
Ngoài ra, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, quan điểm của
GS.TSKH. Lê Văn Cảm đưa ra khá phù hợp với những giai đoạn thực hiện tội
phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam: "Tội phạm chưa hoàn
thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt" [7, tr. 7], kèm theo
đó là trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành.
Chúng tôi cho rằng, việc ghi nhận khái niệm đầy đủ về tội phạm chưa
hoàn thành trong luật hình sự là điều cần thiết. Đó là cơ sở để phân biệt giữa
tội phạm chưa hoàn thành với tội phạm hoàn thành. Đồng thời qua đó còn làm
rõ cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội, cũng như việc quy định trách
nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm.

Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như
sau: Tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt, diễn ra trước giai đoạn tội phạm hoàn thành và người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự trên những
cơ sở chung.
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của
tội phạm chưa hoàn thành như sau:
- Tội phạm chưa hoàn thành bao gồm hai giai đoạn phạm tội độc lập
nhưng có mối quan hệ gắn bó với nhau là giai đoạn chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt.
- Việc thực hiện tội phạm chưa hoàn thành là do những nguyên nhân
khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Tội phạm chưa hoàn thành chỉ đặt ra đối với các tội được thực hiện
với lỗi cố ý trực tiếp.
- Trách nhiệm hình sự đặt ra với giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành
nhẹ hơn trách nhiệm hình sự áp dụng đối với trường hợp phạm tội hoàn thành.
- Tội phạm chưa hoàn thành phải diễn ra trước giai đoạn tội phạm
hoàn thành.

25
1.2.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của chuẩn bị
phạm tội
* Khái niệm
Điều 17 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định như sau: "Chuẩn bị phạm
tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện
khác để thực hiện tội phạm" [32]. Như vậy, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn
đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. Người phạm tội từ chỗ có ý
định phạm tội, bằng ý thức chủ quan của mình đã nẩy sinh ý định thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó dẫn đến bước (hay còn gọi là giai đoạn)
chuẩn bị phạm tội. Có thể hiểu, chuẩn bị phạm tội là chuẩn bị sẵn những điều

kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm cụ thể. Các hành vi như tìm kiếm,
sửa soạn công cụ, phương tiện, tìm kiếm đồng phạm, cấu kết với nhau; v.v
Như vậy, chuẩn bị phạm tội là chưa thực hiện hành vi cấu thành tội
phạm (trừ một số trường hợp đặc biệt), đó là hành vi chưa tác động trực tiếp
đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, do đó, nó chưa trực tiếp gây
nguy hại cho khách thể của luật hình sự, nhưng lại là tiền đề, điều kiện thuận
lợi để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng.
Trong quy định tại Bộ luật hình sự, các nhà làm luật đã định nghĩa
ngắn gọn, tương đối rõ ràng về giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, dưới
góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu có thể được định
nghĩa như sau: Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực
hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, là khi một người tìm kiếm, sửa soạn công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm, tuy
nhiên vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên tội phạm
đã không được thực hiện đến cùng.
* Các đặc điểm cơ bản
Theo khái niệm trên đây, chúng ta thấy chuẩn bị phạm tội bao hàm cả
nội dung thể hiện các đặc điểm cơ bản trên phương diện khách quan và phương
diện chủ quan như sau.

×