Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Người làm chứng trong tố tụng dân sự việt na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.49 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHIẾU ĐĂNG KÝ ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ CN:

LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
6038010

TÊN ĐỀ TÀI:

NGƯỜI LÀM CHỨNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

HỌC VIÊN: NGUYỄN THANH TRÚC
KHOÁ:

21

MSHV:

1421030146


TP. HỒ CHÍ MINH – 2016


PHIẾU ĐĂNG KÝ ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


I. Tên đề tài:
“Người làm chứng trong tố tụng dân sự Việt Nam”
II. Dự kiến đề cương luận văn
1. Lý do chọn đề tài
Đối với hoạt động thu thập chứng cứ nói riêng và quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, thì lời khai của người làm chứng được xem là một trong những nguồn chứng cứ
quan trọng giúp cho Tòa án xác định các tình tiết sự kiện cần chứng minh, nhất là đối
với những vụ việc dân sự không có hoặc có rất ít vật chứng, tài liệu.
Người làm chứng là những người biết các tình tiết liên quan đến nội dung vụ
việc nhưng lại không phải là người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc đó nên lời
khai của họ thường khách quan, trung thực hơn so với lời khai của đương sự. Tuy
nhiên, lời khai của người làm chứng cũng chịu sự chi phối từ nhiều yếu tố chủ quan
như: khả năng ghi nhớ, khả năng nhận thức và trình bày, tâm lý, quan điểm về vụ
việc,... Do đó, pháp luật tố tụng dân sự đã có những quy định về quyền và nghĩa vụ của
người làm chứng nhằm bảo vệ người làm chứng đồng thời đảm bảo tính trung thực
khách quan trong lời khai của họ.
Hiện nay, việc thực hiện các quy định về người làm chứng trong tố tụng dân sự
đang gặp phải một số vướng mắt như: Căn cứ để xác định người làm chứng; hình thức
lấy lời khai của người làm chứng để đảm bảo giá trị làm chứng cứ của lời khai; chế tài
đối với trường hợp người làm chứng vi phạm nghĩa vụ như không tham dự phiên tòa
khi được triệu tập, khai báo không trung thực…vẫn chưa được quy định rõ ràng, còn


mang tính hình thức,...
Từ những yêu cầu của thực tiễn có thể thấy việc nghiên cứu tìm hiểu để nhận
thức đúng và đầy đủ lý luận về người làm chứng cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
về người làm chứng trong tố tụng dân sự là hết sức cần thiết. Tuy nhiên cho đến hiện
nay, chỉ có một số công trình nghiên cứu đề cập đến người làm chứng nhưng chỉ dừng
lại ở gốc độ phân tích, bình luận văn bản quy phạm pháp luật, chưa có công trình nào ở
cấp độ luận văn thạc sĩ về người làm chứng trong tố tụng dân sự. Chính vì vậy, tác giả

quyết định chọn đề tài “Người làm chứng trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận
văn thạc sĩ luật học cho mình nhằm nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật
hiện hành về người làm chứng trong pháp luật tố tụng dân sự trên cơ sở đối chiếu với
thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình khoa học liên quan đến Đề tài “Người làm chứng trong tố tụng
dân sự Việt Nam” như:
Hà Thị Mai Hiên, Trần Văn Biên (2012), Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân
sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011,
NXB Tư pháp, Hà Nội: Các tác giả bình luận quy định về người làm chứng trong Bộ
Luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 như khái niệm, quyền và nghĩa vụ
của người làm chứng, lấy lời khai của người làm chứng. Do phạm vi nghiên cứu của
công trình này là khá rộng và phân tích bình luận rất nhiều vấn đề cơ bản được quy
định trong Bộ Luật Tố tụng dân sự nên không thể phân tích sâu về người làm chứng
cũng như nêu các thực trạng áp dụng pháp luật.
Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) (2012), Bình


luận khoa học bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động Xã hội, Tp.Hồ Chí Minh:
Công trình này, các tác giả nghiên cứu khá đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, trong đó, tại phần người tham gia tố tụng trong
tố tụng dân sự và thu thập chứng cứ chứng minh trong tố tụng dân sự có phân tích, bình
luận về khái niệm người làm chứng, lấy lời khai của người làm chứng, nêu được một số
bất cập về việc bảo vệ người làm chứng nhưng chưa chỉ ra được các bất cập khác liên
quan đến người làm chứng cũng như những kiến nghị giúp hoàn thiện pháp luât về
người làm chứng trong tố tụng dân sự.
Về luận văn thạc sĩ, cho đến hiện nay chưa có luận văn nào viết về đề tài “Người
làm chứng trong tố tụng dân sự Việt Nam”, có một số luận văn có đề tài liên quan như:
Hà Thái Thơ (2013), Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM: Tại phần về trình tự, thủ tục thu

thập chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự, tác giả có nêu và phân tích quy định pháp
luật về lấy lời khai người làm chứng, đối chất giữa đương sự và người làm chứng. Tuy
nhiên, do đây là luận văn về hoạt động thu thập chứng cứ nên các nội dung có liên quan
đến người làm chứng chủ yếu được nêu dưới góc độ trình tự và thủ tục phục vụ cho chủ
đề chính của luận văn, chưa thể phân tích sâu, toàn diện về người làm chứng trong tố
tụng dân sự, chưa có so sánh với pháp luật các nước khác; Nguyễn Thị Kiều Oanh
(2004), Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam và Thụy Điển, Luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học Luật TPHCM - Đại học Lund. Luận văn có đề cập đến người
làm chứng tại phần về khái niệm chứng cứ, phân loại chứng cứ. Tuy nhiên, do luận văn
nghiên cứu về hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự nên chỉ dừng lại ở việc nêu
những nội dung liên quan đến phạm vi đề tài, chưa thể phân tích sâu các khía cạnh khác
về người làm chứng trong tố tụng dân sự, nhất là góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật.


Ngoài ra, còn có một số bài báo đăng trên tạp chí khoa học có đề cập đến người
làm chứng như: Tưởng Duy Lượng (2007), “Những khó khăn, vướng mắc trong việc
xác định người tham gia tố tụng dân sự và kiến nghị”, Tạp chí Kiểm sát, (13), trg 3336: Bài viết nêu thực tiễn áp dụng các quy định về người tham gia tố tụng dân sự, tại
mục 7 của bài viết nêu về cơ chế xử lý của người làm chứng không trung thực, đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. Do bài viết đề cập đến nhiều nội dung
khác về người tham gia tố tụng dân sự nên về người làm chứng tác giả chỉ mới dừng lại
ở việc nêu bất cập và đề xuất chỉnh sửa luật, ban hành nghị định hướng dẫn nhưng chưa
nêu cụ thể chỉnh sửa như thế nào, lý giải vì sao nên chỉnh sửa theo hướng đó.
Các công trình nghiên cứu nêu trên là những tài liệu tham khảo quý giá, chứa
nhiều thông tin và có giá trị khoa học về lý luận lẫn thực tiễn giúp cho tác giả có thể
định hướng và phục vụ việc nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, đa số các công
trình nghiên cứu này có phạm vi nghiên cứu khá rộng nên chưa đi sâu nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về người làm chứng trong tố tụng dân sự. Từ thực tiễn
tình hình nghiên cứu nêu trên, việc chọn lựa nghiên cứu về “Người làm chứng trong
tố tụng dân sự Việt Nam” là phù hợp và cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Đề tài được nghiên cứu với mục đích nhằm làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về
người làm chứng trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Trên cơ sở đó, đề tài nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về người làm
chứng trong tố tụng dân sự so sánh với các quy định của một số nước khác, đồng thời
đánh giá việc áp dụng pháp luật qua thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự có sự tham
gia của người làm chứng. Từ đó, tác giả sẽ chỉ ra những hạn chế của pháp luật thực


định, kiến nghị những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về
người làm chứng trong tố tụng dân sự.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
hiện hành và một số văn bản khác có liên quan về người làm chứng trong tố tụng dân
sự, các vấn đề về người làm chứng trong các lĩnh vực khác như giao dịch dân sự, thi
hành án dân sự sẽ không được tác giả phân tích trong luận văn này. Bên cạnh đó, tác giả
cũng sẽ nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về người làm chứng trong giải quyết
vụ việc dân sự thông qua thực tiễn xét xử tại toà án; tìm hiểu các quy định của các nước
khác về người làm chứng trong tố tụng dân sự, so sánh với pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng tổng hợp các phương pháp phân
tích, đánh giá luật, phương pháp bình luận án, phương pháp so sánh luật.
Phương pháp phân tích, đánh giá luật được sử dụng ở hầu hết các phần của luận
văn và tập trung nhất ở chương 1 - Những vấn đề cơ bản về người làm chứng trong tố
tụng dân sự. Luận văn sẽ phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về người
làm chứng, tổng hợp các ý kiến, các quan điểm của các tác giả về người làm chứng,
đồng thời đưa ra nhận định riêng.
Phương pháp so sánh luật được sử dụng ở một số nội dung trong Chương 1 và
Chương 2 của luận văn, đặc biệt là phần lý giải cho những nội dung kiến nghị. Bên



cạnh đó, luận văn cũng có sử dụng phương pháp bình luận án tại chương 2 để làm rõ
thực trạng pháp luật, từ đó tổng hợp để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện vấn đề đang
nghiên cứu.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết
Luận văn được thiết kế gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận.
Trong đó phần nội dung gồm hai chương như sau:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của người làm chứng trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm người làm chứng trong tố tụng dân sự
1.1.2. Đặc điểm của người làm chứng trong tố tụng dân sự
1.2. Lược sử quy định của pháp luật Việt Nam về người làm chứng trong tố tụng dân sự
1.3. Căn cứ xác định người làm chứng
1.4. Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng
1.5. Lấy lời khai của người làm chứng
1.6. Chế tài áp dụng đối với người làm chứng vi phạm nghĩa vụ

Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật
2.1.1. Về căn cứ xác định người làm chứng
2.1.2. Về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng
2.1.3. Về thủ tục lấy lời khai của người làm chứng
2.1.4. Chế tài áp dụng đối với người làm chứng vi phạm nghĩa vụ

2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng
2.2.1. Về căn cứ xác định người làm chứng
2.2.2. Về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng
2.2.3. Về thủ tục lấy lời khai của người làm chứng
2.2.4. Chế tài áp dụng đối với người làm chứng vi phạm nghĩa vụ
6. Tài liệu tham khảo
• Văn bản pháp luật
1. Hiến pháp 2013;
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
3. Bộ luật dân sự năm 2005;
4. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011;
5. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
6. Bộ luật dân sự năm 2015;
7. Bộ luật tố tụng dân sự Pháp
8. Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga


9. Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn Quy định trong Phần thứ nhất “Những
quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật sửa
đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự;
10. Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn Quy định “Chứng minh và chứng cứ”
của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi Bộ luật tố tụng
dân sự;
11. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn Quy định trong phần thứ hai “Thủ tục
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ Luật tố tụng dân sự đã được
sửa đổi theo Luật sửa đổi Bộ Luật tố tụng dân sự;
12. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989;

13. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994;
14. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996;
• Giáo trình, sách tham khảo
1. Nguyễn Công Bình (2011), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội;
2. Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (2012), Bình luận
khoa học bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động Xã hội, Hồ Chí
Minh;
3. Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật tố tụng


dân sự và thực tiễn áp dụng, NXB Tư pháp, Hà Nội;
4. Bùi Thị Thanh Hằng (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
5. Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2012), Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
6. Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình luật tố tụng dân sự
Việt Nam, NXB Hồng Đức;
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam,
NXB Công an nhân dân.
• Luận văn
1. Nguyễn Thị Kiều Oanh (2004), Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Việt Nam và Thụy Điển, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. HCM Đại học Lund;
2. Nguyễn Thị Hồng Thanh (2009), Thu thập chứng cứ trong giải quyết tranh
chấp lao động tại tòa án lý luận và thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. HCM.
3. Hà Thái Thơ (2013), Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. HCM.
• Tạp chí, bài viết
1. Nguyễn Việt Cường (2005), Người tham gia tố tụng dân sự, Tạp chí Tòa án

nhân dân, (08), tr.14-20;


2. Nguyễn Minh Hằng, Nguyễn Văn Tiến (2010) Người tham gia tố tụng trong
thủ tục giải quyết việc dân sự từ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp
chí Nghề luật, (05), tr.19-21, 59;
3. Tưởng Duy Lượng (2007), “Những khó khăn, vướng mắc trong việc xác định
người tham gia tố tụng dân sự và kiến nghị”, Tạp chí Kiểm sát, (13), tr. 3336;
4. Đinh Văn Quế (2003), Một số vấn đề về quyền và nghiã vụ của người tham
gia tố tụng , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (30), tr.51-57;
5. Thanh Sơn (2000), Về vấn đề xác định những người tham gia tố tụng và tư
cách của họ trong vụ án dân sự , Tạp chí Tòa án nhân dân, (02), tr.17-18;
III. Dự kiến kế hoạch thực hiện
- Giai đoạn 1 (Từ tháng 01/2015 – tháng 02/2016): thu thập và nghiên cứu tài
liệu;
- Giai đoạn 2 (Từ tháng 03 – tháng 8/2016): viết luận văn
+ Tháng 3, 4: viết chương 1;
+ Tháng 5, 6: viết chương 2;
+ Tháng 7, 8: chỉnh sửa

Ngày 14 tháng 01 năm 2016

và hoàn tất luận văn.
Học viên

Nuyễn Thanh Trúc





×