Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

SA ngay nay 48 (1 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.96 MB, 41 trang )

Diễn đàn Y khoa

Mười điều Tuổi trẻ thường lãng phí
Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều
thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.
điên, vui chơi thâu đêm, ăn uống không điều độ…. Cứ như thế, cơ thể mệt mỏi và lão hoá
nhanh. Khi về già, cố níu kéo sức khoẻ thì đã muộn.
Thời gian: Mỗi thời khắc “vàng ngọc” qua đi là không bao giờ lấy lại được. Vậy mà không
hiếm kẻ ném 8 giờ làm việc qua cửa sổ. Mỗi ngày, hãy nhìn lại xem mình đã làm được điều
gì. Nếu câu trả lời là “không”, hãy xem lại quỹ thời gian của bạn nhé!
Tiền bạc: Nhiều người hễ có tiền là mua sắm, tiêu xài hoang phí trong phút chốc. Đến khi
cần một số tiền nhỏ, họ cũng phải đi vay mượn. Những ai không biết tiết kiệm tiền bạc, sẽ
không bao giờ sở hữu được một gia tài lớn.
Tuổi trẻ: Là quãng thời gian mà con người có nhiều sức khoẻ và trí tuệ để làm những điều
lớn lao. Vậy mà có người đã quên mất điều này. “Trẻ ăn chơi, già hối hận” là lời khuyên dành
cho những ai phí hoài tuổi thanh xuân cho những trò vô bổ.
Không đọc sách: Không có sách, lịch sử im lặng, văn chương câm điếc, khoa học tê liệt, tư
tưởng và suy xét ứ đọng. Từ sách, bạn có thể khám phá biết bao điều kỳ thú trên khắp thế
giới. Thật phí “nửa cuộc đời” cho nhưng ai chưa bao giờ biết đọc sách là gì!
Cơ hội: Cơ hội là điều không dễ dàng đến với chúng ta trong đời. Một cơ may có thể biến
bạn thành giám đốc thành đạt hay một tỷ phú lắm tiền. Nếu thờ ơ để vận may vụt khỏi tầm
tay, bạn khó có thể tiến về phía trước.
Nhan sắc: Là vũ khí lợi hại nhất của phụ nữ. Có nhan sắc, bạn sẽ tự tin và chiếm được
nhiều ưu thế hơn so với người khác. Tuy nhiên, “tuổi thọ” của nhan sắc có hạn. Thật hoang
phí khi để sắc đẹp xuống dốc. Hãy chăm sóc mình ngay từ bây giờ.
Sống độc thân: Phụ nữ ngày nay theo trào lưu “chủ nghĩa độc thân”. Thực tế là khi sống
một mình, bạn rất cô đơn và dễ cảm thấy thiếu vắng vòng tay yêu thương của chồng con.
Bận bịu gia đình chính là một niềm vui. Sống độc thân, bạn đã lãng phí tình cảm đẹp đẽ ấy.
Không đi du lịch: Một vĩ nhân đã từng nói: “Khi đi du lịch về, con người ta lớn thêm và chắc
chắn một điều là trái đất phải nhỏ lại”. Vì thế, nếu cho rằng đi du lịch chỉ làm hoang phí thời
gian và tiền bạc, bạn hãy nghĩ lại nhé!


Không học tập: Một người luôn biết trau dồi kiến thức sẽ dễ thành công hơn người chỉ biết
tự mãn với những gì mình biết. Nếu không học hành, bạn đang lãng phí bộ óc đấy!

Date:
September 21 – 23, 2008
Venue: National Convention Center (NCC), Hanoi, Vietnam
Hosted by :
- The Vietnamese Society of Radiology& Nuclear Medicine
- ASEAN Association of Radiology
Official Language : English
Website:
www.radiology.com.vn
Secretariat:
Venus Communications
58 Triệu Việt Vương, Hà nội, Việt nam
Tel: 84-4-2916100 - Fax: 84-49447067
E-mail:
Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

1


Chuyên đề siêu âm
KHẢO SÁT CHỈ SỐ ĐẬP PULSATILE INDEX (PI)

CỦA ĐỘNG MẠCH LÁCH
TRONG CHAI GAN và VIÊM GAN MẠN
NGUYỄN THIỆN HÙNG
Trung tâm Y khoa MEDIC - Thành phố Hồ Chí Minh
ĐẶT VẤN ĐỀ:

Bên cạnh việc khảo sát hình thái cấu trúc gan, hệ tĩnh mạch Cửa và các tĩnh mạch gan, các
chỉ số cản RI của động mạch Gan riêng và chỉ số đập PI động mạch Lách còn gíup chẩn đoán
sớm xơ hoá gan (fibrosis) và chai gan (cirrhosis).
Chúng tôi áp dụng kỹ thuật đo chỉ số đập PI của động mạch Lách để góp phần phát hiện xơ
hoá gan (fibrosis) và chai gan (cirrhosis) trong các trường hợp viêm gan mạn.
ĐỐI TƯỢNG và PHƯƠNG PHÁP:
Gồm 58 trường hợp viêm gan mạn lâm sàng chọn ngẫu nhiên (32 nữ và 26 nam), tuổi từ 34 77. 02 ca có tái lập tuần hoàn rốn và giãn tĩnh mạch lách được loại, còn lại 56 ca.
Sử dụng máy siêu âm màu SONOVIEW TOSHIBA 6000, COMBISON 550 KREITZ và NEMIO
30 TOSHIBA để đánh giá hình thái gan, tm Cửa, đgm Gan riêng và đgm Lách cùng lúc.
Bệnh nhân nhịn ăn sáng trước khi khảo sát, tư thế nằm ngửa, nín thở ngắn lúc khảo sát các
mạch máu. Kết quả được so sánh với số liệu của các tác giả khác (xem bảng kê).
Một nhóm bệnh nhân khác được đối chiếu với kỹ thuật đo độ đàn hồi gan Fibroscan (báo cáo
riêng).
KẾT QUẢ:
Có 40 / 56 ca có chỉ số đập PI động mạch Lách >1,2 (từ 1,25—1,77), trị số PI trung bình
là=1,431±0,179. Theo PERISIE 2005, 40 ca này được xếp loại chai gan.
Có 16 / 56 ca có chỉ số đập PI động mạch Lách < 1,2 (từ 0,88---1,18), trị số PI trung bình là
1,028±0,085. 16 ca viêm gan mạn lâm sàng này chưa có dấu hiệu chai gan theo xếp loại của
PERISIE.
Vậy trong số 56 ca viêm gan mạn lâm sàng khám ngẫu nhiên, chúng tôi dự báo được có
40/56 ca có khả năng chai gan khi dựa vào chỉ số đập PI của động mạch Lách.
BÀN LUẬN và KẾT LUẬN:
Khảo sát động mạch Lách ở các bệnh nhân viêm gan mạn tương đối đơn giản, có thể lập lại
nếu cần. Chen-Hua Liu 2007 nhấn mạnh độ chính xác của chỉ số đập PI động mạch Lách
trong khảo sát tình trạng nặng của xơ hóa gan ở bệnh nhân viêm gan mạn do nhiễm HCV và
giúp giảm việc sinh thiết gan để phân độ. Tuy số liệu còn ít, nhưng kết quả cho thấy đo chỉ
số đập PI động mạch Lách giúp đánh giá nhanh diễn tiến bệnh lý viêm gan mạn. Tuy còn lệ
thuộc vào người khám, nhưng có thể khắc phục bằng cách kết hợp với các kỹ thuật khác như
Fibroscan, các thông số siêu âm mạch máu gan khác đo lưu lượng như tĩnh mạch Cửa, chỉ số
cản RI động mạch Gan riêng, và hình thái cấu trúc siêu âm gan.


Hình 1= Viêm gan mạn với cấu trúc gan thô
và lách to.

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

Hình 2= Phổ động mạch Lách và giá trị PI
động mạch Lách =0,8.

2


Chuyên đề siêu âm
Bảng kê :CÁC THÔNG SỐ TĨNH MẠCH CỬA, ĐỘNG MẠCH GAN RIÊNG và ĐỘNG MẠCH LÁCH

Lưu lượng TM
Cửa
RI đgm Gan
riêng
PI đgm Gan
riêng
RI đgm Lách
PI đgm Lách

Chai gan

Bình thường

11.0 +/- 2.4 cm/sec


15.9+/-2.8

0.64+/-0.05

0.51+/-0.05

1.28+/-0.18
1.03+/-0.24
0.63
1.24+/-0.47

0.95+/-0.17
0.72+/-0.11
0.53 - 0.56
1.17+/-0.36

Cut-off
Values
13 cm/sec

Tác giả
IWAO, 1997
BOLOGNESI,1996

1.1
BOLOGNESI,1996
PISCAGLIA, 2002
PERISIE, 2005

Tài liệu tham khảo chính:

1. Iwao T, Toyonaga A , Oho K , Tayama C , Masumoto H , Sakai T , Sato M , Tanikawa K:Value of
Doppler ultrasound parameters of portal vein and hepatic artery in the diagnosis of cirrhosis and portal
hypertension. Am J Gastroenterol. 1997 Jun; 92(6):1012-7.
2: Kayacetin E , Efe D , Doğan C :Portal and splenic hemodynamics in cirrhotic patients: relationship
between esophageal variceal bleeding and the severity of hepatic failure. Hepatology. 1996 May;
23(5):1035-40.
3: Piscaglia F , Donati G , Cecilioni L , Celli N , Stagni B , Pini P , Gaiani S, Gherlinzoni F, Bolondi L:
:Influence of the spleen on portal haemodynamics: a non-invasive study with Doppler ultrasound in
chronic liver disease and haematological disorders. Scand J Gastroenterol. 2002 Oct;37(10):1220-7.
4. Chen–Hua Liu, Shih–Jer Hsu, Jou–Wei Lin, Juey–Jen Hwang, Chun–Jen Liu, Pei–Ming Yang, Ming–
Yang Lai, Pei–Jer Chen, Jun–Herng Chen, Jia–Horng Kao, Ding–Shinn Chen: Noninvasive Diagnosis of
Hepatic Fibrosis in Patients With Chronic Hepatitis C by Splenic Doppler Impedance Index . Clinical
Gastroenterology and Hepatology, Vol 5, Issue 10, October 2007, pp.1199-1206.

THẬN LẠC CHỖ CAO
Siêu âm: Cho phép chẩn đoán được. Khi siêu âm thấy 1 thận:
Thận to bù trừ: thường là thận độc nhất, 1 số rất ít thận còn lại thiểu sản hay teo nhỏ.
Khi không thấy to bù trừ: chắc chắn còn 1 thận lạc chỗ ở đâu đó.
KẾT LUẬN:

Thoracic kidney rất hiếm gặp, dễ bỏ sót. Tuy nhiên nếu nghĩ tới khi làm siêu âm sẽ
phát hiện, nhất là trong những trường hợp XQ tim phổi nghi ngờ u phổi và do đó giúp tránh
được phẩu thuật hay sinh thiết không cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Yusuf K. Yalcinbas. Thoracic left kidney: a differential diagnostic dilemma for thoracic surgeons. Ann Thorac Surg
2001;72:281-283
Robert M. Liddell et al. Delayed radiologic appearance of bilateral thoracic ectopic kidneys. AJR January
1989;152:120-122.

GIÁ TRỊ CỦA SIÊU ÂM LÒNG HẬU MÔN - TRỰC TRÀNG

KẾT LUẬN
SALHM-TT đánh giá rất tốt bệnh lý vùng hậu môn- trực tràng, nhất là rò hậu môn- trực
tràng
Giá trị của bơm chất tương phản cũng có hạn chế trong một số trường hợp và cần được
nghiên cưú thêm
SALHM-TT chính xác sẽ giúp ích rất nhiều cho phẫu thuật
Tương lai có thể so sánh SALHM-TT và MRI trong bệnh rò hậu môn- trực tràng
MRI thấy đường rò tốt hơn SALHM-TT trong việc đánh giá đường rò hậu môn- trực tràng.
DANH NGÔN

1.Dạy ai đó một cách cặn kẽ và thấu đáo là cách tốt nhất để tự mình học hỏi.(Tyron
Edwards)
2.Việc dạy không ngăn cản được sự phí phạm thời gian hoặc lỗi lầm; và lỗi lầm, tự chúng
thường là những người thầy hay nhất.(Jame A.Froude)
3.Chức năng cao nhất của người thầy không phải là truyền đạt kiến thức mà là khuyến
khích học sinh yêu kiến thức và mưu cầu kiến thức.(Henry Frecleric Amiel)
4.Trong mọi ảnh hưởng gián tiếp đối với sự phát triển xã hội chúng ta, ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất là của người thầy.(Armond J.Gerson)

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

3


Chuyên đề siêu âm

GIÁ TRỊ CỦA SIÊU ÂM LÒNG HẬU MÔN - TRỰC TRÀNG

TRONG BỆNH RÒ HẬU MÔN - TRỰC TRÀNG
BS PHẠM CHÍ TOÀN - BS LÂM CẨM TÚ

Trung tâm Y khoa MEDIC - Thành phố Hồ Chí Minh
TỔNG QUAN
Rò hậu môn- trực tràng thường gặp đứng
thứ 2 sau bệnh trĩ
Bệnh rò hậu môn- trực tràng thường xuất
hiện sau khi điều trị áp xe hậu môn - trực
tràng không triệt để, bệnh hay tái phát
nhiều lần
Bệnh không gây nguy hiểm chết người
nhưng làm bệnh nhân có nhiều phiền
phức trong sinh hoạt, ảnh hưởng không ít
tới năng suất lao động xã hội
Điều trị duy nhất là phẩu thuật, điều trị rất
phức tạp, nhiều bệnh nhân phải mổ đi mổ
lại nhiều lần
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước đây, rò hậu môn trực tràng được
chẩn đoán bằng XQuang cản quang cổ
điển
Siêu âm lòng hậu môn- trực tràng
(SALHM-TT) là phương tiện tốt để phát
hiện những bệnh của ống hậu môn- trực
tràng, nhất là rò hậu môn- trực tràng
MỤC ĐÍCH
Đánh giá được tương quan giữa đường rò
nguyên thuỷ với các cơ thắt của hậu môn
Phân biệt rò đơn giản hay phức tạp
Mô tả được vị trí cuả lỗ rò trong
Giá trị của chất tương phản hydrogen
peroxide (H202) trong SALHM-TT

PHƯƠNG PHÁP

Nghiên cứu tiền cưú khảo sát 2 tháng 11
và 12 năm 2007 tại MEDIC
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán rò hậu
môn- trực tràng được chỉ định SALHM-TT
Máy siêu âm ALOKA SSD 2200, đầu dò
endorectal 7,5MHz, xoay 360o và đầu dò
curve 3,5 MHz để đánh giá đường rò
Ống thông mềm plastic (catheter 20G)
luồn vào trong đường rò qua lỗ rò ngoài
KỸ THUẬT
Bệnh nhân không cần chuẩn bị gì đặc biệt
Bệnh nhân nằm nghiêng trái
Thăm khám hậu môn bằng tay trước khi
tiến hành SALHM
Bơm chất tương phản nếu bệnh nhân có
lỗ rò ngoài
KẾT QUẢ
Tháng 11 và 12 – 2007 có tất cả 39 bệnh
nhân:
12 bệnh nhân có tiền căn mổ rò hậu môn
7 bệnh nhân có tiền căn áp xe cạnh hậu
môn
20 bệnh nhân là rò nguyên phát
32 bệnh nhân có lỗ rò ngoài, 7 bệnh nhân
không có lỗ rò ngoài:
28 bệnh nhân có 1 lỗ rò ngoài
3 bệnh nhân có 2 lỗ rò ngoài
1 bệnh nhân có 3 lỗ rò ngoài


Tỉ lệ Nam : Nữ = 30:9 ( 3,3: 1)
Tuổi: từ 21đến 75 ( tuổi trung bình 48)
Bảng 1= Phân bố số bệnh nhân theo nhóm tuổi
21- 30

31- 40

41- 50

51-60

61- 75

11

12

9

4

3

Bảng 2=Phân loại đường rò qua SALHM không có chất tương phản và với
hydrogen peroxide và đối chiếu với kết quả mổ.

Dưới da niêm mạc

SALHM không có chất tương SALHM

phản
với H2O2
7
8

Kết quả phẩu
thuật
8

Xuyên cơ thắt cao

4

5

6

Xuyên cơ thắt thấp

20

22

23

Móng ngựa

1

2


2

Tổng cộng

32(82,1%)

37 (94,8%)

39

Loại đường rò

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

4


Chuyên đề siêu âm
Bảng 3 = So sánh với tác giả Võ Tấn Đức, BV ĐHYD.
SALHM-TT không có chất
tương phản

SALHM-TT
với H2O2

Kết quả
phẫu thuật

MEDIC


32 ( 82,1 %)

37 (94,8%)

39

BV ĐHYD

38 (64,4%)

59 (90%)

59

H1= Lỗ rò ngoài

H2=Đường rò dưới da cạnh hậu môn có
hydrogen peroxide (đầu dò curve 3,5MHz).

H3= Lỗ rò trong

H4= Lỗ rò trong có hydrogen peroxide, hình
ảnh “đèn pha”(đầu dò endorectal 7,5MHz).

BÀN LUẬN
SALHM-TT là phương pháp chẩn đoán có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, cung cấp nhiều thông
tin hơn X-quang cổ diển.
Bơm chất tương phản chẩn đoán được hầu hết các trường hợp, thường khoảng 2- 3 ml vào
đường rò qua lỗ rò ngoài

Sau khi bơm vào lỗ rò ngoài có hình ảnh phản âm mạnh trong đường rò với phản âm dày
Lỗ dò trong thường khó xác định chính xác, với hydrogen peroxide, có dạng “đèn pha”.
SALHM-TT sẽ giúp phẫu thuật viên dễ dàng lựa chọn phương pháp mổ.
Hạn chế khi bơm hydrogen peroxide =
Bơm quá nhiều hay thuốc không ngấm tốt trong đường rò thì sẽ không khảo sát đường rò
Bệnh nhân có nhiều đường rò, bệnh nhân đau, miệng rò bị bít kín không thể luồn catheter
nên hạn chế khảo sát
Chỉ định dùng hydrogen peroxide: khi siêu âm thường không phát hiện, không thấy rõ rò
hay rò kết hợp với áp xe.
Xem tiếp trang 3

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

5


Case Report

NHÂN TRƯỜNG HỢP
THẬN LẠC CHỖ CAO (THORACIC KIDNEY)
BS Lê Văn Tài
Trung Tâm Y Khoa MEDIC - Thành phố Hồ Chí Minh
Thận lạc chỗ hiếm gặp, có những trường hợp rất khó phát hiện, dễ bỏ sót, do lạc chỗ ở
những vị trí hiếm gặp (làm cho chúng ta ít nghĩ để tìm), hay ở những vị trí dễ bị che khuất.
Chúng tôi xin trình bày trường hợp hiếm nhất trong các trường hợp thận lạc chỗ, thận lạc chỗ
cao được gọi là thoracic kidney.
BỆNH ÁN
Bé trai 2 tuổi, sốt 3 ngày, nhập viện, điều trị nhiễm trùng tiểu, 2 ngày sau hết sốt.
Siêu âm nhiều lần trước đó không thấy thận (T). Xạ hình gamma camera (SPECT): 2 thận,
thận (P) hấp thu thuốc giảm, bài xuất tốt; thận (T) hấp thu, bài xuất thuốc tốt. Siêu âm kiểm

tra lại: 2 thận, thận (P) vị trí bình thường, thận (T) lạc chỗ cao.
Đường cắt dọc hông
trái , không thấy thận
trái ở vị trí bình thường
(dưới lách), cắt cao lên
trên phát hiện thận trái
vị trí cao trên lách.

Cắt dọc 2 thận thấy 2
thận kích thước bình
thường, thận trái hơi
nhỏ hơn thận phải.

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

6


Case Report
BÀN LUẬN
Thận hình thành từ nụ niệu quản (ureteric bud), từ tuần thứ 7--9 thai kỳ, đi lên trên.
Sự đi lên quá mức: thận ở vị trí cao (thoracic kidney).
Sự đi lên bị cản trở: thận ở vùng chậu, tiểu khung.
Thận di chuyển ngang sang phía đối bên, thường dính với thận đối bên, hay riêng biệt.
Hai thận khác bên dính nhau: thận hình móng ngựa.
Thận lạc chỗ hiếm gặp, thoracic kidney hiếm gặp nhất, ít hơn 5% trong toàn bộ thận lạc chỗ.
Sự đi lên quá mức và tuỳ thuộc vào sự hình thành cơ hoành: hoàn chỉnh hay có thoát vị
hoành: Thận đội lên cơ hoành (hình ảnh nhão cơ hoành) hay chui lên lồng ngực khi có thoát
vị hoành bẩm sinh.
Thoracic kidney gặp bên trái nhiều hơn bên phải, nam nhiều hơn nữ (nam/nữ = 2/1).

Không có triệu chứng, chức năng bình thường.
Có thể gây giảm sản một phần phổi do bị thận chèn ép.
XQ tim phổi: có thể có hình ảnh nhão cơ hoành, u trong ngực, u trung thất.
CT, DSA (UIV, Angiography): giúp chẩn đoán xác định.
A. X-Q tim phổi thẳng, đầu mũi tên lớn
chỉ thận trái vị trí cao trên lồng ngực.
B. Intravenous pyelography (UIV): Đầu
mũi tên nhỏ chỉ thận trái. Đầu mũi tên
nhỏ chỉ niệu quản trái.

Chụp động mạch thận (Renal
Angiography): Đầu mũi tên nhỏ chỉ
động mạch thận trái. Đầu mũi tên
nhỏ chỉ động mạch thượng thận
trái.

CT ngực: cho thấy thoracic kidney.

Xem tiêp trang 3

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

7


Bs Võ Nguyễn Thục Quyên
Tuyển chọn & dịch

1/ CHẨN ĐOÁN THÀNH
PHẦN

TRONG
ỐNG
TUYẾN CỦA UNG THƯ
TUYẾN VÚ XÂM LẤN
BẰNG NHŨ ẢNH VÀ SIÊU
ÂM
(Diagnosis of the intraductal
component of invasive breast
cancerAssessment
with
mammography
and
sonography)
Doo Kyoung Kang, MD , Gyeong
Sik Jeon, MD , Hyunee Yim, MD
and Yong Sik Jung, MD
Departments
of
Diagnostic
Radiology
(D.K.K.,
G.S.J.),
Pathology (H.Y.), and General
Surgery
(Y.S.J.),
Ajou
University, School of Medicine,
Suwon, Korea.
Address correspondence to Doo
Kyoung Kang, MD, Department

of Diagnostic Radiology, Ajou
University, School of Medicine,
San
5,
Woncheondong,
Yeongtong-gu, Suwon, Kyongido 442–749, Korea. E-mail:
kdklsm{at}ajou.ac.kr

Mục tiêu. Mục đích của
nghiên cứu này là khảo
sát những đặc tính trên
nhũ ảnh và siêu âm cũng
như độ nhạy của chúng
trong việc mô tả cấu trúc
bên trong ống tuyến của
ung thư tuyến vú xâm lấn
( IDC ).
Phương pháp. Trong
vòng 1 năm, có 132 bệnh
nhân IDC được điều trị
bằng phẫu thuật. Tất cả
các bệnh nhân đều được
chụp nhũ ảnh và siêu âm
độ phân giải cao, và các
hình ảnh được ghi nhận
lại dựa trên bảng mô tả
hình ảnh X quang tuyến
vú của đại học Hoa kỳ và
từ điển hệ thống dữ liệu.
Ung thư được chia thành


2 loại là IDC đơn thuần
và IDC với thành phần
trong ống dựa trên giải
phẫu bệnh học. Chúng tôi
so sánh những đặc tính
nhũ ảnh và siêu âm giữa
2 nhóm trên và cố gắng
liên hệ chúng với các đặc
điểm giải phẫu bệnh học.
Chúng tôi cũng khảo sát
riêng lẽ và phối hợp độ
nhạy, độ đặc hiệu và tính
chính xác của nhũ ảnh và
siêu âm tuyến vú trong
việc mô tả các thành
phần bên trong ống
tuyến. Cuối cùng, những
thang đo về hình ảnh
được so sánh với những
thang đo giải phẫu bệnh.
Kết quả.
104 (79%)
trong tổng số 132 bệnh
nhân IDCs có thành phần
trong ống tuyến. Bệnh
nhân IDC với thành phần
trong ống tuyến có hình
ảnh vôi hoá trên nhũ ảnh
và dấu halo, dãn ống

tuyến, vôi hoá và tăng
lưu lượng máu ở mô
xung quanh trên siêu âm
hơn những bệnh nhân
IDC đơn thuần. Độ nhạy
của nhũ ảnh, siêu âm và
phối hợp cả hai trong
việc phát hiện cấu trúc
trong ống tuyến là 55%,
80%, và 86%. Đánh giá
phối hợp (r = 0.90) nhằm
đo lường sự lan rộng của
ung thư chính xác hơn
nhũ ảnh (r = 0.71) hay
siêu âm (r = 0.79) riêng
lẻ .
Kết luận. Phối hợp nhũ
ảnh và siêu âm cung cấp
nhiều thông tin chính xác
hơn là đánh giá riêng lẻ
về sự hiện diện của
thành phần trong ống
cũng như sự lan rộng của
khối u trong ung thư
tuyến vú xâm lấn.
2/ ĐỊNH LƯỢNG SỰ
PHÂN BỐ MẠCH MÁU
CỦA U TRÊN SIÊU ÂM 3D
NHƯ


MỘT
XÉT
NGHIỆM HÌNH ẢNH THỨ

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

3 SAU B-MODE VÀ SIÊU
ÂM DOPPLER TRONG
VIỆC PHÁT HIỆN UNG
THƯ BUỒNG TRỨNG:
(Threedimensional
quantification
of
tumor
vascularity as a tertiary test
after B-mode and power
doppler evaluation for detection
of ovarian cancer)
Stefano Guerriero, MD , Silvia
Ajossa, MD , Silvia Piras, MD ,
Marta Gerada, MD , Stefano
Floris, MD , Nicoletta Garau, MD
, Luigi Minerba, MD , Anna
Maria Paoletti, MD and Gian
Benedetto Melis, MD
Departments of Obstetrics and
Gynecology (S.G., S.A., S.P.,
M.G., S.F., N.G., A.M.P., G.B.M.)
and Public Health (L.M.),
University of Cagliari, Cagliari,

Italy.
Address correspondence to
Stefano
Guerriero,
MD,
Department of Obstetrics and
Gynecology,
University
of
Cagliari, Ospedale San Giovanni
di Dio, Via Ospedale 46, 09124
Cagliari,
Italy.
E-mail:
gineca.sguerriero{at}tiscali.it

Mục tiêu. Mục đích của
nghiên cứu này là khảo
sát vai trò định lượng sự
phân bố mạch máu u
trên siêu âm 3D trong
việc chẩn đoán phân biệt
những khối không xác
định ở vùng chậu có
dạng đặc hay dạng nang
đơn thuỳ hoặc đa thuỳ
với những khối đặc có
phân bố mạch máu ở
trung tâm trên siêu âm
Doppler năng lượng 3D.

Phương pháp. 153 bệnh
nhân với 157 khối u vùng
chậu được chọn vào lô
nghiên cứu và được siêu
âm trước phẫu thuật.
Những khối có dạng lành
tính điển hình trên Bmode ( n = 112 ) và
những khối không xác
định có hay không có
mạch máu ở ngoại biên
trên siêu âm Doppler (n
= 10) không được đánh
giá bằng siêu âm 3D. Chỉ
những khối có phân bố
mạch máu ở trung tâm
mới được kiểm tra lại
bằng siêu âm Doppler
năng lượng 3D (n = 35).

8


Chân trời siêu âm
Thang đo mạch máu sử
dụng trên 3D là đo lường
lưu lượng và phổ màu
tương đối ( tương tự như
chỉ số lưu lượng phân bố
mạch sử dụng trong các
hệ thống khác).

Kết quả. Phân tích bằng
đường cong đặc tính
phẫu thuật nhận được,
giá trị ngưỡng cho lưu
lượng và phổ màu tương
đối là 4.4 and 2.7. Đo
lường lưu lượng có độ
nhạy là 68% và độ đặc
hiệu là 40% trong những
ca được làm siêu âm
Doppler năng lượng 3D.
Độ chính xác sẽ tăng lên
một ít khi loại trừ đi
những khối có chồi nhú
nhỏ ( <10 ml ). Trong
nhóm này ( n = 22 ), độ
nhạy là 83%, và độ đặc
hiệu là 50%.
Kết luận. Đối với những
khối vùng chậu có phân
bố mạch máu ở trung
tâm trên siêu âm Doppler
năng lượng 2D, việc định
lượng sự phân bố mạch
của u ttrên siêu âm 3D có
độ chính xác trong chẩn
đoán thấp trong việc
phát hiện những khối u
phần phụ ác tính, mặc dù
cũng có những báo cáo

có thể gia tăng độ chính
xác đối với những khối có
phần đặc > 10ml.
3/ MỘT THỬ NGHIỆM
KIỂM SOÁT NGẪU NHIÊN
VỀ CHỌC DÒ TUỶ SỐNG
DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA
SIÊU ÂM
(A randomized controlled trial of
Ultrasound – assisted lumbar
puncture)
Jason T. Nomura, MD , Stephen
J. Leech, MD, RDMS , Srikala
Shenbagamurthi, MD , Paul R.
Sierzenski, MD, RDMS , Robert
E. O’Connor, MD, MPH , Melissa
Bollinger,
RN
,
Margaret
Humphrey, RN and Jason A.
Gukhool, MD, RDMS
Department
of
Emergency
Medicine,
Christiana
Care
Health
System,

Newark,
Delaware USA. Dr Leech is now
with
the
Department
of

Emergency Medicine, Orlando
Regional
Medical
Center,
Orlando, Florida USA; Dr
Shenbagamurthi is now with the
Department
of
Emergency
Medicine,
Albert
Einstein
College of Medicine of Yeshiva
University, Bronx, New York
USA; Dr Gukhool is now with
the Division of Emergency
Medicine, University of Texas
Medical
Branch,
Galveston,
Texas USA.
Address correspondence to
Jason

T.
Nomura,
MD,
Department
of
Emergency
Medicine,
Christiana
Care
Hospital,
4755
OgletownStanton Rd, PO Box 6001,
Newark, DE 19718 USA. E-mail:
jnomura{at}comcast.net

Mục tiêu. Các dữ liệu
chứng cứ cho thấy việc
tiến hành một cách hệ
thống chọc dò tuỷ sống
dưới hướng dẫn của siêu
âm tại các khoa cấp cứu
vẫn còn ít. Giả thuyết của
chúng tôi là chọc dò tuỷ
sống dưới hướng dẫn của
siêu âm sẽ làm tăng tỷ lệ
thành công và giúp thực
hiện dễ dàng hơn ở
những bệnh nhân béo
phì.
Phương pháp. Đây là một

nghiên cứu tiền cứu, mù
đôi, ngẫu nhiên, có kiểm
chứng của Institutional
Review Board, thực hiện
tại khoa cấp cứu của một
đơn vị giảng dạy. Những
bệnh nhân được chọc dò
tuỷ sống từ tháng 1 đến
tháng 12 năm 2004 được
chọn vào lô nghiên cứu.
Các bệnh nhân được
chọn ngẫu nhiên để chọc
dò tuỷ sống bằng cách
xác định bằng tay thông
thường (PLs) hay xác
định dưới hướng dẫn siêu
âm (Uls). Dữ liệu thu
thập gồm tuổi, chỉ số
khối cơ thể, số lần chọc
dò, sự dễ dàng khi thực
hiện và sự thoải mái của
bệnh nhân dựa trên
thang đo 10-cm Visual
Analog Scale, thời gian
thủ thuật, thành công và
những tai biến của chọc

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

dò tuỷ sống. Phân tích

thống kê dữ liệu dựa trên
yếu tố nguy cơ tương đối
(RR), Mann-Whitney U
test, và Student t cest.
Kết quả. Tổng cộng có 46
bệnh nhân được chọn
vào lô nghiên cứu, 22
được chọn ngẫu nhiên
làm PLs và 24 làm ULs.
Không có sự khác biệt
giữa 2 nhóm về tuổi
trung bình hay chỉ số
khối cơ thể. 6 trong 22
bệnh nhân thất bại khi
làm PLs so với 1 trong
24 bệnh nhân làm với
ULs (RR, 1.32; độ tin cậy
95%, 1.01–1.72). Trong
12 bệnh nhân béo phì, 4
trong 7 thất bại với PLs
so với 0 trong 5 thất bại
với Uls (RR, 2.33; độ tin
cậy 95%, 0.99–5.49).
Thủ thuật thực hiện bằng
ULs dễ hơn PLs. Không
có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về số lần
thực hiện, biến chứng
của chọc dò, sự thoải mái
của bệnh nhân hay thời

gian thủ thuật.
Kết luận. Sử dụng siêu
âm hướng dẫn để chọc
dò tuỷ sống giúp giảm
thiểu đáng kể tần suất
thất bại và giúp thực hiện
dễ dàng hơn ở những
bệnh nhân béo phì.
4/ GIÁ TRỊ LÂM SÀNG
CỦA SIÊU ÂM 3D VÀ
CHỤP
MẠCH
MÁU
DOPPLER TRONG CHẨN
ĐOÁN UNG THƯ NỘI
MẠC TỬ CUNG
(Clinical usefulness of 3Dimensional sonography and
Power Doppler Angiography for
diagnosis
of
Endometrial
Carcinoma)
Luis T. Merc, MD, PhD , Juan L.
Alczar, MD, PhD , Carmen Lĩpez,
MD , Enrique Iglesias, MD, PhD
, Santiago Bau, MD, PhD , Juan
Alvarez de los Heros, MD, PhD
and Jos M. Bajo, MD, PhD
International Ruber Hospital,
Madrid, Spain (L.T.M., S.B.);

University Clinic of Navarra,
Pamplona, Spain (J.L.A.); Santa
Cristina University Hospital,

9


Chân trời siêu âm
Madrid, Spain (C.L., J.M.B.);
Puerta de Hierro University
Hospital, Madrid, Spain (E.I.);
and University Hospital of
Guadalajara, Guadalajara, Spain
(J.A.d.l.H.).
Address correspondence to Luis
T. Merc, MD, PhD, Enrique
Leyra 17, 28029 Madrid, Spain.
E-mail: ltmerce{at}sego.es

Mục tiêu. Mục đích của
nghiên cứu này là khảo
sát xem liệu đo thể tích
nội mạc tử cung ( EV )
và các chỉ số siêu âm
Doppler năng lượng 3
chiều có thể phân biệt
được giữa tăng sản nội
mạc với ung thư nội mạc
tử cung cũng như dự
đóan được sự lan rộng

của ung thư nội mạc tử
cung hay không.
Phương pháp. 84 phụ nữ
bị xuất huyết âm đạo và
có chẩn đoán giải phẫu
bệnh là tăng sản nội
mạc (n = 29) hay ung
thư nội mạc (n = 55)
được siêu âm 3D ngã âm
đạo và chụp mạch máu
Doppler
trước
phẫu
thuật. Tiến hành đo độ
dày của nội mạc ( ET ),
EV, chỉ số phân bố mạch
( VI ), chỉ số lưu lượng
máu ( FI ), chỉ số lưu
lượng-phân bố mạch
(VFI), và chỉ số cản trong
u ( RI ). Sinh thiết nội
mạc tử cung được thực
hiện bằng phương pháp
nạo hút và sau đó tiến
hành chẩn đoán giải
phẫu bệnh học.
Kết quả. Các chỉ số EV
và siêu âm Doppler năng
lượng 3D (VI, FI, và VFI)
cao hơn nhiều trong ung

thư nội mạc tử cung so
với tăng sản nội mạc,
trong khi đó chỉ số cản
trong u lại thấp hơn đáng
kể ( P < .05). VFI = 2.07
là giá trị ngưỡng tốt nhất
để dự đoán ung thư nội
mạc tử cung, với độ nhạy
76.5% và độ đặc hiệu
80.8%. Giá trị ET khác
biệt không đáng kể giữa

2 nhóm. VI nội mạc tử
cung cao hơn đáng kể khi
ung thư từ giai đoạn I trở
lên. Tất cả các trị số trên
siêu âm 3D đều cao hơn
nhiều khi ung thư thâm
nhiễm trên 50% lớp cơ tử
cung. Chỉ số cản trong
lòng tử cung RI càng
thấp trong những trường
hợp có phân độ trên giải
phẫu bệnh cao, thâm
nhiễm cơ tử cung trên
50%, và có di căn hạch
vùng.
Kết luận. Trị số VI, các trị
số trên siêu âm doppler
năng lượng 3D và chỉ số

cản trong lòng tử cung RI
hữu dụng hơn ET trong
việc chẩn đoán phân biệt
giữa tăng sản và ung thư
nội mạc tử cung. Lưu
lượng máu trong tử cung
đánh giá bằng siêu âm
Doppler xung và chụp
mạch máu Doppler năng
lượng 3D có thể dự đoán
được mức độ lan rộng
của ung thư nội mạc tử
cung.
5/ GIÁ TRỊ CỦA SIÊU
ÂM TRONG CHẨN ĐOÁN
U TẾ BÀO KHỔNG LỒ
CỦA VỎ BAO GÂN
(The value of sonography in
diagnosing Giant cell tumors of
the tendon sheath)Yuexiang
Wang, MD , Jie Tang, MD and
Yukun Luo, MD
Department
of
Ultrasound,
Chinese People’s Liberation
Army General Hospital, Beijing,
China.
Address correspondence to
Yuexiang

Wang,
MD,
Department
of
Ultrasound,
Chinese People’s Liberation
Army General Hospital, 28
Fuxing Rd, 100853 Beijing,
China.
E-mail:
wangyuexiang99{at}hotmail.co
m

âm và các dấu hiệu lâm
sàng khác và phân tích
trên 30 bệnh nhân ( 45
tổn thương ) có u tế bào
khổng lồ ở vỏ bao gân đã
được chẩn đoán trên mô
học. Những hình ảnh siêu
âm được so sánh với
những hình ảnh lúc phẫu
thuật.
Kết quả. Vị trí của u gồm
bàn tay (53.33%), cổ tay
(10%),
khuyủ
tay(3.33%),
đầu
gối

(10%), và bàn chân
(23.33%). Kích thước u
giới hạn từ 0.4 đến 8
cm, với kích thước trung
bình là 2.6 cm. Tất cả các
tổn thương đều ở dạng
nốt echo kém đồng nhất
hay không đồng nhất.
32 tổn thương (71.11% )
có lưu lượng mạnh, và 13
tổn thương ( 28.89% ) có
lưu lượng tối thiểu. 34
tổn thương dính vào vỏ
bao gân; 5 tổn thương
dính vào khớp; và 6 tổn
thương dính vào cả vỏ
bao gân và khớp. Có 4
trường hợp ăn mòn
xương và 3 trường hợp
tạo dấu ấn trên xương.
Kết luận Siêu âm có thể
cung cấp những thông tin
chính xác về khối u và
liên quan của nó với các
mô xung quanh, do đó có
thể được sử dụng như là
phương tiện chẩn đoán
đầu tiên u tế bào khổng
lồ của vỏ bao gân.


Mục tiêu. Mục đích của
nghiên cứu này là khảo
sát giá trị của siêu âm
trong chẩn đoán u tế bào
khổng lồ của vỏ bao gân.
Phương pháp. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu hồi
cứu những hình ảnh siêu

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

10


NHỒI MÁU CƠ TIM : TỐT
HƠN LÀ HÚT CỤC MÁU
ĐÔNG.
Tạo hình động mạch vành
(angioplastie coronarienne)
là thủ thuật nhằm điều trị
bệnh nhồi máu cơ tim.
Người thao tác đưa một ống
thông có quả bóng nhỏ (une
sonde à ballonnet) từ một
động mạch ngoại biên lên
động mạch vành bị nghẽn,
rồi thổi phồng quả bóng nhỏ
này lên để mở huyết quản
và đặt một ống nhỏ dạng
hình lưới (hay stent) để duy

trì một tuần hoàn đầy đủ.
Theo những kết quả thu
được nơi hơn 1.000 bệnh
nhân, việc hút trực tiếp cục
máu đông trước khi đặt
stent được thể hiện bởi một
sự
tái
tạo
mạch
(revascularisation)
quan
trọng hơn so với việc thổi
phồng quả bóng nhỏ. Nguồn
: SCIENCE ET AVENIR
5/2008
GIỚI TÍNH CỦA EM BÉ
ĐƯỢC BIẾT NGAY Ở
THÁNG
THỨ
HAI.
Từ trước đến nay thường
phải đợi tháng thứ tư hoặc
tháng thứ năm của thai kỳ
mới có thể biết giới tính của
đứa trẻ được sinh ra đời .
Một nhóm nghiên cứu người
Tây ban Nha thuộc Đại học
Grenade đã hiệu chính một
trắc nghiệm di tuyền cho

phép xác định giới tính của
phôi thai từ tuần lễ thứ 8
của thai kỳ, bằng cách tách
ADN phôi thai hiện diện
trong huyết thanh của đàn
bà có thai. BS Sébastian
Manzanares và các cộng sự
viên đã cho 120 phụ nữ có
thai chịu một trắc nghiệm
lâm sàng. Phương pháp đã
tỏ ra có hiệu quả 98%. Tuy
nhiên các nhà nghiên cứu
ghi nhận rằng mặc dầu trắc
nghiệm có thể được thực

hiện ngay tuần lễ thứ 6 của
thai kỳ, tuy vậy kỹ thuật rõ
ràng đáng tin cậy hơn từ
tuần lễ thứ 8. Trong thời kỳ
thai nghén, khoảng 3,4 và
6,2% ADN toàn thể tự do
trong huyết thanh của người
mẹ có nguồn gốc phôi thai.
Như thế chỉ cần một mẫu
nghiệm máu ngoại biên của
người mẹ cũng đủ để thực
hiện trắc nghiệm. Đối với
các tác giả, kỹ thuật của họ
sẽ mở ra các khả năng mới
trong lãnh vực chẩn đoán

tiền sinh không xâm nhập
(diagnostic prénatal non
invasif).
Nguồn
:
LE
JOURNAL
DU
MEDECIN
(20/5/2008)
TỪ SARS ĐẾN VIRUS
CÚM GIA CẦM : MỘT CÁI
LÒ CỦA CÁC BỆNH
VIRUS
Tiểu lục địa là chỗ chứa và
sản xuất một phần lớn các
biến dị siêu vi trùng của các
bệnh
mới
phát
sinh
(maladies émergentes). Đối
với các chuyên gia về virus
học, Đông Nam châu Á là
một cái lò sinh ra các bệnh
mới phát sinh này : virus
của bệnh SARS, các bệnh
dịch cúm xảy ra theo mùa
hàng năm, virus Nipah gây
một bệnh viêm não chết

người, flavivirus gây viêm
não Nhật Bản, và dĩ nhiên
virus H5N1, có khả năng
gây bệnh rất cao, là nguyên
nhân của dịch cúm gia cầm
phát sinh ở Hồng Kông và
lần lượt đi vòng quanh thế
giới. Ngày 18 tháng 4 năm
2008, tạp chí Hoa Kỳ
Science đã công bố các
công trình của các BS Derek
Smith và Colin Russel của
đại
học
Cambridge
(Massachusetts), đã phân
tích 13.000 mẫu nghiệm
virus H3N2, virus gây bệnh
cúm xảy ra theo mùa ở
người. Các nhà nghiên cứu
chứng tỏ rằng các giống gốc
mới xuất phát độc nhất từ
Viễn Đông (Trung Hoa, Nhật
Bản) hay từ vùng Đông Nam
Á (Việt Nam, Nam Dương).
Các virus này sau đó lan
tràn ra phần còn lại của thế
giới, cần từ 6 đến 9 tháng
để đến châu Âu và Bắc Mỹ.
Mỗi trận dịch cúm hàng năm


Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

giết chết từ 250.000 đến
500.000
người.
Cũng có virus Nipah, được
khám phá năm 1999 ở Mã
Lai : nhìn lại về quá khứ,
ngày nay người ta biết rằng
virus này đã là nguyên nhân
của 11 trận dịch từ năm
1988, ở Bangladesh, ở Ấn
Độ, ở Mã Lai và ở Singapour
(đã gây nên 242 nạn nhân
trên 493 trường hợp được
khai báo). Virus Nipah gây
nên, trong vòng 4 đến 18
ngày, sau khi tiếp xúc kéo
dài giữa người và heo bị
nhiễm trùng, một hội chứng
cúm (syndrome grippal) với
sốt cao, đau cơ, có thể tiến
triển đến viêm não với co
giật và hôn mê : 50% các
trường hợp lâm sàng được
khai báo đều tử vong. Ổ
chứa tự nhiên của virus là
các con dơi ăn quả, sống ở
Úc, Nam Dương, Phi Luật

Tận và trong các đảo của
Thái
Bình
Dương.
ĐI VÒNG QUANH THẾ GIỚI
BẰNG
MÁY
BAY
Virus của bệnh SARS, được
khám phá ở Trung Quốc
năm 2002, được che dấu bởi
chính phủ Trung Quốc trong
hơn 1 năm và đã đi vòng
quanh thế giới bằng máy
bay năm 2003, đã giết chết
916 người và làm bị bệnh
8.500 người khác chỉ trong
một trận dịch. Đó là một
virus
mới
thuộc
họ
coronavirus mà hiện nay
chúng ta không biết được ổ
chứa động vật : virus đã
được tìm thấy nơi các con
cầy (civettes), các loài gậm
nhấm hoang dại được bán
để tiêu thụ trên các chợ ở Á
Châu. Glaxo Smith Kline và

Viện Pasteur từ năm 2003
đang thực hiện việc hiệu
chính một vaccin chống lại
virus
của
SARS.
Một virus khác xuất phát từ
Trung Quốc và Thái Lan,
bệnh Dengue đang dần dần
mở rộng tầm ảnh hưởng
trên thế giới. Được truyền
bởi một loại muỗi thuộc loại
Aedes, bệnh cúm nhiệt đới
này được mô tả năm 1779,
ngày xua chỉ được giới hạn
ở Trung Quốc (440.000
trường hợp năm 1980) hoặc
ở Thái lan (200.000 trường

11


Chân trời Y học
hợp năm 1987). Nhưng từ
đó bệnh đã không ngừng
lan đến Ấn Độ dương, Nam
Thái bình dương ( 32.800
trường hợp ở Tahiti và
Moorea, Polynésie thuộc
Pháp năm 2001) và nhất là

ở Châu Mỹ La tinh, nơi đây
các trường hợp mỗi năm
được nhân lên 60 lần từ
năm 1984 đến 1993. Sốt
xuất huyết (1% các trường
hợp Dengue) thường gây tử
vong : không có một vaccin
nào hoặc một điều trị đặc
hiệu nào chống lại bệnh
Dengue cả. Nguồn : LE
FIGARO ( 19/5/2008 )
ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG
CÓ LÀM GIẢM LƯỢNG
TINH TRÙNG VÀ KHẢ
NĂNG TRUYỀN GIỐNG
KHÔNG?
Ngày nay có khoảng 700
triệu người trên toàn thế
giới dùng điện thoại di động
mặc dầu đã có cảnh báo
sóng điện từ với tần số phát
thanh phát ra từ điện thoại
di động có những tác động
có hại cho toàn bộ hệ thống
của

thể.
Trong một nghiên cứu thực
hiện tại tại phòng khám thụ
thai ở Ohio Hoa-kỳ, các nhà

nghiên cứu đánh giá tác
dụng của điện thoại di động
trên nhiều thông số về tinh
trùng ở 361 người đàn ông
đến khám vì không có con.
Những người có bệnh mãn
tính có thể liên quan đến
sinh sản tinh trùng đều bị
loại.
Những người đàn ông này
được chia làm 4 nhóm dựa
trên báo cáo thời gian sử
dụng điện thoại di động mỗi
ngày:không dùng điện thoại
di động, ít hơn 2 giờ, 4 giờ
hay trên 4 giờ. Phân tích
nhiều biến số phát hiện
lượng tinh trùng trung bình
đếm được, tính di động của
tinh trùng, mức sống của
tinh trùng và hình dáng bình
thường của tinh trùng khác
nhau ở 4 nhóm, và phẩm
chất tinh trùng giảm khi thời
gian dùng điện thoại di
động
cao.
Nghiên cứu này chỉ nhắm
vào những ông khó có con
và chúng ta không biết được

tình trạng của họ trước đây

như thế nào. Chúng ta cũng
không biết những người
mang điện thoại di động
trong túi hay đeo vào thắt
lưng và mở máy để biết
được có người gọi vào có bị
nguy hiểm không. Cách đây
3 năm, năm 2005 phân
khoa sản phụ khoa của đại
học ở Hungary đã nêu vấn
đề này.
Theo “effect of cell phone
usage on semen analysis,
báo Fertil Steril 2008 01:89124.
UỐNG RƯỢU VANG ĐỂ
TRÁNH CHỨNG SA SÚT
TRÍ
TUỆ
Các phụ nữ uống đều đặn
rượu vang ít bị nguy cơ trở
thành sa sút trí tuệ hơn so
với các phụ nữ không bao
giờ uống. Trái lại các rượu
mạnh làm gia tăng nguy cơ
này. Đó là kết quả của một
công trình nghiên cứu Thụy
Điển. Lauren Lissner (Đại
học Goteborg) và nhóm

nghiên cứu đã thu thập các
dữ kiện liên quan đến 1.462
phụ nữ tuổi từ 36 đến 60
trong những năm 19681969. Các phụ nữ này đã
được theo dõi cho đến năm
2002. Ngay từ đầu của thời
kỳ theo dõi và 3 lần trong
lúc thực hiện công trình
nghiên cứu, các phụ nữ này
đã được hỏi về việc uống
rượu của họ. 164 phụ nữ
tham dự đã được chẩn đoán
sa sút trí tuệ trong thời kỳ
nghiên cứu. Các tác giả đã
có thể chứng nhận rằng
nguy cơ bị sa sút trí tuệ là
40% thấp hơn nơi các phụ
nữ đã uống rượu vang ;
nguy cơ này ngay cả 70%
thấp hơn nơi các phụ nữ chỉ
uống rượu vang và không
uống những đồ rượu khác.
Tác dụng bảo vệ lại còn rõ
rệt hơn nơi những người hút
thuốc. Trái lại, các rượu
mạnh làm gia tăng nguy cơ
bị sa sút trí tuệ 50% .Vì lẽ
chỉ có rượu vang, chứ không
phải các đồ uống có chất
rượu khác, dường như bảo

vệ chống lại chứng sa sút trí
tuệ, nên các tác giả kết luận
rằng hiệu quả bảo vệ không
được quy cho rượu mà cho
các thành phần khác của
rượu vang. Nguồn : LE

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

JOURNAL
11/4/2008

DU

MEDECIN

UNG THƯ GAN VÀ LIỆU
PHÁP TIA X PHỐI HỢP
VỚI HÓA HỌC TRỊ LIỆU.
MỘT
CÔNG
TRÌNH
NGHIÊN
CỨU
CỦA
TRUNG
QUỐC
Việc cắt bỏ mô ung thư
bằng tần số phóng xạ nhiệt
(radiofréquence thermale),

kết hợp với hóa học trị liệu,
cho phép giành được 50%
sự
sống.
Phối hợp vài hóa học trị liệu
với một điều trị bằng tần số
phóng xạ nhiệt đã cho phép
kéo dài rõ rệt tỷ lệ sinh tồn
của các bệnh nhân bị một
ung thư gan tiến triển
không thể phẫu thuật được,
theo một công trình nghiên
cứu của Journal of the
American
Medical
Association.
Người ta có thể làm chậm
sự tiến triển của ung thư
bằng cách kết hợp những
tác dụng của một hóa học
trị liệu được gọi là “Tac”
(phong bế tiếp vận máu đến
khối u), và một sự cắt bỏ
các mô ung thư bằng tần số
phóng xạ nhiệt (RFA :
ablation par radiofréquence
thermique), một kỹ thuật
mới nảy sinh. Sự cắt bỏ
bằng tần số phóng xạ là
một điều trị tại chỗ, không

phải ngoại khoa, nhằm hủy
diệt các tế bào ung thư
bằng nhiệt đồng thời tránh
mổ gan lành mạnh. Thầy
thuốc quang tuyến hướng
một mũi kim bé nhỏ xuyên
qua da vào trong khối u .
Mô ung thư chết teo rút lại
và từ từ tạo nên một vết
sẹo.
Tỷ lệ mắc phải ung thư gan
gia tăng trên thế giới và hầu
hết các khối u được phát
hiện ở một giai đoạn trung
gian hay tiến triển. Mãi đến
ngày nay không có một điều
trị được xác lập nào đối với
ung thư gan. Một nhóm
nghiên cứu các thầy thuốc
được lãnh đạo bởi bs Bao
Quan Cheng thuộc đại học
Shandong ở Jinan, Trung
Quốc, đã tiến hành một thử
nghiệm lâm sàng để đánh
giá những lợi ích của phép

12


Chân trời Y học

trị liệu phối hợp này (Tace
và RFA) trên các bệnh nhân
bị một ung thư quan trọng
của gan, kích thước trên 3
cm. Các bệnh nhân được
chia thành ba nhóm. Nhóm
đầu tiên được điều trị bằng
sự kết hợp của 2 liệu pháp
(Tace-RFA), nhóm thứ hai
với Tace và nhóm thứ ba với
RFA. Vào cuối thời kỳ theo
dõi, thời gian sống sót trung
bình trong nhóm Tace-RFA
là dài nhất với 37 tháng so
với 24 tháng đối với những
bệnh nhân được điều trị với
Tace mà thôi và 22 tháng
đối với những bệnh nhân
được điều trị chỉ với RFA,
hoặc 50% lâu hơn. “Thử
nghiệm lâm sàng này chứng
tỏ rằng phép điều trị phối
hợp Tace-RFA là một điều
trị hiệu quả và không có
nguy cơ, có thể cải thiện tỷ
lệ sống sót của những bệnh
nhân bị một ung thư gan
tiến triển với kích thước khối
u hơn 3 cm”, các tác giả đã
nhấn mạnh như thế. Nguồn

: LE SOIR 10/4/2008
CÁC TAI ƯƠNG MỚI CỦA
THẾ
KỶ
XXI
HIV, SARS, Chikungunya,
Ebola, các vi khuẩn đề
kháng thuốc... danh sách
của các bệnh nhiễm trùng
mới hẳn phải được kéo dài
ra trong những năm đến
nếu như không thực hiện
các biện pháp nhanh chóng.
Một công trình nghiên cứu,
được công bố trong tạp chí
Nature số 21 tháng 2, đã
kiểm điểm các trận dịch
bùng nổ từ năm 1940 đến
2004, liên quan đến một loài
mới ( hay một biến dị mới)
của tác nhân gây bệnh ( từ
virus cho đến một ký sinh
trùng). Một nhóm nghiên
cứu Anh Mỹ đã phân tích
335 bệnh nhiễm trùng, đặt
chúng trong mối tương quan
với các dữ kiện nhân khẩu
học, xã hội kinh tế hay sinh
thái. Kết luận : những bệnh
này có nguồn gốc chính là

sự lây truyền từ động vật
qua người, được gọi là bệnh
thú truyền (zoonose). Các
nhà nghiên cứu cũng đã lập
bản đồ các ổ nguy cơ (
foyers à risque) chủ yếu. Đó
là những vùng quy tụ những

mật độ rất cao của dân số
động vật và người. Nhưng
các nước phía Bắc cũng
không tránh khỏi các bệnh
thú truyền này, công trình
nghiên cứu đã xác nhận như
thế. Thật vậy, GS Arnaud
Fontanet , thuộc phòng dịch
tễ học của các bệnh mới
phát sinh, Viện Pasteur, đã
nhấn mạnh «việc quá tiêu
thụ thuốc đã dẫn đến trong
các nước phát triển một sự
đề kháng vi khuẩn, nguồn
gốc của những bệnh mới».
Để hãm lại sự xuất hiện của
các bệnh mới này, các tác
giả chủ trương giới hạn
những tiếp xúc giữa các
động vật hoang dã và
người, làm giảm nguy cơ
truyền bệnh giữa các động

vật nuôi trong nhà và người
bằng cách điều tiết sự chăn
nuôi và làm gia tăng tính đa
dạng sinh vật (biodiversité).
Ngoài ra, việc tài trợ cho
một chương trình theo dõi
các ổ nguy cơ là cần
thiết.Theo Peter Daszak,
giám đốc của Consortium
for Conservation Medicine, “
nếu chúng ta tiếp tục khộng
cần biết đến tầm quan trọng
của sự phòng ngừa này,
chúng ta sẽ chịu những
nguy cơ đại dịch quan trọng
”. Nguồn : SCIENCES ET
AVENIR 4/2008
UNG THƯ VÚ: CHO BÚ
CÓ LỢI, UỐNG RƯỢU CÓ
HẠI
Ung thư vú là ung thư thông
thường nhất của phụ
nữ.Trên thế giới mỗi năm có
1 triệu trường hợp mới,
trong đó ở Pháp có 42.000
trường
hợp.
Ung thư vú cũng đang gia
tăng khắp nơi trên thế giới,
ngay cả trong những nước

châu Á và châu Phi, là nơi
cho đến nay ít bị ảnh hưởng
hơn. Cần ghi nhận rằng ở
Pháp, lần đầu tiên, tỷ lệ mắc
phải ung thư này nơi các
phụ nữ trên 50 tuổi đang hạ
xuống. Sự phân bố không
đồng đều về mặt địa dư
(một ung thư cho 12 phụ nữ
ở châu Âu, và một cho 80 ở
Nhật bản) khiến rất làm
nghi ngờ một vai trò bảo vệ
khả dĩ của chè xanh và/hoặc
đậu nành. Dầu sao, báo cáo

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

vừa qua của WCRF đã nhấn
mạnh 2 thông điệp quan
trọng : thông điệp đầu tiên,
đó là lợi ích của sự cho con
bú kéo dài, và điều này dầu
cho lúc phát triển ung thư là
lúc nào, trước hoặc sau thời
kỳ mãn kinh.Thông điệp thứ
hai xác nhận ảnh hưởng có
hại của rượu, đã được nghi
ngờ từ nhiều năm nay. Một
tháng sau báo cáo của
WCRF, một báo cáo khác

của Pháp, từ Viện ung thư
quốc gia, đã định số cho
mối nguy cơ này. Nguy cơ
mắc phải ung thư vú gia
tăng 10% nếu mức độ tiêu
thụ trung bình rượu mỗi
ngày tăng 10g hoặc 1 ly.
Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh
www.yduocngaynay.com

MỖI NĂM 20.000 NGƯỜI
VIỆT NAM CHẾT VÌ BỆNH
LAO
Trong một thống kê do cơ
quan Y Tế thế giới WHO phổ
biến, tại Việt Nam mỗi năm
có khoảng 100 ngàn người
mắc bệnh lao và 20 ngàn
người chết vì căn bệnh này.
Thống kê nói rằng mặc dù
bệnh lao đã chữa được từ
lâu, nhưng hiện nay mỗi
năm vẫn có khoảng 9 triệu
người trên thế giới mắc
bệnh lao. Lao cũng là căn
bệnh đứng hàng đầu trong
số các bệnh truyền nhiễm
gây tử vong tại khu vực Tây
Thái Bình Dương, với 2 triệu
người mắc bệnh mỗi năm.

Riêng tại Việt Nam, mặc dù
quốc gia này được cho là đã
đạt được mục tiêu toàn cầu
trong việc phát hiện và điều
trị các trường hợp mắc bệnh
lao từ năm 1997, nhưng số
lượng người nhiễm được
báo cáo mỗi năm vẫn không
có chiều hướng giảm, đối
mặt với nguy cơ lao kháng
đa thuốc. Đại diện WHO tại
Việt Nam cho rằng nhà cầm
quyền cần đầu tư thêm nữa
và nâng cao khả năng của
các phòng thí nghiệm để
kiểm soát bệnh lao. Giám
đốc Viện Lao và Bệnh Phổi
Trung Ương ở Hà Nội cho
biết không chỉ có người
nghèo mới bị mắc bệnh lao,
mà ngay cả những người
giàu và thu nhập khá tại
Việt Nam cũng mắc căn

13


Chân trời Y học
bệnh
này.

Nghèo đói là một trong
những điều kiện cho các
bệnh xã hội, trong đó có
bệnh lao hoành hành.
Nhưng hiện nay có những
người không nghèo, có tri
thức, kể cả bác sĩ và sinh
viên đi du học cũng bị lao.
Nguyên nhân chính là vào
thời thơ ấu của những người
đang ở lứa tuổi trung niên
hay thanh niên chưa được
chích ngừa lao nên nhiều
người bị nhiễm lao. Theo
điều tra, trên 40% người
Việt Nam đã nhiễm lao, tức
là đã nhiễm vi khuẩn lao,
nhưng chưa thành bệnh.
Đến tuổi trung niên, trường
hợp người nhiễm lao mắc
thêm các bệnh lý mãn tính
như cao huyết áp, dạ dày,
tiểu đường, giảm sức đề
kháng và vi khuẩn lao có cơ
hội
trỗi
dậy.
Sau đây là những thông tin
bổ túc cũng từ tổ chức y tế
thế giới, do bác sĩ HuỳnhĐỗ-Phi chuyển: Vi trùng lao

có thể nằm vùng trong
người bệnh nhiều nằm và
khi người bệnh suy dinh
dưỡng hay khi hệ miển
nhiễm suy yếu, vi trùng lao
sẽ tái xuất hiện và gây
bệnh. Đây là một vi trùng
nguy hiểm mà chúng ta mới
chỉ bắt đầu hiểu nó (theo
giáo

Hanekom).
Nói chung, người ta phỏng
đoán cứ 20 người tiếp xúc
với vi trùng lao thì 1 người
phát bệnh trong vòng 1 năm
và 1 người khác sẽ phát
bệnh ở 1 thời điểm nào đó
sau này trong cuộc đời.
Bệnh lao có thể chữa lành
được, nhưng phải điều trị
trong 6 tháng phối hợp
nhiều
kháng
sinh.
Thông thường bệnh nhân sẽ
cảm thấy như không có
bệnh sau vài tuần điều trị và
thấy khỏe khoắn hơn,
khuyến khích một số người

ngưng thuốc sớm cho phép
chủng lao đề kháng xuất
hiện. Điều trị lao đề kháng
sẽ khó hơn và tốn kém hơn.
Khi bị lao, bệnh nhân có thể
nhiễm nấm, và những người
nhiễm HIV/AIDS cũng dễ bị
nhiễm lao hơn. Những vùng
có nhiều người nhiễm HIV

bệnh lao tăng cao 4-5 lần.
Thử thách lớn nhất để đối
phó với bệnh lao là chúng ta
đã sử dụng cùng một thứ
thuốc trong mấy chục năm,
trong khi vi trùng lao biến
chủng để đối phó. Hiện nay,
lao đề kháng nhiều thuốc
(MDR-TB) hay lao cực
kháng (XDR-TB) phát triển,
các nước nghèo thiếu thuốc
điều trị vì giá thuốc như Dcycloserin hay Capreomycin
quá đắt và có thể không
bán tại các nước đó.
Phương pháp phòng ngừa ít
tốn kém nhất là chủng
ngừa. Trước đây trẻ em
Việt-nam đều được chủng
BCG, nhưng sau này có lẽ
do độc tính, nên không còn

chủng nữa. Trong khi đó, tổ
chức y tế thế giới thiếu ngân
sách để tài trợ cho nghiên
cứu thuốc chủng và thuốc
điều trị mới. Các đại công ty
cũng không mặn mà với
nhóm thuốc này, vì làm ra
chỉ có các nước nghèo cần,
mà họ đào đâu ra tiền để
mua.
Vấn đề cuối cùng là giáo
dục người bệnh và thân
nhân người bệnh. Làm sao
cho người bệnh tự quyết
định uống thuốc không
những cho họ nhưng còn
cho gia đình con cái của họ,
để không bỏ ngang điều trị.
Cũng cần làm sao các bác
sĩ, điều dưỡng chăm sóc cho
bệnh nhân các nước nghèo
thông cảm với người bệnh
để tạo ra sự hợp tác, thay vì
nạt nộ và không muốn nói
chuyện với bệnh nhân.
Ds Lê-văn-Nhân và
Bs Huỳnh Đỗ Phi
www.yduocngaynay.com

NHỮNG

NGUY
HIỂM
CHẾT
NGƯỜI
CỦA
BOTOX
Cơ quan quản lý Dược và
Thực Phẩm Hoa kỳ FDA
(Food
and
Drug
Administration) lên tiếng
báo động về một vài tác
dụng chết người của độc tố
Botulinum, được thương mại
hóa dưới tên gọi Botox.
Botulinum là độc chất do vi
khuẩn Clostridium botolinum
tiết ra, gây nên bệnh
Botulism ảnh hưởng đến hệ

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

thần kinh, làm tê liệt các cơ
đưa đến chết người, thường
là do bị trúng thực hoặc
ăn nhằm những đồ hộp đã
bị hư.
FDA đã nhận được những
bản tường trình về các

trường hợp rối loạn đường
hô hấp và những triệu
chứng tương tợ như bệnh
Botulism, xảy ra khi chất
Botox lan ra trong cơ thể
chứ không còn nằm yên ở
chỗ chích vào nữa; và thậm
chí đã có nhiều trường hợp
thiệt mạng sau khi chích
chất Botox. Tuy nhiên, cơ
quan FDA chưa ra lệnh cấm
chất Botox đang được cả
triệu người tại Hoa kỳ và
nhiều quốc gia trên thế giới
xử dụng từ mấy năm
nay trong ngành thẩm mỹ
để tẩy xóa các vết nhăn,
làm cho khuôn mặt trông
như trẻ lại Ngoài ra, chất
Botox còn được xử dụng
trong mục đích trị liệu các
chứng co giật bắp thịt
không kiểm soát ở cổ và ở
vai, chứng mắt lé (lác),
những "nhấp nháy mắt" và
chứng đổ mồ hôi quá nhiều.
Theo tiết
lộ của
Ralph
Nader, chủ bút của tờ Public

Citizen chuyên bênh vực
quyền lợi của người tiêu
dùng, từ 11/1997 đến
31/2006 đã có 87 người
phải vào nhà thương và hơn
16 người đã chết vì chích
chất Botox.
Bích Vân 03/04/2008
THUỐC NEXAVAR ĐIỀU
TRỊ UNG THƯ GAN
FDA cho phép dùng thuốc
Soranefib (Nexavar) điều trị
ung thư gan tên là
Hepatocellular Carcinoma,
khi ung thư không thể điều
trị được bằng giải phẫu.
Bệnh nhân dùng thuốc
Nexavar có thể sống lâu hơn
2.8 tháng so sánh vơí bệnh
nhân không dùng thuốc này.
Nexavar là thuốc kìm hãm
kinase. Nexavar kìm hãm
những phân tử trong tế bào
ung thư liên hệ thành lập
mạch máu trong u bướu
ung thư và tế bào tử vong.
FDA cho phép dùng Nexavar
dựa theo kết quả thử

14



nghiệm cho 602 bệnh nhân
ung thư gan so với bệnh
nhân không dùng thuốc
Nexavar. Bệnh nhân dùng
Nexavar sống thêm 10.7
tháng so vơí bệnh nhân
không dùng Nexavar sống
thêm 7.9 tháng. Khi dùng
Nexavarar, u bướu ung thư
tiến triển chậm hơn.
Adenocarcinoma là loại ung
thư từ mô tuyến. Trong việc
phân loại thì ung thư
adenocarcinoma không nhất
thiết phải phát xuất từ tuyến
mà từ mô có khả năng bài
tiết
như
loại
tuyến.
Adenocarcinoma
thường
thấy ở súc vật hay người.
Muốn biết thêm chi tiết, xin
vào:
/>NEWS/2007/NEW01748.html

CHỨNG ĐỔ MỒ HÔI ĐÊM

Trong báo The Journal of
Family Practice số 4, June
2007 có bài nói về đổ mồ
hôi đêm. Theo các tác giả
Cindy W. Su, Sean Gaskie và
C. Hitchcock thì tìm hiểu
tiểu sử bệnh lý rất quan
trọng trong việc chuẩn định
bệnh đổ môi đêm. Bệnh
nhân thường than phiền bị
đổ mồ hôi đêm mà trời
không mấy gì nóng nực.
Phụ nữ bị mặt đỏ phừng
(hot flash) đổ mồ hôi đêm
và thường dùng kích thích
tố chữa giảm mồ hôi đêm.
Những nguyên nhân khác
làm đổ mồ hôi đêm như ho
lao, ung thư bạch huyết,
nhiễm HIV, hội chứng ợ
chua, và heart burn.
Một số thuốc trị bệnh trầm
cảm cũng có thể làm đổ mồi
hôi đêm.
Nhiều y sĩ muốn thử nghiệm
tìm hiểu truy tầm đổ mồ hôi
đêm, nhưng cũng có y
sĩ cho rằng việc này không
cần thiết. Những thử
nghiệm từng được nêu ra

như đếm máu, đo mức kích
thích tố thùy não (TSH), đo
độ lóng tụ hồng huyết cầu,
thử lao và thử HIV, chụp
hình phổi.
Theo tác giả Anthoni J.
Viera
cùng
các
đồng
nghiệp tường
trình trong
báo
American
Family
Physicians, March 1, 2003,
còn đề nghị thêm chụp hình

Chân trời Y học

cắt lớp bụng, chụp hình cắp
lớp phổi, sinh thiết tủy
xương.
Theo nhóm bác sĩ Cindy W.
Su và các đồng nghiệp thì
nếu thử nghiệm không thấy
gì, y sĩ thử cho bệnh nhân
thuốc chống ợ chua. Bác sĩ
cần theo dõi tình trạng bệnh
nhân liên hệ nhiệt độ trong

cơ thể. Tuy nhiên y sĩ
cần loại bỏ nghi ngờ bệnh
nhân có thể bị viêm nội mô
hay viêm ung thu bạch
huyết.
Một tường trình khác
cho biết kích thích tố trị liệu
có thể giảm hiện tượng đổ
mồ đêm và mặt nóng phừng
của phụ nữ khi tắt kinh
(75%).
Thêm một nghiên cứu khác
nữa cho rằng chữa bằng
thuốc giảm độ ợ chua heart
burn có thể đạt được kết
quả giảm mồ hôi đêm tới
80%. Một số thuốc dùng để
thoa trực tiếp chỗ đổ mồ hôi
như
thoa
ngoài
da
aluminum
chloride
hexadrate
(Drysol),
antiperspirants,
scopolamine,
hay
phenoxylbenzamine

hydrochloride (Dibenzyline).
Nhưng ngược lại, một
số thuốc sau đây có thể gây
đổ mồ hôi đêm: Thuốc chữa
bệnh ưu trầm, thuốc chữa
bệnh nhức nửa đầu, thuốc
giảm nhiệt, thuốc chống
cholinergic
(tiết
acetylcholine), thuốc chống
GNRH, thuốc chữa tiểu
đường, thuốc chống gia cảm
(sympathomimetic), và vài
thứ thuốc khác trong đó
phải kể: rượu, thuốc trị cao
máu chặn beta (beta
blockers), thuốc trị cao máu
chặn
calcium
(calcium
blockers), Bromocriptine, v.
v. v. Xin coi thêm chi tiết
trong Evaluations of night
sweats, trong báo Journal of
Family Practice, 56: 493,
2007.
Trong mục này, các tác giả
cũng nêu lên một số bệnh
gây đổ mồ hôi đêm như:
1) Bệnh tuyến nội tiết, bệnh

tiểu đường loại Diabetes
insipidus, cường giáp trạng,
mức đường hạ thấp trong
máu, bướu nội tiết như

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

pheochromocytoma (u bướu
tế bào ưa nhuộm crôm),
carcinoid tumor (u tế bào ưa
nhuộm chất bạc), hoặc tình
trạng sau khi bệnh nhân bị
cắt bỏ ngọc hoàn,
2) Bệnh nhiễm trùng như
nhiễm trùng nội mô, HIV,
Infectious
mononucleosis,
abcess phổi, bệnh lao phức
tạp Mycobacterium avium
complex, viêm xương và
bệnh lao, nhiễm trùng nấm
coccidiomycosis
hay
histoplasmosis,
3) Những nguyên nhân ung
thư như: ung thư máu
trắng, ung thư nhiếp hộ
tuyến, ung thư thận, và
nhiều loại ung thư khác.
4) Một số bệnh thần kinh

như tự động mất phản xạ
(autonomic
dysreflexia),
bệnh thần kinh tự trị
(autonomic neuropathy), tai
biến mạch máu não.
5) Hiện tượng thay đổi sinh
lý sau khi uống rượu lâu
năm, đột nhiên ngưng uống
rượu (withdrawal), sau khi
dùng ma túy lâu năm như
cocaine hay opioids.
6) Sau hết, hội chứng mệt
mỏi kinh niên, ợ chua, ợ
nóng (heart burn), tắt kinh,
ngủ ngáy nghẹ thở, lên cơn
bấn loạn, có thai, đau ngực
sau khi động mạch tim co
thắt mạnh (Prinsmetal), viên
mạch máu Takayasu, viêm
mạch máu thái dương...,
đều có thể làm mồ hôi ra
ban đêm. Cần đọc thêm
những triệu chứng khác khi
bị cơn đau tim trong tham
khảo số 4, để biết và kịp
thời cấp cứu.
Tài Liệu Tham Khảo:
1) Journal Family Practice,
58: 493, 2007.

2)
American
Family
Physicians, 67: 1079, 2003
3) Có thể đọc thêm nhiều
tài liệu khác tại: Medline
Literature từ 1966 tới 2001,
Harrison's
Principle thứ
17th.
Ngo Manh Tran, M.D
Ph.D.
www.yduocngaynay.com
15/05/2008

15


CÁC CUỘC VIỄN
DU CỦA BẠCH
HUYẾT
Vào thế kỷ thứ 4 trước công
nguyên, Ptolémée 1er Soter
(-367 đến -283), cựu tướng
lãnh của Alexandre Đại Đế
và sau đó là vua của Ai Cập,
đã biến Alexandrie thành
một kinh đô trí tuệ, nơi gặp
gỡ của các kiến thức y học
Hy Lạp và Đông Phương.

Pharaon cho phép phẫu tích
và như thế cho phép các
nhân viên của trường y khoa
Alexandrie thực hiện nhiều
khám phá cơ thể học và
sinh lý học quan trọng.
Chính như thế mà các thầy
thuốc Hy Lạp Erasistrate de
Céos và Hérophile de
Chalcédoine đã từng gợi ý
đến hệ bạch huyết nhưng
đã không đi xa hơn trong
việc phát hiện. Những khám
phá này tiếc thay đã không
có một ảnh hưởng lên tư
duy y học của thời kỳ đó
vốn vẫn chịu khuất phục bởi
các lý thuyết của Aristote
Mặc dầu không nổi bật, một
chất dịch trong mờ dầu sao
cũng đã được đề cập đến
nhiều lần suốt trong các thế
kỷ tiếp theo sau đó. Một vài
lời sấm Hy lạp ám chỉ đến
“máu trắng” (sang blanc) và
Galien đã nói về một thanh
dịch (liquide séreux) mà ông
gọi là “ichor”. Vào cùng thời
kỳ, các tác phẩm đề cập
một loại “máu được thông

khí” (sang aéré) khác với
máu tĩnh mạch… tất cả
những mô tả này có thể
muốn ám chỉ bạch huyết
(lymphe), từ chữ latin
limpidus có nghĩa là trong
vắt (limpide), trong (clair)


sáng
(lumineux).
Nhưng bạch huyết có vẻ
không làm quan tâm lắm
các thầy thuốc thời Thượng
Cổ bởi vì họ không ngờ đến
tầm quan trọng của nó.
Dạng vẻ không màu và việc
khó phát hiện có lẽ là những
nguyên nhân của mối hững
hờ
này.
Vào thời Trung Cổ, thời kỳ
mà các tiến bộ bị kềm hãm
lại bởi chủ nghĩa thanh giáo
(puritanisme), người ta cũng
chẳng đề cập gì thêm hơn
về chất dịch này.
CUỘC KHÁM PHÁ CỦA
NGƯỜI
Ý

Vào đầu thế kỷ 17, trong khi
William Harvey cố gắng áp
đặt quan điểm của mình lên
sự tuần hoàn máu, thì một
thầy thuốc người Ý khám
phá ra chức năng của hệ
bạch
huyết.
Gaspare Aselli (Crémone,
1581 – Milan 1625), khi đó
là giáo sư cơ thể học ở
Pavie và là phẫu thuật viên
của các quân đội Ý, đã thực
hiện một chứng minh bằng
phẫu tích trên chó. Đột
nhiên ông nhận thấy một hệ
thống các sợi dây (lacets) có
màu xà cừ mà ban đầu ông
đã lầm lẩn cho đó là các dây
thần kinh. Trong lúc phân
vân, ông cắt một trong các
dây thừng (cordons) này, và
thình lình một chất dịch hữu
cơ màu trắng chảy ra, mà
trước đây ông đã chưa từng
thấy bao giờ. Ông gọi tên
tập hợp các dây thừng này
là venae lactea (veines
lactées, tĩnh mạch sữa) và
cố gắng xác định sự tuần

hoàn của nó. Chúng ta ở
vào năm 1622 và Aselli đã
không dừng lại ở đó bởi vì
cũng vào năm đó, ông phát
hiện các van bạch huyết
(valvules
lymphatiques).
Những khám phá này được
thực hiện không phải là
không có va chạm. Cũng
như trong trường hợp của
Harvey, thầy thuốc người Ý
phải đương đầu với nhiều
người chống đối, trong số
đó ông rất đỗi ngạc nhiên
nhận thấy cả William
Harvey, người đương thời
người Anh của ông ! Các
công trình của Aselli tiếc

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

thay chỉ được công bố 2
năm sau khi ông mất trong
De lactibus seu lactis venis,
quarto
vasorum
mesaraicorum genere novo
inventa và sự tuần hoàn của
bạch huyết, còn được gọi là

chyle, từ chữ Hy lạp khulos
(suc : dịch) đã không được
mô tả một cách chính xác
trong
tác
phẩm
này.
TỪ
PECQUET
ĐẾN...
PEQUET
Một thầy thuốc trẻ người
Pháp, Jean Pecquet (16221674), đến lượt mình cố
gắng xác định chất bạch
huyết bằng cách dựa trên
các công trình của người
tiền thân của mình. Ông
dành một phần lớn các công
trình nghiên cứu vào sự
tuần hoàn của bạch huyết.
Trong tác phẩm của mình
tựa đề Bàn về sự tuần hoàn
máu và sự chuyển động của
bạch huyết (Dissertation sur
là circulation du sang et le
mouvement du chyle) cũng
như trong Khái luận về sự
cân bằng của các chất dịch
(Traité de l’équilibre des
liquides), ông mô tả lộ trình

của bạch huyết và sự trộn
nhập của nó vào hệ tuần
hoàn máu. Nhưng những
xác nhận này đã là đối
tượng của nhiều tranh cãi
và ông cũng đã phải chịu
nhiều tấn công của các đối
thủ của mình, rất nổi danh
như Guy Patin và Jean
Riolan. Một lần nữa, William
Harvey có vẻ muốn dèm
pha khi xác nhận rằng
“không cần thiết cho là các
mạch bạch huyết là khác với
các mạch khác”. Nhưng
Pecquet không chán nản.
Ông được ủng hộ bởi
Madame de Sévigné mà ông
là thầy thuốc được ưa thích.
Bà Sévigné đánh giá ông về
lối trò chuyện, phong cách
thượng lưu và tính nghề
nghiệp và bà đã gọi ông
một cách rất triều mến là
"cậu bé Pecquet của tôi"
(mon petit Pecquet). Những
nhân vật khác không thuộc
giới y khoa cũng theo phe
các "circulateurs" (muốn nói
những người môn đồ của lý

thuyết của Pecquet). Trong
số những người ủng hộ

16


Lịch sử Y học
Pecquet có Molière và
Boileau, đã không ngại
ngùng chỉ trích công khai
(nhưng với vẻ dí dỏm) các
“anti-circulateurs”! Vua Mặt
trời (Le Roi Soleil) cuối cùng
ủng hộ những người đổi mới
và chính thức hóa những
khám phá mới bằng cách
mở chức giáo sư cơ thể học
ở Jardin du Roi năm 1672.
"Cậu bé Pecquet" bảo vệ ý
kiến cho rằng có một bể
chứa (réceptacle) dịch bạch
huyết trong lồng ngực, và
chứng minh rằng các mạch
mang dịch bạch huyết đổ
vào các mạch máu dưới đòn
mà không phải đi qua gan.
Những công trình của ông
còn đưa đến khám phá chỗ
giãn hình túi , nằm trước
đốt sống thắt lưng thứ hai

mà ta biết dưới tên “ bể
Pecquet ” (citerne de
Pecquet). Bể Pecquet không
phải luôn luôn hiện diện ở
người. Dựa trên các nghiên
cứu của riêng mình, được
thực hiện chủ yếu trên động
vật, cũng như dựa trên các
công trình của Rubeck và
Bartholin, Pecquet chứng
minh hệ tuần hoàn thứ ba
này của cơ thể con người
cũng như sự chuyển động
của máu, sự thu tâm của
tim và sức cản đàn hồi của
các mạch máu.
Nhưng, mặc dầu là thầy
thuốc giỏi, Pecquet lại cho
rằng rượu trắng (péquet hay
péket: eau-de-vie parfumée
au genièvre) là một thuốc
chữa bách bệnh và đã
không do dự kê đơn thường
xuyên cho mình phép điều
trị này. Có lẽ do uống quá
thường xuyên, nên theo như
lời của vài nguời đương thời,
rượu là nguyên nhân tử
vong của ông ngày 26 tháng
hai năm 1674. Mặt khác,

một trong những người
đương thời đã viết về ông
rằng “rượu trắng đốt cháy
ruột ông và làm ông bị chết
sớm , nếu không ông đã có
thể sử dụng những năm
tháng của cuộc đời để phục
vụ một cách hữu ích cho
nhân loại”.
LÁ GAN BỊ MẤT CHỨC.
Mặc dầu nhà cơ thể học
người Đan Mạch Thomas

Bertelsen, được gọi là
Bartholin
(1616-1680),
không phải luôn luôn tỏ ra
quý mến Pecquet, dầu vậy
ông đã xác nhận luận đề và
các công trình khám phá
của người đồng nghiệp
người Pháp của mình. Năm
1652, ông chích chất nhuộm
màu vào trong hệ bạch
huyết (réseau chylifère) và
như vậy thu được những
thông tin cần thiết để xác
định các phân nhánh, nghĩa
là các mạch. Ông đã mô tả
hệ thống bạch huyết, một

hệ thống hoàn toàn riêng
biệt mà ông gọi tên một
cách dứt khoát là “hệ bạch
huyết”
(système
lymphatique). Trong tác
phẩm của mình dành cho
Frédéric III của Đan Mạch,
ông đã nói: “Thân thể của
chúng ta có một hệ thống
tháo thải cũng giống hệt
như
thành
phố
Copenhague”. Bartholin sửa
lại quan điểm của Galien về
tác dụng sinh huyết của gan
và như thế tuyên bố kết
thúc sự ngự trị của lý thuyết
về các khí chất của
Hippocrate.
DẤN LƯU BẠCH HUYẾT
(DAINAGE LYMPHATIQUE).
Nhưng phép điều trị không
phải vì vậy mà được cải
thiện. Thật vậy, vai trò của
bạch huyết trong sự tiêu
hóa và hệ máu chưa được
phát hiện và các khám phá
đã không được khai thác

đúng mức. Phải chờ đợi hơn
một thế kỷ để các bước tiến
bộ mới được ghi nhận.
Năm 1883, một tập bản đồ
tuần hoàn bạch huyết được
công bố. Các bản đồ này
bao gồm các tranh mô tả về
các bạch huyết quản và
đường đi của chúng cũng
như các vùng hạch. Ít lâu
sau đó nhiều tiến bộ khác
được thực hiện trong lãnh
vực này. Năm 1892, nhà
ngoại
khoa
người
Áo
Winiwater đã thực hiện
những xoa nắn đầu tiên
nhằm làm tan biến các phù
nề sau các phẫu thuật ngoại
khoa của ông. Tuy vậy,
chính một người Đan Mạch
khác là nguồn gốc của dẫn
lưu bạch huyết (drainage

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

lymphatique). Emil Vodder
(1896-1986), nhà vật lý trị

liệu, sống ở Cannes với gia
đình, đã hiệu chính một
phương thức dẫn lưu bạch
huyết bằng tay ( DLM :
drainage
lymphatique
manuel). Với sự giúp đỡ của
vợ là Astrid, ông đã hoàn
thiện kỹ thuật và mở viện
chuyên khoa đầu tiên ở
Copenhague vào năm 1942.
30 năm sau, một trường
đầu tiên ra đời ở Walchsee
(Áo). Mặc dầu thế, Emile
Vodder cảm thấy khó khăn
trong việc làm công nhận
tính chất có căn cứ của kỹ
thuật của mình. Năm 1981,
sau cùng DLM được công
nhận như là một phép trị
liệu chính thức. Nguồn :
SEMPER ( 3/2008 )
CHUYỆN LẠ YKHOA
Daniel Paul Tammet, sinh ngày
31/1/1979 tại Anh, nổi tiếng là một máy
tính sống với khả năng tính nhanh và trí
nhớ siêu đẳng. Thiên tài toán học này có
một tuổi thơ cũng thật khác người với
chứng động kinh bẩm sinh. Thông
thường, con người sẽ có những kết hợp

ấn tượng về những con số. Tuy nhiên,
những tưởng tượng về các con số trong
đầu Tammet đều tách biệt và duy nhất.
Theo cách nghĩ của anh, mỗi con số từ 1
đến 10.000 đều có hình dạng và cảm
giác riêng. Chẳng hạn như số 289 được
miêu tả như một con số đặc biệt xấu,
333 thì đặc biệt thu hút còn số pi là đặc
biệt đẹp…! Không chỉ mô tả những hình
ảnh về con số, Tammet còn sáng tạo
nên những tác phẩm nghệ thuật về các
con số như tranh màu nước và một trong
những hình ảnh quen thuộc trong các
bức hoạ của anh là số pi! Hiện tại,
Tammet đang nắm giữ kỷ lục châu Âu về
khả năng ghi nhớ và tính toán. Riêng về
số pi, Tammet có thể nhớ tới 22,514 chữ
số trong thời gian 5 tiếng! Không những
thế, anh còn có thể nói được rất nhiều
thứ tiếng trong đó có tiếng Anh, Pháp,
Phần Lan, Đức, Tây Ban Nha, Lithuania,
Rumani, Estonia, Aixơlen, Wale và cả
ngôn ngữ nhân tạo Esperanto. Anh đặc
biệt thích tiếng Estonia bởi đó là một
ngôn ngữ nhiều nguyên âm. Khả năng
tiếp nhận một ngôn ngữ mới ở Tammet
là rất nhanh, bằng chứng là anh có thể
học tiếng Aixơlen trong thời gian 1 tuần!
Và chỉ 7 ngày sau đó, người ta đã thấy
anh trên đài truyền hình Aixơlen và nói

chuyện bằng tiếng Aixơlen! Không chỉ
tiếp thu ngôn ngữ nhanh, hiện tại
Tammet còn đang sáng tạo nên một
ngôn ngữ mới gọi là tiếng Mänti.

17


Những đồ vật bị nguyền
rủa
Một bộ kimono được nhiều
người xem là mang lại điềm
xui xẻo khi ba chủ nhân của
nó, là ba Một thầy tu thấy
bộ kimono quá "chết chóc"
nên quyết định mang đi đốt
vào tháng 2 năm 1657.
Khi bộ kimono đang bốc
cháy, một trận gió lớn xuất
hiện, thổi ngọn lửa vượt
khỏi tầm kiểm soát của mọi
người. Hậu quả là ngọn lửa
từ bộ kimono này đã thiêu
cháy 3/4 thành phố Tokyo,
san bằng 300 đền đài, 500
cung điện, 9.000 cửa hàng,
61 cây cầu và thiêu chết
100.000 người.
Một chiếc đồng hồ thuộc
sở hữu của vua Louis XIV

(Pháp) đã ngừng chạy
chính xác vào đúng lúc vị
vua này băng hà: 7h45,
ngày 1/9/1715 và kể từ đó
nó không bao giờ chạy lại
nữa.
Hai viên đạn vào hai lỗ
chiếc áo khóac
Trong cuộc tấn công ngày
25/1/1787 vào kho vũ khí
liên bang ở Springfield trong
cuộc nổi loạn của tướng
Shay, chàng lính Jabez
Spicer,

Leyden,
Massachusetts (Mỹ) đã bị
giết chết bằng hai viên đạn
của kẻ thù. Nhưng điểm đặc
biệt là vào lúc đó, Jabez
Spicer đang khoác trên
người chiếc áo của ông anh
ruột Daniel đã mặc. Daniel
đã bị bắn chết bởi hai viên
đạn vào ngày 5/3/1784. Hai
viên đạn giết chết Jabez
Spicer đi chính xác vào các
lỗ trên chiếc áo khoác do
lần trúng đạn trước (của
người anh Daniel) tạo nên.

Chính xác từng viên một
mặc dù ông anh Daniel đã
bị bắn chết trước đó 3 năm.

Camille Flammarion, nhà
thiên văn học nổi tiếng
của Pháp ở thế kỷ 19, là
một người nghiên cứu về
những chuyện huyền thoại,
đặc biệt là những chuyện
ma quái.
Trong quyển The Unknown,
xuất bản năm 1900, ông kể
lại một câu chuyện cũng khá
ly kỳ. Khi ông viết một
chương về "gió" trong tác
phẩm L'Atmosphère (Bầu
khí quyển), một ngọn gió đã
thổi tung cửa sổ nhà ông và
nhấc bổng những trang giấy
ông vừa viết xong và mang
chúng đi mất.
Một vài ngày sau đó, ông
ngạc nhiên khi nhận được
bản in thử từ nhà xuất bản
(những trang bản thảo bị
gió cuốn đi). Thì ra ngọn gió
đã cuốn những trang bản
thảo này ra ngay con đường
mà một nhân viên của nhà

xuất bản đi ngang qua,
người mà thường đến nhận
bản thảo của Flammarion
mang đến nhà xuất bản.
Người này chỉ việc nhặt
những trang giấy và mang
chúng đến nhà xuất bản
như thường lệ.
Henry Zieglan và viên
đạn trong gốc cây
Năm 1883, Henry Zieglan ở
vùng Honey Grove, Texas
(Mỹ) đã phản bội người yêu
đến nỗi cô ta phải tự tử.
Anh của cô gái này quyết
định trả thù bằng cách xách
súng bắn Ziegland, nhưng
viên đạn chỉ sướt qua mặt
của Ziegland và văng vào
một thân cây gần đó.
Người anh cô gái nghĩ rằng
mình đã trả thù được cho
em nên sau đó cũng tự sát.
Năm 1913, Ziegland quyết
định đốn ngã cây có viên
đạn trong đó. Vì gặp khó
khăn trong việc đốn cây nên
Ziegland quyết định dùng
đến chất nổ và vụ nổ này đã
đưa viên đạn ngày xưa bay

thẳng vào đầu Ziegland giết
chết anh ta ngay lập tức.
Giải mã "cơn sốt" thiên
thần
Gần đây, ở nhiều nước bùng
nổ hiện tượng "nhìn thấy và
gặp gỡ thiên thần". Không ít
người cho rằng chính mình

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

đã thấy thiên thần xuất hiện
để mách bảo, cứu giúp ai đó
tro ng lúc hoạn nạn...
Với những người “vô thần,
vô thánh” thì việc gặp gỡ
thiên thần nghe có vẻ khó
tin hơn nhiều so với chuyện
gặp người ngoài hành tinh.
Tuy nhiên, niềm tin về thần
thánh đã có từ hàng nghìn
năm trước. Trong mọi nền
văn hóa đều tồn tại chuyện
thần tiên.
Bằng chứng khảo cổ cho
thấy, thiên thần xuất hiện
lần đầu tiên vào thời Persia
cổ đại. Hình người có đôi
cánh được tìm thấy trên các
món đồ gốm cổ ở trong hầm

mộ Ai Cập. Ngoài Kinh
Thánh, thiên thần còn hiện
diện trong các tài liệu của
người Do Thái được viết vào
khoảng năm 200 trước Công
nguyên. Đó là những câu
chuyện về cuộc chiến dữ dội
giữa các vị thần tốt và các vị
thần xấu.
Các vị thần đang có chiều
hướng hồi sinh trong xã hội
hiện đại. Theo thống kê xã
hội học, có đến gần một
nửa dân số nước Anh tin
vào thiên thần. Nhiều người
kể rằng chính mắt họ đã
nhìn thấy và thiên thần còn
chạm vào mình, thậm chí
mách bảo đôi điều.
Một trong những show
truyền hình ăn khách nhất ở
Mỹ có tên là "Touched by an
Angel" (được thiên thần
chạm đến). Hầu như mọi
tôn giáo và nền văn hóa
trên thế giới đều cùng chia
sẻ ý niệm thiên thần. Nhiều
người xem thiên thần là
thần hộ vệ cho họ, được bề
trên phái xuống.

Tim Crane, một doanh nhân
34 tuổi ở Guildford (Anh) kể
lại chuyện anh được một
thiên thần cứu mạng:
"Chúng tôi chuẩn bị băng
qua một con đường đông xe
cộ ở London. Tôi nhìn về
phía trái và không trông
thấy xe, thế là cùng bạn gái
qua đường. Đột nhiên một
bàn tay đặt lên vai phải của
tôi và kéo tôi ngược trở lại".
Đúng lúc ấy, một chiếc xe
buýt lao tới chỉ cách Crane
vài bước. Anh chưa kịp định
thần thì bạn gái anh đã la

18


Y khoa huyền bí
hoảng lên vì sợ.Sau đó cô
ấy cho biết, không phải cô
ấy kéo tôi lại, trong khi
không có một ai khác ở đấy
nữa cả" - anh kể tiếp. Crane
thừa nhận là không thể
chứng minh sự việc, nhưng
sự kiện ấy đã làm thay đổi
thái độ của anh đối với cuộc

sống: "Cuộc sống có nhiều
điều kỳ diệu hơn là bạn
tưởng”.
David Beckham, tiền vệ
bóng đá nổi tiếng người Anh
còn nổi tiếng với 3 hình xăm
cầu kỳ hình ảnh thiên thần
hộ mệnh trên cơ thể, 2 hình
ở vai và một hình lớn ở
lưng. Để có được những
hình xăm ấy, David đã phải
bỏ ra hàng núi tiền thuê
chuyên gia. Ngôi sao bóng
đá này cho biết: "Các thiên
thần hộ mệnh sẽ giúp tôi
vững tin hơn. Điều quan
trọng nữa là sẽ giúp tôi
tránh khỏi mọi rắc rối, ưu
phiền".
Theo tiến sĩ Mike Loui, giáo
sư tâm lý tại Đại học Nene ở
Northampton, Anh, có một
số giả thuyết giải thích hiện
tượng trên như hoạt động
của não bộ, ý muốn hoàn
thành công việc hay sự thay
đổi hóa chất của não. Tuy
nhiên, chưa giả thuyết nào
được chứng minh tính đúng
đắn.

Loui cho rằng, người ta mô
tả những gì xảy đến trong
não họ một khi không có
hình ảnh làm bằng chứng.
Điều này cũng xảy ra ở
những lần gặp gỡ thiên thần
trong Kinh Thánh: Thường
thì chỉ một người nghe thấy
giọng nói vọng xuống từ
thiên đàng. Những người ấy
sau này may mắn trở thành
nhà tiên tri. Loui khẳng
định: "Nếu bạn muốn tin
vào thiên thần thì bạn sẽ
tin. Và bạn sẽ ngạc nhiên về
việc đi tìm lời giải thích ở
đâu, như thế nào...".
Đối với tiến sĩ Mike Money,
Giám đốc Trung tâm nghiên
cứu sức khỏe thuộc Đại học
John
Moores,
Liverpool
(Anh) thì tôn giáo và ngay
cả khoa học cũng chưa làm
thỏa mãn hết trí tò mò của

loài người. Nhiều bộ phim
và các show truyền hình đề
cập đến chuyện thiên thần

đã đẩy lùi biên giới bó hẹp
của niềm tin vào thiên thần,
nhờ vậy, thiên thần có chỗ
đứng trong nhận thức của
nhiều người.
Con người luôn cần có điều
gì đó để đặt niềm tin, nhưng
tại sao đó cứ phải là các
thiên thần? Tiến sĩ Money
cho là con người có cùng
chung một sự vô thức qua
quá trình thu nhận các "kiểu
mẫu thần thánh" trong
chuyện cổ tích và tôn giáo.
Bất cứ ai sinh ra và lớn lên,
hấp thu nền văn hóa của
một quốc gia nào đó đều
từng biết qua về các bà tiên
hiền dịu, hiệp sĩ trẻ tài ba
hay những thiên thần huyền
ảo. Mỗi khi cần đến sự lý
giải, vô thức đưa chúng ta
tìm đến các kiểu mẫu thiên
thần đã định hình trong ta
từ tấm bé. Đặc biệt, trong
xã hội hiện đại, các phương
tiện truyền thông là một
nhân tố có ảnh hưởng
mạnh. Sống trong một xã
hội giữa những niềm tin và

sự chờ đợi, con người dễ
dàng "biên dịch" một kích
thích mơ hồ thành cuộc gặp
gỡ với thiên thần. Chẳng
hạn, bạn nghĩ là có ai đó ở
sau lưng mình, bạn quay lại
và không thấy ai cả. Có
người phớt lờ đi, có người
lại "biên dịch" tình huống đó
là có thiên thần xuất hiện.
Vấn đề là cách hiểu và định
danh của con người đối với
sự kiện.
Vậy một số nhân chứng
khăng khăng là đã tận mắt
trông thấy thiên thần thì
sao? Khoa học vẫn chưa làm
sáng tỏ được vấn đề này vì
chưa có đủ công cụ và thiết
bị để hiểu hết các trường
năng lượng của con người.
Tiến sĩ William Bloom, giáo
sư tâm lý - xã hội học tại
Đại học kinh tế London, cho
biết: Mọi vật trong cuộc
sống, dù là một tia nắng,
một hòn đá hay một sinh
vật về cơ bản đều là một
dạng của năng lượng. Vật lý
học hiện đại đã chứng minh


Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

điều đó. Có một sự liên lạc,
nối kết giữa vật chất, năng
lượng và nhận thức.
Theo sự lý giải của tiến sĩ
Bloom, thiên thần cũng là
một dạng năng lượng và nó
có tác động lên trái tim,
nhận thức, cảm giác của
con người. Do đó, gặp gỡ
thần thánh có thể là sự đón
nhận các trường năng
lượng, não sẽ ghi nhận và
chuyển sự đón nhận ấy
thành cảm giác thể chất.
Ông Bloom nói: "Đôi khi não
chuyển thành hình ảnh, đôi
khi lại là âm thanh hay mùi
vị nhưng đa số đều sẽ cảm
nhận thấy nó giống như ta
nhận ra sự thay đổi nhiệt độ
vậy". Và những cảm nhận
ấy nhiều khi được xem là sự
xuất hiện của thiên thần!
Trùng hợp ngẫu nhiên hay
số phận sắp đặt
Trong cuộc sống có những
sự trùng hợp ngẫu nhiên

khó tin và không thể giải
thích được, khi đó, một cách
tự nhiên, người ta bắt đầu
nghĩ đến khía cạnh bí ẩn
của số phận. Liệu có thể giải
thích những chuyện trùng
hợp kỳ lạ là trò chơi của số
phận hay khoa học còn có
những lý thuyết khác về bí
ẩn này?
Trên thực tế, chúng ta đã
biết đến những sự trùng
hợp ngẫu nhiên ở những
người cùng huyết thống như
anh chị em sinh đôi. Tuy
vậy, những sự tương đồng
này không chỉ dừng lại ở
những người trong cùng
một gia đình hay dòng họ,
chúng còn xuất hiện ở
những người hoàn toàn xa
lạ, thậm chí vượt qua mọi
giới hạn về không gian và
thời gian. Sau đây là một số
trường hợp có thật trên thế
giới, những trường hợp mà
cho đến nay các nhà khoa
học vẫn chưa có giải thích
thoả đáng.
Chuyện

hoàng
đế
Umberto và người chủ
quán
Vua Umberto 1 (1844-1900)

19


Y khoa huyền bí

Một lần vua Umberto 1 của
nước Ý bước vào một nhà
hàng ở thành phố Monza.
Khi chủ quán đích thân ra
tiếp chuyện, vua Umberto
vô cùng bất ngờ nhận ra
điều lạ lùng. Ngài và chủ
quán giống hệt nhau từ tên
gọi, khuôn mặt đến dáng
người. Vậy là hai người đàn
ông thuộc hai tầng lớp xã
hội cách nhau một trời một
nghiệm. Và thật kỳ lạ hơn
nữa, chúng đều giống hệt
nhau cứ như thể hai con
người có chung một số phận
vậy:
- Sinh cùng ngày, cùng
tháng, cùng năm (14-31844).

- Lấy vợ cùng có tên là
Margherita và cùng tổ chức
lễ cưới vào ngày 22-4-1966.
Con trai đầu lòng đều tên là
Vittoria.
- Chủ quán tổ chức lễ khai
trương nhà hàng đúng vào
ngày vua Umberto đăng
quang.
- Năm 1866, cả hai đều
được nhận huy chương.
Thời gian vị chủ quán
Umberto phục vụ trong
quân đội còn vua Umberto
cũng là quân nhân với cấp
bậc đại tá.
- Năm 1870, cả hai người
đều được thăng chức. Chủ
quán Umberto lên chức
trung sĩ còn vua Umberto
được thăng chức tổng tư
lệnh quân đội.
Sau khi biết rõ được những
sự trùng hợp lạ lùng giữa

người chủ quán và
mình, nhà vua đã
suy nghĩ rất nhiều và
tự hỏi lòng rằng tại
sao mình và người

chủ quán lại có
chung những điểm
tương đồng nhưng
lại quá cách biệt về
địa vị xã hội? Phải
chăng mình là kẻ
may mắn nhất trần
gian còn người chủ
quán kia bị thua
thiệt? Có lẽ cho rằng
chủ quán Umberto là
người gánh chịu mọi
điều không may cho
mình nên sáng hôm
sau,
hoàng
đế
Umberto đã ra lệnh
phong tước hiệp sĩ cho chủ
quán Umberto.
Thế rồi ngày hôm sau, khi
chủ quán Umberto lên
đường đến hoàng cung gặp
hoàng đế thì vừa đặt chân
xuống ông đã bị một kẻ sát
nhân nhảy đến bắn ba phát
đạn vào ngực khiến ông
chết ngay. Nhận được hung
tin, nhà vua đến bên thi thể
người chủ quán để thăm

viếng người kỳ lạ. Nhưng khi
hoàng đế vừa đặt chân
bước xuống xe song mã,
một tên sát nhân điên loạn
không biết từ đâu xuất hiện
cũng bắn ba phát đạn vào
ngực nhà vua khiến ông ngã
nhào ra đất chết ngay. Câu
chuyện có thật về vị hoàng
đế Umberto và chủ quán lạ
lùng làm xôn xao nước Ý
một dạo.

Những cặp sinh đôi kỳ lạ
Không phải là những cặp
sinh đôi bình thường, họ bị
dị dạng và dính chặt vào
nhau. Nhưng vượt qua tất
cả, những con người kém
may mắn đó vẫn nỗ lực

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

sống một cuộc sống thật ý
nghĩa.
Chang và Eng Bunker
Chang và Eng sinh ngày
11/5/1811 ở Thái Lan. Cơ
thể họ dính với nhau bởi
một miếng xương sụn bên

sườn. Hai lá gan của họ
cùng động mạch nhưng lại
hoạt động độc lập.

Đối với ngày nay, cuộc phẫu
thuật cho cặp song sinh này
hoàn toàn đơn giản nhưng ở
thời kỳ họ sống thì không
thể làm được điều này. Vì
thế, anh em Chang và Eng
phải sống cả đời bên nhau.
Họ đã cùng đi tour diễn
vòng quanh thế giới và sau
này cùng làm kinh doanh.
Định cư ở North Carolina,
hai anh em đã có hai gia
đình đầm ấm, đông vui. Anh
Chang và vợ có 10 đứa con,
trong khi vợ chồng Eng sinh
hạ được 12 đứa. Hầu hết
con cháu của họ ngày nay
sống ở Mount Airy. Năm
1874, Chang qua đời sau
một thời kỳ lâm bệnh. Và
Eng cũng đi theo anh sau
đó vài giờ đồng hồ.
Lazarus Colloredo và
Joannes
Baptista
Colloredo

Đây là cặp sinh đôi được
sinh ra ở Genoa, nước Ý.
Lazarus có thể đứng thẳng,
trong khi thân thể người em
Joannes cắt ngang anh.
Chân trái Joannes chìa ra
khỏi cơ thể anh mình ở phía
trước. Joannes không nói
được, hay nhắm mắt và
luôn mở miệng.
Lazarus không muốn “trưng
bày” mình để kiếm tiền. Mỗi

20


khi cần thiết, anh thường
choàng áo chùm cơ thể em
mình. Các nhà khoa học
ngày nay cho rằng, cơ thể
của Joannes không nhận
được chất dinh dưỡng qua
dây rốn từ trong bụng mẹ
nên bị teo một phần. Đó là
lý do vì sao Joannes chỉ có
một chân và thiếu một số
bộ phận cần thiết.
Lori và George Schappell
Cặp sinh đôi này còn có tên
cũ là Lori và Dori. Họ sinh

năm 1961 và một trong hai
người từng là ca sỹ nhạc
đồng quê. Họ dính nhau
trên đầu và cùng “dùng”
chung 30% bộ não. Dù vậy,
họ vẫn có tính cách và
phong cách sống khác nhau.
Geogre thích làm ca sỹ,
trong khi Lori làm việc ở
tiệm giặt là. Mọi thứ phải
lên kế hoạch, sắp xếp thời
gian khi George đi biểu
diễn. Năm 24 tuổi, cả hai
tuyên bố là hai con người
độc lập và đi học đại học.
Sau đó, họ đã sống trong
một tổ chức từ thiện.
Millie McCoy và Christine
McCoy
Hai cô bé này có biệt danh
là “chim sơn ca hai đầu”.
Cha mẹ là nô lệ trong một
nông trại ở North Carolina
(Mỹ) nên Millie McCoy và
Christine McCoy đã bị bán
cho một ông bầu gánh xiếc.
Tuy nhiên, một gánh xiếc
đối thủ đã bắt cóc hai cô bé
đưa sang Anh và giao cho
ông bầu Smith. Ông Smith

và vợ đã dạy cặp sinh đôi

này chơi nhạc,
hát và nói được
5 thứ tiếng.
Millie

Christine
trở
thành diễn viên
cho rạp xiếc và
đã từng được
Nữ
hoàng
Victoria
ban
tặng một chiếc
vòng cổ lớn
bằng kim cương.
Daisy và Violet
Hilton
Daisy và Violet
sinh năm 1908
và được nhận
nuôi bởi cô bồi
bàn Kate Skinner. Ông chủ
của Kate nhận thấy có thể
kiếm được nhiều tiền nếu
đưa Daisy và Violet đi biểu
diễn nên đã quyết định mua

hai bé về. Từ đó, chúng đi
biểu diễn ở khắp nơi như
Đức, Mỹ và Úc.
Đến năm 1931, Daisy và
Violet đã gửi đơn kiện đòi lại
tự do cho chính mình.
Không những thế, họ còn
được đền bù 100.000 USD.
Hai chị em tiếp tục biểu diễn
kịch vui, rồi xây dựng gia
đình nhưng sau đó cả hai lại
ly hôn.
Sau đó không lâu, họ
chuyển đến định cư ở
Florida (Mỹ) và mở một
quán bán hamburger. Họ
từng thi bằng lái xe ở
Charlotte nhưng chưa bao
giờ đậu. Cuối cùng, chị em
này lại chuyển đến sống ở
New York và làm việc trong
một quầy bán rau quả. Năm
1969, cả hai chị em qua đời
ở độ tuổi 61.
Eliza và Mary Chalkhurst
Năm 1100, tại vùng Kent ở
nước Anh, một cặp sinh đôi
dính nhau, chỉ có hai tay
chào đời. Cũng vào năm đó,
vua William Rufus qua đời,

một số người cho rằng, cái
chết của vua King đã tạo ra
sự kỳ lạ đó. Các bức họa
còn lưu lại đến ngày hôm
nay cho thấy cặp song sinh
này dính nhau ở bả vai.
Trước khi mất (năm 1136),
họ muốn người nghèo có
bánh và bơ trong lễ Phục
sinh nên đã giao toàn bộ
cho nhà thờ khối tài sản và

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

mảnh đất rộng. Kể từ đó,
hàng năm vào lễ Phục sinh,
nhà thờ làm bánh có in hình
hai người ban phát cho
người nghèo. Được biết, tục
lệ này đã kéo dài tới 900
năm sau đó.
Cặp sinh đôi “1 trắng, 1
đen”!
Một bà mẹ người Anh mang
trong mình nhiều dòng máu
đã cho ra đời cặp sinh đôi kì
lạ nhất thế giới, không phải
là một gái, một trai mà là 2
bé gái giống hệt nhau và chỉ
khác nhau màu da! Năm

2005, Kylie Hodgson - một
phụ nữ đa chủng tộc, đã
sinh được 1 cặp sinh đôi 2
bé gái mang 2 màu da khác
nhau: trắng và đen! Bản
thân Kylie và người tình của
cô - bố những đứa trẻ Remi
Horder cũng là những người
mang trong mình 2 dòng
máu: Âu và Phi.
Lúc mới sinh ra, hai cô con
gái của họ Kian và Remee
đều có đôi mắt màu xanh
nhưng Remee có máu tóc
vàng và làn da trắng còn
Kian thì có mái tóc và làn da
đen. Tuy nhiên, một thời
gian sau đó, đôi mắt của
Kian cũng có xu hướng
chuyển sang màu nâu!
Theo thống kê của các
chuyên gia, tỷ lệ sinh đôi
một trắng, một đen này là 1
trên 1 triệu ca sinh nở trên
thế giới! Xác suất xảy ra
thường xuyên hơn nếu
người mẹ thụ thai cùng một
lúc với 2 người đàn ông
thuộc 2 chủng tộc khác
nhau. Tuy nhiên, trường

hợp của cặp đôi “chung
thủy” này lại càng hiếm hoi
hơn nữa!

21


Văn học Nghệ thuật
Hồi ký “đứt đoạn” khóa 9 - Y khoa Huế ( 1968 – 1976)

Tôi đi vào nghề Y bằng một
sự tình cờ, vì thế tôi không
được phong giáo sư bởi vì
chẳng có ai tình cờ mà được
phong giáo sư?!
Từ nhỏ tôi không có thiên
bẩm làm nghề thuốc: Tiểu
học, tôi được cô giáo khen
là một sử gia vì tôi có thể
đọc vanh vách tên của
những vị vua từ các thời
Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê,
Nguyễn ( bây giờ thì chịu).
Lên Trung học tôi có một
chút năng khiếu về môn vạn
vật ( vì là vua học gạo),
nhưng lên đệ nhị cấp thì tài
văn chương có lẽ trội hơn.
Kỳ thi nào tôi cũng được
làm chemise môn văn và

thầy giáo dạy văn thường
cho đọc bài luận của tôi cho
cả lớp nghe. Tôi tốt nghiệp
tú tài II ban A năm Mậu
Thân ( tú tài Mậu Thân, cử
nhân Nhâm Tý!).
Tôi yên tâm vì mình đương
nhiên là sinh viên đại học
văn khoa, bởi vì hồi ấy chỉ
có y dược, sư phạm, kỹ sư
Phú Thọ... mới thi tuyển,
còn hầu hết là ghi danh và
chắc chắn mình sẽ không
phải trung sĩ nếu bị động
viên vào lính ( rớt tú tài anh
đi trung sĩ...!) cho nên
quẳng bút nghiêng tôi lao
vào du hí mà chẳng có ôn
tập gì để thi đại học như
bây giờ. Tuy nhiên vì ba tôi
rất thích tôi học y khoa để
sau này có thể giống như
chú tôi – Bác sĩ Thân Trọng
An, có một thời kỳ làm khoa
trưởng Đại học y khoa Huế
và làm ăn rất phát tài!- nên
tôi cũng nộp đơn thi vào y
khoa Huế. Kỳ thi tuyển vào
dự bị y khoa ( APM) năm
1968, tôi nhớ có môn kiến

thức tổng quát ( Hệ số 3),
và có lẽ tôi đậu y khoa nhờ
đọc đủ loại tạp chí như phổ
thông, kiến thức ngày nay...
Tôi còn nhớ rất rõ, hôm ấy
là một buổi chiều mà trời
Huế đổ mưa giông. Tôi tạt
vào sân trường đại học khoa
học Huế ( Morin củ) để trú

mưa và xem đã có kết quả
chưa? Tình cờ, tôi thấy tên
mình xếp 19/50 thí sinh
chính thức và 10 thí sinh dự
khuyết. Trần Văn Long đậu
thủ khoa, Lê Minh Đạo thứ
3, Diệu Quê thì không nhớ,
còn Tiêu Thu nằm ở sau tôi,
Phạm Súy thì đậu dự
khuyết! ( nhưng sau này khi
ra trường, ra đời Phạm Súy
là người leo cao nhất trong
số bạn bè lớp tôi: Giám đốc
Bệnh viện tỉnh), xem ra đầu
vào không dự báo điều gì
tương xứng cho đầu ra cả!
Tôi sung sướng lao đi dưới
trời mưa với suy nghĩ mình
đã là Bác sĩ, và
phóng

nhanh về nhà để báo tin cho
ba tôi, người mà tôi chắc sẽ
vui hơn tôi khi nhận được
tin nầy.
Năm APM ở đại học khoa
học chỉ là một năm dạo chơi
bởi vì chẳng ai phải lưu ban,
vì đó là năm cuối lớp dự bị y
khoa. Nếu không chắc tôi sẽ
là người ở lại, vì cho đến
bây giờ tôi cũng không hiểu
nổi môn xác suất thống kê

gì?
Lối vào trường đại học y
khoa thật tuyệt. Đường Ngô
Quyền mát mẽ quanh năm,
bởi “ đường phượng bay mù
không lối vào, hàng cây lá
xanh gần với nhau” ( không
biết có phải là đường
phượng bay trong ý nhạc
của Trịnh Công Sơn không,
bởi vì Huế có quá nhiều con
đường như thế?)
Ai đã từng là sinh viên y
khoa Huế chắc sẽ mãi nhớ
giảng đường A, giảng đường
to nhất, đẹp nhất, oách nhất
với 2 mặt tiền, và là giảng

đường dành cho sinh viên
năm đầu học làm thầy
thuốc! Và bài học đầu tiên là
giờ học giải phẫu xương sọ
của Bác sĩ Nguyễn Văn Tự.
Trời ơi, một cái sọ người,
với bao nhiêu là lổ, lổ lớn, lổ
nhỏ, lổ ngang, lổ dọc bắt tụi
tôi phải nhớ? Rồi dây thần
kinh gì, mạch máu gì chui
qua cũng phải thuộc. Quả là

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

quá đáng! Nhưng hồi đó,
quá sợ cái môn mà trên
50% không lọt qua kỳ I, bắt
chúng tôi phải học, quên đi
cái sợ cái sọ người chính
hiệu, có bạn về đêm khuya
ngồi nghe tiếng nghiến răng
kèn kẹt mà nổi cả da gà.
Tôi còn nhớ như in cái buổi
đầu tiên học môn giải phẩu
xác chết. Bữa vào nhà thực
tập mổ xác, tôi đã hốt
hoảng nhảy giật lùi khi thấy
hai xác ướp nằm cạnh nhau
trên bàn mổ. Mùi Formon
cay xè, những mạch máu,

những thớ cơ, những gân
bám, buộc phải nhớ! Bây
giờ, nếu ai hỏi tôi môn nào
khó nhất, tôi trả lời ngay là
môn cơ thể học. Nó khó và
ấn tượng đến nổi mà giờ
đây đã sắp về hưu, có lúc
tôi vẫn còn mơ thấy là mình
chuẩn bị phải thi môn cơ thể
học mà bài thì chưa thuộc!
Rồi những giờ sinh lý của
thầy Bách. Trời ơi, bài thầy
thì hay mà học thầy thì khó
ơi là khó! Hồi đó không có
cua phát tay, mà thầy chỉ
đọc và chép, thầy chỉ đọc
một lần, không hề đọc lại,
nếu bạn nào mà lỡ rớt bút
thì coi như bỏ qua đoạn ấy (
về mượn vở bạn chép lại).
Ho cũng không dám, hắt hơi
cũng thế, nếu lỡ bữa nào
cảm cúm thì bài chép giống
như một bản nhạc bị lỗi với
nhiều đoạn trống.
Ngoài đời, hể thấy ai viết
chữ khó đọc thì người ta
bảo là chữ Bác sĩ, theo tôi
có lẽ cũng do khi còn ở ghế
nhà trường, sinh viên y khoa

thường phải viết theo lối tốc
ký mới theo nổi bài giảng
của mấy thầy nên thành
thói quen. Có một chuyện
vui về viết khó đọc của các
bậc thầy chắc nhiều bạn còn
nhớ.
Hồi ấy, tôi làm nội
trú ở khoa mắt của giáo sư
Vận, có một trường hợp liên
quan dến nội khoa chuyển
đến thầy Bách nhờ xem, khi
hồ sơ trả về, thầy Vận đọc
không được nhờ tôi dịch hộ,

22


Văn học Nghệ thuật
tôi cũng “bó tay.com”. Mấy
hôm sau thầy Bách gửi một
bệnh nhân qua nhờ soi đáy
mắt, Giáo sư Vận viết trả lại
cho thầy Bách, thầy Bách
cũng không đọc nổi, điện
qua hỏi, thầy Vận trả lời tỉnh
bơ: “Bữa trước anh viết tui
có đọc được mô- huề nhé!”
Năm thứ hai, có một sự cố
mà đến giờ tôi còn nhớ mãi,

đó là thi thực tập mô phôi
với Bác sĩ Trà Văn Đỏ. Thầy
Đỏ là giảng viên đến từ Sài
Gòn. Hôm đó làm xong bài
thi nộp cho thầy xong về
đến nhà tôi mới nhớ là mình
quên ghi tên. Trở lại khi các
bạn vẫn còn thi, xin được
ghi tên thì thầy cương
quyết: “ Cậu về ôn tập
chuẩn bị cho kỳ hai, vì tôi
đã xem bài của cậu, bài tốt
nhưng tôi phải đánh hỏng
để cậu nhớ cả đời: làm thầy
thuốc không được quên,
được lơ đểnh, lở cậu ghi
nhầm toa cho bệnh nhân thì
có đổi được không?”.
Năm ấy, toàn thể sinh viên
phải qua một mùa hè không
được rong chơi tại quân
trường Đống Đa. Cũng tóc 3
phân, cũng quần áo lính,
cũng bò, cũng tập bắn súng.
Hồi ấy tiểu thuyết kiếm hiệp
“ Cô gái Đồ Long” của Kim
Dung đang best seller. Lớp
tôi phỏng theo chuyện vỏ
hiệp thành lập hai nhóm:
Lục cốc đào tiên gồm Phước

Trần ( hay Phước Cần),
Cảnh Hoạt, Cao Trí, Hùng
“49”, Hùng “50”, Gia Cường,
còn nhóm “Thất quái” gồm:
Trưởng nhóm Tiêu Thu, tôi,
Vân Cù, Minh Đạo, Duy
Dũng, Đình Khôi và Phạm
Súy. Chúng tôi chia 2 phe
đùa nhau, chọc nhau và tấn
nhau ra trò như trong phim
kiếm hiệp!
Học quân sự được 10 ngày,
Minh Đạo, Vân Cù nhớ vợ (
2 anh chàng này hoang
sớm) nên bàn kế “cáo ốm
biệt quân trường”, nhờ quen
biết tay trung úy quân y cho
miễn tập quân sự vì lí do
sức khỏe. Cả nhóm “Thất
quái” về lại phố. Mùa hè ấy
tôi phải nằm nhà cả tháng
mới dám ra đường vì cái
đầu lở húi cua , méo mó cực
xấu, chẳng dám chường mặt

gặp ai! ( kể cả người yêu:
treo môi một tháng!)
Năm thứ ba là năm ghi dấu
của những mối tình y khoa –
Sage, Femme- bởi vì muốn

vượt qua stage sản khoa,
mỗi sinh viên phải có 20 ca
đỡ đẻ, rồi 10 ca cắt may
tầng sinh môn. Trời ạ, bịnh
ít- “thầy thực tập” thì nhiều:
nào sinh viên năm III, sinh
viên năm IV, sinh viên năm
V, nữ hộ sinh, làm răng đủ
số đây. Một “bài học môn
truyền” từ các lớp đàn anh
là hãy “cua” mấy em hộ
sinh, và cứ thế những mối
tình y khoa-nữ hộ sinh đua
nhau nở rộ : “ Ngọt ngào,
địu đàng nhờ mấy em bắt
ca hộ, sau đó cho đến giờ
sinh chỉ đến “dây ối ăn
phần”, và ghi vào sổ của
mình. Vừa nhẹ nhàng, vừa
tình cảm”. Nhờ thế, vượt
qua stage dễ dàng, ít tốn
sức, chỉ tốn tình và tốn tiền
(phải mua quà nhử mấy
nàng), và kết quả không ít
mối tình hờ ấy trở thành
những mối tình chân và dìu
dắt nhau, đẻ cho nhau
những đứa con, và sống
bên nhau đến lúc đầu bạc
kinh long ( mãn kinh).

Năm thứ tư là năm của các
chuyên khoa: Nội, ngoại,
truyền nhiễm, tai - mũi họng, mắt... mỗi khoa 2
tháng, đi như đi chợ phiên,
chưa làm quen được mấy đã
chuyển sang khoa khác. Tuy
thế các kiến thức và kỹ
năng cơ bản của chuyên
khoa cũng đã hình thành, và
nhờ cái đầu đa hệ ấy mà
nhiều Bác sĩ đa khoa khi ra
trường về cơ sở đã trở nên
hữu ích. Đây là một thu
hoạch tự thân vì nhờ được
đào tạo đủ thứ nên khi về
huyện, Bác sĩ thiếu, bệnh
đông, mặt hàng đa dạng,
nên cái gì người ta cũng gọi,
cái gì mình cũng làm và cứ
thế mình say mê phục vụ,
đến khi nhìn lại thì ôi thôi “
đời mình giờ đã xanh rêu”
Năm thứ năm, theo ký ức
của tôi là năm của môn
dược lý học của giáo sư tiến
sĩ (thứ thiệt từ Sorbonne)
Nguyễn Mạnh Hùng, ông
thầy duy nhất dạy học trò
bằng tiếng Pháp, và cũng là


Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

người thầy duy nhất khi ra
đề thi cho mang theo tài
liệu vô tư. Còn nhớ bữa thi
Dược lý học, một sinh viên
mang theo cả vali sách, tra
cứu đủ sách vô tư nhưng
hỏng cũng vô tư, bởi những
câu hỏi của thầy thuộc loại
Intelligent, không hiểu thì
đố mà làm được. Không
trách, năm ấy chỉ có 10/50
sinh viên lọt qua kỳ I, tôi là
1 trong thiểu số ấy, và đến
bây giờ tôi cũng không hiểu
vì sao, bởi vì tự chấm tối đa
cũng chỉ được 7đ/20. Có lẽ
lúc đó thầy phết đại để đi
nhảy với “bà đầm”( vợ thầy
là một nữ ca sĩ đắt sô đất
Sài thành).
Năm thứ năm cũng có một
chuyện khá bi hài mà tôi
còn nhớ đến tận bây giờ.
Hồi đó có một giáo sư tốt
nghiệp ở Mỹ ra mổ biểu diển
về tiêu hóa, Nguyễn Đình
Khôi là thực tập ở tai – mũi
- họng, nhưng bon chen lấn

sân Phạm Súy vào phụ mổ.
Bữa đó Khôi cầm ống hút
phụ thầy, khi Khôi hút Súy
âm thầm bóp dây dẫn nên
không hút được. Thầy hút
Súy thả ra, thế là Khôi bị
thầy quát, còn Súy và chúng
tôi có một phen cười vỡ
bụng. ( ôi học sinh, nhất
quỷ, nhì ma trên quỷ ma là
sinh viên y khoa Huế!)
Đến tháng 9/1974 khóa 9
chúng tôi chỉ còn lại hơn 30
sinh viên, 30 bạn thì rải rác
rong chơi từ năm 2- năm 5,
và hai nhóm “Lục Tiên và
Thất Quái” cũng không còn
đầy đủ thành viên. Đây là
năm cuối nên cả lớp chia
làm hai, một nữa do Phan
Tiêu Thu làm trưởng nhóm,
vào Đà Nẵng thực tập ở
Bệnh viện Toàn Khoa, còn
nữa ở lại Huế, tôi làm
trưởng nhóm cùng Khoa
Dũng, Gia Cường. Thời ấy,
tất cả chúng tôi là nội trú ủy
nhiệm 100% ( nhà trường
không tổ chức thi nội trú vì
sinh viên quá ít), và thực ra

đều là chuẩn Bác sĩ cả. Mỗi
tua trực, bao cả Bệnh viện
chỉ 3 nội trú: 1 cấp cứu, 1
phòng mổ, 1 chạy phòng.
Hồi đó thời kỳ chiến tranh
đang ác liệt nên thương tật
do bom rơi đạn lạc nhiều vô

23


Văn học Nghệ thuật
kể, bệnh tật phức tạp mọi
nơi đều dạt vô thành phố,
nên có quá nhiều việc để
làm, để học. Điều đó giải
thích tại sao lớp tôi, khi ra
trường đứa nào tay nghề
cũng khá, và sau 1975 ở lại
trường gần 2 năm nữa để
học thêm những môn mới
như: Vệ sinh công cộng, sốt
rét, chính trị... nên tay nghề
còn được rèn luyện thêm.
Nội trú là một thời gian
tuyệt đẹp của sinh viên y
khoa, bởi vì lúc đó chúng tôi
làm cũng nhiều và chơi cũng
lắm. Các điều kiện thì luôn
đầy đủ: Nội trú có lương,

nội trú có quyền, và nội trú
được giám đốc bệnh viện
biệt đãi: Bác sĩ trực đa số
bận câu cá ở phòng mạch
riêng, nên hầu như ủy
quyền toàn bộ cho nội trú.
Nội trú còn ngon hơn cả Bác
sĩ vì ca nào cũng gặp nội trú
xử lý trước, nội trú chơi
phông hơn Bác sĩ vì đa số
nội trú chưa có gia đình,
nên tự do trên mọi phương
diện.
Khi chia hai toán nội trú thì
bao giờ cũng có sự ganh
đua. Toán nào cũng muốn
mình ngon hơn.Còn nhớ hồi
ấy toán nội trú Đà Nẵng ra
đặc san, nhóm ở Huế cũng
cố gắng rặn ra một tờ, rồi
viết văn, rồi làm thơ con
cóc...rồi tùy bút trêu nhau,
chọc quê nhau trên mặt
báo. Đó là những kỷ niệm
đẹp, quá đẹp mà không
phải dể dàng tìm thấy trong
đời! Tháng 3/1975 hai toán
nội trú hoán dổi vị trí. Thế là
bàn giao công việc, bàn giao
địa chỉ chơi bời và bàn giao

luôn cả những “người tình 6
tháng”. Tôi nhớ Chân “rù”
bàn giao cho tôi một em khá
xinh, rất rậm! Nhưng chưa
kịp hành động thì lịch sử
sang trang mới .
Sau giải phóng, chúng tôi về
hết ở trường và được chia
nhau tiếp tục thực tập tại
bệnh viện TW Huế và học
chính trị, chờ ngày thi tốt
nghiệp. Xem ra số 9 không
phải lúc nào cũng là số đẹp,
học y khoa đến 9 năm, bằng
thời gian đào tạo tiến sĩ.
Thi tốt nghiệp mỗi thí sinh
phải qua 3 hội đồng: Nội,

ngoại và sản. Bốc bệnh, làm
bệnh án, và mỗi hội đồng
gồm 3 giáo sư: 1 của miền
Nam, và 2 của các thầy trên
chiến khu về hoặc ở miền
Bắc vào. Tôi nhớ mãi Giáo
sư Nguyễn Văn Tự, vì thầy
đã cứu cho tôi một bàn thua
trông thấy: khi vào vấn đáp,
thầy Khoa Dược lý hỏi tôi: “
Để làm phản ứng Galli
mainini, phải có ếch đực,

thầy hỏi khi ra chợ mua ếch,
làm sao phân biệt ếch cái,
ếch đực”. Trời ơi, cái dzụ
này mấy soeur bên xét
nghiệm phụ trách. (May quá
- thầy Tự đỡ lời: “ Anh Khoa
ơi, cái này tui cũng chịu”!
Sau khi thi tốt nghiệp chúng
tôi có 2 tháng đi thực tế. Tôi
được phân về xã Phú
Thuận, xã biển bên kia phá
Tam Giang. Mùa thực tế vào
mùa lũ, và trong một cơn lũ
tháng 10 của Huế, tôi đã cố
hết sức để lôi ra đời một
đứa bé của một ngư dân:
con so, con to bằng cách cắt
tầng sinh môn 2 bên bằng
dao lam và khâu lại bằng chỉ
may áo quần. Nhờ trời, mẹ
tròn con không méo! Đúng
là thời gian qua 2 hệ đào
tạo của trường y Huế đã cho
tôi “một kỹ năng y khoa
giang hồ”!
Bây giờ sau 32 năm từ khi
tốt nghiệp, tôi gắn bó với
mảnh đất Quế Sơn, Quảng
Nam này như một định
mệnh. Lớp tôi ở Quảng

Nam, Đà Nẵng cũng còn
dăm ba đứa: Trần Văn Long
thôi nhà nước ra cộng tác
với Bệnh viện đa khoa Hoàn
Mỹ, Diệu Quê- Bệnh viện
Quận Hải Châu, Nguyễn Chi
nghỉ hưu sớm từ bệnh viện
C, Nguyễn Văn Sê to hơn,
đang làm ở phòng nghiệp
vụ Sở y tế Quảng Nam- là
sếp của tôi..
Tẩt cả chúng tôi chuẩn bị
được xếp vào lớp người cao
tuổi. Lớp tôi, có lẽ là lớp duy
nhất chẳng ai được học Tiến
sĩ, được phong Giáo sư,
nhưng có điều tôi chắc chắn
và tự hào mãi vì khóa 9 của
mình là: dù ở cương vị nào,
điều mà chúng tôi mang lại
cho người bệnh thân yêu
của mình: đó là sự phục vụ
nghề nghiệp chất lượng cao!

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

Các bạn cùng khóa 9 của tôi
ơi! Lớp mình những 60 đứa,
tôi mới nhắc đến khoảng 20
thôi, điều đó không có nghĩa

là tôi quên các bạn còn lại.
Không đâu! Tôi còn nhớ cả
những “ nick name” nữa
đấy! Này nhé: Phước “lồi”,
Thịnh “gạo”, Toàn “thư
sinh”, Cảnh “dai”, Trỉ “
chuyền 2”... Và danh sách
lớp mình từ A đến Z đó
nghe: 1/ Trần Ngọc An; 2/
Bùi Thị Bông ( Soeur Bông);
3/ Đỗ Xuân Cảnh; 4/ Lê
Thanh Châu ( Cha Châu); 5/
Dương Vân Cù; 6/ Nguyễn
Văn Cư; ... cái tên xấu như
tôi mà lớp mình có đến 2,
và khóa đuôi là ai nhỉ?! Sau
đó tăng thêm Mỹ Hạnh, Vân
Anh từ y khoa Sài Gòn về.
À! Quả là thiếu sót nếu
không “sờ” đến con gái của
lớp mình. Khoảng 10 em
nhỉ? Nào là Tuyết Diễm, Thu
Hồng, Thị Sau, Thu Cần,
Kim Ngân, Tuyết Nga... Con
gái y khoa thường xấu,
nhưng lớp mình thì không.
Toàn là những “hồng y” cả.
Rồi chuyện yêu đương nữa
chứ, nói đến sinh viên
trường y mà không nói

chuyện tình là hơi bị thiếu,
nó như một bức tranh chưa
tô màu. Nhưng xin không
nói đến trong hồi ức này,
bởi nếu nói thì hết tập san
này cũng không đủ, cho tôi
khất lại kỳ II nhé...chỉ xin
hỏi các bạn một câu: “ Tôi
có cặp bồ với bạn gái nào
trong lớp mình không?”
(chuyện bây giờ mới nói).
Tôi chắc là các bạn không
biết: Chúng tôi cặp nhau từ
năm thứ tư, và yêu kiểu:
“hồn bướm mơ tiên”, hai
đứa cam kết giữ kín không
cho bạn bè biết! Nếu bạn
nào không tin thì xin hỏi “
Trung úy Cầu” sẽ rõ.
Thôi, tôi không nói nữa, nói
nhiều sợ lộ. Nếu lộ sẽ mất
hạnh phúc còn lại của
“người ấy” ( yêu là cầu phúc
cho người mình yêu), chỉ xin
qua đây gửi lời nhắn đến
người “ yêu phải dấu” bên
kia trời Âu: “ Một lời yêu,
một lời thương, lần cuối
cùng!”
Bác sĩ Thân Trọng Cư

Quế Sơn, Quảng Nam

24


Văn học Nghệ thuật

Blog của một sinh viên Y khoa
Ông Nội tôi
Vậy là Ông Nội đã ra đi
được 49 ngày. Một sự ra đi
đầy bất ngờ những cũng rất
thanh thản.Ông Nội đã
không ốm đâu,bệnh tật
gì,không phải nằm liệt trên
giường bệnh.Lúc còn sống
Ông Nội không bao giờ làm
phiền con cháu,ngay cả
trước khi chết cũng vậy,Ông
Nội
cũng
ra
đi
rất
nhanh,nhanh đến nỗi không
cho đứa cháu bất hiếu này
được nhìn Ông Nội lần cuối.
Con đã muốn viết những
điều này từ rất lâu
rồi.Nhưng mỗi lần ngồi

trước đặt tay lên bàn phím
và nghĩ về ông,con lại khóc
Ông Nội đã rất muốn về Việt
Nam,Ông đã gục ngã ngay
tại sân bay Los Angeles.Tại
sao ông Trời lại trớ trêu như
vậy chứ? Tại sao không cho
ông của con về Việt Nam để
gặp lại gia đình,làng quê
của ông và để gặp lại đứa
cháu này.Theo lời của các
cô chú bên Mỹ kể lại,sau khi
Ông Nội đột quỵ tại sân
bay,nhân viên sân bay đã
gửi hành lý của ông về lại
cho người thân.Và trong
hành lý của Ông Nội toàn là
quà cho Ba,cho Mẹ,cho anh
Paul và con.Khi Ông Nội mất
rồi,các cô chú ở bên đó điện
thoại về kể với con rằng
:"Mỗi lần Ông Nội nhận
được email của Bob là Ông
Nội rất vui,đi khoe khắp với
cả nhà".Vài dòng email
không là gì cả,nhưng có lẽ
đó là niềm vui,niềm an ủi
cuối đời của Ông Nội.Thế
mà đứa cháu bất hiếu này
lại rất nhác, một tuần mới

gửi cho Ông Nội một cái
mail ...Sau khi nghe mọi
người kể lại,nó mới cảm
thấy hối hận là đã không gửi
nhiều hơn thế.Đúng là đã
quá muộn rồi.
Ông Nội đã hiện về trong
giấc mơ của cô Nga,của Ba
nhưng sao vẫn không hiện

về trong giấc mơ của con để
gặp con.Sau khi hay tin Ông
Nội đột quỵ tại sân bay và
đang được thở bằng máy để
duy trì 1% sự sống,Ba đã
lập tức lên đường sang Mỹ
cho kịp.Lúc ấy mọi người
đang phân vân là nếu Ông
Nội mất sẽ đem xác Ông Nội
về hay hỏa thiêu.Và cô Nga
đã khấn rằng nếu Ông Nội
muốn đem xác về VN thì đợi
Ba qua,còn nếu muốn hỏa
thiêu thì sẽ ra đi trong
thanh thản.Đêm đó Ông Nội
đã về trong giấc mơ của cô
Nga với chiếc áo cà sa như
lời từ biệt cuối cùng.Và sáu
tiếng sau,Ông Nội đã mất
trong nước mắt của bao

người.Cách đây vài ngày,Ba
cũng đã nằm mơ thấy Ông
Nội.Ba kể Ông Nội cùng đi
với người có vẻ như là người
dẫn đường đưa Ông Nội đến
cõi Niết bàn.Ông Nội chào
ba lần cuối rồi đi về phía
ánh sáng cuối đường
hầm.Ba đã khóc,và khi tỉnh
dậy,nước mắt vẫn còn lăn
trên má Ba.Có lẽ Ba là người
buồn nhiều nhất sau sự ra
đi của Ông Nội.Từ lúc sinh
ra đến giờ,đây là lần đầu
tiên con thấy Ba khóc.Ba nói
với con rằng trong đời Ba
chỉ khóc 3 lần,khi sinh ra,khi
Bà Nội mất lúc Ba 13 tuổi và
bây giờ,khi Ông Nội cũng đã
ra đi.Sáng nào dậy Ba cũng
ngồi trước bàn thờ Ông
Nội,uống chung ly cafe với
Ông Nội và cứ nhìn vào tấm
ảnh thờ Ông Nội mà trầm
tư.Đúng là sự ra đi của Ông
Nội là một cú shock lớn đối
với Ba.Mong Ba đừng buồn
nhiều nữa…
Mỗi lần nghĩ về Ông
Nội,trong đầu con lại tràn về

bao nhiêu là kỉ niệm.Con
nhớ lúc 5 tuổi vào Sài Gòn
thăm ông,con đã bị đau rất
nặng.Tuy con nằm hôn mê
không biết gì,nhưng những
lúc con hé mở mắt ra,con lại
thấy Ông Nội ngồi bên cạnh
con và lo lắng cho con.Rồi

Siêu âm ngày nay Tập 48 . Số 1/2008

Ông Nội đi qua Mỹ định
cư,thời gian con ở bên Ông
Nội quá ít.Mỗi lần Ông Nội
về Việt Nam là Ông Nội lại
để lại trong con nhiều bài
học và kỉ niệm khó
quên.Lớp 6 rồi mà con vẫn
chưa biết đi xe đạp,trong
khoảng thời gian ngắn ngủi
Ông Nội ở Đà Nẵng,hai ông
cháu mình chiều nào cũng
xách xe đạp ra nhà thờ Con
Gà và tập xe.Mỗi lần con té
là Ông Nội lại tới đỡ con dậy
và động viên con.Ông Nội
còn dạy con cách cầm
đũa,cầm
dao
cắt

bít
tếch,cầm ly rượu trong các
bữa tiệc qúy tộc…dạy lễ
nghi,dạy con về đạo làm
người và Phật Giáo...rất
nhiều,rất nhiều điều bổ ích
mà con đã được Ông Nội chỉ
bảo tận tình…
Năm con học lớp 7,có bài
tập làm văn "Hãy viết về
một người thân trong gia
đình của em".Con đã không
chọn ba hay mẹ để viết mà
con lại chọn Ông Nội để
viết.Vì trong thân tâm
con,Ông Nội là một người
ông đáng kính,người con
luôn
hết
lòng
yêu
thương.Bài văn của con đã
được 8,5 điểm,con đem về
khoe ba mẹ.Ai cũng khen
con giỏi,nhưng ba con nói
lần sau con không nên viết
Ông Nội là Đại Tá Tham
mưu trưởng Quân đòan 2
của quân lực Việt Nam Cộng
Hòa. Con thấy ông nội chớp

mắt nhìn về xa xăm…hơi
buồn buồn nhưng ông lại
vui ngay đọc bài văn của
con rất thích thú.Hồi đó con
chưa biết gì nên chỉ biết dạ
cho qua chuyện…Cho đến
bây giờ,con đã hiểu tại sao
lúc đó ba lại không cho con
viết như vậy.Nhưng con
thấy con có quyền tự hào về
điều đó.Tự hào rằng Ông
Nội mình đã có chức phận
rất cao trong chế độ cũ,chỉ
là bây giờ nó không hợp thời
nữa thôi…

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×