Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

sự phát triển của toán học.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.21 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về tất
cả các mặt như kinh tế, khoa học công nghệ, phát triển văn hóa xã hội, đặc biệt
giáo dục và đào tạo có bước phát triển khá vững chắc. Nhu cầu học tập của nhân
dân được đáp ứng tốt hơn, đạt được một số kết quả quan trọng trong các mục tiêu
chiến lược (nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài). Bên cạnh
những thành tựu đã đạt được đó, giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục phổ
thông nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, gây lo lắng trong toàn xã hội. Cách
dạy học theo lối truyền thụ truyền thống quá chú trọng tới việc cung cấp kiến thức,
ít phát huy được những khả năng độc lập, chủ động sáng tạo của học sinh, chưa bắt
kịp xu hướng phát triển thời đại ngày nay. Với lối giảng dạy truyền thống đó sẽ gặp
không ít khó khăn trong việc dạy học môn Toán. Số học sinh yếu kém môn học này
càng tăng, các em ít có hứng thú học tập, số lượng kiến thức ngày càng nhiều nên
việc bỏ môn học này thường xuyên xảy ra,…Vì vậy việc tìm ra các biện pháp để
khắc phục những hạn chế trên là vấn đề cấp thiết.
Trong trường phổ thông, môn Toán chiếm một vị trí rất quan trọng. Là một
môn học xuyên suốt trong quá trình học tập với khối lượng kiến thức rất nhiều, lại
yêu cầu học sinh phải có tư duy logic và khả năng sáng tạo. Do đó nền tảng kiến
thức là vô cùng quan trọng. Để phát huy tốt khả năng tiếp thu của học sinh đòi hỏi
người giáo viên trong quá trình giảng dạy cần lựa chọn những biện pháp dạy học
phù hợp. Bên cạnh đó, học sinh cần chủ động tiếp thu một cách khoa học. Vì
những lý do trên đây mà nhóm chúng tôi chọn “ Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học môn Toán trung học phổ thông” làm đề tài nghiên cứu của mình để
một phần nào đó góp phần vào việc nâng cao quá trình dạy học toán ở trường phổ
thông hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán học
ở Trung học phổ thông. Vận dụng một số biện pháp trên vào quá trình dạy học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu



- Khách thể nghiên cứu: Đưa ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng
dạy học môn Toán Trung học phổ thông. Bài nghiên cứu làm bật lên phương pháp
giảng dạy của giáo viên, sự tiếp thu của học sinh bên cạnh đó là sự hổ trợ từ nhà
trường, tổ chuyên môn, gia đình.
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố của quá trình dạy và học góp phần thúc
đẩy việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán Trung học phổ thông.
4. Giả thuyết khoa học
Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán Trung học
phổ thông nhằm nâng cao chất lượng môn Toán Trung học phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm ra thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh Trung học phổ
thông học yếu kém.
Nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán
Trung học phổ thông.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên
cứu lí luận, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia và sử dụng internet.
- Về nghiên cứu lí luận: Tổng hợp các kiến thức liên quan từ nhiều nguồn
khác nhau. Phân tích và lựa chọn những nội dung phù hợp với bài nghiên cứu của
mình.
- Về phương pháp ý kiến chuyên gia: Thông qua trao đổi với các giáo viên
dạy Toán Trung học phổ thông, rút ra thực trạng dạy Toán và các biện pháp khắc
phục của nhà trường và giáo viên.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn


Chương 2: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán Trung

học phổ thông


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm
- Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định
hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với
mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn
hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài
toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học.
- Quá trình dạy học là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập
vào nhau của thầy và trò dưới sự hướng dẫn của thầy, nhằm đạt được mục đích dạy
học và qua đó phát triển nhân cách của trò.
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề dạy học
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc mở mang dân trí, chăm
lo cho sự nghiệp giáo dục. Người đánh giá rất cao vai trò của giáo dục đối với sự
hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ cực kỳ trọng đại là nâng cao dân đức, mở
mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát triển,
đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với các cường quốc
năm châu.
Cho đến bức thư cuối cùng Bác gửi cho ngành giáo dục, ngày 15-10-1968,
Bác lại nhấn mạnh yêu cầu của nền Giáo dục và đào tạo nước ta là phải gắng sức
phấn đấu theo kịp với trình độ và chất lượng của các nước văn minh, tiên tiến:
"Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao
chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách
mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa
học và kỹ thuật".
Chất lượng dạy và học là mối quan tâm hàng đầu ở mọi quốc gia. Việc tìm ra
các biện pháp mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học để đáp ứng kịp thời sự phát

triển là nhu cầu cấp bách.
Với mong muốn là làm sao để người dạy truyền đạt được kến thức một cách
dễ dàng, người học nắm bắt và vận dụng được kiến thức đó trong thời gian ngắn


nhất vào thực tế sản xuất, nghiên cứu một cách có hiệu quả, và do vậy càng lúc
càng đặt ra những yêu cầu gay gắt trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và
cách đánh giá người học như thế nào là khách quan, công bằng, là động lực thúc
đẩy để người học thấy đó là động lực, mục tiêu phấn đấu như bữa cơm hàng ngày.
Ai cũng biết rằng kiến thức chính là chìa khóa vạn năng để mở mọi cánh cửa ở
tương lai và kiến thức chính là sự kế thừa thế hệ trước và sự phát triển của thế hệ
nối tiếp sau. Nhưng làm thế nào để kế thừa và phát triển được ? Đây là câu hỏi mà
mọi người đều đặt ra và có nhiều câu trả lời cho vấn đề đó. Ở đây chúng ta không
bàn về những câu trả lời mà chỉ trao đổi một vài vấn đề về phương pháp giảng dạy
vì đây chính là yếu tố quyết định để người dạy và người học hoàn thành nhiệm vụ
trọng tâm của mình.
Phương pháp giảng dạy không thể tách rời mục tiêu của chương trình đào
tạo nếu giới hạn trong phạm vi xem xét vai trò vị trí của phương pháp giảng dạy
trong việc nâng cao chất lượng dạy và học ta thấy có mối quan hệ tương hỗ giữa
mục tiêu môn học, phương pháp giảng dạy và kiểm tra, cùng tác động đến phương
pháp học tập của học sinh, tất nhiên sẽ dẫn đến tác động quyết định đến thành quả
học tập của sinh viên bao gồm tình cảm thái độ, kiến thức kỹ năng và phương pháp
tư duy. Chúng ta cần bỏ hẳn quan điểm khi dạy thì dạy rất kỷ nhưng khi kiểm tra
đánh giá thì làm qua loa đại khái hoặc chỉ hỏi những vấn đề đơn giản để cho người
học dễ đạt môn học đó. Vấn đề này vô tình đã đánh mất sự tư duy và sáng tạo của
người học, chưa tạo được sự hưng phấn trong việc học. Các bài kiểm tra mang tính
chất ôn lại những điều đã học hoặc chỉ giải quyết những vấn đề đơn giản, do đó
người học không áp dụng được kiến thức để giải quyết những vấn đề thực tế,
không có khả năng phân tích kỹ các tình huống có thể xảy ra. Hay theo quan điểm
giao hẳn cho người học tự đọc tài liệu, giáo viên chỉ đến lớp nói nội dung yêu cầu

rồi giải tán cho sinh viên về tiếp tục tự học, sau đó giải đáp thắc mắc nếu có rồi
theo lịch kiểm tra đánh giá để cho điểm và thế là kết thúc môn học. Việc gì sẽ xãy
ra tiếp theo chắc chúng ta không dám nghĩ đến.
Như vậy việc đổi mới phương pháp giảng dạy phải là một thể thống nhất
giữa mục tiêu môn học, cách thức giảng dạy và hình thức kiểm tra đánh giá chất
lượng. Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc giảng dạy trở nên
sinh động hơn, phong phú hơn với nhiều hình thức tổ chức. Chúng ta đã và hầu
như chấm dứt được hình thức dạy chay, dạy chỉ chuyên về lý thuyết... nhưng thực
tế thì tình hình chất lượng giáo dục cũng không tiến triển được bao nhiêu. Chúng ta


không phủ nhận rằng có những người thầy rất giỏi, những người học trò xuất sắc
đã hiện hữu trong giai đoạn hiện nay, nhưng số lượng còn rất ít. Tại vì sao vậy? Do
trình độ thầy giáo trong kỹ năng truyền đạt, do người học quá thờ ơ hay do thời
lượng, mục tiêu đào tạo không phù hợp..., hay do quá chú tâm vào thương mại hóa
giáo dục? Các trường đại học được mọc lên rất nhiều (nếu như vậy thì chất lượng
giáo dục chắc chắc là đáp ứng được các tiêu chí mà Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu
ra?) và các hình thức giảng dạy cũng tương ứng phát triển từ đào tạo tại chỗ, đào
tạo từ xa, đào tạo liên thông... và bây giờ lại có giảng dạy trực tuyến. Không biết
những cách thức như trên là nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục hay thực
hiện văn hóa đại trà để hợp lý hóa văn bằng một cách hợp lý mà chất lượng chẳng
được là bao.
Ở Trung học phổ thông, môn Toán được xem là môn chủ đạo vì học sinh có
theo ban học nào thì cũng trải qua kì thi tốt nghiệp nhưng trên thực tế môn Toán ở
các trường trung học phổ thông qua các kỳ thi có kết quả thấp cho thấy còn tồn tại
những khó khăn trong việc dạy và học môn Toán. Do đó chúng ta cần tìm ra
nguyên nhân và giải pháp nâng cao chất lượng môn Toán nhằm giúp học sinh tiếp
thu tốt và đạt được kết quả cao trong các kỳ thi.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng

Đa số học sinh đã có ý thức về tầm quan trọng của môn Toán, tuy nhiên chất
lượng học tập môn Toán chưa thật sự cao, nhất là chưa đồng đều. Chất lượng chỉ
tương đối ổn định ở lớp chọn và các lớp thuộc ban nâng cao. Còn đa số các lớp
thuộc chương trình chuẩn, chất lượng thường thấp.
Tuy nhiên đạo đức của một số học sinh ngày càng đi xuống, đặc biệt là trong
thời gian gần đây. Vì vậy rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức nói
chung và kiến thức Toán học nói riêng là hai vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau trong quá trình giáo dục đào tạo.
Vẫn còn một số giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục,
trong giờ giảng vẫn chưa lấy học sinh làm trung tâm. Đa số giáo viên dạy học
mang tính chất thông báo kiến thức, truyền tải một chiều, giáo viên nói tóm tắt,
khái quát ý chính hay nói y như sách giáo khoa.


Hiện nay việc sinh hoạt của tổ chuyên môn ở các trường Trung học phổ
thông nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đại đa số tổ trưởng cũng như
Cán bộ giáo viên đã nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của tổ chuyên môn
trong quá trình dạy học. Tuy nhiên hoạt động chuyên môn của các tổ vẫn còn
những hạn chế nhất định và những tồn tại khá phổ biến theo những xu hướng sau:
Một là: Số lần sinh hoạt theo quy định 2 lần/tháng không được thực hiện duy
trì thường xuyên và đầy đủ. Do trường học 2 ca và thời lượng chương trình “căng”
hầu như ngày nào cũng 5 tiết nên không bố trí được thời gian họp hoặc nếu có họp
thì họp qua loa, chiếu lệ với thời gian chỉ khoảng từ 30 đến 45 phút.
Hai là: Nội dung các cuộc họp còn mang tính sự vụ, hành chính chưa mang
màu sắc chuyên môn, chưa có những chuyên đề thảo luận sôi nổi, thẳng thắn mang
tính khoa học. Những vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn được bàn đến còn mờ
nhạt. Cán bộ giáo viên đi họp chủ yếu là cho có chứ không chuẩn bị nội dung để
trao đổi hay thảo luận những bài hay, khó hoặc thống nhất nội dung chương trình
hoặc nội dung ra các đề kiểm tra hoặc trao đổi rút kinh nghiệm giờ dạy. Biên bản
còn sơ sài, ghi chép các cuộc họp không đầy đủ, nội dung sinh hoạt còn nghèo nàn,

chưa phong phú, chủ yếu là triển khai công việc của nhà trường...”.
Ba là: Một số Cán bộ giáo viên chưa phát huy hết tinh thần tập thể, không
mang trách nhiệm xây dựng cái chung. Biết nhưng không chịu có ý kiến. Mạnh ai
người nấy làm dẫn tới mỗi người một ý, không thống nhất, không tìm được tiếng
nói chung trong phương pháp giảng dạy, trong cách thức ra đề kiểm tra, trong cách
đánh giá xếp loại giờ dạy của Cán bộ giáo viên trong tổ.
Bốn là: Vai trò, trách nhiệm chưa cao của chính tổ trưởng chuyên môn. Tổ
trưởng còn cả nể, chỉ đạo chưa kiên quyết. Các cuộc họp chuẩn bị nội dung chưa
chu đáo. Chưa khơi dậy được niềm say mê chuyên môn, không khí hứng khởi, sôi
nổi trong các buổi sinh hoạt. Thông thường nội dung họp chỉ là: triển khai các kế
hoạch tháng, năm tuần của nhà trường, lịch kiểm tra, ký duyệt hồ sơ giaó án, phân
công ra đề thi chọn đội tuyển học sinh giỏi, đề kiểm tra chất lượng học kỳ, thao
giảng dự giờ và một số việc khác.
Năm là: Một số tổ có nhiều môn như tổ Hóa-Sinh-KTNN-Thể dục-Quốc phòng, tổ
Văn-Sử-Giáo dục công dân; các tổ còn lại là 2 môn. Thực tế cho thấy hầu như các
tổ trưởng để cả tổ triển khai sinh hoạt chuyên môn chung mà không chia về các


nhóm để sinh hoạt riêng. Do vậy mọi công việc chỉ chủ yếu là triển khai giúp nhà
trường mang tính hành chính sự vụ nhiều hơn là sắc thái chuyên môn.
Sáu là: Công tác quản lý chỉ đạo của Ban giám hiệu còn chưa kịp thời, quyết liệt.
Việc kiểm tra kế hoạch tổ, biên bản sinh hoạt và các nội dung sinh hoạt chưa
thường xuyên, liên tục.
Bảy là: Các công trình nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều hoặc nếu có thì chỉ để
tham khảo bởi dù nằm trong hệ thống trường Trường trung học phổ thông nhưng
mỗi trường có đặc thù riêng do nhiều yếu tố đem lại như: cơ sở vật chất, chất lượng
đầu vào, đội ngũ Cán bộ giáo viên, sự quan tâm sâu sát của Ban giám hiệu về chất
lượng chuyên môn...
Như vậy việc nghiên cứu đúc kết những kinh nghiệm để áp dụng chỉ đạo
sinh hoạt tổ chuyên môn có hiệu quả là thực sự cần thiết và kịp thời đối với các

trường Trung học phổ thông.
1.2.2. Nguyên nhân
1.2.2.1. Đối với giáo viên
- Chưa thực sự quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong cả lớp mà
chỉ chú trọng một số em học khá, giỏi, giáo viên chưa thật tâm lý, chưa động viên
khéo léo kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù nhỏ.
- Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng giải
Toán.
- Chưa tạo được không khí học tập thân thiện. Giáo viên chưa phối kết hợp
tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh.
- Phương pháp dạy học chậm đổi mới: Nhiều giáo viên chưa chú ý đến
phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc
hậu.
- Việc kiểm tra, đánh giá chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích lệ học
sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây lười.
- Chưa tổ chức được các buổi ngoại khóa, những hoạt động ngoài giờ lên lớp
cho học sinh tham gia.


- Trong quá trình giảng dạy chúng ta chú ý nhiều đến việc truyền thụ khối
lượng kiến thức nhưng còn ít chú trọng đến cách dẫn dắt học sinh tìm hiểu khám
phá và lĩnh hội kiến thức.
- Trong quá trình giảng dạy, nhiều giáo viên chuẩn bị bài rất công phu, bên
cạnh đó vẫn còn một số giáo viên chuẩn bị nội dung và bài giảng chưa đúng với
trọng tâm, chưa thật chu đáo. Trong quá trình giảng dạy chưa khơi dậy được niềm
say mê và hứng thú học tập. Chưa góp phần tích cực vào việc xác lập động cơ học
tập đúng đắn cho học sinh.
- Giáo viên mặc dù đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học nhưng việc
thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả
như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ

kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc
lại đúng những điều mà giáo viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến
thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của
mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến
thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho học sinh hướng tích cực chủ động để
thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến hành như một giờ
diễn thuyết (ham nói). Điều này cũng do một phần vì giáo viên sợ “cháy” giáo án.
- Bên cạnh đó cũng có giáo viên đã xuất hiện tâm lí chán nản, buông xuôi,
không có động lực để trau dồi chuyên môn, tạo sức ỳ lớn trong tư duy đổi mới, cải
tiến phương pháp giảng dạy.
- Ý thức trách nhiệm của mỗi các nhân và kiến thức, năng lực sư phạm của
một số giảng viên còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa quan tâm nghiên cứu,
tìm tòi để có phương pháp giảng dạy tốt; chưa có sự kết nối giữa các phương pháp
giảng dạy và kiểm tra để phát huy ưu điểm của từng phương pháp trong quá trình
giảng dạy.
- Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức, năng lực thực tiễn
của một vài giảng viên còn yếu, chưa nắm vững kiến thức chuyên môn nên không
tự chủ trong giảng dạy, giảng dạy không thuyết phục, không có khả năng và không
dám gợi mở, đi sâu vào vấn đề nóng bỏng mà xã hội và sinh viên quan tâm. Giáo
viên chưa thường xuyên kiểm tra sinh viên nhất là các môn thực hành thực tập,


nhiều khi khoán trắng cho sinh viên tự lo liệu, dẫn đến giờ giảng thì có thật nhưng
chất lượng thì như bèo trôi trên nước.
- Vấn đề gắn liền lý luận với thực tiễn, nâng cao khả năng thực hành của
sinh viên chưa cao, giảng dạy còn nặng về lý thuyết… Chúng ta chủ yếu là giảng
dạy cho sinh viên biết: Nó là cái gì? Nó như thế nào? Phải làm cái gì?… chứ chưa
quan tâm tạo cho sinh viên khả năng tư duy phải làm thế nào trước những tình
huống có vấn đề và khả năng tự mình suy nghĩ tìm kiếm phương pháp tối ưu trong
những tình huống cụ thể. Chưa cho sinh viên tiếp xúc với thực tế qua vấn đề đã

học để sinh viên có sự so sánh giữa lý thuyết và thực tiển.
- Chưa thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo về chuyên môn, kiểm tra
đánh giá chất lượng giờ giảng. Hay nói một cách khác là những vấn đề này chưa
thực hiện được một cách triệt để.
- Các hình thức đánh giá, khen thưởng chưa mang lại hiệu quả thiết thực
(vấn đề này là sự kiểm tra, đánh giá của các cấp thẩm quyền chưa chặt chẽ, chưa đi
sâu vào thực chất vấn đề mà chỉ ngồi đọc qua văn bản…)
- Lương cho giáo viên quá thấp, chưa đáp ứng được với mức sống hiện tại.
Với đồng lương như thế thì cho đến khi nào người thầy mới có được một căn hộ để
ở, do vậy việc đầu tư vào giảng dạy, nâng cao kiến thức sẽ giảm dần hiệu quả và cứ
thế những kiến thức của thầy giáo truyền từ năm này qua năm khác vẫn thế, không
có gì thay đổi hoặc thay đổi rất ít.
- Tài liệu, giáo trình bài giảng còn hạn chế. Nhiều môn học còn thiếu hoặc
thậm chí không có tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, học tập của sinh viên. Bởi vậy
dẫn đến hậu quả sinh viên không cần nghiên cứu sâu, không cần đọc tài liệu, chỉ
cần học những gì thầy giảng đã ghi chép được nên rất thụ động và có quá nhiều thì
giờ nhàn rỗi làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập và khả năng tư duy.
1.2.2.2. Đối với học sinh
Trong những năm gần đây, tình hình học sinh học yếu môn Toán chiếm tỉ lệ
khá cao. Các em cảm thấy chán nản khi học môn học này bởi nhiều lý do khác
nhau:


- Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác, môn
Toán học có nhiều khái niệm trừu tượng, khó, học sinh rỗng kiến thức cơ bản, do
đó học sinh tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn và thiếu hụt.
- Chất lượng đầu vào thấp, học sinh học yếu môn toán, khó có khả năng tiếp
thu kiến thức môn Toán học do đó sợ môn Toán và không ham thích học Toán.
- Một số em lười học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ học tập dẫn tới
không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc học và vận dụng vào việc giải

quyết các dạng bài tập Toán học.
- Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, không có sự phấn đấu
vươn lên, có thói quen chờ đợi lười suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn bè hoặc
xem lời giải sẵn trong sách giải một cách thụ động.
-Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen
chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã
giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học,
lười suy nghĩ. Chỉ biết suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời
có sẵn, học sinh không làm chủ tri thức mà lại phụ thuộc vào sách vở. Học sinh
chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình trước
tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá khó khăn. Thói quen
học tập thụ động, đối phó của học sinh là một rào cản lớn đối với quá trình đổi mới
phương pháp dạy học.
- Học sinh đa số rất lười, bài không soạn. Cũng có em soạn bài với tính cách
đối phó bằng cách chép từ các sách “học tốt” nhưng khi hỏi thì không hiểu gì.Vở
ghi chép lung tung, không chú ý nghe giảng, thích cười đùa nói chuyện, làm việc
riêng, ý thức học tập rất yếu.
- Học sinh chưa nắm vững các kiến thức cơ bản trong môn Toán. Các em
còn sợ học môn Toán vì phải tính toán rất nhiều số, các em chưa thích học Toán vì
nó phức tạp và suy luận hơi cao. Do tâm lý sợ, thiếu tự tin, lười học, cẩu thả, chán
ngán e sợ khi học Toán. Các em còn chưa biết cách học, tự tập luyện, đa số là các
em học thêm chứ chưa tự nghiên cứu bài tập ở nhà.
- Đa số các học sinh yếu kém e sợ, ngại bạn bè chê cười khi các em hỏi
những thứ mà các em không hiểu nên thường im lặng. Như vậy vấn đề không hiểu


dẫn đến ngày càng các em bị mất căn bản và rất nguy hiểm cho các lớp học tiếp
theo.
- Học sinh chưa thật sự được quan tâm đúng đắn từ phía gia đình. Đa số ba
mẹ thường để học sinh tự quyết định mọi chuyện, vì vậy khi gặp khó khăn, không

được quan tâm các em sẽ bị khủng hoảng. Trong giai đoạn này, tâm lý cũng ảnh
hưởng quan trọng đến việc học nên gia đình cần phải thật sự quan tâm tạo động lực
cho học sinh.
- Ở học sinh trung học phổ thông có sự định hướng nghề nghiệp nên dẫn đến
việc học lệch.
1.2.2.3. Từ phụ huynh học sinh và xã hội
- Học sinh đa số là con em nhân dân lao động, nghèo ít có điều kiện đầu tư
việc học cho con cái.
- Một số phụ huynh không quan tâm đến việc học của con em, khoán trắng
việc học tập của con em họ cho nhà trường.
- Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet với các
dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn đã lôi cuốn các em.


CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
MÔN TOÁN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Đối với học sinh
- Học tập chăm chỉ, có động cơ, mục đích học tập và ý thức phấn đấu trong
lớp, tích cực lắng nghe thầy cô giảng bài và đóng góp xây dựng bài.
- Sau mỗi tiết học, thầy sửa bài tập, học sinh phải giải hoàn chỉnh các bài
tập, xem đó như kết quả tiếp thu của mình. Từng bước nâng cao trình độ năng lực
của bản thân. Nghiêm túc trong kiểm tra đánh giá, rèn luyện kỹ từng nội dung
trong chuẩn kiến thức.
- Biết cách học từng phần, từng nội dung, từng bài. Biết cách ghi nhớ, ghi
nhớ có chon lọc, nhớ để hiểu và hiểu giúp ghi nhớ dễ hơn, sâu hơn lâu hơn.
- Hiểu mấu chốt, vì vậy học sinh phải biết cách xây dựng câu hỏi để tự trả
lời và nhờ người khác trả lời, luôn đặt ra câu hỏi “tại sao ?” để tự trả lời, trước một
vấn đề mới, vấn đề nghiên cứu, trước một lời giải hay cách giải quyết của bản thân
và người khác.
- Nâng cao năng lực khái quát hóa, tổng hợp trong học và tự học, biết sử

dụng phương pháp xây dựng “ Cây kiến thức ” để củng cố, hoàn thiện kiến thức kĩ
năng.
- Học sinh làm việc nhiều hơn, tăng cường bài tập vận dụng kiến thức, bài
tập rèn luyện kiến thức, bài tập rèn luyện kĩ năng thích hợp cho các đối tượng.
“Hiểu” để “Hành” và “Hành” để sáng tỏ kiến thức đã “Hiểu”. Học trước hết để
hiểu, hiểu trên cơ sở đó mà hành. Hiểu là điểm tựa, hành để phát triển.
2.2. Đối với giáo viên
- Cần phải tạo cho học sinh cảm thấy thích môn học mà mình đang giảng
dạy.
- Cần phải tạo cho học sinh thực hiện được năng lực tư duy, sáng tạo (đặt
vấn đề để sinh viên tự giải quyết thông qua nội dung môn học…).


- Kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, điều cần nhất là người thầy phải luôn
theo sát và quan tâm đến những vấn đề đã giao cho học sinh hoặc nhóm học sinh ,
giúp cho học sinh giải quyết được vấn đề và làm quen với thực trạng xã hội về văn
hóa ứng xử, làm việc, sự cạnh tranh và giải quyết được tình huống bất ngờ…
- Chỉ rõ địa chỉ áp dụng môn học (áp dụng của từng nội dung, từng công
thức… vào vấn đề thực tế trong xã hội. Đây chính là những ví dụ hùng hồn nhất để
làm cho học sinh thích thú, phấn khởi trong học tập).
- Tập cho học sinh tạo dựng được sơ đồ trí tuệ (mind map) của môn học để
khái quát được nội dung và mục đích (vấn đề này rất quan trọng, nó giúp cho sinh
viên hệ thống hóa được nội dung môn học và sự liên hệ giữa các nội dung và ứng
dụng trong thực tế)
- Cần phải thưởng điểm cho sinh viên khi kết thúc môn học để khuyến khích
những sinh viên thật sự quan tâm, có nhiều sáng tạo, có ý tưởng mới trong việc học
tập và thực hiện nhiệm vụ được phân công.
- Cần hạn chế những sinh viên học vẹt, chỉ trả lời theo sách, bài giảng một
cách khô khan.
- Giáo viên mới bắt đầu dạy không nên cho dạy nhiều lớp, nhiều môn (vấn

đề này liên quan đế chuẩn giờ giảng của mỗi giáo viên, do vậy cần phải được xem
xét lại giờ chuẩn nếu muốn đảm bảo chất lượng giáo dục). Có như vậy bài giảng
mới thực sự phong phú, giáo viên mới tự tin đứng trước lớp và có thể gợi ý cho
sinh viên những vấn đề cần thiết trong cuộc sống, mới chủ trì được các buổi thảo
luận của lớp về những nội dung liên quan nào đó trong môn học. Con người không
phải là một cái máy tính mà có thể cài vào đấy nhiều phần mềm để sử dụng. Mỗi
giáo viên cần thiết phải chuyên sâu vào một lĩnh vực mới có thể nghiên cứu tích
lũy và phát triển được. Các cấp có thẩm quyền cần phải nghiên cứu lại (đổi mới
phương pháp giảng dạy phải chăng một giáo viên có thể đi vào nhiều lĩnh vực .
Như vậy ông bà ta nói “ trăm hay không bằng tay quen” hóa ra là điều vô nghĩa).
- Hình thức thi hết môn cũng không nhất thiết phải thi, có thể cho làm
chuyên đề sau đó báo cáo, thực hiện các nhiệm vụ, các bài tập được giao trong suốt
học kỳ của môn học và lấy trung bình của các bài đó. Kiến thức không nhất thiết
phải thuộc làu như dưới phổ thông mà chủ yếu là giải quyết được vấn đề, phân tích


được các yêu cầu kỹ thuật…, tạo được kỹ năng cho mình, còn những vấn đề khác
đã có sổ tay của từng môn học.
- Động cơ trong (động cơ hoàn thiện tri thức) và động cơ bên ngoài (động cơ
quan hệ xã hội), cho học sinh thấy được vai trò, tầm quan trọng của bộ môn, tạo
cho học sinh có nhu cầu nâng cao tri thức môn học. Nắm vững tâm lí lứa tuổi của
các em học sinh tạo động cơ quyết tâm phấn đấu vươn lên để tự khẳng định mình.
“ Động cơ học tập không có sẵn, không thể áp đặt, phải hình thành dần dần trong
quá trình học sinh chiếm lĩnh đối tượng học tập dưới sự tổ chức và điều khiển của
thầy ”.
- Để thực hiện được vấn đề này, điều quan trọng là giáo viên phải luôn gần
gũi, là điểm tựa đáng tin cậy của các em học sinh. Để học sinh có thể thấy rằng
muốn đạt được mục tiêu trong học tập, ngoài môi trường, các tác nhân thuận lợi
còn phải có sự cố gắng quyết tâm của thầy và trò trong quá trình học tập. Sẽ có kết
quả tốt hơn nếu giáo viên tổ chức được các buổi ngoại khóa tìm hiểu về vai trò của

Toán học trong đời sống, sản xuất, các buổi nói chuyện về các nhà Toán học,
những nghành nghề liên quan đến Toán học, tổ chức những buổi sinh hoạt giới
thiệu những tấm gương học tốt, gương chăm học, ... từ xưa đến nay, trong nước và
nước ngoài nhằm kích thích lòng tự trọng của học sinh.
- Cần giúp học sinh xác định đúng động cơ thái độ học tập: Học là để có
kiến thức, để làm người, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức đó
thành kiến thức của mình, học để lập thân, lập nghiệp nhằm phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Có như vậy học sinh mới tự giác học tập, chăm chỉ học tập, cố gắng
vươn lên.
- Thường xuyên gần gũi chăm lo, động viên học sinh, chỉ dẫn, kèm cặp học
sinh trong quá trình thực hiện. Tránh sự nóng vội, buông trôi, phó mặc.
- Bù lấp kiến thức cơ bản cho học sinh yếu kém để các em kịp thời hòa nhập
với lớp, bên cạnh việp giúp đỡ các em trong giờ học chính khóa cần phân loại để tổ
chức giúp đỡ riêng ngoài giờ theo nhóm học sinh. Những lớp có những học sinh
tích cực, có phương pháp học và tự học tốt có thể xây dựng nhóm bạn giúp đỡ. Để
tổ chưc có hiệu quả, giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cách thức hoạt động của
nhóm, của mỗi thành viên trong nhóm, phải thường xuyên theo dõi uốn nén, điều
chỉnh kịp thời.


- Mỗi giáo viên khi lên lớp cần chú trọng nhiều đến việc chuẩn bị nội dung.
Đối với các tiết bài tập giải kỹ từng bài tập ở nhà, xem kỹ các trường hợp có thể
xảy ra. Để từ đó tìm ra hướng giải đơn giản dễ hiểu nhất, giúp học sinh từng bước
nắm được kiến thức và có hứng thú học tập.
- Trong cách dạy, chúng ta dạy từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp dựa
trên chuẩn kiến thức không cần phải bổ sung, nâng cao đối với học sinh yếu kém
cần giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản, trọng tâm của từng bài và gây sự
hứng thú khi học Toán.
- Đối với những vấn đề trọng tâm, giáo viên cần thực hiện nhiều lần và đặt
vấn đề tương tự để học sinh giải quyết, tránh trường hợp dạy vòng vo, trình bày lý

thuyết nhiều,... làm cho học sinh khó tiếp thu, kiến thức truyền thụ cần ngắn gọn,
đơn giản nhưng phải đảm bảo đầy đủ, chính xác, cần cô động lại kiến thức trọng
tâm từng bài, để giúp học sinh ôn tập được dễ dàng. Không được chủ quan đối với
những kiến thức đã dạy xem như học sinh đã biết rồi mà phải tranh thủ thời gian để
ôn tập lại kiến thức cũ khi giảng bài mới và luyện tập.
- Tạo điều kiện cho các em phát biểu xây dựng bài, kiểm tra những kiến thức
cũ trọng tâm của học sinh trong quá trình giảng dạy.
- Nắm thật sát năng lực học tập của từng học sinh, của từng lớp để từ đó
phân loại và đổi mới phương pháp dạy học thích hợp, kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm và đề xuất các biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng học tập của lớp
mình phụ trách.
- Khai thác triệt để các sai lầm, thiếu sót của học sinh trong quá trình giảng
bài, nhất là các tiết luyện tập, tiết trả bài kiểm tra, hướng dẫn, phân tích giúp học
sinh phát hiện sai lầm và hướng giải quyết để khắc phục dù những sai lầm hạn chế
nhỏ nhất, tạo mọi điều kiện để giúp học sinh tự đánh giá và đánh giá bạn mình
trong quá trình học tập và rèn luyện, nhất là sau mỗi tiết kiểm tra phải rút kinh
nghiệm tìm ra những sai lầm học sinh mắc phải hay những điểm yếu của học sinh
để giúp các em học tốt hơn. Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh phương pháp
học, cách thức lĩnh hội kiến thức môn Toán.
- Giáo viên phải tích cực trong sinh hoạt nhóm bộ môn, thảo luận những vấn
đề khó để tìm giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán.


Cần tích cực, mạnh dạn đổi mới các phương pháp dạy học. Mỗi lần thay đổi
phương pháp dạy học là một lần giáo viên đã tạo ra “cái mới”, nhờ thế sẽ tránh
được sự đơn điệu, nhàm chán.
- Giờ học sẽ sinh động, hấp dẫn, học sinh hứng thú và có nhiều cơ hội hoạt
động tích cực hơn. Giáo viên phải nhiệt tình, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao,
kiên nhẫn trong giảng dạy, từng bước giúp học sinh khắc phục những sai sót, hạn
chế dù rất nhỏ, tạo mọi điều kiện cho phép, nhất là hình thành từng bước động cơ,

thái độ trong học tập, tạo sự phấn khởi và niềm tin trong học Toán.
2.2.1. Kế hoạch dạy tại lớp
- Vấn đề dạy một tiết toán để đạt kết quả tốt, học sinh nắm vững kiến thức
của một tiết học thì việc đầu tư vào một giáo án là không thể thiếu được trong quá
trình dạy học. Do đặc điểm của môn Toán là một môn học rất gần gũi với thực tế
đời sống nên người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết dạy của mình
để làm nổi rõ sự kết hợp, gắn bó của Toán học với cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ
phải dễ hiểu để học sinh dễ nhìn nhận, chiếm lĩnh tri thức mới.
- Với phương pháp dạy học mới hiện nay, chúng ta cần thiết kế một hệ thống
câu hỏi logic, gợi mở từ câu đầu tiên đến câu cuối cùng để học sinh tự tìm kiếm ra
kiến thức mới. Từ đó kiến thức mới sẽ được học sinh khắc sâu, nhớ lâu và sẽ gây
hứng thú trong học tập .
- Dạy môn toán cần dạy cho học sinh nắm chắc các khái niệm, các qui ước,
các ký hiệu, các tính chất, … Nó là mấu chốt để học sinh khỏi mơ hồ, lẫn lộn giữa
cái này với cái khác, có suy nghĩ lệch lạc, quan niệm tách rời xa với thực tế đời
sống. Chẳng hạn, dạy về bài học tích phân thì ngoài rập khuôn về công thức tính
toán thì trước tiên phải cho học sinh thấy ứng dụng của tích phân và vì sao xây
dựng được công thức tích phân từ thực tiễn. Các vấn đề đó rất gần gũi với đời
sống, nếu chúng ta không để ý tới thì đôi khi học sinh chỉ thực hành một cách máy
móc, rập khuôn các công thức do vậy mau quên, kiến thức Toán học không được
sâu sắc.
- Khi dạy Toán cần có đồ dùng dạy học trực quan, nếu có điều kiện cần phát
huy mặt này. Đầu tư vào việc chuẩn bị đồ dùng trực quan cho một tiết dạy là hết
sức cần thiết để học sinh hiểu được kiến thức một cách sâu sắc, sát với thực tế. Còn


rất nhiều các vấn đề khác nếu được đầu tư chu đáo sẽ tạo nên một tiết học hấp dẫn,
dễ học và gây hứng thú cho học sinh trong học tập.
- Khi dạy một tiết học người giáo viên phải nắm bắt kịp thời số học sinh hiểu
bài và chưa kịp hiểu bài. Từ đó có biện pháp giúp đỡ số học sinh chưa kịp hiểu bài.

Sau mỗi tiết học đều phải có phần củng cố và luyện tập bằng những câu hỏi trọng
tâm, cơ bản tiết học người giáo viên phải quan sát từng đối tượng học sinh chú ý
đến học sinh yếu, cá biệt để nắm bắt tình hình tiếp nhận kiến thức trong nội dung
bài học, bài luyện tập tại lớp cần được nâng dần từ dễ đến khó, từ những bài toán
rất đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra người giáo viên phải tính đến việc kiểm tra
một lúc được nhiều học sinh, nhất là yêu cầu tối thiểu những nội dung cần đạt
được.
2.2.2. Kế hoạch ra bài tập về nhà
- Môn Toán là môn học rất cần đến việc thực hành, luôn luôn phải có sự kết
hợp với nhau giữa lý thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lý
thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở
phạm vi sách giáo khoa sau mỗi bài học đều có một lượng bài tập để học sinh thực
hành, luyện tập nhưng đôi khi còn ít, hệ thống bài tập chưa đủ cho học sinh yếu tập
làm quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó
hơn. Do đó trong từng tiết dạy người giáo viên có thể ra thêm bài tập tùy tình hình
lớp học để học sinh có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập
phong phú hơn.
- Những số tiết cơ bản trong chương trình rất cần thiết .Vì vậy vấn đề luyện
tập thật nhiều để học sinh nhớ lâu, củng cố lý thuyết được bền vững là rất cần thiết.
Nếu khâu thực hành làm ít thì rõ ràng kiến thức chóng quên hơn, lí thuyết không
được khắc sâu đậm.
- Khi dạy học sinh mới giải toán hình, nếu học sinh ít giải bài tập, ngại thực
hành thì chắc chắn các em không nhạy bén, vận dụng lý thuyết ít được linh hoạt
vào giải bài tập. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến đợt kiểm tra, đợt thi, làm giảm
sút chất lượng trầm trọng. Nói chung do đặc điểm của môn Toán là môn học không
thể nói suông, nói và làm phải luôn đi song song với nhau. Vì vậy, cần thực hành
để rèn luyện kỹ năng, khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy.


- Kiểm tra bài cũ, kiểm tra bài tập về nhà là việc rất cần thiết. Nếu chúng ta

kiểm tra thường xuyên thì việc học bài cũ và làm bài tập ở nhà của các học sinh sẽ
chu đáo hơn. Ngược lại, nếu bị xem nhẹ thì việc chuẩn bị bài tập, học bài cũ sẽ hạn
chế và chất lượng học tập giảm rõ rệt.
- Ở lứa tuổi của các em nhất là đầu cấp học đôi khi nhận thức còn kém, học
là để đối phó thầy cô giáo, học là để giáo viên kiểm tra bài mình đã làm, đã thuộc.
Chưa có sự hiểu biết phải tự giác học để hiểu, để bản thân mình được tiến bộ. Do
vậy kiểm tra bài cũ thường xuyên là biện pháp để học sinh tự giác học bài và làm
bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó tạo nên không khí lớp học nghiêm túc, trật tự,
mọi học sinh đều ở tư thế chuẩn bị giáo viên sẽ kiểm tra mình.
- Thời gian kiểm tra bài cũ ở đầu các tiết học rất có giới hạn, không thể kiểm
tra hết được. Vì vậy muốn nắm được việc làm bài tập ở nhà của học sinh một cách
toàn diện người giáo viên phải nghĩ ra kế hoạch phân công các tổ trưởng chịu trách
nhiệm kiểm tra từng thành viên trong tổ ở đầu buổi học. Đầu tiết học các tổ trưởng
báo cáo tình hình chuẩn bị bài tập ở nhà của từng tổ viên. Học sinh nào chưa làm
bài tập ở nhà sẽ có biện pháp xử phạt thích đáng. Trong trường hợp học sinh không
làm bài tập ở nhà mà lên lớp mượn vở bạn chép cũng được báo lại và sẽ xử phạt
nặng hơn.
- Giáo viên cùng với các học sinh bầu cán sự bộ môn Đại số và Hình học là
những em học tốt nhất để chính những em này sẽ là những người giúp các bạn
trong lớp có thể giải bài tập khó, chỉ đạo trong công tác kiểm tra việc làm bài của
các bạn và làm một cầu nối để thông tin lại về chất lượng giờ dạy của giáo viên
(các em có hiểu bài không, phương pháp truyền đạt của thầy,...).
- Với kế hoạch kiểm tra bài tập ở nhà và đánh giá như trên, người giáo viên
đã kiểm tra được toàn diện học sinh. Phải làm thường xuyên, liên tục mới thấy
được kết quả nâng cao chất lượng rõ rệt tạo thành nếp thi đua học tập sôi nổi ở học
sinh. Học sinh hứng thú học tập, giáo viên biết được các học sinh cá biệt của mình.
Khi trở thành thói quen, giáo viên làm việc rất nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao.
Từ các báo cáo tổng quát đến cụ thể tình hình học tập của học sinh, giáo viên kịp
thời nắm bắt được lỗ hổng của học sinh mà kịp thời sửa chữa.



2.2.3. Phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm và gia đình
Giáo viên bộ môn với gia đình, xây dựng mối tương quan "Gia đình - nhà
trường - xã hội" trong quá trình giáo dục học sinh. Việc phối hợp giữa giáo viên bộ
môn với giáo viên chủ nhiệm trong công tác dạy học cũng là điều cấn thiết. Giáo
viên bộ môn phải trao đổi với giáo viên chủ nhiệm những học sinh cá biệt, học sinh
lười để cùng hợp tác kiểm điểm, nhắc nhở, xử phạt, dùng đủ hình thức từ mềm dẻo
đến cứng rắn hơn sao cho các em sửa chữa tiến bộ dần đà theo cả lớp. Cũng thông
qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn mới nắm được tình hình gia đình của
những em cá biệt có hoàn cảnh khó khăn, gia đình buông lỏng hay ảnh hưởng của
bạn bè xunh quanh,… để có biện pháp phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau
mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn.
Giáo viên chủ nhiệm cũng có trách nhiệm trao đổi với giáo viên bộ môn
những học sinh cá biệt ở lớp mình, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn,… để
giáo viên bộ môn nắm bắt được tình hình trước, có cách xử lý khéo là liều thuốc
chữa bệnh có hiệu quả nhất mang lại kết quả nhanh nhất.
Còn vấn đề phối hợp giữa gia đình học sinh và nhà trường cũng không thiếu
được, cụ thể là giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm và gia đình. Giáo viên
có trách nhiệm báo về gia đình kịp thời những sai sót, lười biếng,… của học sinh
cho gia đình biết (Thông qua trao đổi trực tiếp hay phiếu kiến nghị với gia đình
hay lời phê, nhận xét trực tiếp vào vở bài tập của các em). Từ đó gia đình cho biết
ý kiến, giáo viên mới tham khảo theo ý đó mà xử lý phù hợp. Những trường hợp vi
phạm quá mức có thể báo cáo với liên đội, Ban giám hiệu nhà trường, Hội phụ
huynh để phối hợp giáo dục các em.
Tất cả những kế hoạch phối hợp nêu trên giúp chúng ta giáo dục các em một
cách toàn diện. Phải có mối liên kết với nhau giữa tất cả các giáo viên bộ môn,
giáo viên chủ nhiệm, Ban giám hiệu và gia đình, xã hội đó là phương pháp "thế cờ
vây" vào một mục tiêu, giải thích cho các em hiểu rằng việc học tập trước tiên là
học cho chính mình, cho gia đình, cho xã hội. Buộc các em phải cố gắng vươn lên
trong học tập bên cạnh đó có sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo, việc học trở

thành rất cần thiết cho các em mang lại nhiều điều thú vị và bổ ích.
Trong tình hình chất lượng học sinh hiện nay tất cả các môn nói chung và
môn toán nói riêng, học sinh yếu kém càng ngày càng "nở ra", học sinh khá giỏi


càng ngay bị "co lại". Là người giáo viên đứng trước tình hình đó phải trăn trở suy
nghĩ tìm nguyên nhân chính, cơ bản dẫn đến kết quả nêu trên, để có biện pháp
thích đáng, hữu hiệu, tìm ra giải pháp tối ưu nhất để nâng dần chất lượng, đảm bảo
yêu cầu giáo dục theo kịp thời đại.
Giúp các bậc phụ huynh xác định rõ mục đích cho con đi học: Tạo cho con
một nền móng vững chắc để bước vào đời, để lập nghiệp, để con em mình hoà
nhập được với xu thế phát triển của xã hội và hơn thế là để con em mình có đủ khả
năng để tự tách ra khỏi vòng tay của bố mẹ để tạo dựng một sự nghiệp vững chắc
vàcó một gia đình độc lập.
- Không nên tận dụng sức lao động của con em mình quá sớm. Ngoài ra các
bậc phụ huynh còn phải quan tâm quản lý nghiêm giờ giấc học tập của con em
mình, thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn để tìm hiểu
việc học tập của con em mình.
- Thiết lập và duy trì mối liên hệ với Giáo viên chủ nhiệm, Giáo viên bộ
môn qua gặp gỡ trực tiếp, gọi điện thoại, xem sổ liên lạc hay các kỳ họp Phụ
huynh.
- Thường xuyên nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện của con ở trường, lớp
đồng thời cung cấp thông tin (diễn biến tâm tư, tình cảm) của con cho Giáo viên
chủ nhiệm.
- Tham gia đầy đủ các cuộc họp Phụ huynh, các hoạt động khác theo yêu cầu
của trường, lớp.
- Nắm bắt thông tin và luôn giữ liên lạc với ban Phụ huynh, cán sự lớp và
bạn bè thân thiết của con.
Tạo điều kiện tốt nhất cho con được tham gia các hoạt động cộng đồng.
- Các gia đình cùng trong địa bàn dân cư thường xuyên trao đổi, phản ánh

các thông tin về giáo dục con em thông qua các cuộc họp, sinh hoạt câu lạc bộ...
2.3. Đối với tổ chuyên môn và nhà trường
- Xây dựng ý thức trách nhiệm, tinh thần tự học tự rèn.
- Chú trọng công tác dạy tốt, học tốt, nâng cao chất lượng đại trà.


- Sinh hoạt tổ chuyên môn thống nhất chương trình dạy học trong tuần
(1/lần/ tuần).
- Cần đầu tư nhiều vào việc soạn giảng, thiết kế bài giảng một cách khoa học
chính xác, với hệ thống câu hỏi dễ hiểu, dễ trả lời và phù hợp với từng đối tượng
học sinh.
- Soạn kế hoạch bài học phải xác định trọng tâm bài dạy và chuẩn kiến thức
cần truyền đạt.
- Luôn đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với các dạng bài.
- Tìm thêm các ví dụ, câu hỏi, nhiều cách giải hay gợi sự chú ý học tập của
học sinh nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức nhanh hơn.
- Thường xuyên tham khảo thêm chuyên môn ở sách báo, các giáo viên đồng
nghiệp trong và ngoài nhà trường.
- Luôn dự giờ, thao giảng, dự chuyên đề để nâng cao trình độ chuyên của
bản thân.
- Thông tin cho phụ huynh biết về các hoạt động giáo dục của Nhà trường.
- Giám sát giáo viên, học sinh trong việc dạy và học; cử giáo viên hỗ trợ học
sinh có hoàn cảnh khó khăn.
- Đinh hướng nội dung các kỳ họp phụ huynh, cần có nhiều nội dung trao
đổi khác như : phương pháp giáo dục con, cách thức giao tiếp với con...
- Huy đông cộng đồng hỗ trợ để học sinh có “3 đủ - 1 có” ( đủ ăn, đủ mặc,
đủ sách vở và có góc học tập).
- Tô chức các buổi truyền thông đến cha mẹ học sinh về nội dung giáo dục
(có sự hỗ trợ của cộng đồng).
2.4. Đề xuất một số phương pháp dạy học tích cực mới

2.4.1.Đổi mới dạy và học Toán phải bắt nguồn từ đổi mới “Triết lí Giáo dục”
Đổi mới dạy và học Toán phải bắt nguồn từ đổi mới “Triết lý Giáo dục”:
Chương trình học hiện nay mang nặng tính hàn lâm, thiên về kiến thức, cần phải


tạo nhiều tình huống sư phạm, nhiều hoạt động để học sinh tham gia trong quá
trình học.
Nói theo Giáo sư Chu Hảo: “Trong thực tiễn, nền giáo dục của chúng ta
không tạo được niềm hạnh phúc khi tới trường. Ngày nay đi học là một gánh nặng,
nhất là ở cấp học phổ thông. Đối với rất nhiều em tới trường là một nỗi nhọc nhằn,
khổ sở; tuổi thơ của các em đang bị "đánh cắp" bởi một chương trình giảng dạy
nặng nề, nhàm chán và không thiết thực. Điều này trái hẳn với triết lý Hạnh phúc
giáo dục của nền văn minh hiện đại ”. Nhà Giáo dục học Dewey chủ trương:
“Giáo dục không chỉ như là quá trình truyền đạt mà chính là bản thân cuộc sống;
nhà trường không tách rời khỏi xã hội; và học trò là trung tâm của quá trình giáo
dục”.
Ngày nay cách dạy Toán của chúng ta chủ yếu là Thầy truyền đạt, “Thầy là
trung tâm” đã hình thành qua bao thế hệ. Do chương trình học nặng tính hàn lâm,
thiên về kiến thức, nên người thầy chủ yếu là phải làm xong việc của mình - hoàn
tất nội dung của tiết dạy, chưa có thói quen tạo nhiều tình huống sư phạm, nhiều
hoạt động để học sinh tham gia trong quá trình học, theo hướng “lấy học sinh làm
trung tâm”. Ta hãy nghe tâm sự của TS Trần Lương Công Khanh, một nhà giáo
từng nghiên cứu so sánh hai nền Giáo dục Toán của Pháp và Việt Nam qua luận án
Tiến sĩ để thấy điều đó: “Năm đầu tiên khi bắt đầu nghiên cứu, ông Khanh nhớ lại:
“Tôi quan sát về giáo dục trung học phổ thông ở Pháp, ngạc nhiên vì thấy sao học
sinh cấp III của họ chỉ học những điều đơn giản”. Ông tò mò với những bài giảng
cấp III đơn giản, quá trình học tập phổ thông nhẹ nhàng để rồi nhận ra: “Đó là
cách tiếp cận khoa học luận. Người viết sách nghiên cứu, trong quá trình tiến triển,
các nhà khoa học gặp phải chướng ngại gì? Người ta tìm ra những chướng ngại
toán học mà trong quá trình sáng tạo các nhà toán học mắc phải, đó cũng có thể

chính là những chướng ngại mà học sinh mắc phải”.
Từng là sinh viên sư phạm,giảng viên đại học, ông Khanh chứng kiến những sinh
viên sư phạm phải ngồi viết hàng chục bài tập mẫu theo dạng toán, những bộ đề
luyện thi đại học có phân loại từng kiểu, cách làm bài, dạng bài cụ thể, đôi khi chỉ
cần... học thuộc. “Người ta đã chứng minh được là một em học sinh không hiểu gì
về một dạng toán vẫn có thể giải bài rất dễ dàng và đúng khi đã học cách giải của
dạng toán đó” -ông Khanh nhớ lại.”Bản thân ông trước khi nghỉ hưu đã có 30 năm
giảng dạy Toán trung học, trong đó có một số năm vừa dạy Toán vừa dạy Tin học


và 7 năm làm chuyên viên chỉ đạo môn Toán ở Sở Giáo dục và Đào tạo Thừa Thiên
Huế, được tiếp xúc với nhiều chương trình giảng dạy Toán ở bậc trung học:
chương trình mô phỏng chương trình của Pháp hồi còn học ở trung học, chương
trình toán trung học của Pháp đưa tân toán học theo mô hình nhóm Bourbaki ở
Pháp (dạy ở Trường Kiểu Mẫu), chương trình phân ban sau giải phóng tương tự
chương trình trước 1975, chương trình cải cách không còn phân ban, rồi chương
trình thí điểm phân ban hai đợt sau này, rồi chương trình “cải lương” như hiện nay.
Tôi cũng được tham gia nhiều hội thảo, nhiều đợt tập huấn về thay sách giáo khoa,
về đổi mới phương pháp dạy học,... mới thấy rằng thế giới người ta thay đổi nhiều
trong dạy học nói chung và trong dạy Toán nói riêng, nhưng chúng ta vẫn còn loay
hoay trong luồng tư duy cũ, thay đổi một cách chắp vá, chương trình dạy học Toán
ở trường phổ thông vẫn còn nặng về tính hàn lâm, thiếu thực tiễn cuộc sống, bắt tất
cả học sinh đều phải học cùng một chương trình giống nhau là điều không hợp lí.
Lấy ví dụ chương trình dạy toán ở Pháp trước đây nặng về hàn lâm, đưa tân toán
học xuống phổ thông, nhưng sau này họ thức tỉnh và thay đổi để theo kịp các nước
tiên tiến khác như Mỹ, bây giờ sách giáo khoa của Pháp viết nhẹ nhàng, không
nặng về lí thuyết như trước đây và đưa vào nhiều bài toán thực tiễn; một ví dụ khác
theo Giaso sư Trần Văn Hạo trong lớp tập huấn thay sách các lớp Trung học phổ
thông, thì hiện nay trên thế giới nhiều nước đã không còn dạy toán hình học không
gian (như Mỹ) hoặc mềm hóa các khái niệm khó như giới hạn (như Nga)… trong

khi đó có ý kiến đề nghị bỏ hình học không gian, thì các cụ Hội đồng bộ môn Toán
của Bộ Giáo dục - Đào tạo, các cụ chủ biên viết sách giáo khoa còn nuối tiếc,...
2.4.2. Đổi mới - pháp dạy - học theo hướng lấy học sinh lam trung tâm
- Đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm:
giáo viên dạy cho học sinh tư duy chứ không nhồi nhét kiến thức, học sinh phải tự
mình khám phá kiến thức mới thông qua các hoạt động, thông qua hoạt động
nhóm, qua xử dụng công nghệ thông tin. Với đà phát triển khoa học và công nghệ
như vũ bão hiện nay, công nghệ thông tin, phương tiện kỹ thuật hiện đại ngày càng
xâm nhập vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, vào nhà trường, việc đổi mới dạy học
nói chung và dạy – học Toán nói riêng bắt buộc phải thay đổi, dạy cho học sinh tư
duy chứ không chỉ nhồi nhét kiến thức, học sinh phải tự mình khám phá kiến thức
mới thông qua các hoạt động, thông qua hợp tác nhóm, qua xử dụng công nghệ
thông tin. Cần tập huấn cho giáo viên cũng như đào tạo cho sinh viên sư phạm kỹ
năng dạy học mới, thực sự đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện các phương


pháp dạy học mới một cách nhuần nhuyễn, biết cách thiết kế các hoạt động giúp
học sinh học tích cực. Phải thay đổi tư duy truyền đạt kiến thức một chiều, áp đặt,
học các dạng toán luyện thi, sa đà vào các dạng toán mẹo mực, lắt léo. Cần rèn
luyện cho học sinh tư duy sáng tạo, không lặp lại những điều thầy truyền đạt. Khi
dạy các kiến thức mới, khái niệm mới nên có hoạt động dẫn dắt để học sinh trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo viên giao, thảo luận, trao đổi để phát hiện ra kiến
thức mới dưới dạng cụ thể để từ đó khái quát hóa lên. Nên thực hiện thường xuyên
nguyên lý: “Từ thực tiễn sinh động đến tư duy trừu tượng”. Ngày nay, để dạy các
bài toán về quỹ tích, không chỉ yêu cầu học sinh vẽ vài trường hợp để đoán nhận,
mà giáo viên Toán phần lớn sử dụng các phần mềm học toán động để giúp HS
thấy vô số trường hợp của quỹ tích và thấy luôn vết của quỹ tích để HS đoán nhận,
sau đó dùng lí luận để chứng minh. Nhiều kiến thức khác cũng có thể sử dụng công
nghệ thông tin để giúp học sinh nhận biết sơ khởi, ban đầu nhanh chóng. Tuy nhiên
cũng không nên quá lạm dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán, sử dụng

thời điểm nào thì thích hợp, không chỉ là để trình chiếu nội dung kiến thức.
Về phương pháp dạy và học Toán, các nước tiên tiến và ngay các nước ở
quanh ta như Thái Lan, Singapore, Malay-xia,... họ đã thay đổi nhiều, giáo viên
được đào tạo để đổi mới phương pháp dạy toán theo định hướng tích cực hóa trong
học tập của học sinh, vận dụng các phương pháp dạy học toán tiên tiến phù hợp
với xu thế chung trên thế giới, đưa Toán học vận dụng vào thực tế. Chúng ta hãy
xem một số đề thi Olympic Toán Châu Á – Thái Bình Dương (APMOS) dành cho
học sinh lớp 6, 7 cũng như các đề toán PISA thì sẽ thấy chúng ta còn chậm đổi
mới. Tôi có 7 năm làm chuyên viên chỉ đạo Toán ở Sở Giáo dục - Đào tạo, được
nghiên cứu, tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, được dự nhiều giờ dạy
Toán của giáo viên trung học, đã nhận thấy một điều là phần lớn giáo viên chúng ta
có xu hướng dạy theo lối cũ, nặng về thuyết trình, đọc chép, ít chịu khó đổi mới
phương pháp dạy học; kỹ năng sư phạm của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt
động cho học sinh học tích cực, tự học còn yếu, ít nghĩ ra được các tình huống sư
phạm đắt giá để làm cho tiết dạy hấp dẫn, tạo cơ hội cho học sinh học tích cực hơn.
Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển chóng mặt, nhiều phần mềm dạy và
học Toán hỗ trợ cho dạy và học Toán rất hiệu quả như Geometer’s Sketchpad,
Géospace W (HHKG), Cabri, Geogebra, MAPLE, Auto Graph,... và nhiều công cụ
khác như máy tính điện tử cầm tay Casio, Vinacal,... đã làm cho việc dạy và học
toán phải thay đổi. Bản thân tôi cảm nhận được điều này, đã nghiên cứu một số


×