Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Truyện ngắn Đoàn Lê từ góc nhìn thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
======

HOÀNG THỊ LAN HƢƠNG

TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Kiều Anh người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn và
Phòng sau đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến BGĐ, bạn bè, đồng
nghiệp Trung tâm GDNN- GDTX huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc cùng gia
đình và những người thân yêu đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên và
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Hà Nội, ngày ...... tháng ..... năm 2017
Tác giả luận văn



Hoàng Thị Lan Hƣơng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả học tập, nghiên cứu của tôi và
chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày ..... tháng....... năm 2017
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Lan Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 7
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 7
Chương 1 KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA ĐOÀN LÊ ........................................................................... 9
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về thể loại truyện ngắn ......................................... 9
1.2. Khái lược truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới .................................... 13
1.2.1. Những tiền đề lịch sử, thẩm mĩ của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới ................................................................................................................... 13
1.2.2. Những cách tân của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới ................. 17

1.3. Hành trình sáng tác của Đoàn Lê ............................................................. 21
1.3.1. Những chặng đường chính trong cuộc đời cầm bút .............................. 21
1.3.2. Truyện ngắn Đoàn Lê trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam thời
kì đổi mới ........................................................................................................ 24
Chương 2 CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
ĐOÀN LÊ ....................................................................................................... 30
2.1. Cốt truyện ................................................................................................. 30
2.1.1. Giới thuyết về cốt truyện....................................................................... 30
2.1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Đoàn Lê ................................................. 32
2.1.2.1. Cốt truyện truyền thống ..................................................................... 32
2.1.2.2. Cốt truyện kì ảo .................................................................................. 37
2.1.2.3. Cốt truyện tâm lí................................................................................. 41


2.2. Nhân vật ................................................................................................... 45
2.2.1. Khái niệm nhân vật ............................................................................... 45
2.2.2. Nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê .................................................... 46
2.2.2.1. Nhân vật bi kịch ................................................................................. 46
2.2.2.2. Nhân vật tha hóa................................................................................. 54
2.2.2.3. Nhân vật là hiện thân của cái đẹp ...................................................... 63
Chương 3 KẾT CẤU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN
NGẮN ĐOÀN LÊ ........................................................................................... 68
3.1. Kết cấu...................................................................................................... 68
3.1.1. Khái niệm kết cấu.................................................................................. 68
3.1.2. Các hình thức kết cấu trong truyện ngắn Đoàn Lê ............................... 69
3.1.2.1. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện ................................................ 69
3.1.2.2. Kết cấu liên hoàn ................................................................................ 74
3.1.2.3. Kết cấu trùng điệp .............................................................................. 76
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 79
3.2.1. Quan niệm về ngôn ngữ trong văn học ................................................. 79

3.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ trong truyện ngắn Đoàn Lê................................... 80
3.2.2.1. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực- đời thường ........................................ 80
3.2.2.2. Ngôn ngữ mang đậm chất trữ tình ..................................................... 82
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 85
3.3.1. Quan niệm về giọng điệu trong văn học ............................................... 85
3.3.2. Giọng điệu trong truyện ngắn Đoàn Lê ................................................ 86
3.3.2.1. Giọng điệu hài hước, châm biếm ....................................................... 87
3.3.2.2. Giọng điệu thương cảm, xót xa .......................................................... 90
3.3.2.3. Giọng điệu mang tính triết lí, chiêm nghiệm ..................................... 92
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Đoàn Lê là một trong số những nữ văn sĩ tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Bằng tài năng và sự nỗ lực không ngừng nghỉ, bà đã cho
ra đời những đứa con tinh thần rất đa dạng về thể loại như: tiểu thuyết, truyện
ngắn, kịch bản phim, thơ...Trong đó, truyện ngắn là thể loại được coi là thế
mạnh của nhà văn, đã giúp bà khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn
với những giải thưởng có uy tín như: Giải thưởng báo Văn nghệ và Hội Liên
hiệp văn học toàn quốc (truyện Trinh tiết xóm Chùa), Giải A tạp chí Sông
Hương (truyện Đêm ngâu vào), Giải thưởng Tạp chí tác phẩm Văn học
(truyện Hạt vừng)… Đặc biệt tập truyện ngắn Trinh tiết xóm Chùa đã được
dịch ra tiếng Anh và giới thiệu với bạn đọc Mĩ.
2. Với những đóng góp kể trên cho nền văn xuôi Việt Nam đương đại,
trong thời gian gần đây đã có nhiều hướng tiếp cận văn xuôi của Đoàn Lê
nhưng chủ yếu nghiêng về thế giới nghệ thuật, những đặc sắc về nội dung,

yếu tố tự truyện ... trong văn xuôi của bà. Hầu như chưa có hướng nghiên cứu
sáng tác của Đoàn Lê xét về phương diện thể loại. Chính vì vậy, chúng tôi
chọn đề tài “Truyện ngắn Đoàn Lê từ góc nhìn thể loại” với mong muốn
giúp độc giả hôm nay nhận diện một gương mặt văn học và từ đó nhìn nhận
diện mạo của văn chương đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Như trên đã nói, truyện ngắn là thế mạnh của Đoàn Lê. Ở thể loại này,
Đoàn Lê đã có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam đương
đại. Trong quá trình tìm hiểu về Đoàn Lê và tác phẩm của bà, chúng tôi thu
thập được một số bài viết, công trình nghiên cứu để tạo cơ sở cho một cái
nhìn bao quát về truyện ngắn của nhà văn.
Trước hết là những bài viết giới thiệu khái quát về tác giả Đoàn Lê. Tác


2

giả Vũ Quốc Văn đã chỉ ra tài năng nhiều mặt của nhà văn và khẳng định:
“Đoàn Lê được nhiều người biết đến là một người đa tài, nhưng hơn hết sáng
tác văn chương và chỉ xưng danh Nhà văn mới là tiêu biểu nhất, mới là cách
suy tôn, xướng gọi đúng nhất về chị”[61]. Đồng quan điểm trên, nhà văn Hồ
Anh Thái đưa ra nhận định: "Không biết gọi Đoàn Lê là "nhà" gì cho đúng?
Nhà biên kịch, đạo diễn, họa sĩ? Nhà thơ, thiết kế phim trường, nhà văn? Ở vị
trí nào, chị cũng có đóng góp và thử sức. Nhưng với tôi, chị xuất sắc nhất ở
vai trò một nhà văn"[48]. Có thể thấy những đánh giá kể trên đã giúp chúng ta
thấy được chân dung Đoàn Lê, một nghệ sĩ đa tài, có nhiều cống hiến cho
nghệ thuật, nhất là trong lĩnh vực văn chương.
Tuy nhiên đáng chú ý hơn cả trong những bài viết về Đoàn Lê là những
bài viết bàn về truyện ngắn của bà. Là người dành nhiều sự quan tâm đến các
sáng tác của Đoàn Lê, nhà văn Hồ Anh Thái đã có đánh giá xác đáng về chất
giọng độc đáo trong văn xuôi của nữ sĩ: “Một giọng văn được nhớ, nền nã,

dung dị, bao giờ cũng kèm theo chất hài hước ngấm ngầm”[49]. Tác giả Vũ
Quốc Văn trong bài Thấp thoáng Đoàn Lê đã nhấn mạnh sức lôi cuốn, hấp
dẫn của truyện ngắn Đoàn Lê bằng những liên tưởng thú vị, tinh tế: “Nó như
gió, như nước, hư thực hữu hình, vô ảnh cuốn người ta mê hoặc người ta
khôn cưỡng lại để cười, buồn thương xót xa rồi mở mắt mà thức ngộ, mà
nhận chân cuộc sống” [60].
Còn học giả người Mỹ, Bonnier Crown khi đọc tập truyện Nghĩa địa
xóm Chùa đã nêu cảm nhận của mình: “Đoàn Lê đã viết truyện ngắn như
những viên đá quý, những truyện ngắn có thể đọc như những truyện phúng
dụ, châm biếm, huyễn tưởng... Tập truyện ngắn phản ánh sự suy sụp các giá
trị truyền thống trước sự tham lam, hám lợi, quan liêu, đua đòi, sự áp bức
giai cấp và tình dục, sự tham nhũng và vi phạm nhân quyền... tác phẩm này
của Đoàn Lê rất đáng giới thiệu vì văn phong tinh tế, linh hoạt, nó không chỉ


3

là một sự lựa chọn tốt cho văn học châu Á, mà còn cho các lớp học viết
văn”[62]. Sự đánh giá đó cho thấy sức hấp dẫn, lôi cuốn đặc biệt của truyện
ngắn Đoàn Lê không chỉ với độc giả trong nước mà với cả độc giả nước
ngoài.
Tạp chí Nghiệp Đoàn Phát Hành (Consortium Distributors) khi giới
thiệu về tập truyện ngắn Trinh tiết xóm Chùa đã nhận xét rất tinh tế về phong
cách sáng tác của Đoàn Lê và giá trị tập truyện ngắn này: "Đoàn Lê được ghi
nhận ở phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới. Với giới học giả Mỹ,
những truyện ngắn này cho một cái nhìn vào bên trong văn hóa Việt Nam sau
đổi mới. Với người đọc nói chung, đây là những tác phẩm bao quát và đầy
nhân văn về những đề tài như lòng tham, hôn nhân, ly dị, tuổi già; đó là
những tác phẩm về quyền con người, khảo sát tất cả những gì bí ẩn tinh tế
của trái tim người..."[25, 4].

Trong bài viết Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975, khi đề cập
đến cảm hứng trào lộng biểu hiện trong văn xuôi sau 1975, tác giả Nguyễn
Thị Bình viết: “Các tác phẩm Thành hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa... của
Đoàn Lê đầy rẫy những tình huống trào phúng”[ 8]. Còn trong chuyên luận
Văn xuôi Việt Nam 1975- 1995, những đổi mới cơ bản, tác giả này nhận xét:
“Thành hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa ... là sự phóng đại hiện thực theo
con mắt trào lộng, còn Người đẹp xóm Chùa là số phận của nghệ thuật chân
chính trong môi trường phàm tục” [7].
Trên trang web của Tập đoàn Tân Tạo (www.itaexpress.com.vn ngày
18/10/2007) có đăng bài viết Người khách đêm giao thừa, phút trải lòng của
Đoàn Lê bình luận về tập truyện ngắn Người khách đêm giao thừa, trong đó
có đoạn “Tập truyện ngắn “Người khách đêm giao thừa” vẻn vẹn 12 truyện
ngắn - 12 lần tâm linh tác giả run lên dưới cái rét cuộc đời. Những khoảnh
khắc tận cùng của một giây cuối, một lần cuối và một con người đứng bơ vơ


4

rồi đổ bóng xuống lòng nhân thế. Từng trang văn xuôi xông lên mùi cát bụi,
mùi nước mắt, mùi mồ hôi nghe thật gần gũi thân quen”. Ý kiến của tác giả
Cao Năm về tập truyện ...Và sex cho rằng: “Đọc suốt 305 trang sách ... ta
thấy toát lên sự hồn nhiên tươi trẻ mỡ màu. Tôi nghĩ với một người cầm bút
nhất là viết văn xuôi giữ được giọng điệu văn chương như thế cũng đã là điều
đáng quý. Nhưng còn hơn thế khi đọc mỗi truyện ngắn của Đoàn Lê ta đều
thấy toát lên sự cảm thông chia sẻ bao dung với những phận người đôi khi có
cả những người có chút ít thành đạt trong văn chương nghệ thuật mà ngoài
đời hay gọi họ là trí thức nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ lại đang có
những giằng xé mất mát đắng cay cùng cực mà chỉ nhìn bề ngoài thì không dễ
nhận ra bởi ý thức tự thân và sự hòa đồng của họ rất cao.”[37]
Yếu tố kì ảo là một trong những yếu tố làm nên nét đặc sắc trong truyện

ngắn của Đoàn Lê. Điều này được chính tác giả trải lòng khi viết truyện Chờ
nhật thực: “Yếu tố kì ảo được sử dụng, nhằm tôn lên những nét hiện thực và
lịch sử”. Nhà văn Hồ Anh Thái trong bài viết Đoàn Lê “chị tôi” đã chỉ ra vai
trò của yếu tố kì ảo trong hai truyện Nghĩa địa xóm Chùa và Lên ruồi: “Nghĩa
địa xóm Chùa và Lên ruồi nằm trong mạch những truyện có yếu tố kỳ ảo của
Đoàn Lê. Thật ra trong những truyện kỳ ảo nhất của chị thì cái thực vẫn lấn
cái ảo, cái ảo chỉ làm lạ hóa, chỉ thay đổi một góc nhìn hiện thực, chứ không
phải là yếu tố xoay chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật. Nghĩa địa xóm
Chùa bê nguyên vẹn những mẫu người của dương thế xuống cõi âm. Lên
ruồi thì bê đầy đủ nhưng con người ấy “lên” cõi ruồi, trên xã hội ruồi cũng
thường tình như cõi người vậy”[48].
Gần đây, một số công trình luận văn đã tiếp cận, nghiên cứu văn xuôi
Đoàn Lê trên nhiều phương diện. Năm 2011, luận văn Đặc sắc truyện ngắn
Đoàn Lê của Nguyễn Thị Lộc đã khai thác các khía cạnh nổi bật trong truyện
ngắn Đoàn Lê: bức tranh đời sống hiện thực và những đặc sắc nổi bật trong


5

truyện ngắn Đoàn Lê. Năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Khánh Minh đã dựa vào
lí thuyết tự sự học trong luận văn Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đoàn Lê
trên các khía cạnh: không gian- thời gian tự sự, các cấp độ tự sự và người kể
chuyện. Năm 2014, tác giả Bùi Thị Thu với đề tài Yếu tố tự truyện trong văn
xuôi Đoàn Lê đã khai thác các vấn đề: chất liệu đời tư, các đề tài trong văn
xuôi Đoàn Lê và mô hình thế giới nghệ thuật trong văn xuôi Đoàn Lê...
Từ sự phân tích trên có thể thấy, truyện ngắn Đoàn Lê mặc dù đã được
giới phê bình nghiên cứu trao đổi, nhận xét, đánh giá, làm sáng tỏ trên nhiều
phương diện nhưng phương diện thể loại thì vẫn chưa được khảo sát một cách
tỉ mỉ, hệ thống, chưa thực sự trở thành đối tượng nghiên cứu độc lập của một
công trình nào. Tuy nhiên, những ý kiến này vẫn là những gợi ý, những định

hướng quý giá giúp chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách tương đối
toàn diện, có hệ thống vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích làm rõ những đặc sắc
riêng trong truyện ngắn của Đoàn Lê trên phương diện thể loại, từ đó khẳng
định những đóng góp của nhà văn đối với văn xuôi Việt Nam đương đại, nhất
là ở thể loại truyện ngắn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, chúng tôi đề ra những
nhiệm vụ nghiên cứu chính sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết thể loại có liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu những phương diện cơ bản về thể loại trong truyện ngắn
của Đoàn Lê: cốt truyện, nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu.


6

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh nổi bật của thể loại truyện
ngắn: cốt truyện, nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn
Đoàn Lê.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thể loại truyện ngắn Đoàn Lê qua một số
tập truyện ngắn tiêu biểu sau:
- Thành hoàng làng xổ số- Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội 1990.
- Nghĩa địa xóm Chùa- Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999.
- Trinh tiết xóm Chùa- Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2005.
- Người khách đêm giao thừa- Nhà xuất bản Phụ nữ, 2007.

- ... Và sex- Nhà xuất bản Thanh niên, 2010.
- Đoàn Lê- tác phẩm chọn lọc- Nhà xuất bản Phụ nữ, 2011.
Ngoài ra, chúng tôi cũng chú ý một số truyện ngắn gần đây, chưa được
tập hợp in thành truyện của tác giả như:
- Con Mốc (9/2010)
- Tình muộn (05/2011)
- Người xiếc chữ (07/2011)
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự so sánh đối chiếu truyện
ngắn Đoàn Lê với truyện ngắn một số tác giả nữ cùng thời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại.
Phương pháp thống kê, phân loại giúp cho việc nghiên cứu, phân loại
các kiểu cốt truyện, nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật


7

trong truyện ngắn Đoàn Lê.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp phân tích, tổng hợp giúp cho việc nghiên cứu, phân tích,
cắt nghĩa, lí giải các phương diện truyện ngắn của Đoàn Lê. Từ đó khái quát
những vấn đề chung về thể loại trong toàn bộ truyện ngắn của nhà văn.
5.3 Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Đây là phương pháp giúp cho việc chỉ ra những đặc trưng riêng của
truyện ngắn Đoàn Lê trong tương quan với truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới, với những cây bút cùng thời và với văn học giai đoạn trước.
5.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học.
Phương pháp tiếp cận thi pháp học giúp cho việc nghiên cứu truyện

ngắn Đoàn Lê từ phương diện hình thức, nhận diện được những đóng góp
mới, sáng tạo của nhà văn trong cách xây dựng cốt truyện, các kiểu nhân vật,
ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật...
5.5. Phương pháp loại hình.
Phương pháp loại hình giúp chúng tôi nghiên cứu truyện ngắn Đoàn Lê
từ những đặc điểm về thể loại truyện ngắn nói chung.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn tập trung tìm hiểu truyện ngắn Đoàn Lê từ góc nhìn thể loại
nhằm bước đầu chỉ ra những đóng góp của Đoàn Lê đối với nền văn xuôi Việt
Nam đương đại ở phương diện thể loại.
- Thấy được những nét riêng trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện,
nhân vật, tổ chức kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu cơ bản trong truyện ngắn
Đoàn Lê.
- Thực hiện luận văn này, chúng tôi mong được đóng góp một chút
công sức cho công tác nghiên cứu, phê bình văn học trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của luận văn


8

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1. Khái lược chung về truyện ngắn và hành trình sáng tác của
Đoàn Lê
Chương 2. Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê
Chương 3. Kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Đoàn Lê


9


Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA ĐOÀN LÊ
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về thể loại truyện ngắn
Thuật ngữ truyện ngắn ra đời khá muộn, vào thế kỉ XIX ở phương Tây.
Do “Truyện ngắn là một thể loại muôn hình muôn vẻ, biến đổi không ngừng”.
(D. Gronopxki ) nên xung quanh thuật ngữ này có rất nhiều định nghĩa khác
nhau..
K. Pautôpxki quan niệm: “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn,
trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì
bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường” [53, 403]. Theo các
tác giả Từ điển Thuật ngữ văn học, truyện ngắn là: “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ.
Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hết các phương diện của đời
sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện
ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ.”[17] .
Các tác giả Từ điển văn học thì giải thích: “Truyện ngắn là hình thức tự sự
loại nhỏ, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài
biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện
một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội” [39, 137].
Có thể nói, những định nghĩa trên đã bổ sung cho nhau và làm nổi bật
những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn.
Đặc điểm cơ bản nhất của truyện ngắn để phân biệt truyện ngắn với
truyện dài, tiểu thuyết là “ngắn”. Thông thường dung lượng của một truyện
ngắn co giãn khoảng từ 3 đến 50 trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là
“truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng bàn tay”; trên con số 50
trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những cách gọi
này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn), trung


10


thiên tiểu thuyết (truyện vừa), trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ
biến ở Việt Nam vào thời kỳ đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Giải thích đặc
điểm “ngắn” của truyện ngắn, nhà văn Nguyên Ngọc viết: “Sở dĩ truyện ngắn
ngắn, sở dĩ người ta có thể viết ngắn là vì người ta đã biết quá nhiều. Quá
nhiều đến mức có thể tước bỏ tất cả những gì phù phiếm, không cốt lõi, không
quan trọng. Phải có rất nhiều nguyên liệu thì mới có thể chưng cất. Truyện
ngắn vì nó là tác phẩm nghệ thuật chưng cất, chứ không phải là nguyên liệu
thô” [53, 317].
Trong truyện ngắn, số lượng câu chữ giới hạn nhưng lại có “sức chứa”,
“sức mở” rất lớn. Khi bàn về dung lượng truyện ngắn, trong một cuộc trao đổi
về truyện ngắn trên Báo Văn nghệ quân đội năm 1992, nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã nhấn mạnh: “Dung lượng truyện ngắn hiện nay rất lớn, trong độ ba
trang mấy nghìn chữ mà rõ mặt cuộc đời, một kiếp người, một thời đại... Các
truyện ngắn bây giờ dung lượng rất nặng, dung lượng của nó là dung lượng
của cả một cuốn tiểu thuyết, bởi vì cái đặc sắc của thể loại buộc nó phải dồn
nén lại, cho đến sắc lịm, nhọn hoắt. Như vậy dung lượng hay chất lượng nghệ
thuật của truyện ngắn bình đẳng với tiểu thuyết”[53,67]
Đối với truyện ngắn, nhân vật là một yếu tố cốt yếu. Do lệ thuộc vào số
trang eo hẹp, với cốt truyện tập trung, sự kiện dồn dập cho nên số lượng nhân
vật trong truyện ngắn không nhiều. Truyện ngắn thường ít nhân vật, nhà văn
không thể miêu tả quá trình phát triển tính cách của nhân vật từ lúc trưởng
thành, biến đổi, đấu tranh hay dằn vặt như trong tiểu thuyết mà chỉ đi sâu vào
một khía cạnh, một thời điểm trong cuộc đời nhân vật. Là một hình thức tự sự
cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước ngoặt, một
trường hợp, một trạng thái nhân vật”. Dù không được khắc họa sắc nét về
ngoại hình, lí lịch nhưng người đọc vẫn hình dung được gương mặt tinh thần
tương đối trọn vẹn của nhân vật. Ở các truyện ngắn đặc sắc, bao giờ các tác



11

giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình: AQ (AQ chính truyện - Lỗ
Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao)...
Trong truyện ngắn, cốt truyện có vai trò quan trọng. Song, khác với tiểu
thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời gian, không
gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận
nhân vật, và tái hiện một bức tranh xã hội rộng lớn với nhiều mâu thuẫn, xung
đột và diễn biến thì truyện ngắn tập trung vào một khoảnh khắc, trong đó xây
dựng một tình huống truyện. Tình huống là điểm giao cắt của nhiều yếu tố
cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột
nhiên được phơi mở. Các nhà văn, nhà nghiên cứu ở Việt Nam đôi khi đồng
nhất khái niệm tình huống với tình thế. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho
rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm viết… đôi khi
người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một
nửa… tình thế truyện không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch,
nhưng nó là cái cớ hết sức chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó
cốt truyện và nhân vật nương tựa vào nhau để thực hiện đắc lực tất cả ý định
của tác giả, ví như một cây cọc vững chắc để cho cây bí leo lên mà ra hoa
trái…”. Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn
lại là một “mặt cắt của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận
động của cuộc sống” thì truyện ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện
một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết
“mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một điểm”.
Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo
dựng cảnh trí, không khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư
nhân vật. Nhận xét về điều này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện
ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện
ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện



12

ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã” [53, 331. Không chỉ vậy,
nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo
sức ám ảnh (hay là có ấn tượng mạnh)”[53, 73]. Văn học của chúng ta, có
nhiều tác giả, nhiều tác phẩm đã lựa chọn được những chi tiết như thế: chi tiết
bát cháo hành của Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, chi tiết
tiếng sáo của Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài... Những chi tiết
ấy có vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng và ý đồ nghệ thuật
của nhà văn.
Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng
có những nét đặc thù riêng. Nhà văn Ma Văn Kháng đã ý thức rất rõ về vấn đề
này: “Vấn đề là anh tổ chức truyện ngắn của anh sao cho thành một lát cắt
gọn ghẽ. Như người ta vẫn nói, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa
một chi tiết nào”. Còn nhà văn Nguyễn Minh Châu thì đưa ra so sánh: “Nếu
tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt của dòng
đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một công
việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ
thuật tinh xảo - kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của
người làm pháo, dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự
nhiên” [53, 200]. Nhiệm vụ của kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ
đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác
phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Gọn, cơ động, kết cấu trong truyện ngắn
thường đa dạng: kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu bằng cách đi thẳng
vào giữa truyện, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu tâm lí… Nam Cao là
một trong số các nhà văn hiện đại tìm ra được những cách kết cấu tác phẩm
rất đặc trưng, ấn tượng: kết cấu tâm lí. Hiện nay, trong thực tế sáng tác truyện
ngắn, nhiều nhà văn tự tìm ra cho mình những kiểu kết cấu phá cách độc đáo,
không trùng lặp và cũng rất khó gọi tên như Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Tạ



13

Duy Anh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp…
Truyện ngắn là thể loại năng động, dễ bắt kịp hơi thở thời đại, có khả
năng phản ánh nhanh nhạy các vấn đề nóng hổi của thời đại, con người một
cách chính xác. Vì thế truyện ngắn đã tạo cho mình những giá trị riêng biệt.
Mỗi truyện ngắn đều gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người,
nói như D. Boulanger là: “Đánh thức và cuốn hút cả năm giác quan của
người đọc”.
1.2. Khái lƣợc truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới
1.2.1. Những tiền đề lịch sử, thẩm mĩ của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới
Sau đại thắng mùa xuân 1975, lịch sử dân tộc mở ra một thời kì mới thời kì độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, mười năm đầu sau
chiến tranh, đất nước ta lại gặp những thử thách, khó khăn mới, nhất là khó
khăn về kinh tế chủ yếu do hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn khốc kéo dài
suốt ba mươi năm. Tình hình đó đòi hỏi đất nước phải đổi mới.
Năm 1986 là mốc quan trọng đánh dấu sự sáng suốt về sách lược và
chiến lược của Đảng để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, nhanh chóng khôi
phục kinh tế, tạo ra không khí dân chủ tối đa cho toàn xã hội. Đường lối đổi
mới tại Đại hội VI (1986) và tiếp theo là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị,
cuộc gặp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào
cuối năm 1987 đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật
nước nhà, mở ra một thời kì đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần
đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật. Văn học nước ta từng bước chuyển
sang giai đoạn đổi mới, vận động theo đúng hướng dân chủ hóa, mang tính
nhân bản nhân văn sâu sắc. Dân chủ hóa là xu hướng vận động, tiền đề phát
triển, đồng thời là thành tựu của văn học Việt Nam từ 1986 trở đi.
Trên bình diện ý thức nghệ thuật đã có “những biến đổi quan trọng về



14

vị trí, vai trò, chức năng của văn học, về nhà văn và quan niệm hiện thực”
(Nguyễn Văn Long). Nếu văn học giai đoạn trước chủ yếu được nhìn nhận
như vũ khí tư tưởng của cách mạng thì văn học giai đoạn này cũng không hề
từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần - tư tưởng, nhưng nó còn được nhấn mạnh trước
hết ở sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về sự thật, ở vai trò dự
báo, dự cảm. Trong xu hướng dân chủ hóa của xã hội, văn học còn là phương
tiện cần thiết để tự biểu hiện, bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm,
chính kiến của mỗi nghệ sĩ về xã hội và con người. Hiện thực đời sống trong
tính toàn vẹn của nó đã mở ra những không gian vô tận để văn học chiếm
lĩnh, khám phá. Hiện thực không chỉ là hiện thực cách mạng, các biến cố lịch
sử và đời sống cộng đồng mà nó còn là hiện thực của đời sống hàng ngày với
các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan đa sự, phức tạp đan dệt nên những mạch
nổi và mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn là đời sống cá nhân của
con người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát vọng mọi
mặt, cả hạnh phúc và bi kịch.
Xu hướng dân chủ hóa đã thâm nhập và được biểu hiện trên nhiều bình
diện của sáng tác, từ đề tài, cốt truyện, nhân vật cho đến giọng điệu và ngôn
ngữ... Vì vậy điểm nổi bật trong không khí đổi mới văn học là sự sôi nổi, cởi
mở, hấp dẫn và phức tạp. Tinh thần khuyến nghị tự do sáng tạo qua các nghị
quyết của Đảng về văn nghệ đã cho văn nghệ sĩ những điểm tựa tinh thần
vững chắc để tự khẳng định mình, khát vọng sáng tạo được giải phóng, khơi
mở, ý thức về sự thay đổi lối viết luôn hiện hữu trong tư duy của những người
sáng tác truyện ngắn. “Họ tự do hơn, mạnh dạn hơn trong mở rộng sự lựa
chọn đề tài và lĩnh vực phản ánh. Họ bớt sợ chính mình ngay trên trang bản
thảo, họ nhận rõ thái độ và tâm thế trong tác phẩm mới là điều quan trọng
nhất. Thậm chí họ truy đuổi đến cùng những tồn tại gây tổn hại cho đất nước.

Văn học phải thôi thúc cho sự phát triển, vì mục đích của nó là tương lai cho


15

con cháu, sự tồn tại của chế độ và sự toàn vẹn của đất nước” (Phạm Hoa).
Điều này tạo ra những đổi mới trong nghệ thuật, bút pháp trần thuật, trong
việc lựa chọn và cách thức tiếp cận, xử lí chất liệu hiện thực của người cầm
bút. Trong văn học trước đổi mới, nhà văn tự ý thức về mình trước hết như
một cán bộ tuyên huấn, người truyền bá chủ trương chính sách của Đảng qua
sáng tác văn học. Văn xuôi thời kì đổi mới là sự đối thoại với văn xuôi thời kì
trước và đối thoại với bạn đọc về những vấn đề của đời sống, nhìn hiện thực
trong sự vận động không ngừng, không khép kín, nhìn con người ở nhiều tọa
độ, nhiều thang bậc giá trị. Nhà văn có sự nhìn nhận, suy ngẫm mới về mối
quan hệ giữa văn học với hiện thực, với công chúng: “Tôi muốn dùng ngòi bút
tham gia trợ lực vào cuộc đấu tranh giữa cái xấu và cái tốt, bên trong mỗi
con người, một cuộc giao tranh không có gì ồn ào nhưng xảy ra từng ngày,
từng giờ trên khắp các lĩnh vực cuộc sống” (Lời phát biểu của nhà văn
Nguyễn Minh Châu trên báo Văn nghệ số 6/1989). Vì vậy trên những trang
văn, cuộc sống hiện lên với đầy đủ sự sinh động, phức tạp và nhiều màu sắc
như nó vốn có. Đồng thời con người được cảm nhận là một tiểu vũ trụ vô
cùng phức tạp, chiều sâu tâm hồn khó nắm bắt: “Đó là những con người được
nhìn nhận trong nhiều mối quan hệ phong phú và phức tạp, con người với
những niềm vui và nỗi buồn, trong sự phấn khởi và khổ đau, trong niềm tin và
hoài nghi chiến thắng. Họ đẹp trong chất thép và cả sự mềm yếu” [42] . Có
thể nói rằng, ở các truyện ngắn thời kì đổi mới, các nhà văn hầu như đã xác
định rõ hơn thiên chức của mình trong việc phản ánh đời sống, đưa văn học
trở về đúng với đặc trưng cơ bản của nó, và văn học ngày càng trở nên đời
hơn.
Thêm vào đó là sự xuất hiện một đội ngũ nhà văn mới. Phần lớn họ đều

sinh ra và trưởng thành trong đổi mới và cùng đổi mới. “Khác với lớp nhà
văn đi trước, họ được hấp thụ những tư tưởng mới, thừa hưởng thành quả


16

sáng tạo, được đào luyện trong môi trường thực tiễn đổi mới, được đối mặt
với những vấn đề của đời sống xã hội và công chúng đương đại. Về một
phương diện nào đó, sự xuất hiện lớp nhà văn mới là một lẽ tự nhiên, bình
thường. Nhưng để bắt kịp với xu thế đổi mới và thực hiện sứ mệnh đổi mới thì
lực lượng này có vai trò quan trọng. Họ là những người nhạy bén với cái mới,
luôn luôn tìm kiếm cái mới. Có thể xem họ là một trong số những chủ nhân
đích thực của văn học thời kỳ đổi mới”[59]
Đường lối mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng đã tạo cơ hội mở rộng
giao lưu văn hóa, văn học giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là
với phương Tây. Nhờ thế nhiều trào lưu, khuynh hướng và lí luận nghệ thuật
hiện đại của thế giới đã được giới thiệu ở Việt Nam qua con đường dịch thuật.
Nói như nhà nghiên cứu Lã Nguyên: “Hầu hết những tác phẩm được giải
Nobel, những tác phẩm ưu tú của các tác gia đương đại thuộc các trường
phái nghệ thuật hết sức khác nhau, như tượng trưng, siêu thực, hiện sinh,
trường phái hiện đại, hậu hiện đại… đã được dịch ra tiếng Việt, bày bán tràn
ngập trong các cửa hàng sách. Người ta còn tổ chức dịch những tác phẩm
văn học của các nước xã hội chủ nghĩa mà trước đó bị cấm đoán, ví như thơ
của Akhmatova và tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” của Pasternak. Mảng văn
học dịch này có tác động vô cùng lớn lao tới quá trình đổi mới văn học ở Việt
Nam. Nó làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật của đông đảo độc giả, trước hết là
thị hiếu nghệ thuật của tầng lớp thanh niên. Các nhà văn từng sáng tác trong
thời kỳ chiến tranh đều nhận ra, nếu tiếp tục viết như cũ, họ sẽ tự đánh mất
độc giả. Nghĩa là văn học dịch đã buộc các nhà văn Việt Nam phải đổi mới
cách viết”( trích bài viết “Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói”

đăng trên trang phebinhvanhoc.com.vn ngày 16/4/2012)
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của báo chí và các phương tiện
truyền thông khác cũng là tiền đề quan trọng của công cuộc đổi mới văn học.


17

Đời sống văn học dần mang một sắc diện mới trong quan niệm và cách đánh
giá. Sự đa dạng về nhu cầu và thị hiếu của người đọc được tôn trọng, thị
trường văn học được hình thành. Và khi xuất hiện loại thị trường này thì các
quy luật của kinh tế thị trường nói chung như quy luật cung cầu, quy luật giá
trị, quy luật cạnh tranh cũng hoạt động và chi phối một cách hiển nhiên và sâu
sắc, dẫn đến sự biến đổi mạnh mẽ về thị hiếu thẩm mỹ, chuẩn mực thẩm mỹ,
đặc biệt là các chuẩn giá trị đạo đức xã hội. Hơn nữa, sự phát triển ồ ạt của
công nghệ thông tin đã và đang lấn át văn hóa đọc, làm thay đổi tư duy sáng
tạo của văn nghệ sĩ và nhu cầu thưởng thức của công chúng. Mối quan hệ
cung - cầu, tác giả - người đọc đã hình thành. Thị hiếu người đọc đã chi phối
sáng tác của người sáng tạo văn học và dĩ nhiên văn học phải đáp ứng thị hiếu
của người đọc. Đó là một quy luật. Truyện ngắn Việt nam thời kì đổi mới
cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Những tiền đề xã hội, thẩm mĩ nói trên đã tác động đến văn học và góp
phần tạo nên những đổi mới sâu sắc, toàn diện văn học nói chung, thể loại
truyện ngắn nói riêng.
1.2.2. Những cách tân của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới
Từ năm 1986, nhất là từ đầu thập kỉ 90 trở đi, truyện ngắn đã có sự
“bùng nổ” cả về số lượng lẫn chất lượng. Với ưu thế đặc trưng thể loại là nhỏ
gọn, đi thẳng vào bản chất vấn đề cuộc sống và mang tính khái quát cao,
truyện ngắn rất phù hợp với nhịp độ sống gấp gáp của thời đại công nghiệp.
Mặt khác, ưu thế thể loại khiến truyện ngắn luôn nhạy bén với cái mới, nắm
bắt được kịp thời những đổi thay của muôn mặt cuộc sống thường ngày.

Truyện ngắn hiện nay đã có những đổi khác so với quan niệm truyền
thống. Nó không còn là văn bản tự sự ngắn, kể bằng văn xuôi, truyện không
nhất thiết phải có cốt truyện mạch lạc, truyện có mở đầu mà không có kết
thúc; kết cấu truyện được nới lỏng, người viết vận dụng nhiều thủ pháp nhằm


18

lạ hóa văn bản tự sự.
Nhìn ở dạng thức cấu trúc cốt truyện, truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới xuất hiện những dạng thức mới so với những thời kì trước đó. Có thể
thấy rõ điều này qua một số dạng thức cụ thể sau:
Trước hết là truyện ngắn mi ni. Đây là khái niệm chỉ những truyện
ngắn dưới 1000 từ. “Đặc điểm của kiểu truyện này là sự giản lược tối đa tình
huống, tình tiết, chi tiết truyện. Nếu truyện ngắn “sống” bằng chi tiết thì
truyện mi ni “sống” bằng ý tưởng. Tình tiết, chi tiết, tình huống trong truyện
mi ni không có giá trị tạo dựng cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa gợi ra ý tưởng.
Người đọc không phải quá bận tâm về tình tiết, chi tiết mà cần quan tâm đến
sự gợi mở của các tình tiết, chi tiết ấy. Ở truyện mi ni, tình tiết, chi tiết như
chiếc chìa khoá để mở ra những lớp ý tưởng mà tác giả muốn gửi gắm và
người đọc đồng sáng tạo”[58]. Trong thời đại thông tin như hiện nay, kiểu
truyện này đang là sự lựa chọn của nhiều cây bút thế hệ 8X, 9X. Đã có những
tác giả thành công ở dạng truyện này như Phan Thị Vàng Anh, Phạm Sông
Hồng...
Thứ hai là dạng thức truyện trong truyện và truyện liên hoàn. Nếu
truyện ngắn mi ni giản lược tối đa tình huống, tình tiết, chi tiết truyện thì dạng
thức truyện này lại “là hình thức kéo dài truyện, truyện nọ kéo sang truyện kia
hoặc gối lên nhau thành các lớp truyện hoặc chuỗi truyện nhiều khi khá phức
tạp” [58]. Đại diện cho kiểu kết cấu cốt truyện này là Nguyễn Huy Thiệp với
các truyện ngắn: Con gái thủy thần (ghép từ ba truyện theo cấu trúc rời rạc),

Những ngọn gió Hua Tát (ghép từ 10 truyện). Bên cạnh đó, nhiều truyện ngắn
của Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư cũng được tổ chức theo dạng thức
truyện này. Có thể nói, kiểu truyện lồng trong truyện và truyện ngắn liên hoàn
thể hiện những biến đổi trong cấu trúc của thể loại truyện ngắn. Nó giúp nhà
văn thể hiện một cái nhìn đa diện, nhiều chiều về hiện thực cuộc sống.


19

Thứ ba là truyện giả thể loại: giả cổ tích, giả truyền thuyết, giả ngụ
ngôn... Ở dạng thức này, yếu tố huyền thoại kỳ ảo tham gia như một nhân tố
chính, nếu không nói là bắt buộc của quá trình sáng tạo truyện, “Các tác giả
dùng các chi tiết mang tính huyền thoại kỳ ảo tham gia vào đường dây tổ
chức cốt truyện để tạo sức lôi cuốn hoặc đó chính là cách để tác giả tôn vinh
hay phủ định theo cách của dân gian. Song, để yếu tố huyền thoại có chỗ
đứng, các tác giả đã tìm ra giải pháp: lời đồn, nghe phong thanh, có người kể
lại, hoặc dùng hình thức “giấc mơ”, có khi cũng nói thẳng “truyền thuyết
huyễn hoặc”[58] …Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Huy
Thiệp, Hòa Vang, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo...
Cùng với sự đổi mới về cấu trúc cốt truyện, truyện ngắn đương đại có
sự pha trộn, dung nạp trong nó nhiều thể loại. Điều này được thể hiện ở việc
người viết thay đổi khuôn diện của truyện ngắn truyền thống, để cho những
yếu tố thuộc phẩm tính của các thể loại khác như thơ ca, tiểu thuyết, kịch...
thâm nhập vào tác phẩm tự sự. Sự giao thoa này cho phép truyện ngắn mở
rộng đường biên thể loại của mình, vừa phát huy thế mạnh mà mình vốn có,
vừa thu hút được những ưu thế của các thể loại khác. Nhiều truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư (Dòng nhớ, Hiu hiu gió bấc, Chiều vắng...), Phan Thị Vàng
Anh (Hoa muộn)... dung nạp chất thơ, chất trữ tình. Các truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu ( Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát...), Nguyễn Huy Thiệp
(Giọt máu, Tướng về hưu...), Tạ Duy Anh (Bước qua lời nguyền), Nguyễn

Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận)... mang phẩm chất của thể loại tiểu thuyết. Sự
thâm nhập của thể loại kịch được thể hiện qua những truyện ngắn: Kịch câm
(Phan Thị Vàng Anh), Không có vua (Nguyễn Huy Thiệp)... Thực tế này đã
làm đứt gãy những giới hạn về thể loại truyền thống. Trong quan niệm của
người sáng tác, “truyện ngắn không còn là thể loại văn tự sự đơn giản mà có
khả năng biến hóa với việc vận dụng thủ pháp xóa mờ lằn ranh thể loại” (Lê


20

Thị Hương Thủy).
Sự cách tân về truyện ngắn đương đại còn được thể hiện ở phương diện
trần thuật. Truyện ngắn trước đổi mới chủ yếu sử dụng một điểm nhìn và
quan hệ nhà văn với bạn đọc là quan hệ một chiều. Sau đổi mới, tinh thần dân
chủ trong truyện ngắn bắt đầu từ chỗ chuyển quan hệ độc thoại một chiều
thành quan hệ đối thoại hai chiều, độc giả không còn bị áp đặt chân lí mà
được bình đẳng với nhà văn trong hành trình cùng kiếm tìm chân lí. Trần
thuật nhiều điểm nhìn là một bằng chứng quan trọng về đổi mới quan niệm
thể loại, mỗi điểm nhìn là một ý thức độc lập để qua đó quan niệm con người
nhận thức được biểu hiện. Điều đó khiến tác phẩm văn học hướng đến một
cấu trúc mở, đa thanh. Chẳng hạn, trước số phận cực nhọc, cam chịu của
người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu
để cho nhiều “cái nhìn” soi rọi vào: đứa con trai nhìn ông bố như một kẻ tàn
bạo thì kết án và thề sẽ giết chết ông ta. Nhưng đứa chị thì hiểu biết hơn, vừa
khóc lóc vừa ngăn nó lại. Nhà nhiếp ảnh thì sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy
bất bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng giải pháp ly hôn là đúng
đắn nhất để cứu người đàn bà. Nhưng người đàn bà, kẻ hứng chịu tất cả
những trận đòn tàn nhẫn và phi lý của chồng thì nhìn nhận khác hẳn: “Lòng
các chú tốt nhưng các chú không hiểu hết cuộc sống sông nước” [36, 74].
Cuộc sống ấy không thể thiếu bàn tay chèo chống của một người đàn ông và ý

nghĩa sống của người đàn bà là phải vì con cái mình.
Bên cạnh trần thuật bằng nhiều điểm nhìn, trần thuật bằng dòng kí ức
nội tâm cũng thể hiện sự đổi mới về phương diện trần thuật của truyện ngắn
đương đại. Phương thức trần thuật này có tác dụng khách quan hóa nội dung
chuyện kể. Theo đó, toàn bộ cốt truyện diễn biến theo dòng chảy nội tâm
nhân vật, nhà văn có điều kiện khám phá những bí ẩn trong tâm hồn con
người. Nhiều truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn


×