Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận thực tập vai trò kiểm sát viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.5 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1, Lý do chọn đề tài…………………………………………………... 2
2, Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài………………………………………….. 2
3, Phạm vi nghiên cứu của đề tài……………………………………... 3
4, Phương pháp nghiên cứu…………………………………………… 3
5, Kết cấu đề tài……………………………………………………….. 4
NỘI DUNG
1, Tổng quan về văn phòng luật sư Nam Phong……………………….
5
1.1, Giới thiệu chung về văn phòng luật sư Nam
Phong………………. 5
1.2, Chức năng và nhiệm vụ của văn phòng luật sư Nam
Phong……… 6
1.3, Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của văn phòng luật sư Nam
Phong….. 8
2, Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự……………………….
8
2.1, Khái niệm, vị trí pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân
sự…. 8
2.2, Những vụ án dân sự có sự tham gia phiên tòa của Kiểm sát
viên….. 9
2.3, Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân
sự…….. 12
3, Đánh giá vai trò của kiểm sát viên tại phiên tòa dân
sự………….......13
4, Kiến nghị, đề xuất………………………………………………….... 14
KẾT LUẬN…………………………………………………………….. 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………. 19
1




2


MỞ ĐẦU
1, Lý do chọn đề tài.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ Luật Tố Tụng Dân
Sự: “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” (Điều 5
BLTTDS 2015) đề cao quyền tự định đoạt của đương sự. Như vậy,
vấn đề tranh cãi kiểm sát viên tham gia phiên tòa với vai trò gì, có
cần thiết hay không?
Theo quy định của Hiến pháp và các bộ luật, luật có liên quan
đều ghi nhận rằng Viện kiểm sát là một cơ quan tiến hành tố
tụng, thực hành quyền công tố, đảm bảo hoạt động tư pháp trong
tất cả các hoạt động giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật. Mặc dù so với Bộ Luật Tố
Tụng Dân Sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 thì pháp luật tố
tụng hiện hành cũng đã giới hạn đi một số quyền năng, nhiệm vụ
của Viện Kiểm Sát trong hoạt động tố tụng nói chung và trong
phiên tòa dân sự nói riêng.
Khi được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công thực hiện kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong suốt quá trình tố tụng của vụ
án dân sự, hoặc được phân công chỉ tham gia tố tụng từ giai đoạn
xét xử thì Kiểm sát viên có quyền, nghĩa vụ tham gia phiên tòa
dân sự và thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thể
hiện được vai trò của một Kiểm sát viên trong phiên tòa dân sự.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, tôi chọn đề tài: “Vai trò của Kiểm
sát viên tại phiên tòa dân sự” cho tiểu luận thực tập của mình.

2, Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài.
3


Tìm hiểu các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện Kiểm sát và Kiểm sát viên đối với một vụ án dân sự, đặc
biệt ở giai đoạn xét xử.
Có cái nhìn thực nghiệm từ việc tham gia các phiên tòa dân sự ở
địa bàn của cơ quan thực tập.
Từ thực tế, đánh giá mức độ áp dụng pháp luật, đưa ra giải pháp
thực tiễn giúp tăng hiệu quả trong thể hiện vai trò của kiểm sát
viên tại phiên tòa dân sự.
Nêu những ưu, nhược điểm của các quy định pháp luật khi áp
dụng vào thực tế, từ đó đưa ra hướng hoàn thiện lý luận.
3, Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Phạm vi nghiên cứu lý luận của đề tài là những quy định của
pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát, kiểm sát
viên trong hoạt động tố tụng dân sự, tập trung ở giai đoạn xét xử.
Phạm vi nghiên cứu thực tiễn của đề tài chỉ giới hạn trong hoạt
động của phiên tòa dân sự tại tòa án nơi cơ quan thực tập.
4, Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp:
-

Phương pháp thu thập tài liệu: thu thập tài liệu từ những văn
bản quy phạm pháp luật, những văn bản áp dụng pháp luật
của cơ quan nơi thực tập, là những tài liệu khác có liên quan
như những bài báo, các trang web và một số các đề tài

-


nghiên cứu tham khảo,…
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Từ những tài liệu
đã có, có sự phân tích, tổng hợp, móc nối những vấn đề liên
quan, để đi đến chắt lọc những nội dung chủ đạo.
4


-

Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Thông qua việc trực tiếp
có những câu hỏi cho những người có kinh nghiệm, nắm giữ

-

tài liệu trong cơ quan nơi thực tập.
Phương pháp chuyên gia, điều tra: Trong quá trình nghiên
cứu, có sự tham khảo, tham vấn ý kiến của người hướng dẫn

-

và một số những người có liên quan khác.
Trải nghiệm thực tế tại các phiên tòa dân sự cũng là một

-

trong các phương pháp làm nên bài luận này.
Phương pháp tổng hợp: Sau quá trình tìm hiểu và tiến hành
nhiều phương pháp, có sự đúc kiết, tổng hợp lại để hoàn
thiện tiểu luận.


5, Kết cấu đề tài.
Phần mở đầu: lý do chọn đề tài, mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi,
phương pháp nghiên cứu và kết cấu chung của đề tài.
Nội dung gồm 4 mục:
Mục 1: Tổng quan về văn phòng luật sư Nam Phong.
Mục 2: Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự.
Mục 3: Đánh giá vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự.
Mục 4: kiến nghị, đề xuất.

5


NỘI DUNG.
1, Tổng quan về văn phòng luật sư Nam Phong.
1.1, Giới thiệu chung về văn phòng luật sư Nam Phong.
Văn phòng luật sư Nam Phong được thành lập năm 2015, là tổ
chức hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Bình Dương chịu sự quản
lý của sở tư pháp và đoàn luật sư tỉnh Bình Dương. Mặc dù văn
phòng mới thàng lập được 3 năm nhưng tiền thân của văn phòng
luật sư Nam Phong là công ty luật hợp danh Nam Phong có trụ sở
tại thành phố Hồ Chí Minh, được thành lập năm 2011. Cho đến
nay văn phòng đã ổn định vị trí hoạt động tại số 643A Quốc Tệ 13
tổ 13 - KP2 phường Mỹ Phước - bến Cát - Bình Dương, có đầy đủ
trang thiết bị hoạt động của văn phòng cũng như số lượng và chất
lượng đảm bảo.
Với đội ngũ luật sư, chuyên viên năng động, sáng tạo, có trình độ
chuyên môn cao, có bề dày kinh nghiệm trong việc tư vấn pháp
luật. Các dịch vụ pháp luật của văn phòng luật sư Nam phong
ngày càng được mở rộng và cải thiện, nâng cao hiệu quả, đưa

pháp luật gần gũi hơn với cuộc sống của người dân trên địa bàn
cũng như những khách hàng trên mọi miền tổ quốc.
Thông tin cơ bản của văn phòng luật sư Nam Phong:
Tên giao dịch: Văn Phòng Luật Sư Nam Phong Bình Dương.
Địa chỉ trụ sở: 643A Quốc Tệ 13 tổ 13 - KP2 phường Mỹ Phước bến Cát - Bình Dương.
Mã số thuế: 3702395890.
Chủ sở hữu: Lê Minh Luân.

6


trưởng văn phòng

văn phòng

hình sự

dân sự

hôn nhân gia đình

Luật sư

kinh doanh thương
mại

Kế toán

hành chính


lao động

...

Hình 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của văn phòng luật sự Nam Phong
1.2, Chức năng và nhiệm vụ của văn phòng luật sư Nam
Phong.
1.2.1, chức năng và nhiệm vụ chung của văn phòng luật sự Nam
Phong.
1.2.1.1, Chức năng.
Chức năng chính của văn phòng luật sự Nam Phong là phát triển
đơn vị thông qua các hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện tố tụng
cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp
luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp
luật.
1.2.1.2, Nhiệm vụ.
- Xây dựng chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh của văn
phòng và thực hiện tốt các kế hoạch đề ra theo đúng chức năng
của văn phòng và quy định của pháp luật.

7


- Tuân thủ chính sách, chế độ pháp luật của nhà nước, thực hiện
nghiêm các nghĩa vụ về thuế và các nghĩa vụ khác theo quy định
của pháp luật.
- Thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện pháp lý cho khách
hàng để thực hiện các hoạt động có liên quan đến pháp luật.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với người lao động và bảo vệ
tài sản của chủ sở hữu.

1.2.2, Chức năng nhiệm vụ cụ thể.
1.2.2.1, Chức năng, nhiệu vụ của trưởng văn phòng.
- Là người đại diện hợp pháp của văn phòng luật sư Nam Phong.
- có quyền cao nhất trong mọi điều hành hoạt động của văn
phòng.
- Có quyền quyết định mọi vấn đề về nhân sự, tiền lương, tiền
thưởng và hoạt động của văn phòng.
- Chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của văn phòng và báo cáo
về tình hình hoạt động của văn phòng trước sở tư pháp, đoàn luật
sự và các cơ quan khác có liên quan.
1.2.2.2, Chức năng, nhiệm vụ của luật sư thành viên.
- Tiếp khách hàng và chịu sự phân công của trưởng văn phòng.
- Tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật
cho khách hàng.
- Hỗ trợ các phòng ban khác các vấn đề liên quan đến hoạt động
của văn phòng.
1.2.2.3, Chức năng, nhiệm vụ của nhân viên văn phòng.
- Phụ trách về văn thư, tài liệu lưu trữ của văn phòng.
8


- Tra cứu cập nhật các văn bản pháp luật mới.
- Theo dõi tổng hợp các hợp đồng dịch vụ pháp lý và các hoạt
động khác của văn phòng.
- Liên hệ các cơ quan để giao nhận các văn bản của luật sư thành
viên.
- Thực hiện các công việc khác do trưởng văn phòng giao.
1.2.2.4, Chức năng, nhiệm vụ của kế toán.
- Phụ trách công tác vấn đề kế toán tài chính của văn phòng.
- Quản lý việc thu chi của văn phòng

- Thống kê danh sách khách hàng.
- Lập báo cáo tài chính của văn phòng.
1.3, Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của văn phòng luật sư
Nam Phong.
Văn phòng luật sư Nam phong chuyên cung cấp các dịch vụ tư
vấn pháp lý, đại diện tố tụng cho khách hàng để thực hiện các
hoạt động liên quan đến pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp
lý khác theo quy định của luật luật sư. Trong suốt quá trình hoạt
động, văn phòng đã nỗ lực để thực hiện tốt các dịch vụ cung cấp
cho khách hàng và không ngừng mở rộng các lĩnh vực dịch vụ
pháp lý khác để mang đến cho khách hàng sự hài lòng nhất về
những gì mà văn phòng luật sư Nam Phong mang lại. Một số các
lĩnh vực hoạt động của Nam phong hiện nay có thể kể đến bao
gồm:
- Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị
tạm giam, bị can ,bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho người
9


bị hại, nguyên dơn dân sự, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ và
quyền lợi liên quan trong vụ án hình sự..
- Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn , đơn, người có quyền và
lợi ích hợp pháp có liên quan trong các vụ án tranh chấp dân sự ,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh tương mại,hành chính,lao động
và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện tư vấn pháp lệnh
- Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công
việc có liên quan đến pháp luật.
- Thực hiện các dịch vụ pháp lý khác theo pháp luật.

2, Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự.
2.1, Khái niệm, vị trí pháp lý của Kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự.
Khái niệm kiểm sát viên được quy định tại Điều 74 Luật tổ chức
viện kiểm sát nhân dân 2014: “Kiểm sát viên là người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.”
Để tìm hiểu vị trí pháp lý của kiểm sát viên, chúng ta cần thông
qua vị trí pháp lý của Viện kiểm sát. Vị trí pháp lý của Viện kiểm
sát nhân dân đã được ghi nhận, thể hiện rất rõ và nhất quán trong
Hiến pháp 2013 và các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2014. Theo đó, Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013 và
Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định: "Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp.”. Trong cơ cấu bộ máy nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
10


Nghĩa Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn cơ quan
được quy định trong Hiến pháp, được quy định rất rõ gồm viện
kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định
(khoản 2 Điều 107 Hiến pháp 2013). Như vậy, có thể nhận định
rằng Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan nhà nước
được Quốc hội giao trách nhiệm thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong hoạt động tố tụng dân sự, theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Viện kiểm sát đóng vai
trò là một cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng dân

sự.
Kiểm sát viên là thành viên của Viện kiểm sát, trực thuộc dưới
quyền của Viện trưởng viện kiểm sát. Chịu sự giám sát và làm
việc theo phân công của Viện trưởng viện kiểm sát.
2.2, Những vụ án dân sự có sự tham gia phiên tòa của
Kiểm sát viên.
2.2.1, Phiên tòa sơ thẩm.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015: “Viện kiểm sát
tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa
sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng
cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng,
quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật
này.”, đối với những vụ án dân sự do Tòa thu thập chứng cứ mà
đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ đó của Tòa án thì
11


Kiểm sát viên với tư cách đại diện Viện kiểm sát, phải tham gia
phiên tòa sơ thẩm. Đối với những vụ án này, Tòa án phải gửi hồ sơ
vụ án cho VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày có
quyết định đưa vụ án ra xét cử, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được hồ sơ vụ án, VKS phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho
Tòa án (khoản 2 Điều 1220 Bộ luật tố tụng dân sự).
Bên cạnh đó, sự tham gia vào phiên tòa sơ thẩm dân sự của kiểm
sát viên còn phụ thuộc vào từng thời điểm có khiếu nại của đương
sự về việc thu thập chứng cứ của Tòa án. Cụ thể:
- Trường hợp đương sự có khiếu nại trước khi Tòa án có quyết định

đưa vụ án ra xét xử thì Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa.
Trong trường hợp này nếu đương sự gửi đơn khiếu nại đến Tòa án
thì Tòa án phải gửi ngay đơn khiếu nại của đương sự kèm theo hồ
sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Căn cứ vào khiếu nại của
đương sự, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa xác minh, thu thập
chứng cứ và xem xét việc tham gia phiên tòa sơ thẩm. Nếu đương
sự gửi đơn khiếu nại đến Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát thông
báo bằng văn bản cho Tòa án biết được việc khiếu nại của đương
sự và yêu cầu Tòa chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên
cứu để tham gia phiên tòa sơ thẩm.
- Trường hợp đương sự có khiếu nại sau khi Tòa án có quyết định
đưa vụ án ra xét xử thì Kiểm sát viên chỉ tham gia phiên tòa sơ
thẩm khi còn đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án theo quy định
tại khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự. Nếu thấy trong thời
hạn quyết định đưa vụ án ra xét xử còn đủ 15 ngày nghiên cứu hồ
sơ thì đại diện Viện kiểm sát là Kiểm sát viên sẽ tham gia phiên
tòa. Nếu không tham gia phiên tòa, Tòa án vẫn phải gửi thông báo

12


bằng văn bản về việc khiếu nại của đương sự cho Viện kiểm sát
cùng cấp xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tiếp theo.
- Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm mà đương sự mới khiếu nại về
việc thu thập chứng cứ của Tòa án mà phiên tòa đó lại không có
Kiểm sát viên tham gia thì Hội đồng xét xử không hoãn phiên tòa
mà vẫn tiếp tục xét xử.
2.2.2, Phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm được quy định thông qua sự tham gia của Viện

kiểm sát. Theo đó, tại khoản 3 điều 21: “Viện kiểm sát tham gia
phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.” Tuy
nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định không rõ ràng và
thống nhất về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa
phúc thẩm các vụ án dân sự. Khoản 2 Điều 294 quy định: “Kiểm
sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc
thẩm.” Theo quy định tại khoản 2 Điều 294 Bộ luật tố tụng dân sự
được hiểu rằng Kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án
cấp phúc thẩm phải tham gia phiên tòa phúc thẩm. Ta có 2 trường
hợp sau: (1) Khi Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp sơ thẩm đã
tham gia phiên toà sơ thẩm. (2) Khi Viện kiểm sát cùng cấp với
Toà án cấp sơ thẩm không tham gia phiên toà sơ thẩm nhưng có
kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có kháng nghị
bản án sơ thẩm ”
Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phúc thẩm khi đã
tham gia phiên tòa sơ thẩm là trường hợp đương sự có khiếu nại
về việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm
sát đã tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng sau khi xét xử sơ thẩm,

13


đương sự lại có kháng cáo và vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm
thì Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa phúc thẩm.
Đối với quy định Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa phúc
thẩm khi Viện kiểm sát kháng nghị vì đây là trường hợp Viện kiểm
sát cho rằng bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có sự vi
phạm pháp luật nên đã kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
xét xử lại để khắc phục những vi phạm đó. Do vậy, Kiểm sát viên
phải tham gia phiên tòa để bảo vệ quan điểm kháng nghị của

Viện kiểm sát và đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án được
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Trường hợp xét

thấy cần thiết phải có Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát tham
gia phiên toà phúc thẩm thì Viện kiểm sát thông báo bằng văn
bản cho Toà án cấp phúc thẩm biết. Toà án cấp phúc thẩm phải
gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ vụ án cho Viện kiểm
sát cùng cấp. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên toà
phúc thẩm, thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên toà theo thủ
tục chung
2.3, Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa
dân sự.
Trong hoạt động tố tụng dân sự, nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm
sát viên được quy định cụ thể tại Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự
2015. Tuy nhiên, đối với một phiên tòa dân sự, chỉ giới hạn trong
giai đoạn xét xử, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
-

Tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về
việc giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố

-

tụng dân sự.
Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
14



-

Kiến nghị, yêu cầu tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố

-

tụng theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Kiểm sát hoạt động tố tụng tại phiên tòa của người tham gia
tố tụng, nếu pháp hiện hành vi vi phạm pháp luật, kiểm sát
viên có quyền kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm

-

quyền xử lý nghiêm minh.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác tại phiên
tòa thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự.

Trong quá trình tham dự phiên tòa, kiểm sát viên phải tuân thủ
đúng quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
không được thực hiện các hành vi sau đây:
-

-

Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không
được làm;
Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố
tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc


-

khác không đúng quy định của pháp luật;
Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết các vụ án hoặc
lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách

-

nhiệm giải quyết vụ án;
Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ
quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự

-

đồng ý của người có thẩm quyền.
Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng
khác trong các vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết
ngoài nơi quy định.

3, Đánh giá vai trò của kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự.
3.1, Ưu điểm.

15


-Vai trò của kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự đã thể hiện được
sự bình đẳng,dân chủ các vấn đề cần giải quyết trong xã hội, thực
sự là chỗ dựa của nhân dân về mặt công lý.
- Thông qua những nhiệm vụ của kiểm sát viên mà có thể thấy

nhờ đó một phần có thể đảm bảo pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
-Kiểm sát viên đã hoàn thành được tối đa những nghiệm vụ được
giao, thể hiện vài trò quan trọng trong các phiên tòa dân sự.
-Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành, lãnh
đạo đơn vị thường xuyên quan tâm, nhắc nhở, lắng nghe, chia sẻ
kinh nghiệm và tạo điều kiện để cán bộ - Kiểm sát viên thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao. Để thực hiện tốt nhiệm vụ do pháp luật
quy định, cán bộ - Kiểm sát viên hai cấp luôn có tinh thần trách
nhiệm, tâm huyết với nghề, không ngừng học tập, trau dồi kiến
thức pháp luật nhất là những văn bản luật, thông tư mới ban hành
hướng dẫn thực hiện Bộ Luật tố tụng dân sự sửa đổi, từ đó đề xuất
quan điểm, đường lối giải quyết vụ án và kiểm sát chặt chẽ quá
trình từ khi thụ lý đến khi giải quyết vụ án tại phiên tòa và báo
cáo kết quả giải quyết với Lãnh đạo, đồng thời tham mưu tốt với
Lãnh đạo đơn vị về những vấn đề khác liên quan công tác kiểm
sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự.
3.2, Hạn chế.
Tuy nhiên qua thực tiễn thấy một số quy định của Luật đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập đó là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng các bản án, quyết
định hành chính bị sửa, hủy chiếm tỷ lệ cao; nhất là các bản án,
quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết
các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
16


của Chủ tịch UBND cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp huyện;
hiệu lực thi hành các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành
chính chưa bảo đảm.

Mặt khác nhận thức về một số Điều của Bộ luật tố tụng dân sự
sửa đổi của 01 bộ phận cán bộ 02 ngành Tòa án và Viện kiểm sát
còn hạn chế, chưa có sự thống nhất quan điểm, còn mâu thuẫn,
chồng chéo dẫn đến việc nhận định để đưa ra quan điểm giải
quyết vụ việc còn khác nhau; Ngoài ra, đội ngũ Kiểm sát viên làm
công tác kiểm sát dân sự còn ít kinh nghiệm thực tiễn do mới tăng
cường, bổ sung nên nên hiệu quả thực hiện chức năng nhiệm vụ
của ngành trong lĩnh vực vẫn còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục được các hạn chế này chúng ta cần đề xuất các
giải phát tốt nhất nhằm sớm hoàn thiện các quy định phá luật
một cách chặt chẽ nhất.
4, Kiến nghị, đề xuất.
4.1, Kiến nghị về mặt lý luận.
Trước hết đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát dân sự
phải tăng cường kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện hiệu quả chức
năng nhiệm vụ của ngành trong lĩnh vực này.
-Trong thực tiễn xét xử khá nhiều các vụ án dân sự nói chung đã
có sự thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ từ phía bị đơn nhưng Tòa án
vẫn phải gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và chỉ có thể tiến
hành phiên tòa khi có mặt của Kiểm sát viên. Nhưng trên thực tế,
với tính chất của các vụ án như vậy thì “đóng góp” của Kiểm sát
viên dường như rất hạn chế. Khi tham gia vụ án này tại phiên tòa
sơ thẩm, ý kiến của Kiểm sát viên cũng chỉ giới hạn như sau: “Qua
kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án thấy rằng Thẩm
17


phán đã thực hiện đúng nội dung quy định tại Điều 48 Bộ luật tố
tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý
vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ của những người

tham gia tố tụng cũng như thời hạn gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ
cho Viện kiểm sát nghiên cứu”.
- Để hài hòa giữa việc bảo đảm nguyên tắc hiến định là Viện kiểm
sát thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử và hiệu quả
công tác xét xử, nên xác định vai trò tham gia của Kiểm sát viên
tại giai đoạn sơ thẩm đối với các vụ án ở mức đủ để bảo đảm việc
thực hiện chức năng giám sát của Viện kiểm sát.
- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên có được ghi nhận vào trong
bản án hay không? Theo tôi, bản án phải ghi ý kiến của Kiểm sát
viên tham gia phiên toà trong phần xét thấy thì mới phù hợp và
đúng với quy định của pháp luật. Quan điểm này cho rằng, nếu
không ghi ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên thì sẽ không xác
định được Thẩm phán, Hội đồng xét xử, cũng hay những người
tham gia tố tụng có tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng hay
không, và quan điểm nào của Kiểm sát viên được chấp nhận,
quan điểm nào không được chấp nhận. Bởi lẽ, khi Kiểm sát viên
tham gia phiên toà mà ý kiến phát biểu không được ghi vào trong
bản án thì sẽ được thể hiện ở đâu? Mặt khác, nếu trong bản án
không thể hiện Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát thì quyết định trong bản án chưa
đảm bảo được tính khách quan.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: Ý kiến phát biểu của
Kiểm sát viên tại các phiên toà sơ thẩm phải được đưa vào trong
bản án và Hội đồng xét xử phải nhận định cụ thể ý kiến nào của

18


Kiểm sát viên được chấp nhận, ý kiến nào không được chấp nhận
thì mới phù hợp.

-Tại Khoản 2 Điều 21 BLTTDS, trong phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu
không cần thiết tới sự tham gia của kiểm sát viên thì k nên quy
định sự bắt buộc có mặt của kiểm sát viên. Vì có thể quy định này
sẽ dẫn đến sự trì hoãn các phiên tòa bởi sự vắng mặt của kiểm
sát viên.
- Tại Điều 262, Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên
toà sơ thẩm phải được đưa vào trong bản án và Hội đồng xét xử
phải nhận định cụ thể ý kiến nào của Kiểm sát viên được chấp
nhận, ý kiến nào không được chấp nhận thì mới phù hợp.

4.2, Giải pháp, đề xuất giải pháp thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả tối đa hóa vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa
dân sự.
Từ quá trình nghiên cứu đề tài và thực tiễn thể hiện rõ, tôi xin
được đưa ra một số đề xuất giải pháp nhằm nâng cao, phát huy
tối đa vai trò của Kiểm sát viên tài tòa dân sự như sau:
- Ngoài việc quán triệt sâu sắc chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát theo tinh thần mới của Bộ luật Tố tụng dân 2015 tới từng
cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác này, cần thiết phải có biện
pháp tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tới đội ngũ Kiểm sát viên,
công chức trong toàn Ngành và đặc biệt chú trọng tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi trong nhân dân để khẳng định và nâng cao hơn
nữa vị thế của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng
dân sự. Khi người dân biết và nhận thức được vị trí, vai trò của
19


Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là một cơ quan bảo vệ pháp
luật, với những quyền năng đủ mạnh như: quyền yêu cầu, quyền
kiến nghị, quyền kháng nghị để bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền

và lợi ích chính đáng của nhân dân và được sử ủng hộ, tin cậy của
nhân dân, cũng như của toàn xã hội sẽ góp phần rất lớn cho Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện tốt công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự cũng như thực hiện tốt chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.
- Viện kiểm sát cấp huyện phải nhận thức đúng và đầy đủ về
quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị là những
quyền năng cơ bản và quan trọng nhất của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự để thường xuyên rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm, kỹ
năng thực hiện các quyền năng này; bảo đảm có chất lượng, đúng
pháp luật và đạt hiệu quả cao nhất.
- Cần khắc phục tình trạng một số Kiểm sát viên do năng lực hạn
chế, một phần chưa làm hết trách nhiệm với công việc được giao;
chưa chịu khó nghiên cứu học tập các văn bản pháp luật cũng như
những kinh nghiệm đúc rút từ hoạt động thực tiễn, nên chất lượng
công tác chưa cao. Do đó, cần phải có kế hoạch bồi dưỡng phù
hợp.
- Cán bộ, Kiểm sát viên được phân công tham dự phiên tòa dân sự
phải phát huy vai trò, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao khi
kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ, việc dân sự của Toà án,
tránh hiện tượng chủ quan, coi nhẹ công tác này.
- Tăng cường hơn nữa trách nhiệm quản lý nghiệp vụ của lãnh đạo
Viện, trong đó có việc duy trì đầy đủ các quy định về chế độ báo
cáo nghiệp vụ, báo cáo duyệt án, báo cáo quá trình kiểm sát bản
án, quyết định, tránh tình trạng “khoán trắng” trách nhiệm cho
20


Kiểm sát viên, cán bộ làm công tác kiểm sát việc giải quyết án
dân sự.

- Tiếp tục tăng cường kiểm sát bản án, quyết định của Toà án để
phát hiện vi phạm thực hiện kháng nghị phúc thẩm. Coi việc kiểm
sát bản án, quyết định của Toà án là một trong những nhiệm vụ
chính, quan trọng hàng đầu có sự hỗ trợ, bổ sung thông qua việc
nghiên cứu hồ sơ khi Toà án chuyển cho Viện kiểm sát để tham
gia phiên toà xét xử để kịp thời phát hiện vi phạm của Toà án,
thực hiện kháng nghị phúc thẩm có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật.
C, KẾT LUẬN
Có thể thấy với sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã có
những đổi mới về sự có mặt của Kiểm sát viên trong phiên tòa
dân sự, đây là một điểm đáng được ghi nhận về thành tựu lập
pháp của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, để đảm bảo được việc tối
đa hóa vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự, ở một góc
nhìn cụ thể vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót, đó là vấn
đề đặt ra cho những nhà lập pháp, nghiên cứu pháp luật và cũng
là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc Xã hội chủ
nghĩa.
Trong thời gian thực tập bản thân tôi đã có cơ hội tiếp xúc, làm
quen với một môi trường làm việc mới, chuyên nghiệp, tích lũy
được những kinh nghiệm về kiến thức trong công việc cũng như
các kinh nghiệm về kỹ năng mềm. Do thời gian có hạn, việc sưu
tầm tài liệu, kiến thức bản thân còn hạn chế vì vậy, tiểu luận chắc
chắn còn nhiều thiếu sót, chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo. Mong
thầy cô xem xét đóng góp ý kiến để tôi có thể hoàn thiện tốt tiểu
luận này.
21


Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm các thầy cô, các cô chú

công tác tại văn phòng luật sư Nam Phong đã tận tình giúp đỡ
trong quá trình thực tập của mình.

22


D, DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1, Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
2, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.
3, Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014.
4, Hồ sơ năng lực Văn phòng luật sư Nam Phong.
5, Tài liệu khác có liên quan.

23



×