Tiểu luận triết học :
Vai trò của tri thức trong đời
sông-xã hội
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương1 Lý luận chung
1.1 Khái niệm tri thức
1.2 Vai trò của tri thức đối với đời sống xã hội
1.2.1 Kinh tế tri thức
1.2.2 Vai trò của tri thức đối với chính trị
1.2.3 Vai trò của tri thức đối với văn hoá-giáo dục
Chương 2 Thực trạng Việt Nam
2.1 Những cơ hội và thách thức
2.1.1 Cơ hội đối với Việt Nam
2.1.2 Những thách thức
2.1 Doanh nghiệp Việt Nam
Chương3 Giải pháp cho việc ứng dụng tốt
3.1 Phát huy nguồn lực con người
3.1 Hướng đi cho doanh nghiệp Việt Nam
Kết Luận
LỜI NÓI ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước
ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ
phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết sức cơ bản của thời
đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin
như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo, thương mại tin học Cùng với những
thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính đang tác động
mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài
người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều
có tăng trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước
nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là
chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành
công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức,
phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng
đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với
khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát triển
vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức. Vì vậy em quyết định chọn đề tài
này để làm đề tài nghiên cứu của mình.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Khái niệm về tri thức.
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy
thì lúc đó có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến
những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội
mới được đề cặp nhiều.Vậy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu
biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó(hiểu biết sáng tạo) vào
việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội.
Tri thức bao gồm tất cả những thông tin,số liệu,bản vẽ,tưởng tượng(sáng tạo),khả
năng,kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội
khác.Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống –xã hội.
Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới,một trình độ mới.Đó là trình độ
mà”nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng
tạo,phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”.Tiêu chí chủ yếu
của nó là lấy tri thức,trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực
tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên.Đó là thời đại mà “Tri thức đã
trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri thức là tài nguyên là tư
bản”, “Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng
trưởng dài hạn dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị
trường, lựa chọn nghề nghiệp…
1.2 Vai trò của tri thức trong đời sông-xã hội
Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác
động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội :kinh tế,chính trị,văn hoá giáo dục
1.2.1 Vai trò của tri thức đối với Kinh tế-Kinh tế tri thức
Nền kỉnh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng,
khai thác,sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của
cải.
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó:
-Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và
phát triển rất mạnh
-Nguồn vốn quan trọng nhất,quý nhất là tri thức,nguồn vốn trí tuệ.
-Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát
triển.
-Nền kinh tế mang tính học tập.
-Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.
-Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô
tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của cách mạng khoa học
–công nghệ và toàn cầu hoá,kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển
và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một,hai thập niên tới.
Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội
dung chủ yếu.Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào
việc sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu,nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn
phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi
trường kinh doanh.Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên
môn mà hãng có được,sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần
được phát triển không ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và
các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu
hình, mà còn nằm trong những tài sản vô hình,như tri thức và các bằng sáng chế.Để
trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những
thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh.Vốn trí tuệ của công
ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công nhân cũng như khả
năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế
cạnh tranh.Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình của các
công ty công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản
vật thể của các công ty đó,như các toà nhà hay thiết bị.Ví dụ như các tài sản vật thể
của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị được vốn hoá
trên thị truờng của công ty này.Phần lớn là vốn trí tuệ.Sau hai mươi năm thành lập,
số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần,1/10 số nhân
viên trở thành triệu phú.Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong
một công ty dựa vào tri thức.
Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh.Đó là
những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng
có thể hành động một cách hiệu quả hơn.Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có
thể trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết
cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng.Số lượng ka-lo và chất béo được in lên
hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng.Thậm chí có
những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt thông tin về sản phẩm vừa
khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tin.
Vốn tri thức –vai trò của nó trong kinh tế tri thức
Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích
sinh lợi(tăng thêm giá trị).
Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất.Trong văn minh nông
nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công
nghiệp,vốn,đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những
yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội,góp phần chuyển xã hội phong
kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử.Còn trong kinh tế tri thức,yếu tố của sự phát
triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ,đất đai và dựa trên lao động
giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức.Như vốn tri thức trở
thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và
đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã
hội.Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua
tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế
dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin,viễn thông, vũ trụ,đầu tư,ngân
hàng,tài chính,chứng khoán,bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ
các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao.ở các nước có
nền kinh tế đang phát triển,đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia
tăng cang lớn,tỷ xuất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất
bại của doanh nghiệp.Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức,các nhà
quản lý có trình độ cao,các công nghệ mới.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa
các nước đang phát triển và các nước phát triển.Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là
cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển,trong đó có Việt
Nam.Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri
thức,thông qua tri thức hoá các ngành công nghiệp,nông nghiệp,dịch vụ,đặc biệt
sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi
kịp các nước phát triển.
1.2.2 Vai trò tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri thức là
có khả năng tư duy lý luận,khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát
thực,đúng đắn.Điều này rất quan trọng,một đất nước rất cần những con người như
vây để điều hành công việc chính trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc
gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận
thức về nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố con người và lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông”chiến lược phát
triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần có những giải pháp trong
việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu xã
hội chủ nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi dưỡng cho họ những tri thức
còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách
nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành
một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều kiện thuận lợi
tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp
nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại
học và các công ty,xí nghiệp.Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài,
chỉ tiêu đào tạo theo chương trình,kế hoạch và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi
được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng
trách và các nhà khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung
tâm khoa học lớn của quốc gia,liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri
của đồng trí chủ tịch,sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và
khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn,khuyến nghị của tập thể các
nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục-đào tạo.Phát
triển khoa học –công nghệ,cách tuyển chon và giao chương trình đề tài,giới thiệu
những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa,giáo trình,làm chủ nhiệm chương
trình,đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt,thẩm định nghiệm thu các chương
trình,đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của
các nhà khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn,những
khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng,Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng
các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất
nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.
1.2.3 Vai trò tri thức đối với văn hoá-giáo dục
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp
con người có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những kiến thức ,ý thức của con
người được nâng cao.Và do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh.Có những hiểu
biết về tầm quan
trọng của giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh,phồn vinh.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆT NAM
2.1 Những cơ hội và thách thức
2.1.1 Cơ hội đối với Việt nam
Việt nam đang đứng trước cơ hội tiếp cận nền kinh tế tri thức, nếu bỏ lỡ không
biết tận dụng cơ hội, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại,
đi tắt vào những ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao, dựa vào tri thức thì sẽ tụt
hậu. Đại hội VIII đã khẳng định phải: "đi tắt đón đầu" nếu không làm được thế thì
sự tụt hậu là rất dễ xảy ra.
Có ý kiến cho rằng nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ:
- Vừa phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những ngành
công nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân.
- Vừa phải lo phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công
nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hoá và nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, tạo ngành nghề mới, việc làm mới, đạt tốc độ cao, hội nhập
có hiệu quả với nền kinh tế thế giới.
- Chúng ta không thể và không nên bắt chước, dập khuôn theo mô hình công
nghiệp hoá của các nước khác. Và cũng không nên hiểu công nghiệp hoá là xây
dựng công nghiệp mà phải hiểu đó là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu,
năng suất chất lượng thấp kém, phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ
công là chính sang nền kinh tế có năng suất chất lượng hiệu quả cao, phương pháp
sản xuất công nghiệp dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất. Vì vậy công
nghiệp hoá phải đi đôi với cơ giới hoá.
Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế tri thức, nước ta
không thể bỏ lỡ cơ hội lớn đó mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn
khoảng cách với các nước, như vậy nền công nghiệp nước ta phải đồng thời thực
hiện hai nhiệm vụ: Chuyển nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và
từ công nghiệp sang tri thức. Cũng có nghĩa là chúng ta phải nắm bắt kịp thời các tri
thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông nghiệp, đồng thời phát triển các
ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ mới nhất.
Về công nghệ thông tin thì Việt nam, công nghệ thông tin cũng là một trong
các động lực chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế tri thức và xã hội thông
tin. Công nghệ thông tin phát triển không những góp phần giải phóng năng lực vật
chất, trí tuệ của cả dân tộc mà còn có trình độ trực tiếp đến việc nâng cao tính cạnh
tranh của mỗi doanh nghiệp.
Đầu tư nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới toàn cầu hoá, toàn
cầu hoá lại tạo ra các cơ hội giúp các nước tận dụng được vốn đầu tư nước ngoài để
giải quyết tình trạng thiếu vốn từ nội bộ nền kinh tế: Ở Việt nam trong 13 năm qua
kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài đã có gần 3000 dự án được đăng ký với số vốn
đã được giải ngân vào khoảng 20 tỷ USD.
Mặc dù còn ít về số lượng, nhỏ bé về quy mô, nhưng chúng ta cũng có được
khoảng vài chục dự án và khoảng nửa tỷ USD được đầu tư nước ngoài. Điều này
thúc đẩy quá trình hội nhập của chúng ta vào khu vực toàn cầu.
2. 1.2 Những thách thức
Chúng ta đang sống trong một thời đại bùng nổ thông tin và tri thức. Nói về tri
thức khoa học kỹ thuật trong thế kỷ 19, cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, giữa thế kỷ 20:
10 năm, hiện nay là 3-5 năm. Một số nước phát triển sớm bước vào xây dựng kinh
tế tri thức đã đặt ra các nước đang phát triển trên nhiều bất lợi: tài nguyên và sức lao
động bị giảm rõ rệt dẫn đến làm giảm thu nhập quốc dân.
Một vấn đề đáng lo ngại nữa là nạn chất xám đã làm cho các nước đã nghèo lại
càng nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi cái nghèo. Trên thế giới
khoảng 20% dân số giàu ở các nước phát triển chiếm tới 86% GDP, trong khi 20%
dân số nghèo nhất chỉ chiếm 1% GDP, tương tự ở công nghiệp là 44, 5% và 8%.
Qua đó có thể thấy sự giãn rộng khoảng cách giàu nghèo đang là một thách thức đối
với các nhà hoạch định và quản lý kinh tế xã hội.
Trong lĩnh vực thông tin thì ở Việt nam công nghệ thông tin được coi là một
trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế tri thức, tuy nhiên
công nghệ thông tin của nước ta vẫn còn đang ở tình trạng lạc hậu kém hơn nhiều
các nước trong khu vực.
Để hội nhập thành công Việt nam cần tiếp tục chính sách đối ngoại đa phương,
giảm và tiến tới hàng rào bảo hộ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
đồng thời cần đổi mới tư duy về công tác cán bộ có khả năng thích ứng với cơ chế
thị trường và hội nhập ngày nay.
2.2 Doanh nghiệp Việt Nam
Thực tế hiện nay ở các doanh nghiệp nước ta,tỷ lệ lao động qua đào tạo rất
thấp.Trong các doanh nghiệp Việt Nam,số lao động có trình độ cao đẳng trở lên
chiếm 32%,trong khi đó con số này ở Hàn Quốc là 48%,Nhật Bản 64,4%,Thái
Lan58,2%.
Trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp nhìn chung cong lạc hậu,ứng dụng công
nghệ thông tin còn yếu.Theo kết quả khảo sat 42 cơ sở của một ngành do Viện khoa
học bảo hộ lao động thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tiến hành gần đây,có
đến 76% thiết bị,máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50-60.Xét về trình độ
công nghệ thông tin,Việt Nam chỉ đứng thứ 7/10 trong ASEAN(Báo đầu tư,số
23,22/2/2001).Theo diễn đàn kinh tế thế giới(1/2001),năm 1999,Việt Nam đứng thứ
48/59 nước về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nhưng đứng thứ 59/59 về sử
dụng thư điện tử.Thương mại điện tử còn là khái niêm tương đối xa lạ với nhiều
doanh nghiệp.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP CHO VIỆC ỨNG DỤNG TỐT HƠN NỮA TRI THỨC VÀO ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI.
3.2 Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược,được khẳng định vừa
là mục tiêu,vừa là động lực chính của sự phát triển kinh tế –xã hội.Quan niệm coi
con người là nguồn lực của mọi nguồn lực,coi chiến lược phát triển kinh tế xã hội
thực chất là chiến lược con người,đó là những quan niệm tích cực hình thanh từ
thực tiễn đổi mới của nước ta trong những năm qua.Vởy làm thế nào để phát huy
nguồn lực con ngườiNhững năm tới,chiến lược con người của Đảng cần hướng
vào:
Thứ nhất,Coi trọng công tác giáo dục và đào tạo,khẩn trương đổi mới giáo dục
và đào tạo.
Nếu nguồn lực con người là động lực trực tiếp của sự phát triển thì giáo duc-đào
tạo là nền tảng của chiến lược con người.Coi trọng công tác giáo dục và đào tạo
cũng chính là coi trọng nhân tố con người.Giáo dục-đào tạo phải được coi là cái
gốc của sự phát triển.Bản thân giáo dục là một quá trình văn hoá,là một tác nhân
văn hoá để phát triển con người. Vì vậy,giáo dục và đào tạo phải là một bộ phận
của kế hoạch kinh tế-xã hội,gắn liền với sự phát triển kinh tế-xã hội.
Chất lượng của một quốc gia sẽ được đánh giá theo các tiêu chí:dân cư được giáo
dục tốt,nguồn nhân lực dựa vào trí tuệ,sự dồi dào của quỹ trí thức,sự linh hoạt,hiệu
quả của cơ cấu tài chính,đội ngũ các nhà doanh nghiệp tài giỏi mà giáo dục -đào
tạo lại có ảnh hưởng then chốt đến các vấn đề trên,tức là có vai trò làm đòn bẩy
cho sự phát triển kinh tế.
Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo.
Gắn chất lượng đào tạo với yêu cầu thực tế:Trước hết phải nâng cao chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giáo viên,giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng.được đào
tạo lại,được áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại,và phaỉ luôn trau dồi
ngoại ngữ,biết sử dụng những thiết bị hiện đại.Nội dung giảng dạy cần đạt sự cân
đối giữa lý thuyết và thực hành,cần cập kịp thời nội dung tri thức hiện đại của thế
giới và những vấn đề bức xúc của đất nước,cần chú ý tới yếu tố kỹ năng,kỹ
thuật,công nghệ và thực nghiệm…để cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động
lành nghề,các chuyên gia công nghệ,những nhà quản lý có khả năng sáng tạo và
làm chủ tri thức hiện đại,hoà nhịp được với yêu cầu khắt khe của kinh tế thị
trường.Khắc phục phương pháp giảng dạy”chay”,dạy áp đặt,thày đọc,trò chép,sinh
viên chỉ biết vâng lời người dạy,thay bằng phương pháp “lấy học sinh làm trung
tâm”đòi hỏi khả năng làm việc tích cực ở cả thày và trò.Nội dung và phương pháp
giáo dục-đào tạo ở tất cả các cấp phải định hướng thoát ra khỏi những gì là khuôn
cứng.Tĩnh lại,mang tính thừa nhận sáng tạo điều khiển cho phát triển tư duy một
cách cởi mở,tìm tòi,sáng tạo:phải giúp cho người học có tính cơ động cao,để thích
ứng với những chuyển biến nhanh chóng của kinh tế thị trường,của thị trường việc
làm,thị trường sức lao động.
Thay thế quan niệm”đào tạo theo nhu cầu của người học” bằng”đào tạo theo
nhu cầu xã hội”.
Điều chỉnh cơ cấu tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tê-xã hội,nhanh
chóng khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề và giữa
các cấp đào tạo hiện nay.Trong một thế giới diễn ra sự đua tranh,cạnh tranh mạnh
mẽ hiện nay giáo dục-đào tạo cần định hướng tới tính tái sản xuất của lực lượng lao
động,tính hướng tới tính sản xuất của lực lượng lao động
3.2 Hướng đi cho doanh nghiệp Việt Nam.
Để doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với nền kinh tế tri thức cần có những biện
pháp đồng bộ về chính sách của Nhà nước (như hỗ trợ nghiên cứu phát triển,xây
dựng hệ thông thông tin,phát triển giáo dục…)và các động thái tích cực,chủ động
của từng doanh nghiệp.
Đầu tư cho nhân lực.Những cá nhân xuất sắc sẽ là vốn quí cho từng doanh
nghiệp.Với tri thức,họ sẽ tạo ra thành công cho doanh nghiệp,làm tăng hàm lượng
chất xám trong sản phẩm. Các doanh nghiệp nước ta nên áp dụng mô hình đào tạo
và phát triển nhân sự theo nguyên tắc trách nhiệm từ dưới lên.Trước hết từng nhân
viên phải chịu trách nhiệm cho sự phát triển con người của chính mình,sau đó trách
nhiệm thuộc về cấp trên trực tiếp với vai trò huấn luyện viên,tiếp theo là cấp trên
gián tiếp với vai trò người cố vấn,và sau cùng vai trò người ủng hộ của lãnh đạo
hàng đầu doanh nghiệp.Khi đó trưởng bộ phận nhân sự hoạt động như là người xây
dựng phát triển mô hình, người điều phối và tư vấn bên canh việc xây dựng và áp
dụng mô hình này, doanh nghiệp nên chú trọng vào hình thức đào tạo tại nơi làm
việc”(hơn là đào tạo ngoài nơi làm việc).Như vậy doanh nghiệp sẽ nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động thông qua việc khuyến khích và động viên toàn thể nhân
viên hướng tới học tập suốt đời với mức chi phí hợp lý.
Đổi mới và cải tiến công nghệ,áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt độn g sản
xuất kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh,thích ứng của doanh nghiệp
với thị trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng năng lực công nghệ hiện có,thực hiện
chuyển giao công nghệ bằng nhiều hình thức khác nhau như mua,hợp tác liên
doanh,truy cập thông tin…Đồng thời chủ động áp dụng công nghệ thông tin trong
sản xuất kinh doanh như áp dụng phần mềm,xây dựng trang web quảng cáo,giới
thiệu sản phẩm và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ trực tuyến nhằm gắn kết chặt chẽ
hơn với khách hàng,tạo cơ hội tiếp cận với thị trường thế giới…Đó sẽ là bước đi
đầu tiên của doanh nghiệp hướng tới thương mại điện tử.Tuy nhiên,điều quan trọng
là lựa chon và đổi mới công nghệ không chỉ dựa trên ý muốn chủ quan của doanh
nghiệp mà còn phải xuất phát từ nhu cầu,thị hiếu của khách hàng.
Chú trọng đến quản trị tri thức trong phạm vi doanh nghiệp.Đây là một khái
niệm tương đối mới,bao hàm nội dung tiếp cận tri thức và thông tin,sử dụng chia sẻ
tri thức và thông tin giữa các thành viên trong doanh nghiệp.Nhiệm vụ của quản trị
gia là tạo môi trường,xác lập cơ cấu tổ chức quản trị phù hợp để khuyến khích sự
sáng tạo trong doanh nghiệp,chia sẻ thông tin,tri thức giữacác cá nhân và bộ
phận.Điều này liên quan đến việc hình thành văn hoá doanh nghiệp hệ thống thông
tin trong doanh nghiệp rõ ràng…
Doanh nghiệp là một tổ chức giáo dục
Kinh tế tri thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao lực lượng trong việc hấp
thụ tri thức,vận dụng tri thức và tự mình đổi mới tri thức.Điều đó dẫn đến các hãng
cũng phải trở thành các tổ chức học hỏi.Thông tin và lao động di chuyển ngày càng
nhanh buộc các công ty phải nhậy bén hơn,đòi hỏi mọi người phải luôn tiếp tục học
tập.Học tập bao gồm cả trao đổi các thông tin,tri thức và kỹ thuật có sẵn và phát
hiện ra các nguyên tắc và tri thức mới.Một số phương pháp sau:
Học tập qua công việc,học tập tại nơi làm việc:công nhân đào tạo lẫn nhau,luân
chuyển công việc,trả lương căn cứ vào kỹ năng,những nhóm chính thức hoặc không
chính thức và chế độ góp ý cải tiến
Doanh nghiệp đặt ở các trường học:Đây là tổ chức “lai tạo” kết hợp học tập và sản
xuất,gọi là”doanh nghiệp nhà trường”.Các doanh nghiệp nhà trường được sử dụng
như là một bộ phận của hệ thống học nghề để cung cấp kinh nghiệm sản xuất cho
học sinh đang chờ ký hợp đồng đào tạo với các doanh nghiệp.Nó cũng có thể được
sử dụng để cung cấp sự học tập dựa trên công việc cho những học sinh chưa được
chuyên môn hoá về một nghề hay ngành cụ thể.Trong các doanh nghiệp này,học
sinh sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho người khác với tư cách là một bộ phận của
việc học tập của các em tại trưòng.Thậm chí có những doanh nghiệp tự gọi mình là
“một nhà máy dạy học” về một số mặt, những doanh nghiệp này đươcj tổ chức như
công ty chứ không phải là một nhà trường với một chế dộ làm việc,trả lương như
một doanh nghiệp thực thụ.Một số doanh nghiệp đi xa hơn bằng cách lập ra trường
hợp riêng của doanh nghiệp.
Cộng tác với các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu: Sự nương tựa này
một nhiều vào những tiến bộ trong kiến thức và khoa học, công nghệ sẽ tận dụng
những cơ hội trợ cho các doanh nghiệp thành công.Muốn vậy,các công ty phải cộng
tác với các trưòng đại học và các trung tâm nghiên cứu.Sự hợp tác giữa các trường
đại học và giới kinh doanh được nhiều tầng lớp ủng hộ.Cho nên chi phí cho đào tạo,
GD rất cao.
KẾT LUẬN
Xu hướng xây dựng và phát triển tri thức là xu hướng tất yếu của lịch sử, không
riêng gì CNTB. Vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn
minh" Việt nam không thể đi ngược xu hướng đó. Nước ta đã nắm bắt được rất
nhiều cơ hội và từ đó có thể phát triển nền tri thức, theo kịp nền kinh tế của các
nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn mà chúng ta phải
vượt qua. Nước ta phải vận dụng những điều kiện thuận lợi để đẩy lùi nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, tiến vào thời kỳ công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tăng
cường mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, tìm hiểu kinh nghiệm của các nước tiên
tiến. Và một điều quan trọng nữa là phải chăm lo đến cải cách giáo dục về con
người và vật chất nước nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí kinh tế và phát triển - Số chuyên đề của kinh tế Mac-Lênin
(Tháng 11/2001)
2. Tạp chí Kinh tế và Phát triển - Số 48/2001
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
4. Tạp chí Khoa học xã hội