Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Nguyễn trãi quốc âm thi tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 71 trang )

VIỆN VIỆT-HỌC

NGUYỄN TRÃI
QUỐC ÂM THI TẬP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN KHOA SAIGON
BAN VĂN CHƯƠNG QUỐC ÂM
TÀI LIỆU SỐ 1
TRẦN VĂN GIÁP & PHẠM TRỌNG ĐIỀM phiên âm
Lê Văn Đặng soạn Bản Điện Tử
LỜI NÓI ĐẦU
Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn-Trãi, nguyên bản bằng chữ nôm trong Úc Trai Tập, quyển VII, số hiệu
A. 68 hiện lưu trử tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà nội và Thư viện Quốc gia Paris. Phòng nghiên cứu
hiện có 1 bộ Ức Trai Tập bằng vi điện ảnh và đã cho in ra thành ảnh hiện lưu trử tại Thư viện của Phòng.
Ức Trai Tập (hay Ức Trai Di Tập) do các bậc danh nho biên soạn từ đời Minh-Mạng và đến năm TựĐức thứ 21 (1868 Mùa Thu năm Mậu Thìn) mới đem in và xuất bản. Trước đây, vào năm Hồng-Đức thứ
II (1480) một bậc tiền nho là Trần-khắc-Kiệm đã biên soạn thi văn của Nguyễn-Trãi theo ý của vua Lêthánh-Tôn, thu góp lại trong bộ "Ức Trai Di Tập" nhưng toàn bộ này không được lưu truyền đến nay.
Vì thế, tài liệu cổ nhất mà chúng ta hiện có về thi văn Nguyễn-Trãi là bộ Ức Trai Tập số hiệu A. 68
nói trên. Bộ sách này gồm có 7 quyển :
Quyển thứ nhất :

Thi Tập

Quyển thứ hai

:

Nguyễn-phi-Khanh Thi Văn Tập

Quyển thứ ba

:


Văn Tập

Quyển thứ tư

:

Quân Trung Từ Mệnh Tập

Quyển thứ năm :

Truyện Nguyễn-phi-Khanh và các bài chiếu, bài chế

Quyển thứ sáu :

Ức Trai Dư Địa Chí

Quyển thứ bảy :

Quốc Âm Thi Tập

Phòng nghiên cứu hiện đang cho phiên dịch và phiên âm toàn bộ sách này. Bản phiên âm Quốc Âm
Thi Tập sau đây là do hai học giả Trần-văn-Giáp và Phạm-trọng-Điềm, nguyên chuyên viên khảo cổ của
Trường Bác Cổ Viễn Đông Hà nội phiên âm, và do phòng nghiên cứu sưu tầm được. Trước khi phòng
nghiên cứu hoàn thành công việc phiên dịch và phiên âm toàn thể bộ Ức Trai Tập, chúng tôi thiết nghĩ
nên phát hành ngay tài liệu này (mặc dù có nhiều chữ nôm xưa mà trong lối phiên âm vẫn cò tồn nghi,
nhiều bài thơ vẫn còn nghi vấn vì giống với thơ của Nguyễn-bỉnh-Khiêm), để sinh viên và giáo sư có thể
có ngay một tài liệu quí báu để xử dụng trong lối tìm hiểu một thi hào dân tộc từ thế kỷ thứ XV.
Huế, tháng VI năm 1961
PHỤ CHÚ VỀ VĂN BẢN
Bản phiên Quốc Âm Thi Tập, in Roneo, được lưu trử tại thư viện Suzzallo thuộc Trường Đại Học

Washington. Trước 75, bản nầy được dùng làm tài liệu cho Trường Đại Học Văn Khoa Saigon, nhưng để
lại khá nhiều lỗi, và chữ dùng không thống nhứt, như: Bui / Vui, trời / giời, trăng / giăng, nghìn / ngàn ...
[chúng tôi chỉ giữ lại một cách ghi và không thêm phụ chú về việc nầy] ; dấu ? chỉ chỗ tồn nghi.
Những chữ chúng tôi đề nghị thay, nếu cần, có kèm theo chữ Nôm dẫn chứng, được so với nguyên bản chữ
Nôm và ghi ở cuối câu để tiện tham khảo. LVĐ.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

1


VIỆN VIỆT-HỌC
A- VÔ ĐỀ
I- VÔ ĐỀ
1. Thủ vĩ ngâm1
1.
Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dễ ai quyến,
[ bà]

Bầy2 ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi, khôn thả cá,
Nhà quen xuế xoá ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian.
PHỤ CHÚ:

1) Thủ vĩ ngâm là một thể thơ theo đó câu cuối [vĩ] lặp lại câu đầu [thủ];
bài thơ nầy không có tên [vô đề].

2)  bà = bầy
CHÚ THÍCH: Theo bài tựa của Trần-khắc-Kiệm đề ở Ức Trai Di tập (ngày3 tháng 2 năm Hồng Đức thứ
II (1480), thì bài thơ này là bài Ức-Trai tiên sinh làm, khi bị người Minh bắt giữ trong thành. Chúng thấy tiên
sinh là bậc đại tài, muốn dùng làm quan, nhưng biết không thế nào dụ nổi, lại càng kính trọng. Sau vì được bỏ
lỏng, tiên sinh tìm kế trốn thoát, rồi đi theo Lê-Lợi ở Lỗi-giang.
Bản B 4 trong tập thơ không có bài này, nhưng trái lại trong thiên Lịch , sau khi chép việc tiên sinh khi từ
biệt phụ thân Phi Khanh bị quân Minh bắt đi, có chua cả bài, có đôi chữ khác, như sau:
Góc thành Nam, lều một căn,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dễ ai khiến,
Bầy ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao vợi hẹp hòi, nào dưỡng cá,
Nhà quen thuể thoả, ngại nuôi vằn.
PHỤ CHÚ:
3) Ngày lành tháng hai năm Canh Tý, Hồng Đức 11 (1480).
4) Tài liệu không ghi bản B là bản nào.
II. Ngôn Chí [21 bài]
1
2.
Thương, Chu bạn cũ các chư đôi,
Sá lánh thân nhàn thủa việc rồi.
Gội tục, trà thường pha nước tuyết,
Tầm thanh trong vắt tiễn chè mai.

2

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC


Chim kêu, hoa nở ngày xuân tĩnh,
Hương lọn, cờ tàn tiệc khách thôi.
Vui có một niềm chăng nỡ trễ,
Ðạo làm con mấy đạo làm tôi.
2
3.
Lão thiếu chưa nên tiết trượng phu,
Miễn là phóng dáng đạo tiên nho.
Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng,
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu.
Dưới công danh đeo khổ nhục,
Trong dầy dãi có phong lưu.
Mấy người ngày nọ thi đỗ,
Lá ngô đồng thủa mạt thu.
3
4.
Am trúc hiên mai ngày tháng qua,
Thị phi nào đến cõi yên hà.
Bữa ăn dù có dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm là,
Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt,
Ðất cày ngõ ải luống ương hoa.
Trong khi hứng động bề đêm tuyết,
Ngâm được câu thần dửng dửng cả.

[歌 ca]
4

5.

Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm,
Dơ 5 tay áo, đến tùng lâm.
Rừng chiều cây rợp, hoa chày động,
Ðường ít người đi, cỏ kíp xâm.
Thơ đái tục hiềm câu đái tục,
Chủ vô tâm ỷ khách vô tâm.
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy,
Năng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm.
PHỤ CHÚ:
5) 𢷀包饒蓓蓓淋、襖旦叢林。

 chữ hội âm 

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

3


VIỆN VIỆT-HỌC

5
6.
Làm người chẳng có đức cùng tài,
Ði, nghỉ đều thì kém hết hai.
Hiểm hóc cửa quyền chăng lọt lẫn,
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai.
Dễ hay ruột biển sâu cạn,

 chữ hội ý  ngắn


Khôn biết lòng người ngấn dài.
Sự thế dữ, lành ai hỏi đến
Bảo rằng ông đã điếc hai tai.

6
7.
Trường ốc ba thu uổng mỗ danh,
Chẳng tài đâu xứng chức tiên sinh,
Cuốc cùn ước tháo vườn chư tử,
Thuyền mọn khôn đua biển lục kinh.
Án sách, cây đèn, hai bạn cũ,
Song mai, hiên trúc, một lòng thanh.
Lại mừng nguyên khi vừa thịnh,

[氣 khí]

Còn cạy vì hay một chữ đinh.

[ cậy]
7

8.
Ðã mấy thu nay để lề nhà
Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha.
Một thân lẩn quất đường khoa mục,
Hai chữ mơ màng việc quốc gia
Tài liệt lạt nhiều, nên kém bạn,

 chữ hình thanh 𤷱 mòn


Người còn mỏi, hết phúc còn ta.
Quân thân chưa báo lòng canh cánh,
Tình phụ cơm trời áo cha.

8
9.
Túi thơ bầu rượu quản tình suông,
Quẩy dụng đầm hâm may dặm đường.
Ðài Tử Lăng cao, thu mắt,

 chữ hội ý 𠇍 mấy
 mượn âm 沫(mạt) mát

Bè Trương Khiên nhẹ, khách sang.

4

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Tằm ươm lúc nhúc, thuyền đầu bãi.
Hào chất so le, khóm cuối làng.
Ngâm sách thằng chài trong thủa ấy.
Tiếng trào dậy khắp Thương Lang.
9
10.
Sang cùng khó bởi chưng trời
Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi.

Tả lòng thanh, vị núc nác,
Vun đất ải, luống mùng tơi
[節 tiết]

Liêm, cần thiết cả tua hằng nắm
Trung, hiếu niềm xưa mã nỡ rời.
Con cháu chớ hiềm song viết ngặt
Thi thư thực ấy báu Ngàn đời.

10
11.
Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy,
Có thân chớ phải lợi danh vây.
Ðêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén,
Ngày vắng xem hoa bợ cây
Cây cớm chồi cành, chim kết tổ,
Ao quang mấu ấu, cá nên bầy.
Ít nhiều tiêu sái lòng ngoại thế,
Năng một ông này đẹp thú này.
11
12.
Cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân,
Trúc rợp hiên mai quét tục trần.
Nghiệp cũ thi thư hằng một chức,
Duyên xưa hương hỏa tượng ba thân.
Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt,
Ðổ Phủ thơ nên bút có thần.
Nợ quân thân chưa báo được,
Hài hoa còn bện dặm thanh vân.


QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

5


VIỆN VIỆT-HỌC

12
13.
Thân nhàn dầu tới, dầu lui,
Thua được bằng cờ ai kẻ đôi.
Bạn cũ thiếu, ham đèn mấy sách
Tính quen chăng ? kiếm trúc cùng mai.
Cày gióng tuyết, ngâm đòi cảnh,
Cuốc chơi xuân, khắp mọi đồi.
Con cháu mã hiềm song viết tiện,
[頭 đầu]

Ngàn dầu cam quít ấy là tôi.

13
14.
Tà dương bóng ngả thủa hồng lâu,
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc leo cây điểm phấn,
[豸 dãi]

Cõi đông dải nguyệt in câu6.
Khói chìm thủy quốc quyến phẳng,
Nhạn triện hư không gió thau.

Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ,
Trời ban tối, ước về đâu?
PHỤ CHÚ:

6) Bản Nôm ghi 東豸月印鈎 Quỹ đông trãi nguyệt in câu.
14
15.
Vừa sáu mươi dư tám chín thu,
Lưng gầy da nẻ, tướng lù khù.
Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào, Hứa,
Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng, Chu.
Bát cơm thoàng, nhờ ơn xã tắc.
Gian lều cỏ, đội đức Ðường, Ngu.
Tơ hào chẳng có đền ơn chúa,
Dạy láng giềng, mấy sĩ nho.
15
16.
Am cao, am thấp đặt đòi từng,
Khấp khểnh ba làn trở lại bằng.

6

[𠀧 ba làn] Xem 77-3

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Quét trúc, bước qua lòng suối,

Thưởng mai, về đạp bóng trăng.
Phần du lẽo đẽo thương quê cũ,
Tùng cúc bù trì nhớ việc hằng.
Một phút thanh nhàn trong thủa ấy,
Thiên kim ước đổi được hay chăng?
16
17.
Tham nhàn lánh đến giang san,
Ngày vắng xem chơi, sách một an.
[sẻ] ?

Am rợp chim kêu hoa sẽ động,
Song âm hương tạn khói sơ tàn.
Mưa thu tưới ba đường cúc
Gió xuân đưa một luống lan.

[隐 Ẩn]

Ấn cả lọ chi thành thị nữa,
Nào đâu là chẳng đất nhà quan.

17
18.
Ðột xung biếng tới áng can qua,
Ðịch lều ta, dưỡng tính ta.
Song viết hằng lề phên sách cũ
[遥 dao]

Hôm chiều đủ bữa bát cơm xoa
Ðêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc

Ngày vắng chim kêu cuối khóm hoa
Quân tử hãy lăm bền chí cũ,
Chẳng âu ngặt, chẳng âu già.

18
19.
Thương Lang mấy khảm một thuyền câu,
Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu?
Nguyệt mọc đ ầu non, kình dõi tiếng,
Khói tan mặt nước, thận không lầu.
Giang sơn dạm dược đồ hai bức,

 mượn âm 特(đặc) được

Thế giới đông nên ngọc một bầu.
Ta ắt lòng mừng Văn Chính nữa,

[chính] ?

Vui, xưa chẳng quản đeo âu.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

7


VIỆN VIỆT-HỌC

19
20.

Nếu có ăn thì có lo,
Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho.
Ngày nhàn mở sách xem Chu Dịch,
Ðêm vắng tìm mai bạn Lão Bô.
Ðã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc,
Cho hay đường lợi cực quanh co.
Tuồng ni cộc được bề hơn thiệt,
Chưa dễ bằng ai đắn máy đo.
20
21.
Dấu người đi, là đá mòn,
Ðường hoa vắng vẻ trúc luồn.
Cửa song dãi, xâm hơi nắng,
Tiếng vượn vang kêu, cách non,
Cây rợp tán che am mát,
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.
Cò nằm, hạc lặn nên bầy bạn,
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
21
22.
Chẳng hay rắp rắp đã bốn mươi,
Ngày tháng bằng thoi một phút cười.
Thế sự người no ổi tiết bảy,
Nhân tình ai ủ cúc mồng mười.
Thuyền chèo đêm nguyệt, sông biếc,
Cây đến ngày xuân, lá tươi.
Phú quí chẳng tham, thanh tựa nước,
Lòng nào vây mỗ hơi hơi.
III. MẠN THUẬT [14 bài]
1

23.
Ngày tháng kê, khoại những sản hằng,

[󰆈 kê khoai]

Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.
Ðạo ta cậy bởi chân non khoẻ,

8

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Lòng thế tin chi mặt nước bằng.
Trì cỏ, được câu ngâm gió,
Hiên mai, cầm chén hỏi trăng.
Thề cùng viên hạc trong hai ấy,
Thấy có ai han chớ đãi đằng.
2
24.
Ngẫm ngượi sơn lầm mấy thị triều,

[吟𠮾 ngẫm ngột] [ 林 lâm]

Nào đâu là chẳng đất Ðường Nghiêu.
Người tham phú quí, người hằng trọng,
Ta được thanh nhàn, ta sá yêu.
Nô bộc ắt còn hai rặng quít,

Thất gia chẳng quản một con lều.
Miễn là tiêu sái qua ngày tháng,
Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-51
3

25.
Có mống tự nhiên lại có cây,
Sự làm vương vất ắt còn chầy,
Thủy chung mỗ vật đều nhờ chúa,
Ðộng tĩnh nào ai chẳng bởi thày.
Hỉ nộ cương nhu tuy đã có,
Nghĩa, nhân, lễ, trí mã cho khuây.
Hay văn, hay võ, thời dùng đến,
Chẳng đã, khôn ngay, khẻo đầy.
4
26.
Ðủng đỉnh chiều hôm dắt tay,
Trông thế giới, phút chim bay.
Non cao, non thấp, mây thuộc,
Cây cứng, cây mềm gió, hay.

[cây mềm, gió hay]

Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẵn nay.

[ nhẫn]


Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Vui một lòng người cực hiểm thay.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

9


VIỆN VIỆT-HỌC

5
27.
Sơn thủy nhàn chơi phận khó khăn,
Cửa quyền hiểm hóc ngại chôn chân.
Say minh nguyệt, chè ba chén,

迪 Ðịch]

Dịch thanh phong, lều một gian.

[

Ngỏ cửa nho, chờ khách đến,
Trồng cây đức, để con ăn.
Ðược thua phú quí dầu thiên mạng,
Chen chóc làm chi cho nhọc nhằn ?

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-94
6


28.
Ðường thông thủa gióng một cày,
Sự thế bao nhiêu vuỗn đã khuây.
Bẻ cái trúc, hòng phân suối,
Quét con am, để chứa mây.
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
Dù bụt, dù tiên ai kẻ hỏi,
Ông này đã có thú ông này.
7
29.
Ở chớ nề hay học cổ nhân,
Lánh mình cho khỏi áng phong trần.
Chim kêu cá lội yên đòi phận,
Câu quạnh cày nhàn dưỡng mỗ thân.
Nhà ngặt túi không tiền mẫu tử,
Tật nhiều thuốc biết vị quân thần.
Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa,
Sá tiếc mình chơi áng thủy vân.
8
30.
Chân chăng lọt đến cửa vương hầu,
Ấy tuổi nào thế đã bạc đầu.
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách,
Ðem công danh đổi lấy cần câu,

10

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ



VIỆN VIỆT-HỌC

Thân đà hết lụy thân nên nhẹ,
Bụt ấy là lòng, bụt há cầu.
Vui một quân thân, ơn cực nặng.
Tơ hào chưa báo hãy còn âu.
9
31.
Am quạnh thiêu hương đọc ngũ kinh,
Linh đài sạch một đường thanh.
Nhà còn thi lễ, âu chi ngặt,
Ðời phạp văn chương, uỗng mỗ danh.

[枉 uổng]

Ðầu tiếc đội mòn khăn Ðỗ Phủ,
Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh.
Chi là của, tiêu ngày tháng ?
Thơ một hai thiên, rượu một bình.
10
32.
[ bào]

Tưởng thân hư ảo nổi bằng hài,
Chí cũ công danh, uốn lưỡi dao.
Viện có hoa tàn chăng quét đất,
Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo.
Lòng người tựa mặt, ai ai khác,
Sự thế bằng cờ, bước bước nghèo.

Không hết kể chi tay trí thuật,
Ðể đòi khi ngã, mất khi yêu.

11
33.
Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân,
Lẳng thẳng chưa lìa lưới trần.
Ở thế những hiềm qua mỗ thế,
Có thân thì sá cộc chưng thân.
Vườn còn, thông trúc đáng năm mẫu,
Câu ước, công danh đổi một cần.
Miệt bẻ, hài gai, khăn cóc,
Thênh thang làm mỗ đứa thôn dân.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

11


VIỆN VIỆT-HỌC

12
34.
Trường văn nằm ngả mấy thu dư,
Uổng tốn công, nhàn biện lỗ, ngư.
Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ,
Có lòng bằng trúc mỗ nên hư.
Yên từ nẻo lạc nhà Vương, Tạ,
Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư.
Chỉn sá lui mà thủ phận,

Lại tu thân khác, mức thi thư.
13
35.
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song, mai tỉnh hồn Cô-dịch,
Kề nước, cầm đưa tiếng Cửu-cao.
Khách đến, vườn còn hoa lác,
Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh nhường ấy chăng về nghỉ ?
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
14
36.
Án tuyết mười thu uổng độc thư,
Kẻo còn lọt đọt chữ Tương Như.
Nước non kẻ khắp quê “hà hữu”,

[計 kể]

Sự nghiệp nhàn khoe phú “tử hư”.
Con mắt hào7 xanh đầu dễ bạc,

[hoà]

Lưng khôn uốn, lộc nên từ.
Ai ai đều đã bằng câu hết,
Nước chẳng còn có Sử Ngư.
PHỤ CHÚ:
7) Bản Nôm viết nhiều nét chồng lên nhau


12

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

IV. TRẦN TÌNH [9 bài]
1
37.
Từ ngày gặp hội phong vân,
Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân.
Gánh, khôn đương quyền tướng phủ,
Lui, ngõ được đất nho thần,
Ước bề báo ơn minh chúa,
Hết khoẻ phù đạo thanh nhân.
Quốc phú binh cường chăng có chước,
Bằng tôi nào thửa ích chưng dân.
2
38.
Vàng bạc nhà chăng có mỗ phân,
Lánh đời cơm hẩm được no ăn.
Lọn thủa đông, hằng nhờ bếp,
Suốt mùa hè, kẻo đắp chăn.
Ác thỏ tựa thoi, xem lặn mọc,
Cuốc cày là thú, những bon chân.
Cậy trời còn có bấy nhiêu nữa,
Chi tuổi chăng hiềm kẻ khó khăn.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-61

3

39.
Vầu làm chèo, trúc làm nhà,
Ðược thú vui, ngày tháng qua.
Cơm kẻ bất nhân, ăn, ấy8 chớ...
Áo người vô nghĩa, mặc, chăng thà...
Ngôi triều quan, mấy hay ơn chúa,

[買(mãi) mới]

Sinh được con thì cảm đức cha.
Mừng thủa thái bình yêu hết tấc,
No lòng tự tại quản chi là.
PHỤ CHÚ:
8) ấy:

 mượn âm chữ 倚 / 𠋣(ỷ) [ỷ → ấy]
4

40.
Lồng lộng trời, tư9 chút đâu,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

13


VIỆN VIỆT-HỌC


Nào ai chẳng đội ở trên đầu.
[雲 vân]

Song cửa ngọc, vận yên cách,
Dãi lòng đan, nhật nguyệt thâu.
Chim đến cây cao, chim nghĩ đỗ,
Quạt hay thu lạnh, quạt sơ thu.
Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế,

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-59

Át đã tròn bằng nước ở bầu.

 mượn âm 乙(ất) Ắt

PHỤ CHÚ:
9) Có thể đọc toàn âm Nôm: Lồng lộng trời, riêng chút đâu [“riêng” đọc nghĩa chữ 私 (tư)]
5
41.
Con cờ quẩy, rượu đầy bầu,
Ðòi nước non, chơi quản dầu.
Ðạp áng mây, ôm bó củi,
Ngồi bên suối, gác cần câu.
Giang sơn mặt thấy nên quen thuộc,
Danh lợi lòng nào ước chuốc cầu.
Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi,
Lào phới phới thấy tiên đâu?
6
42.
Chèo lan nhàn bát thủa tà dương,

Một phút qua [ ] một lạ dường.10
Ngàn nọ so miền Thái Thạch,
Làng kia mở cảnh Tiêu Tương.
Hàng chim ngủ, khi thuyền đỗ,
Vừng nguyệt lên thủa nước cường.
Mua được thú mầu trong thủa ấy,
Thế gian hay một khách văn chương.
PHỤ CHÚ:
10) Bản Nôm in thiếu một chữ: 𤼵戈邏。Một phút qua [ ] một lạ dường.
7
43.
Chén chăng lọ thuốc rượu La Phù,

[祝 chuốc]

Khách đến ngâm chơi, miễn có câu.
Lòng một tấc son, còn nhớ chúa,

14

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Tóc hai phần bạc, bởi thương thu.
Khó bền, mới phải người quân tử,
Mạnh gắng, thì nên kẻ trượng phu.
Cày ruộng, cuốc vườn dầu hết khoẻ,
Tôi Ðường Ngu ở đất Ðường Ngu.

8
44.
Chớ cậy sang mà ép nề,
Lời chẳng phải vưõn khôn nghe.
[抅䂓 Co que]

Quanh co thế bấy, ruột ốc,
11

Khúc khuỷu làm chi, lái hoè .
Hai chữ công danh chăng cảm cộc,
Một trường ân oán những hằm hè.
Làm người mã cậy khi quyền thế,
Có thủa bàn cờ tốt đuổi xe.
PHỤ CHÚ:
11) Có bản phiên “trái hoè”: 抅䂓世閉𦛌沃、曲考之𢁑槐。
Co que thế bấy, ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi, trái hoè.
9
45.
Bảy tám mươi bằng một bát tay,
Người sinh ở thế mỗ nhàn thay.
Lan-đình tiệc họp, mây huyễn,
Kim-cốc vườn hoang, dế cày.
Nhật nguyệt soi, đòi chốn hiện,
Ðông hè trải, đã xưa thay.
Ta còn lẳng đẳng làm chi nữa,
Tượng có trời bày đặt vay.
V. THUẬT HỨNG [25 bài]
1
46.

Trúc mai bạn cũ họp nhau quen,
Cửa mận tường đào chân ngại chen.
Chơi nước chơi non đeo tích cũ,
Qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

15


VIỆN VIỆT-HỌC

Thời nghèo sự biến nhiều bằng tóc,
Nhà ngặt, quan thanh lạnh nữa đèn.
Mùi thế đắng cay cùng mặn chát,
Ít nhiều đà vẻ một hai phen.
2
47.
Có thân thì cộc khá làm sao,
Lửng vửng công hư tuổi tác nào.
Người ảo hoá khoe thân ảo hoá,
Thủa chiêm bao thốt sự chiêm bao.
Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm.
Ðường thế nào nơi chẳng thấp cao.
Ai rằng mai hoa thanh hết tấc,
Lại chăng được phép khúc Ly tao.
3
48.
Một cày, một cuốc thú nhà quê,
Áng cúc lan chen vãi đậu kê.

Khách đến chim mừng hoa xẩy động,
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.
[浪 rằng]

Bá-Di người rặng thanh là thú,
Nhan-tử ta xem ngặt ấy lề.
Kệ tiếng dữ lành tai quản lấp,
Cầu ai khen, mấy lệ ai chê?

4
49.
Văn này ngâm thấy mỗ thôn viên,
Thương hải hay khô thiết thạch mòn.
Chí cũ ta liều nhiều sự hóc,
Người xưa, lại chép thấy ai còn.
Nguyệt xuyên, há dễ thâu lòng trúc.
Nước chảy, âu khôn siết bóng non.
Song viết lại toan nào của tích,
Bạc mại vàng cúc để cho con.

16

[梅 mai]

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

5

50.
Ðến trường đào mận ngạt chẳng thông,
Chúa cũ ưa làm chúa cúc thông.
Sầu nặng Thiếu-lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc-hải chén chưa không.
Mai chăng bẻ, thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun, tiếc chiéu rồng.
Vui một tấc lòng ưu ái cũ,
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
6
51.
Cảnh cũ non quê nhát chốc mồng,
Chiêm bao ngờ đã đến trong.
Trà tiên, nước kín, bầu in nguyệt,
Mai rụng, hoa đeo, bóng cách song.
Gió nhặt đưa qua trúc ổ,
Mây tuồn phủ rợp thư phòng.
Thức nằm nghĩ ngợi còn mường tượng,
Lá, chưa ai quét cửa thông.
7
52.
Con lều mòn mọn đẹp sao,
Trần thế chăng cho bén mỗ hào.
Khách lạ đến ngàn hoa chưa rụng,
Câu màu ngâm, dạ nguyệt càng cao.
Những màng lẩn quất vườn lan cúc,
[乙 Ắt]

Át ngại lanh tranh áng mận đào.
Ngựa ngựa, xe xe la ỷ tốt,

Dập dìu là ấy chiêm bao.

8
53.
Hễ kẻ làm quan đã có duyên,
Tới lui mặc phận tự nhiên.
Thân xưa hương hoả chăng còn ước,
Chí cũ công danh đã phỉ nguyền.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

17


VIỆN VIỆT-HỌC

Trẻ12 hoà sang, ấy phúc,
Già được trọn, là tiên.
Cho về, cho ở đều ơn chúa,
TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-56

Lọ phải bon chen đến cửa quyền.
PHỤ CHÚ:
12) QÂTT có ba chữ đọc "trẻ":

𥘷

53-5 ; 󰇬 78-5 ;  ? 104-6.
9


54.
Cột cây là đá lấy làm nhà,
Lân các ai hầu mạc đến ta.
Non lạ, nước thanh làm náu13,
Ðất phàm, cõi tục cách xa.
Thiên-thai hái thuốc, duyên gặp,
Vị-thủy gieo câu tuổi già.
Cốt lạnh, hồn thanh chăng khứng hoá,
Âu còn nhớ chúa cùng cha.
PHỤ CHÚ:
13) Bản Nôm viết chữ 鬪 (đấu) thay vì chữ 鬧 (náo, náu) ;
âm Nôm phải là :

 [mượn âm] 鬪 (đấu) dấu
10

55.
Kim-cốc phong lưu, nữa để hoang,
Hôm mai uổng chịu nhục toan đang.
Giàu mấy kiếp, tham lam bấy,
Sống bao lâu, đáo để màng.
La ỷ dập dìu, hàng chợ họp,
Chấm câu : rịn, tổ

Cửa nhà bịn rịn tổ ong tàng.
Thiên thơ, án sách qua ngày tháng,
Một khắc cầm nên mấy lạng vàng.

11
56.

Ruộng đôi ba khảm, đất con ong,
Ðầy tớ cười cày kẻo muộn mùng.
Sự có cầu người, nên lé mặt,
Phận tuy rằng khó, miễn yên lòng.
Thu êm, cửa trúc, mây phủ,

18

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Xuân tĩnh, đường hoa, gấm phong.
Ai có cửa thông phòng thết khách,



Một ao niềng niễng mấy đòng đong.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-57

chữ hình thanh

𧵑 của

12
57.
Nhà ngặt bằng ta, ai kẻ vì,
Khó khăn phải lụy đến thê nhi.

Ðắc thời, thân thích chen chân đến,
Thất sở, láng giềng ngảnh mặt đi.
[󰄕 Lều]

Lu tiện, Nhan Uyên tìm tới đỗ,
Ðường cùng, Nguyễn Tịch khóc làm chi.
Thư song vắng vẻ nhàn vô sự,
Tai chẳng còn nghe tiếng thị phi.

13
58.
Buồng văn khép cửa lọn ngày thu,
Ðèn sách nhàn làm song viết nho.
Thua được, toan chi cơ Hán Sở,
Nên chăng, đành lẽ kiện Thương Chu.
Say mùi đạo, trà ba chén,
Tả lòng phiền, thơ bốn câu.
Khó, miễn vui, chăng thửa trách,
Vì chưng đời có chúa Ðường, Ngu.
14
59.
[𧗱 về]

Am quê vè ở dưỡng nhàn chơi,
Yên phận, yên lòng kẻo tiếng hơi.
Ta quản tiêu dao, qua mỗ thế,
Ai từng phú quí mấy trăm đời ?
Thân nhàn đến chốn dầu tự tại,
Xuân muộn, nào hoa chẳng rụng rời.
Nhẫn thấy Ngu-công tua sá hỏi :

Non từ nay má tốn công dời.

[馬 mã]
15

60.
Ngại ở nhân gian lưới trần,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

19


VIỆN VIỆT-HỌC

Thời nằm thôn dã, miễn yên thân.
Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử,
Viên hạc đà quen bạn dật dân.
Hái cúc, ương lan, hương bén áo,
Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn.
Ðàn cầm suối, trong tai dõi,
Còn một non xanh là cố nhân.
16
61.
Già chơi dầu có của no dùng,
Chén rượu câu thơ ấy hứng nùng.
Ngủ đành hanh nằm cửa trúc,
Say lểo đểu đứng đường thông.
Làm quan thơ dại tài chăng đủ,
Về ở thanh nhàn hẹn đã nung14.

Dăng dẳng người rằng chuông ấy thạch,
Ðóng, thời cũng có tiếng “coong coong”.
PHỤ CHÚ:
14) 烘 (hồng) nung; chữ GIẢ TÁ

 mượn nghĩa.
17

62.
[西 tây]

Thân nhàn dạo khắp tày đông,
Ðường tới mười thu khỏi bụi hồng.
Dịp, huyện hoa còn quến khách,
Rày, biên tuyết đã nên ông.
Ðành hay thương hải đòi thời biến,
Ðà biết nhân gian mọi sự không.
Chẳng phạp giang hồ nơi vắng vẻ,
Cảnh thanh lọ ước cảnh non Bồng.

18
63.
Phú quí bao nhiêu người thế gian,
Mơ mơ bằng thủa giấc Hoè-an.
Danh thơm, một áng mây nổi,
Bạn cũ, ba thu lá tàn.
Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt,

20


QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Thề xưa, hổ có giang san.
Ấy còn cậy cục làm chi nữa,
Nếu cốt chưa nòng chẩm chửa toan.
19
64.
[站(trạm) chụm

Chiếm15 tự nhiên một thảo am,

?]

Dầu lòng đi bắc mấy về nam.
Trường thiền định, hùm nằm chực,
Trái thì trai vượn nhọc đem.
Núi láng giềng, chim bầu bạn,
Mây khách khứa, nguyệt anh tam.
Tào-khê rửa, ngàn tầm suối,
Sạch chẳng còn một phút phàm.
PHỤ CHÚ:
15) QÂTT có tám chữ bản phiên ghi "chiếm", viết bốn dạng khác nhau:
2 dạng
2 dạng

 hình thanh 𥿕 , 𥱱;
 mượn âm 站(trạm) ,占 (chiêm)


站(trạm) 64-1 ; 𥿕

102-1, 105-2; 𥱱 125-41; 占 (chiêm) 81-7,8; 212-4; 226-3; 247-1
20

65.
Non Phú-xuân cao nước Vị thanh,
Mây quen nguyệt, khách vô tình.
Ðất thiên-tử dưỡng tôi thiên-tử,
Ðời thái bình ca khúc thái bình.
Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị,
Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh.
Rày mừng thiên hạ hai của,
Tể tướng hiền tài chúa thánh minh.
21
66.
Khó khăn thì mặc, có màng bao,
Càng khó bao nhiêu chí mấy hào.
Ðại địa dầy, Nam-nhạc khoẻ,
Cửu tiêu vắng, Bắc thần cao.
Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh,
Chứa thủa khô khao có thủa dào.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

21


VIỆN VIỆT-HỌC


Kìa nếu Tô Tần ngày trước,
TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-47

Chưa đeo tướng ấn có ai chào!

22
67.
Chiếm tự nhiên một tấm lều,
Qua ngày tháng, lấy đâu nhiều.
Gió tiễn rèm, thay chổi quét,
Trăng kề cửa, kẻo đèn khêu.
Cơn ăn chẳng quản dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm thêu.
Tựa gốc cây, ngồi hóng mát,
Đìu hiu ta hãy một đìu hiu16.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-73

PHỤ CHÚ:
16) Bản Nôm viết “󰄕 lều hiu”; NVS đọc "leo heo".
QATT-67:
NBK-73:

𢭸核𡎢烘𠖾、 Tựa cội cây ngồi hóng mát,
󰄕囂些矣󰄕囂。 Lều hiu ta hãy một lều hiu .
條些咳條。 Đìu hiu ta hãy một đìu hiu .
23

68.

Bình sinh nhiễm được tật sơ cuồng,
Con cháu chiều ngày chịu khó dương.
La, ỷ lấy đâu, chăng lướt thướt,
Hùng, ngư khôn kiếm, phải thèm thuồng.
Ao quan, thả gửi hai bè muống,
Ðất Bụt, ương nhờ một luống mùng.
Còn có một lòng âu việc nước,
Ðêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.
24
69.
Công danh đã được hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi thế ngợi khen.
Ao cạn, vớt bèo cấy muống,
Trì thanh, phát cỏ ương sen.
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà năng với then.

[ nặng]

Vui có một lòng trung mấy hiếu,

22

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen.
25

70.
Lánh trần, náu thú sơn lâm,
Lá thông đàn, tiếng trúc cầm.
Sách cũ, ngày tìm người hữu đạo,
Trì thanh, đêm quến, nguyệt vô tâm.
Say, hết tấc lòng hồng hộc,
[今 câm/kim]

Hỏi, làm chi sự cổ cầm.
Thế sự, dầu ai hay buộc bện,
Sen nào có bén cùng lầm !

VI. TỰ THÁN (41 bài)
1
71.
Càng một ngày càng nhặt đến xương,
Ắt vì số mệnh, ắt văn chương.
Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu,
Kẻ hãy bằng quì hướng thái-dương.
Trà thủa tiên, thời mình kín nước,
Cầm khi đàn, khiến thiếp thiêu hương.
Non quê này ngọ chiêm bao thấy,
Viên, hạc, chăng hờn, lại những thương.
2
72.
Non hoang tranh vẽ chập hai ngàn...
Nước mấy dòng thanh, ngọc mấy hàn.
Niềm cũ sinh linh, đeo ắt nặng17,
Cật trưng hồ hải, đặt chư an.
Những vì chúa thánh âu đời trị,

Há kể thân nhàn, tiếc tuổi tàn.
Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt,
Túi thơ chứa hết mọi giang san.
PHỤ CHÚ:
17) Chấm câu: Niềm cũ, sinh linh đeo ắt nặng ...

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

23


VIỆN VIỆT-HỌC

3
73.
Dương trường đường hiểm khúc cong queo18,
Quê chợ bao nhiêu khách để xe.
Phú quí liều19, sương ngọn cỏ,
Công danh gửi, kiến cành hoè.
Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc,
Ngày tháng tiêu ma một bát chè.
Chân chạy, cánh bay ai mỗ phận;
Thiên công nào có thửa tư che.
PHỤ CHÚ:
18) co que: 規
19) treo: 
4
74.
Non nước cùng ta đã có duyên,
Ðược nhàn sá dưỡng tính tự nhiên.

Trường-canh hỏi nguyệt tay dừng chén,
Pha-lão chơi thu khách nổi thuyền.
Lòng chẳng mắc tham là của báu,
Người mà hết lụy ấy thần tiên.
Vua Nghiêu, Thuấn, dân Nghiêu, Thuấn,
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền.
5
75.
Thiếu niên trường ốc tiếng hư bay,
Phải lụy vì danh đã hổ thay.
Đám cúc, thông quen vầy bầu bạn,
Cửa quyền quí ngại lượm chân tay.
Qua đòi cảnh, chép câu đòi cảnh,
Nhàn một ngày, nên quyển một ngày.
Tuổi đã năm mươi đầu đã bạc,
Ý còn bừu rịn lấy chi vay.
6
76.
Ở thế, thường hiềm khác tục ngươi,

24

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ


VIỆN VIỆT-HỌC

Ðến đây rằng hết tiếng chê cười.
Kể ngày con nước tính triều lạc,
Vị chúng thằng chài chác cá tươi.

Rượu đối cầm, dâm thơ một thủ,

[ đâm]

Ta cùng bóng mấy nguyệt bá người.

[巴 ba]

Tai thường phỏng dạng câu ai đọc,
"Ít20 nhân sinh bảy tám mươi".
PHỤ CHÚ:
20) Bản Nôm chép 室 (thất); đọc "ít" khó chấp nhận, có thể là lỗi Typo chăng ?
7
77.
Giầu chẳng gặp, khó còn mừng,
Danh lợi lòng đà ắt dửng dưng.
[𤂬 làn suối] Xem 16-2

Dò trúc, xông qua làn suối,
Tìm mai, theo đạp bóng trăng.
Giang sơn bát ngát kìa quê cũ,
Tùng cúc bù trì ấy của hằng.
Một phút thanh nhàn trong thủa ấy,
Ngàn vàng ước đổi được hay chăng.

8
78.
Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình,
Nài bao ngôi cả áng công danh.
Vô tâm, trì có trăng bạc,

Ðắc ý, kho đầy gió thanh21.
Trẻ22, dầu chơi con tạo hoá,
[ lọ]

Già, nọ phục thuốc trường sinh.
Dưỡng nhàn miễn được qua ngày tháng,
Non nước còn ghe chốn hữu tình.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-91

PHỤ CHÚ:
21) Bản Nôm chép: 得趣庫󰐗清 Ðược thú, kho đầy gió thanh.
22) Xem b. 53-5
9
79.
Nắng quáng, thưa thưa bóng trúc che,
Cây im, thưa thớt sáng bằng the.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

25


×