Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại công ty cổ phần OTC Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.58 KB, 64 trang )

Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

MỤC LỤC

c. Hệ số Beta.......................................................................................................................................20
d. P/B – Price to Book ratio................................................................................................................20
Công ty chưa đưa ra nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động, doanh nghiệp: như chỉ tiêu "Vòng
quay hàng tồn kho" và chỉ tiêu "Doanh thu thuần trên tổng tài sản". Dựa vào trị số và sự biến động
về trị số của chỉ tiêu này, các nhà đầu tư sẽ đánh giá khả năng hoạt động của doanh nghiệp, hiệu quả
sử dụng tài sản của doanh nghiệp.......................................................................................................41

1

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

DANH MỤC BẢNG BIỂU

2

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)



Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi Thủ tướng chính phủ ký ban hành nghị định 48/1998/NĐ-CP về Chứng
khoán và thị trường chứng khoán cùng với việc quyết định thành lập hai (02) Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với 2 doanh
nghiệp niêm yết ban đầu, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát
triển nhanh chóng với số lượng mã cổ phiếu trên sàn Hose hiện tại là hơn 160 doanh
nghiệp, sàn Hastc là hơn 200 doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng có một thị trường phát
triển rất sôi động nữa ngoài 2 sàn trên đó là thị trường của cổ phiếu OTC có số mã cổ
phiếu giao dịch lên đến 1715.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng thị trường chứng khoán Việt Nam thì việc đáp ứng
nhu cầu của nhà đầu tư càng được nâng cao. Vinacorp.net ra đời với mục đích là trang
thông tin tài chính cung cấp cho nhà đầu tư bản phân tích tài chính của các doanh
nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong thời gian thực tập ở công ty cổ
phần OTC Việt Nam, em đã có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về thực tế hoạt động của trang
tin, những ưu và nhược điểm trang tin còn đang tồn tại.
Do vậy, với mục đích hoàn thiện và phát triển trang tin của công ty cổ phần OTC Việt
Nam em đã chọn đề tài về: “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại công ty cổ phần OTC Việt
Nam”.
Bản chuyên đề này chính là cái nhìn tổng quan nhất về những ưu và nhược điểm của
trang tin tài chính của công ty trong những năm vừa qua đồng thời cung cấp những biện
pháp nhằm khắc phục những nhược điểm của trang tin.

Trong quá trình nghiên cứu về không thể không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến quý báu của cô Ts. Trần Thị Thanh Tú để em có thể hoàn
thành tốt quá trình thực tập của mình.
3

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
Em xin chân thành cám ơn!

4

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP

1.1. MỤC TIÊU CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho
phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình
hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp đó.
Đối với các nhà đầu tư chứng khoán khi nghiên cứu doanh nghiệp, mục tiêu của họ gồm:
- Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu
được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích
tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo.
Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả
những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu.
- Thứ hai, nhà đầu tư qua đó biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu – lợi tức cổ phần và
giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Mục tiêu của họ là nhận biết được khả năng sinh lời
của doanh nghiệp để căn cứ có quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không.
1.2 QUY TRÌNH PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Mục tiêu chính của phân tích sẽ qui định mức độ chú trọng tương đối đối với mỗi phạm
vi chính trong phân tích, với nhà đầu tư chứng khoán đó là khả năng sinh lợi, thời gian
hoàn vốn, hiệu quả hoạt động, rủi ro,…. Nhưng mặc dù ý định phân tích thế nào cũng
không thể bỏ qua hoàn toàn một phạm vi riêng lẻ nào cả và có thể sử dụng một khuôn
khổ logic để xem xét một cách có hệ thống đối với thể trạng tài chính của doanh nghiệp.
Quy trình phân tích tài chính bao gồm 4 bước:
- Bước đầu tiên trong trình tự này là cần phải cụ thể hóa mục tiêu phân tích một
cách rõ ràng và đưa ra một hệ thống các câu hỏi then chốt cần phải giải đáp để
đạt được mục tiêu nghiên cứu của nhà đầu tư chứng khoán.
- Bước thứ hai là chuẩn bị các dữ liệu cần thiết để thực hiện các mục tiêu cụ thể.
Bước này thường đòi hỏi phải chuẩn bị các tỷ lệ chủ yếu và các báo cáo theo quy
5

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)


Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
mô chung.

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

- Bước thứ ba liên quan tới việc phân tích và giải thích các thông tin số lượng đã
có ở bước hai. Nói chung, trước hết nên xem xét các thông tin do việc phân tích
các tỷ lệ đem lại nhằm đưa ra một cảm nhận bao quát chung về các phạm vi tiềm
tàng của vấn đề, sau đó chuyển sang các thông tin chứa đựng trong các báo cáo
tài chính theo quy mô chung. Những câu hỏi và ý kiến sơ bộ đưa ra khi phân tích
các con số tỷ lệ thường cho ta những hiểu biết sâu sắc có giá trị, có thể giúp cho
việc tập trung sức lực vào việc xem xét các báo cáo quy mô chung.
- Bước cuối cùng trong khảo sát đòi hỏi nhà phân tích hình thành những kết luận
dựa trên những số liệu và trả lời những câu hỏi đã nêu ra trong bước một. Những
đề xuất cụ thể với sự hỗ trợ của những số liệu sẵn có được trình bày vào giai
đoạn cuối cùng cùng với những tóm tắt ngắn gọn về những điểm chính đã được
đưa ra trước đây.

6

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp



Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

Kết luận

Phân tích và giải thích các thông tin, dữ
liệu ở bước trước

Chuẩn bị các dữ liệu cần thiết cho mục tiêu cụ thể

Cụ thể hoá mục tiêu phân tích

Sơ đồ quy trình phân tích tài chính

7

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

1.3 NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một bộ báo cáo gồm nhiều loại báo cáo tài
chính khác nhau do doanh nghiệp lập và báo cáo cho các tổ chức có liên quan theo quy

định. Ở Việt Nam, theo quy định của bộ tài chính thì doanh nghiệp phải lập các BCTC
theo định kỳ có thể là tháng, quý hay năm bao gồm các loại báo cáo:
1. Bảng cân đối kế toán: là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một BCTC có ý nghĩa
rất quan trọng với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan
hệ quản lý với doanh nghiệp.
Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư
các tài khoản kế toán: Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn
của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có
đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó
là tài sản cố định, tài sản lưu động.
Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp
đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn của chủ và các khoản nợ.
Nhìn vào bảng cân đối kế tóan, nhà đầu tư có thể nhận biết được loại hình doanh
nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất cho các nhà đầu tư đánh
giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối
vốn của doanh nghiệp
2. Báo cáo kết quả kinh doanh: phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh,
phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Cho
biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh
nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai.
Báo cáo kết quả kinh doanh cho phép nhà đầu tư chứng khoán có thể so sánh
doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ; so sánh tổng chi
8

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)


Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở
doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh của
doanh nghiệp là lỗ hay lãi.
Báo cáo thu nhập được thể hiện bằng một biểu thức đơn giản như sau:
Doanh thu - Chi phí = Thu nhập thuần (hoặc Lỗ thuần)
Một báo cáo thu nhập bắt đầu bằng doanh thu: số tiền thu được từ việc bán hàng
hóa và dịch vụ cho khách hàng. Một công ty cũng có thể có các khoản doanh thu
khác. Trong nhiều trường hợp, những khoản này đến từ các khoản đầu tư hoặc
thu nhập lãi suất từ số dư tiền mặt. Sau đó, lấy doanh thu này trừ đi những chi phí
khác - từ chi phí sản xuất và lưu kho hàng hóa, đến việc khấu hao nhà xưởng và
trang thiết bị, chi phí lãi suất và thuế. Số tiền còn lại là thu nhập thuần, hay còn
gọi là lợi nhuận thuần, trong thời gian lập báo cáo.
3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: thể hiện các nguồn thu chi tiền của công ty, nói cách
khác là dòng tiền thực nhập quỹ và thực xuất quỹ của công ty vào đầu kỳ và cuối
kỳ. Báo cáo này phản ánh tất cả các thay đổi về tiền tệ theo 3 hoạt động: kinh
doanh, đầu tư và tài chính. Kế tiếp, nó mô tả công ty đã thu và chi bao nhiêu tiền
trong một khoảng thời gian cụ thể. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ rất hữu ích vì nó
cho biết liệu công ty có khả năng chuyển các khoản phải thu thành tiền không và về cơ bản, khả năng đó tạo điều kiện cho công ty thanh toán các khoản nợ.
Khả năng thanh toán nợ là khả năng trả các hóa đơn khi đến hạn.
Định dạng của báo cáo này phản ánh ba loại hoạt động ảnh hưởng đến tiền tệ. Tiền
tệ có thể tăng hoặc giảm vì: (1) hoạt động kinh doanh, (2) mua hoặc bán tài sản, hay
còn gọi là đầu tư, hoặc (3) thay đổi các khoản nợ, nhập kho hoặc các hoạt động tài
chính khác.
4. Thuyết minh báo cáo tài chính: được lập để giải thích và bổ sung thông tin về
tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh, tình hình tài chính cũng như kết quả

kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các bảng báo cáo khác không
thể trình bày rõ ràng và chi tiết. Qua đó, nhà đầu tư hiểu rõ và chính xác hơn về
tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
9

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
Thuyết minh BCTC gồm những nội dung cơ bản sau:
Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
Kỳ kế toán, đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán.
Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán áp dụng.
Các chính sách kế toán áp dụng.
Thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong bảng cân đối kế toán.
Thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh.
Thông tin bổ sung cho khoản mục trình bày trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Mối quan hệ giữa 4 loại báo cáo TC trong phân tích tài chính:
Có thể nói là 4 loại báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán; báo cáo kết quả kinh doanh;
báo cáo lưu chuyển tiền tệ; thuyết minh báo cáo tài chính có vai trò quan trọng trong
phân tích TC. Tùy vào từng đối đối tượng tiếp nhận BCTC có tác dụng riêng.
Ví dụ:
- Đối với nhà đầu tư qua BCTC họ nắm được khả năng trả nợ dài hạn và khả năng sinh lợi
của doanh nghiệp từ đó làm cơ sở để họ ra quyết định có bỏ tiền đầu tư vào doanh nghiệp
hay không.

Trong quá trình phân tích tài chính, mỗi BCTC riêng biệt cung cấp một khía cạnh hữu
ích khác nhau. Do vậy sẽ không thể nào có được những kết quả mang tính khái quát về
tình hình tài chính nếu người làm phân tích không có sự kết hợp giữa các BCTC.
- Bảng cân đối kế toán cho ta cái nhìn về mối tương quan giữa tài sản và nguồn
vốn tại điểm hiện tại của doanh nghiệp nhưng không phản ánh được biến động
của doanh nghiệp trong kỳ kế toán do đó cần tới báo cáo kết quả kinh doanh.
- Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh
thông qua việc cung cấp thông tin về doanh thu, chi phí, lợi nhuận doanh nghiệp
đạt được trong một thời kỳ nhất định từ những nghiệp vụ kinh tế đã thực sự hoàn
thành nhưng nhưng thực tế việc thanh toán tiền hàng lại diễn ra ở những thời
10

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
điểm khác nhau điều này không được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh
do đó cần tới báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp xác định và dự báo về dòng tiền thực xuất nhập quỹ trong kỳ.
- Khi phân tích chi tiết từng khoản mục trong 3 BCTC có những biến động nếu
nhìn bề ngoài chỉ xét con số ta không thể thấy được bản chất vấn đề vậy nên cần
có thuyết minh BCTC để có thông tin chi tiết lý giải cho mỗi biến động trong
từng khoản mục chi tiết của 3 BCTC.
Dưới đây là một số bộ chỉ tiêu tài chính quan trọng cần thiết cho nhà đầu tư chứng
khoán khi nghiên cứu, phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động

Các tỷ số hoạt động đo lường hoạt động kinh doanh của một công ty. Để nâng cao tỷ số
hoạt động, các nhà quản trị phải biết là những tài sản chưa dùng hoặc không dùng không
tạo ra thu nhập vì thế công ty cần phải biết cách sử dụng chúng có hiệu quả hoặc loại bỏ
chúng đi. Tỷ số hoạt động đôi khi còn gọi là tỷ số hiệu quả hoặc tỷ số luân chuyển.
a. Số vòng quay các khoản phải thu – Accounts receivable turnover ratio:
Các khoản phải thu là những hoá đơn bán hàng chưa thu tiền về do công ty thực hiện
chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả trước cho người
bán... Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc thanh
toán các khoản phải thu …. Khi khách hàng thanh toán tất cả các hoá đơn của họ, lúc đó
các khoản phải thu quay được một vòng.
Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu/ Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu/ Doanh thu bình quân ngày
Số vòng quay các khoản phải thu hoặc kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào
chính sách bán chịu của công ty. Nếu số vòng quay thấp thì hiệu quả sử dụng vốn kém do
vốn bị chiếm dụng nhiều. Nhưng nếu số vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ
giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh thu. Khi phân tích tỷ số này, ngoài việc so sánh

11

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
giữa các năm, so sánh với các công ty cùng ngành, công ty cần xem xét kỹ lưỡng từng
khoản phải thu để phát hiện những khoản nợ đa quá hạn trả và có biện pháp xử lý.


12

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

b. Số vòng quay hàng tồn kho – Inventory turnover ratio:
Số vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn đánh giá công ty sử dụng hàng tồn kho
của mình hiệu quả như thế nào.
Vòng quay hàng tồn kho = Doanh thu thuần/ Hàng tồn kho
Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc vào đặc điểm ngành kinh
doanh.
c. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định – Sales-to-Fixed assets ratio:
Tỷ số này nói lên một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Qua
đó đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ở công ty.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu thuần/ Tài sản cố định
Muốn đánh giá việc sử dụng tài sản cố định có hiệu quả không phải so sánh với các
công ty khác cùng ngành hoặc so sánh với các thời kỳ trước.
d. Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản – Sales-to-total assets ratio:
Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản đo lường một đồng tài sản tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản = Doanh thu thuần/ Toàn bộ tài sản
e. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần – Sales-to-equity ratio:
Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần là chỉ tiêu rất hữu ích trong việc phân tích khía cạnh tài

chính của công ty mà sẽ được đề cập kỹ hơn ở phần sau. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần
đo lường mối quan hệ giữa doanh thu và vốn cổ phần.
Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = Doanh thu thuần/ Vốn cổ phần
Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần được xác định bằng:
= Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x Bội số tài sản so vốn cổ phần
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
a. Tỷ lệ thanh toán hiện hành – Current ratio:
Một trong những thước đo khả năng thanh toán của một công ty được sử dụng rộng rãi
13

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
nhất là khả năng thanh toán hiện hành.

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

14

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp


Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

Tỷ số thanh toán hiện hành Rc = Tài sản ngắn hạn / Nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn bao gồm các khoản vốn bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản
phải thu, hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả
trong năm bao gồm: vay ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả và các khoản phải trả khác. Tỷ
số Rc cho thấy công ty có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả năng trả nợ của công ty.
Nếu tỷ số thanh toán hiện hành giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm và cũng là dấu
hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra.
Nếu tỷ số thanh toán hiện hành cao điều đó có nghĩa là công ty luôn sẵn sàng thanh toán
các khoản nợ.
Tuy nhiên, nếu tỷ số thanh toán hiện hành quá cao sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động vì
công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn hay nói cách khác việc quản lý tài sản
ngắn hạn không hiệu quả (ví dụ: có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn
kho ứ đọng). Một công ty nếu dự trữ nhiều hàng tồn kho thì sẽ có tỷ số thanh toán hiện
hành cao, mà ta đã biết hàng tồn kho là tài sản khó hoán chuyển thành tiền, nhất là hàng
tồn kho phẩm chất. Vì thế, trong nhiều trường hợp, tỷ số thanh toán hiện hành không
phản ánh chính xác khả năng thanh toán của công ty. Theo kinh nghiệm, đa số cho rằng
tỷ lệ này ít nhất nên là 2/1 đối với phần lớn các hoạt động kinh doanh.
b. Tỷ lệ thanh toán nhanh – Quick ratio:
Tỷ số thanh toán nhanh được tính toán dựa trên những tài sản ngắn hạn có thể nhanh
chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng được gọi là “Tài sản có tính thanh khoản“,
“tài sản có tính thanh khoản“ bao gồm tất cả tài sản ngắn hạn trừ hàng tồn kho.
Tỷ số thanh toán nhanh Rq = (Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho ) / Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ thanh toán nhanh = {(tiền mặt) + (các chứng khoán bán được) + (các khoản
phải thu)} / (nợ ngắn hạn)
Tỷ số này cho thấy khả năng thanh toán thực sự của một công ty. Theo kinh nghiệm, đa
số cho rằng tỷ lệ này ít nhất nên là 1/1. Hai tỷ lệ cuối cùng về tính thanh khoản đo

lường tốc độ chuyển các khoản phải thu và các khoản dự trữ thành những tài sản lưu
15

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
động linh hoạt hơn.

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

16

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

c. Vốn lưu động ròng – Net working capital
Chỉ tiêu này được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ
ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định
ròng. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng thanh toán các khỏan nợ ngắn hạn khi đến

hạn, đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp đồng thời để đánh giá
khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả
năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của doanh nghiệp.
d. Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng
Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm trên vốn lưu động ròng. Nếu tỉ số
này quá cao sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, cơ cấu tài trợ cũng như cơ cấu tài sản lưu
động của doanh nghiệp.
1.3.3. Các chỉ tiêu đòn bẩy tài chính
Tỷ số đòn bẩy tài chính giá mức độ mà một công ty tài trợ cho hoạt động kinh doanh
của mình bằng vốn vay. Khi một công ty vay tiền, công ty luôn phải thực hiện một
chuỗi thanh toán cố định. Vì các cổ đông chỉ nhận được những gì còn lại sau khi chi trả
cho chủ nợ, nợ vay được xem như là tạo ra đòn bẩy. Trong thời kỳ khó khăn, các công
ty có đòn bẩy tài chính cao có khả năng không trả được nợ.
Qua tỷ số đòn bẩy tài chính nhà đầu tư thấy được rủi ro về tài chính của công ty từ đó
dẫn đến quyết định đầu tư của mình.
Các tỷ số đòn bẩy thông thường là:
a. Tỷ số nợ trên tài sản – Debt ratio:
Tỷ số này cho thấy bao nhiêu phần trăm tài sản của công ty được tài trợ bằng vốn vay.
Tỷ số nợ = Tổng nợ/ Tổng tài sản
Tổng nợ: bao gồm toàn bộ khoản nợ ngắn hạn và dài hạn tại thời điểm lập báo cáo tài
chính gồm: các khoản phải trả vay ngắn hạn, nợ dài hạn do đi vay hay phát hành trái
phiếu dài hạn.
Tổng tài sản: toàn bộ tài sản của công ty tại thời điểm lập báo cáo.
17

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp



Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp

Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng

b. Tỷ số nợ trên vốn cổ phần – Debt–to–equity ratio:
Tỷ số nợ trên vốn cổ phần = Tổng nợ/ Vốn cổ phần
Để thấy được mức độ tài trợ bằng vốn vay một cách thường xuyên (qua đó thấy được
rủi ro về mặt tài chính mà công ty phải chịu), ta dùng tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần.
Tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần = Nợ dài hạn/ Vốn cổ phần
c. Tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần – Equity multiplier ratio:
Một tỷ số khác cũng được sử dụng đến để tính toán mức độ đi vay (rủi ro về tài chính)
mà công ty đang gánh chịu đó là tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần.
Tổng tài sản trên vốn cổ phần = Toàn bộ tài sản/ Vốn cổ phần
d. Khả năng thanh toán lãi vay – Times interest earned ratio:
Lãi vay hàng năm là chi phí tài chính cố định và chúng ta muốn biết công ty sẵn sàng
trả lãi đến mức nào. Cụ thể hơn chúng ta muốn biết rằng liệu số vốn đi vay có thể sử
dụng tốt đến mức nào, có thể đem lại khoản lợi nhuận bao nhiêu và đủ bù đắp lãi vay
hay không. Tỷ số này dùng để đo mức độ mà lợi nhuận phát sinh do sử dụng vốn để
đảm bảo trả lãi vay hàng năm như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ
có thể đi đến kiện tụng và tuyên bố phá sản.
Khả năng thanh toán lãi vay = Lãi trước thuế và lãi vay/ Lãi vay
Trong công thức trên, phần tử số phản ánh số tiền mà công ty có thể được sử dụng để
trả lãi vay trong năm. Ở đây phải lấy tổng số lợi nhuận trước thuế và lãi vay vì lãi vay
được tính vào chi phí trước khi tính thuế thu nhập. Phần mẫu số là lãi vay, bao gồm tiền
lãi trả cho các khoản vay ngắn và dài hạn kể cả lãi do phát hành trái phiếu.
1.3.4. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi
Tỷ số sinh lợi đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo ra lợi nhuận như
doanh thu, tổng tài sản, vốn cổ phần.
Loại tỷ số này bao gồm các chỉ tiêu sau:

a. Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu – Net profit margin ratio:
18

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
Chỉ tiêu này còn gọi là (Hệ số lợi nhuận ròng) nói lên một đồng doanh thu tạo ra được
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu = Lợi nhuận dòng/ Doanh thu thuần (%)
b. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản – Return on total assets ratio (ROA):
Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi trên một đồng vốn đầu tư vào công ty.
Tổng tài sản trên vốn cổ phần = Toàn bộ tài sản/ Vốn cổ phần (%)
c. Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần – Return on equity ratio (ROE):
Đây là chỉ tiêu mà nhà đầu tư rất quan tâm vì nó cho thấy khả năng tạo lãi của một đồng
vốn họ bỏ ra để đầu tư vào công ty.
Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần = Lợi nhuận ròng/ Vốn cổ phần (%)
Sự khác nhau giữa tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần
là do công ty có sử dụng vốn vay. Nếu công ty không có vốn vay thì hai tỷ số này sẽ
bằng nhau.
1.3.5. Các chỉ tiêu phản ánh chỉ số thị trường
a. P/E – Price/Earnings Ratio
Là hệ số giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập mà nó mang lại. Ý nghĩa quan trọng của
P/E là phản ánh kỳ vọng của thị trường về sự tăng trưởng cổ phiếu trong tương lai hơn là
kết quả làm ăn đã qua. Người ta so sánh P/E của các công ty cùng ngành, nếu chỉ số P/E
của một công ty nào cao hơn mức bình quân, có nghĩa thị trường kỳ vọng công ty này sẽ

ăn nên làm ra trong thời gian tới. Một công ty có chỉ số P/E càng cao thì kỳ vọng của thị
trường vào lợi nhuận của công ty càng cao, do đó thu hút được càng nhiều các nhà đầu
tư. Còn ngược lại khi họ ít hoặc không kỳ vọng vào khả năng sinh lời lớn của công ty thì
mức giá họ sẵn sàng bỏ ra khi mua cổ phiếu thấp, dẫn đến chỉ số P/E thấp, biểu hiện giá
cổ phiếu này đang trên xu hướng giảm.
Chỉ số P/E nên dùng để quyết định mua hay không mua một loại cổ phiếu chỉ sau khi đã
đối chiếu giữa các công ty cùng ngành và quan trọng là sau khi đã theo dõi xu hướng
chỉ số này trong một thời gian tương đối dài.
19

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
Có nhiều loại P/E khác nhau dựa trên yếu tố “E”. Nếu E là lãi trên cổ phiếu của năm tài
chính gần nhất thường được gọi là “P/E lịch sử”. Nếu E là lãi trên cổ phiếu của 4 quý
gần nhất thì khái niệm đó là “P/E tính trượt” và nếu E là lãi trên cổ phiếu của năm dự
báo thì đó là “P/E dự báo”.
b. EPS – Earnings Per Share
Được hiểu là một chỉ số đo lường lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu của công ty, đây là phần
lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang được lưu hành trên
thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể hiện khả năng kiếm lợi nhuận của
doanh nghiệp.
c. Hệ số Beta
Beta hay còn gọi là hệ số beta, đây là hệ số đo lường mức độ biến động hay còn gọi là
thước đo rủi ro hệ thống của một chứng khoán hay một danh mục đầu tư trong tương

quan với toàn bộ thị trường. Hệ số beta là một tham số quan trọng trong mô hình định
giá tài sản vốn (CAPM). Beta được tính toán dựa trên phân tích hồi quy, và bạn có thể
nghĩ về beta giống như khuynh hướng và mức độ phản ứng của chứng khoán đối với sự
biến động của thị trường.
Một chứng khoán có beta bằng 1, giá chứng khoán đó sẽ dịch chuyển cùng xu hướng và
cùng một mức độ với thị trường. Một chứng khoán có beta nhỏ hơn 1 có nghĩa là chứng
khoán đó sẽ có mức thay đổi ít hơn mức thay đổi của thị trường. Và ngược lại, beta lớn hơn
1 sẽ chúng ra biết giá chứng khoán sẽ thay đổi nhiều hơn mức dao động của thị trường.
Nhiều cổ phiếu thuộc các ngành cung cấp dịch vụ công ích có beta nhỏ hơn 1. Ngược lại,
hầu hết các cổ phiếu dựa trên kỹ thuật công nghệ cao có beta lớn hơn 1, thể hiện khả năng
tạo được một tỷ suất sinh lợi cao hơn, những cũng đồng thời tiềm ẩn rủi ro cao hơn.
d. P/B – Price to Book ratio
Là tỷ lệ được sử dụng để so sánh giá của một cổ phiếu so với giá trị ghi sổ của cổ phiếu
đó. Tỷ lệ này được tính toán bằng cách lấy giá đóng cửa hiện tại của cổ phiếu chia cho
giá trị ghi sổ tại quý gần nhất của cổ phiếu đó.
Công thức tính như sau:
P/B = Giá cổ phiếu / (Tổng giá trị tài sản – giá trị tài sản vô hình – nợ)
20

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
Ví dụ: Giả sử một công ty có giá trị tài sản ghi nhận trên bảng cân đối kế toán là 200 tỷ
VND, tổng nợ 150 tỷ VND, như vậy giá trị ghi sổ của công ty là 50 tỷ . Hiện tại công ty có 2
triệu cổ phiếu đang lưu hành, như vậy giá trị ghi sổ của mỗi cổ phiếu là 25.000 VND. Nếu

giá thị trường của cổ phiếu đang là 75.000 VND, thì P/B của cổ phiếu được tính như sau:
P/B = 75.000/25.000 = 3
Đối với các nhà đầu tư, P/B là công cụ giúp họ tìm kiếm các cổ phiếu có giá thấp mà
phần lớn thị trường bỏ qua.
Nếu một doanh nghiệp đang bán cổ phần với mức giá thấp hơn giá trị ghi sổ của nó (tức
là có tỷ lệ P/B nhỏ hơn 1), khi đó có hai trường hợp sẽ xảy ra: hoặc là thị trường đang
nghĩ rằng giá trị tài sản của công ty đã bị thổi phồng quá mức, hoặc là thu nhập trên tài
sản của công ty là quá thấp.
Nếu như điều kiện đầu tiên xảy ra, các nhà đầu tư nên tránh xa các cổ phiếu này bởi vì giá
trị tài sản của công ty sẽ nhanh chóng được thị trường điều chỉnh về đúng giá trị thật.
Còn nếu điều thứ hai đúng, thì có khả năng lãnh đạo mới của công ty hoặc các điều kiện
kinh doanh mới sẽ đem lại những triển vọng kinh doanh cho công ty, tạo dòng thu nhập
dương và tăng lợi nhuận cho các cổ đông.
Ngược lại, nếu một công ty có giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá trị ghi sổ thì đây
thường là dấu hiệu cho thấy công ty làm ăn khá tốt, thu nhập trên tài sản cao.
Chỉ số P/B chỉ thực sự có ích khi nhà đầu tư xem xét các doanh nghiệp có mức độ tập
trung vốn cao hoặc các công ty tài chính, bởi giá trị tài sản của các công ty này tương
đối lớn.
Vì công tác kế toán phải tuân thủ những tiêu chuẩn ngặt nghèo, nên giá trị ghi sổ của tài
sản hoàn toàn không tính tới các tài sản vô hình như thương hiệu, nhãn hiệu, uy tín,
bằng sáng chế và các tài sản trí tuệ khác do công ty tạo ra. Giá trị ghi sổ không có ý
nghĩa nhiều lắm với các công ty dịch vụ vì giá trị tài sản hữu hình của họ không lớn.
1.3.6. Các chỉ số đặc biệt
NHTM có đặc điểm giống như các DN khác trong nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố
sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu
21

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)


Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng
yêu cầu. Tuy nhiên khác với các DN khác, NHTM là loại hình DN đặc biệt chuyên kinh
doanh tiền tệ, có những đặc thù riêng trong hoạt động kinh tế - tài chính, trong hoạt
động kinh doanh thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời cũng
là đối tựơng kinh doanh của NHTM. Và chính đặc điểm này sẽ bao trùm hơn và
rộng hơn so với các loại hình DN khác.
-

NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có của NHTM chiếm
một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc kinh doanh của NHTM
luôn gắn liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp nhận với một mức độ mạo
hiểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động kinh doanh hằng ngày của mình, NHTM
không những phải bảo đảm nhu cầu thanh toán, chi trả như mọi khi loại hình DN
khác, mà còn phải đảm bảo tốt nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng. Từ đó cho
thấy, việc phân tích khả năng thanh khoản của NHTM có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

-

Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó tổng hợp
tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng có thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của loại hình DN
nào vì tính chất lây lan có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế. Do đó,
trong quá trình hoạt động các NHTM phải thường xuyên cảnh giác, nghiên cứu,
phân tích, đánh giá, dự báo và có những biện pháp phòng ngừa từ xa có hiệu quả.

Ngoài ra, điều này cũng đòi hỏi ngân hàng tự đánh giá được khả năng chịu đựng rủi
ro của mình.

-

Hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc thù riêng mà các DN trong các
ngành khác không có. Đồng thời, hoạt động kinh doanh của NHTM diễn tiến liên tục
trong mỗi loại hình nghiệp vụ và các sản phẩm của NHTM có mối liên hệ với nhau
rất chặt chẽ. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc tách riêng từng mặt hoạt động của
ngân hàng để phân tích kết quả tài chính.

Vì vậy, phân tích tài chính đối với NHTM ngoài những nét chung nhất của phân tích tài
chính DN thông thường còn có những điểm rất khác biệt cần quan tâm nghiên cứu.
22

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
Xuất phát từ mục tiêu phân tích tài chính cũng như đặc điểm và nội dung các quan hệ tài
chính trong ngân hàng, nội dung phân tích tài chính ngân hàng bao gồm các nhóm sau:
Một là: phân tích cấu trúc tài chính ngân hàng
Cấu trúc tài chính của ngân hàng phản ảnh cấu trúc tài sản, cấu trúc nguồn vốn và cả
mối quan hệ giữa tài sản (tài sản có hay tiêu sản) và nguồn vốn (tài sản nợ hay tích sản)
của ngân hàng. Một cấu trúc nào đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả và rủi ro của ngân hàng.
Phân tích cấu trúc tài chính của ngân hàng chính là phân tích khái quát cơ cấu tài sản

có, tài sản nợ của ngân hàng; tình hình huy động vốn, cho vay vốn; tình hình cân đối
giữa nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay. Phân tích cấu trúc tài chính nhằm đánh giá
những đặc trưng trong cơ cấu tài sản có của ngân hàng, tính hợp lí khi đầu tư vốn cho
hoạt động kinh doanh; cấu trúc nguồn vốn của ngân hàng không những thể hiện chính
sách tài trợ của ngân hàng như các DN phi tài chính khác mà còn thể hiện những lợi thế
khác nhau trong kinh doanh vốn như lãi suất, tính ổn định, khả năng chủ động. Trong
điều kiện kinh tế thị trường, khi chênh lệch lãi suất đang ngày càng thu hẹp các ngân
hàng còn phân tích mối tương quan giữa tài sản và nguồn vốn để thấy sự phù hợp, hiệu
quả của việc sử dụng vốn, trên cơ sở đó cơ cấu, xây dựng danh mục tài sản vừa cho
hiệu quả cao, vừa đảm bảo khả năng thanh khoản, hạn chế rủi ro.
Hai là: Phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Các NHTM hoạt động đều nhằm mục tiêu lợi nhuận; dưới áp lực phải hạ thấp chi phí
trong điều kiện cạnh tranh với những định chế tài chính khác. Hiệu quả được xem xét
trên quan điểm biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Phân tích hiệu quả là một giai đoạn quan trọng của công tác quản trị ngân hàng, là cơ sở
đánh giá quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh, xác định nguyên nhân ảnh hưởng
đến chiến lược kinh doanh và kiến nghị những giải pháp xử lý; là cơ sở cho những
quyết định kịp thời và đúng đắn. Các chỉ tiêu trong nhóm này giúp cho ngân hàng đánh
giá được hiệu quả của quá trình kinh doanh bằng cách so sánh kết quả kinh doanh đạt
được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Khác với các DN phi tài chính, đa số tài sản của ngân hàng tồn tại dưới hình thức quyền
về tài chính (các khoản cho vay và chứng khoán) không phải là tài sản cố định (TSCĐ).
23

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp



Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
Tuy nhiên, các TSCĐ tạo ra chi phí hoạt động cố định dứơi dạng khấu hao, thuê tài sản
là những yếu tố làm hình thành đòn bẩy hoạt động. Đòn bẩy hoạt động này cho phép
ngân hàng đẩy mạnh thu nhập từ hoạt động nếu có thể gia tăng khối lượng dịch vụ lên
tới một mức đủ lớn, tạo được nhiều thu nhập hơn từ việc sử dụng các TSCĐ so với chi
phí cho các tài sản đó. Tuy nhiên, do TSCĐ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản,
các ngân hàng không thể dựa nhiều vào đòn bẩy hoạt động để tăng thu nhập; vì thế họ
phải sử dụng đòn bẩy tài chính - việc sử dụng vốn vay để đẩy mạnh hoạt động, tạo thu
nhập và duy trì cạnh tranh với những ngành khác trong quá trình huy động vốn và cho
vay. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng cần chú ý đến đặc điểm này để
đánh giá hiệu quả của từng hoạt động cũng như toàn bộ hoạt động trong ngân hàng.
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt
động cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Do vậy, các nhà đầu tư cần
phải đo lường hiệu quả cho từng hoạt động. Hiện nay, các nhà đầu tư chú trọng đến các
chỉ tiêu hiệu quả từng hoạt động sau: tổng dư nợ trên vốn huy động, hiệu quả sử dụng
vốn huy động, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ suất lợi nhuận hoạt động tín dụng, lãi suất
bình quân đầu vào, lãi suất bình quân đầu ra.
Ngoài việc đo lường hiệu quả cho từng hoạt động, các nhà quản trị cần tính toán các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả cho tất cả các hoạt động. Hiện nay, các ngân hàng thương mại
dùng các chỉ tiêu sau: Tổng thu nhập trên tổng tài sản, Tổng chi phí trên tổng thu nhập,
Tỷ lệ lợi nhuận, Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng
tài sản (ROA) và dùng các mô hình để phân tích khả năng sinh lời.
Ba là: Phân tích rủi ro của ngân hàng.
Phân tích hiệu quả chỉ mới là một mặt để xem xét tình hình tài chính của ngân hàng.
Hiệu quả ngân hàng chỉ được xem xét tương ứng với một mức rủi ro mà ngân hàng có
thể chịu đựng được và ngược lại.
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, và những rủi ro đối với hoạt
động ngân hàng cũng vì thế mà mang tính đặc thù. Bản chất của hoạt động kinh doanh
luôn mang tính mạo hiểm nên bất kỳ nhà phân tích nào cũng quan tâm đến rủi ro. Qua

phân tích nhằm phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng, trong thanh
khoản. Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, rủi ro chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực
24

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp
Khoa Tµi ChÝnh – Ng©n Hµng
sau: khả năng chi trả cho khách hàng, khả năng thu hồi nợ trong cho vay và đầu tư
chứng khoán, sự thay đổi của lãi suất và tỷ giá hối đoái, sự biến động của thu nhập. Do
vậy, trong phân tích tài chính chú trọng đến các loại rủi ro chủ yếu: rủi ro thanh khoản,
rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro thu nhập.
Tóm lại, từ đặc điểm của hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc điểm hoạt động tài
chính của ngân hàng, dẫn đến các ngân hàng thương mại cổ phần có đặc điểm phân tích
tài chính riêng, khác biệt với các DN phi tài chính khác. Do đó, cần nghiên cứu đặc
điểm phân tích tài chính của ngân hàng thương mại để phân tích và đánh giá tình hình
tài chính của các DN này.

25

NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn
K18 (4+1)

Tµi chÝnh doanh nghiÖp



×