Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Ngân hàng câu hỏi và đáp án môn Ngân hàng Thương mại Full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.92 KB, 71 trang )

Câu 1. Trình bày về chất lượng/hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM?
1. Huy động vốn và hiệu quả huy động vốn
a. Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại nó đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng
tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Thông qua hoạt động huy động vốn Nguồn tiền được truyền tải đến ngân hàng theo nhiều kênh khác nhau, với các
hình thức phân loại khác nhau.
b. Hiệu quả huy động vốn
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh giữa kết quả và chi phí thì cần phải so
sánh dưới dạng thương số, hoặc kết quả/ chi phí hoặc chi phí/ kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp các thông
tin có ý nghĩa khác nhau. Đặc biệt không thể tính kết quả bằng cách lấy kết quả - chi phí vì như vậy chỉ cho ra một
chỉ tiêu kết quả chứ không phải chỉ tiêu kết quả.
Khái niệm hiệu quả như trên cho thấy rằng chỉ khi nào đạt được kết quả cao nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất
mới được coi là có hiệu quả.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng.
Đó chính là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ, nhu cầu sử dụng vốn với chi phí hợp lý.
* Tiêu chí phản ánh hiệu quả huy động vốn
Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của một ngân hàng thương mại ta cần dựa vào các chỉ tiêu cụ thể.
Mỗi chỉ tiêu nêu lên một mặt của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
- Chỉ tiêu Quy mô vốn huy động / chi phí vốn huy động
Vốn của ngân hàng thương mại được chia làm hai loại: Vốn chủ sở hữu và Nợ. Trong đó nợ chiếm tỷ trọng lớn và
là nguồn vốn hoạt động chính đối với mỗi ngân hàng.
Chi phí huy động vốn của ngân hàng bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi trả lãi. Trong đó chi phí trả lãi là chủ
yếu. Chi phí phi trả lãi bao gồm Chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán, chi
phí cho hoạt động marketing, quảng cáo để thu hút khách hàng gửi tiền, chi phí để mở các quỹ tiết kiệm, chi phí
mua máy móc thiết bị,... và các chi phí khác liên quan đến hoạt động huy động vốn.
Vì vậy chỉ tiêu chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được chia nhỏ ra lam hai chỉ tiêu khác. Đó là:
+ Chi phí trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy để huy động được một đồng vốn thì ngân hàng cần phải trả
bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố cho khách hàng.
+ Chi phí phi trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy một đồng vốn huy động được ngân hàng bỏ ra chi phí là
bao nhiêu cho việc quản lý, cất giữ, bảo quản,...
Tóm lại chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được dùng để đánh giá xem một đồng vốn ngân hàng huy động


được cần phải bỏ ra bao nhiêu chi phí.
- Chênh lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng
chỉ tiêu chêch lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng để đánh giá mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn
vốn cũng như hiệu quả hoạt động huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Chênh lệch thu chi lãi
Thu lãi – Chi lãi
=
Chi phí trả lãi
Chi phí trả lãi
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ
đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao thì cho thấy ngân hàng đã sử dụng rất hiệu quả đồng vốn huy động của mình
trong việc tối thiểu hóa chi phí huy động cho đồng vốn đó.
- Quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương
Trước tiên, để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thông qua chỉ tiêu này, cần phải đánh giá chỉ tiêu
quy mô vốn huy động / 1cán bộ huy động vốn.
 Quy mô vốn huy
 Tổng số vốn huy động
động
 =
 1 cán bộ huy động
 Tổng số lao động huy động vốn
vốn
Chỉ tiêu này cho thấy trong một thời kỳ nhất định, một lao động của ngân hàng huy động được bao nhiêu vốn, hay
nói cách khác chỉ tiêu này cho biết năng suất huy động vốn của lao động hoạt động huy động vốn trong ngân hàng.

1


Đối với chỉ tiêu quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương phải trả cho tổng cán bộ huy động vốn cho thấy một

đồng chi phí phải trả cho một cán bộ huy động vốn sẽ thu được bao nhiêu đồng vốn huy động.
 Quy mô vốn huy
 Tổng số vốn huy động
động
 =
 Chi phí tiền lương
 Tổng tiền lương trả cho cán bộ huy động vốn
- Sự ổn định vốn huy động của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố như đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp cần
phải có sự ổn định, tức là không có sự thay đổi đột ngột trong thời gian sử dụng nguồn vốn đó của ngân hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm vốn huy động. Nếu vốn huy động tăng đều qua các năm, có tốc
độ gia tăng ổn định, đều đặn thì vốn đó được coi là có hiệu quả trong việc huy động.
*Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn
Chính sách lãi suất của ngân hàng:
Lãi suất được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như
một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm
nguồn vốn, ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng
lớn, gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần phải chú ý rất nhiều đến lãi suất tiền vay để có thể có các hoạt động kinh doanh hợp
lý, đem lại các khoản thu nhập cao nhất cho ngân hàng để bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra và vẫn mang lại
lợi nhuận cho ngân hàng.
Mạng lưới huy động vốn của ngân hàng
Mạng lưới hoạt động của ngân hàng và các hình thức huy động vốn càng đa dạng, phóng phú thì kết quả huy động
vốn càng nhiều về số lượng do việc thực hiện được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các khoản tiền
tiết kiệm của dân cư thường là các khoản tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc tiếp cận với ngân hàng khó khăn sẽ tạo ra cho
khách hàng tâm lý ngại đến ngân hàng. Với một mạng lưới rộng khắp, tạo ra sự sễ dàng trong việc tiếp cận ngân
hàng của người dân thì ngân hàng sẽ dễ dàng thu hút được các khoản tiền gửi đó một cách có hiệu quả.
Hoạt động marketing của ngân hàng
Mục tiêu cuối cùng là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng vừa đảm bảo khả năng sinh lời, kảh năng cạnh tranh
an toàn trong kinh doanh thì marketing đã trở thành công cụ không thể thiếu được trong ngân hàng thương mại hiện

nay.
Hoạt động ngân hàng có tính xã hội hoá cao, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường kinh doanh như môi trường dân
cư, môi trường kinh tế, môi trường chính trị,... nên sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào cũng ảnh hưởng quan trọng
đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Chính sách marketing có hai nhiệm vụ chính:
Nắm bắt kịp thời sự thay đổi môi trường, thị trường cũng như nhu cầu của khách hàng đối với dịch vụ sản phẩm mà
ngân hàng cung cấp.
Xây dựng chính sách, giải pháp thích hợp để thắng đối thủ cạnh tranh đạt được mục tiêu lợi nhuận.
Việc nắm bắt kịp thời sự thay đổi của môi trường, nhu cầu sẽ giúp ngân hàng đưa ra được những sản phẩm phù
hợp, linh hoạt góp phần dáp ứng được nhu cầu của khách hàng đồng thời thu hút được lượng vốn lớn. Cũng từ việc
nghiên cứu thị trường, ngân hàng sẽ đưa ra những sản phẩm mới.
Mặt khác chính sách khuếch trương sẽ giúp người dân hiểu rõ ràng, đầy đủ về ngân hàng thông qua phương tiện
thông tin đại chúng xây dựng một hình ảnh nhân viên ngân hàng tận tình, chu đáo, có trình độ chuyên môn,... sẽ tạo
lòng tin với khách hàng.
Như vậy chính sách marketing có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh
doanh nói chung
Tổ chức nhân sự
Mặc dù trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất chính nhưng con người vẫn
luôn khẳng định vị trí trung tâm của mình, vừa là chủ thể vừa là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh. Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Trong hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố quan trọng trong việc tiếp xúc khách hàng, đặt quan hệ giao
dịch,... Như vậy để nâng cao hiệu quả huy động vốn thì một yêu cầu được đặt ra là ngân hàng cần phải có một đội

2


ngũ cán bộ có năng lực, được đào tạo một cách bài bản, có chuyên môn nghiệp vụ cao, đồng thời phải nắm bắt
được những kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài những yêu cầu về nghiệp vụ thì một cán bộ tín dụng phải
có tư cách phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và tuân thủ pháp luật, các quy định của ngân hàng.

Mặt khác, tổ chức nhân sự hợp lý tạo nên một chi phí hợp lý đối với nguồn nhân lực như vậy, hiệu quả huy động
vốn của ngân hàng sẽ tốt hơn.
Nhân tố khách quan
Khách hàng
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ
thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thông tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thương chiếm tỷ trong lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Chính vì vậy, khách hàng
của ngân hàng cũng bao gồm nhiều đối tượng khác nhau. Mỗi loại khách hàng lại mang những đặc điểm riêng có
của mình. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu, nhu cầu của từng loại khách hàng của mình, ngân hàng cần phải có các
chính sách, chiến lược phát triển phù hợp để có được hoạt động kinh doanh tốt nhất của mình
Môi trường kinh tế
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu
nhập quốc dân, tốc độ chu chuyển vốn, tỷ lệ lạm phát,... tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế trong thời kỳ hưng
thịnh, có tốc độ phát triển nhanh, thu nhập quốc dân cao, các đơn vị kinh tế, dân cư sẽ có nguồn tiền gửi dồi dào
vào ngân hàng. Ngược lại, trong điều kiện tình hình kinh tế bất ổn, nền kinh tế trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ
lạm phát cao thì việc huy động vốn của ngân hàng nói chung và các hoạt động khác của ngân hàng noi chung sẽ
gặp nhiều khó khăn bởi người dân không tin tưởng gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền để mau các tài sản có tỉnh
ổn định cao, còn các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, lượng tiền gửi vào ngân hàng sẽ bị thu hẹp, ảnh
hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Mặt khác, trong môi trường ngày càng phát triển hiện nay, khả năng ứng dụng công nghệ trở thành một trong
những điều kiện bắt buộc để ngân hàng tồn tại và phát triển. Nhiều sản phẩm dịch vụ đã xuất hiện liên quan đến
hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại như dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home banking), máy rút tiền tự
động ATM (Automatic Teller Money), thư tín dụng (L/C), hệ thống thanh toán điện tử,... đã làm cho tỷ lệ gửi tiền,
thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng và đạt tỷ lệ cao.
Môi trường xã hội
Môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy
động vốn nói riêng.
Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có thể khai thác nhằm mở rộng quy mô huy
động vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy những khu vực đông dân cư, với thu nhập cao thì sẽ dễ dàng hơn trong
việc huy động vốn đối với ngân hàng.

Môi trường văn hoá như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt của dân cư ảnh hưởng nhiều đến quyết định
kinh tế về tiêu dùng và tiết kiệm của người có thu nhập, mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào các tổ chức tín
dụng hay quyết định chi tiêu số tiền nhàn rỗi của mình vào đầu tư bất động sản, động sản, chứng khoán
Môi trường pháp lý
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt, hàng hoá tiền tệ nên chịu tác dụng bởi nhiều
chính sách, các quy định của Chính Phủ và của Ngân hàng Nhà nước. Sự thay đổi chính sách của nhà nước, của
Ngân hàng Nhà nước về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất
lượng của nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác
động đến nguồn vốn của một ngân hàng thương mại với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
2. Liên hệ thực tế Việt Nam
Trong thời gian qua cùng với sự biến động của thị trường tài chính, hoạt động huy động vôn của các Ngân hàng
thương mại cũng có nhiều biến động.
Cuối năm 2007 và năm 2008 do sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và với chính sách kiềm chế
lạm phát trọn gói của chính phủ đã tác động lên thị trường tài chính của Việt Nam hoạt động của các NHTM Việt
Nam gặp nhiều khó khăn. Do sự thiếu hụt về nguồn vốn nên các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động đã có thời
điểm lãi suất huy động VNĐ vượt ngưỡng 20 %/năm. Sau khi lạm phát được kiềm chế và để khôi phục lại nền kinh
tế sau cơn suy thoái Chính phủ đã thực hiện gói kích cầu nhờ đó hoạt động của NHTM cũng dễ thở hơn lãi suất huy
động giảm dần vào cuối năm 2008 và đầu năm 2009. Nhưng thời gian gần đây các ngân hàng lại tăng tốc cuộc đua
lãi suất huy động, do thông tư 15 của Ngân hàng Nhà nước quy định các ngân hàng thương mại chỉ được sử dụng
30% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn thay vì 40% như trước đây thêm vào đó thị trường chứng khoán và

3


bất động sản khởi sắc trở lại nên nhu cầu rút và vay vốn của nhiều khách hàng tăng mạnh, chính sách cho vay bù
4% lãi suất của Chính phủ đang được nền kinh tế hấp thụ khá mạnh, lượng vốn giải ngân cho chương trình này ở
các ngân hàng đều đạt khá cao, gần đến thời điểm rút vốn của khách hàng gửi tiết kiệm “ồ ạt” thời điểm lãi suất
đỉnh gần 20% một năm vào cuối năm ngoái khiến nhiều hàng đứng trước áp lực thiếu tiền.…Vì những lý do trên,
các ngân hàng cần vốn để cho vay”.
Điều này có nghĩa các ngân hàng phải cắt giảm 10% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Do vậy, để đảm

bảo đúng thời hạn thông tư có hiệu lực (đầu tháng 10), các ngân hàng phải đẩy nhanh tốc độ huy động vốn và tăng
mạnh lãi suất tiết kiệm ngắn hạn nhằm thu hút tiền gửi, từ đó mới hy vọng đáp ứng tỷ lệ sử dụng vốn mà Ngân
hàng Nhà nước quy định.
Có thời điểm các ngân hàng thương mại phải ngồi lại với nhau để bàn về việc bỏ các kỳ hạn lãi suất qua đêm, lãi
suất ngày và tuần. Lý do là cuộc đua lãi suất các kỳ hạn ngắn liên tục diễn ra sẽ dẫn đến rủi ro và bất lợi cho các
ngân hàng trong việc điều chỉnh, tính toán nguồn vốn cho vay. Thế nhưng, thời điểm này, các kỳ hạn cực ngắn lại
đang được áp dụng trở lại. Chính vì vậy, nếu trước tháng 7, lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 3 tháng phổ biến 5 7% mỗi năm, thì nay ngay cả với “đại gia” Vietcombank, lãi suất huy động một tháng cũng đã lên tới 7,14% mỗi
năm, ba tháng là 8,1%.
Song song với tăng lãi suất, nhiều ngân hàng còn tung ra các chương trình khuyến mãi, tặng quà, cộng thưởng lãi
suất tích lũy… nhằm lôi kéo khách hàng. Tại ngân hàng cổ phần Sài Gòn - Hà Nội, ngoài lãi suất huy động lên tới
9,65% một năm, còn có lãi suất thưởng 0,1 - 2% mỗi năm. Techcombank tung ra chương trình "Gửi tiền nhận quà"
để thu hút thêm tiền gửi. Chỉ cần gửi trên 20 triệu đồng là khách hàng đã nhận được quà (tổng giá trị của chương
trình lên đến hơn 4 tỷ đồng). Sacombank cũng tung ra chương trình “Cơn lốc quà tặng" với giải đặc biệt là ô tô
BMW trị giá 1,4 tỷ đồng và nhiều giải thưởng có giá trị khác.
Nói tóm lại hoạt động huy động của các NHTM Việt Nam trong mấy năm gần tuy tổng vốn huy động có tăng
nhưng hiệu quả huy động vốn là chưa cao thể hiện ở các mặt sau:
- sự thay đổi lãi suất liên tục thời gian qua đã kéo theo một hệ quả là lượng tiền mặt huy động của các ngân hàng
tăng giảm thất thường. Khi lãi suất huy động của ngân hàng A tăng lên thì lượng tiền cùng với số lượng người gửi
tăng theo, và khi lãi suất huy động của ngân hàng B cao hơn thì một lượng lớn tiền mặt được rút khỏi ngân hàng A
và được gửi sang ngân hàng B.
- Chỉ tiêu chênh lệch thu chi lãi/tổng vốn huy động không cao do chênh lệch lãi suất cho vay và huy động không
cao.
Câu 2. Trình bày về chất lượng/hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM
1. khái quát về chất lượng hoạt động tín dụng của NH
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng.
Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay qúa trình để đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng và các bên có liên quan".
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát
triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của Ngân hàng.
Tín dụng được coi là có chất lượng cao khi vốn vay được của khách hàng sử dụng vào đúng mục đích, tạo được số

tiền lớn, ngân hàng thu được cả vốn và lãi, còn doanh nghiệp vừa trả được nợ ngân hàng đúng hạn vừa bù đắp được
chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội .
* Chất lượng tín dụng được thể hiện:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất kỳ hạn nợ
hợp lý, thủ tục đơn giản, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc
làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt
các quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế.
- Đối với Ngân hàng thương mại: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân
hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
* Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
+ Nhóm các chỉ tiêu đánh giá quy mô
a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu)
Tỷ lệ này được đo bởi công thức:
Vốn tự có

4


Tỷ lệ vốn tự có trên = -------------------------tổng tài sản Có

Tổng tài sản Có

-Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng và quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ
chức tín dụng.
-Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của từng loại tài
sản(bao gồm cả các cam kết ngoại bảng của ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có
tùy thuộc vào đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau, phản ánh tỷ lệ rủi ro dự đoán đối với
tài sản có của ngân hàng.
-.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn tự có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi

các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của
ngân hàng không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát triển phải mở rộng cơ sở vốn của nó
nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi ro nhất định.
b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ .
Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh số dư nợ trong một thời kỳ.
DN tín dụng = DN tín dụng + DS cho vay - DS thu nợ
-Doanh số thu nợ tín dụng là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng trong một thời kỳ.
Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với thành phần này thông qua sự tăng trưởng
hay giảm sút của các con số.
c)Tỷ lệ Nợ quá hạn
Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là khi đến thời hạn thanh toán khoản nợ, người đi vay không có khả năng
thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay.Nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng không
hoàn hảo, trước hết, nó vi phạm đặc trưng của tín dụng về tính thời hạn,tính hoàn trả và lòng tin của người cấp tín
dụng với người nhận tín dụng.
Tỷ lệ Nợ quá hạn được đo bởi công thức sau:
Tổng số dư nợ quá hạn
Tỷ lệ Nợ quá hạn = ------------------------------ ------ *100%
Tổng dư nợ cho vay
Về cơ bản, Tỷ lệ Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh các khoản tín dụng có vấn đề - những khoản cho vay quá hạn mà
ngân hàng không thu hồi được.Mặc dù các khoản tín dụng có vấn đề là kết quả của nhiều yêú tố nhưng cơ bản là
kết quả của sự không sẵn lòng chi trả của khách hàng vay vốn, hoặc không có khả năng thực hiện hợp đồng để
giảm bớt dư nợ hay toàn bộ khoản vay như đã thỏa thuận, cá biệt có âm mưu chiếm dụng vốn.
d)Tỷ lệ Nợ khó đòi .
Tỷ lệ này được đo bởi công thức sau:
Nợ quá hạn khó đòi
Tỷ lệ Nợ khó đòi = ---------------------------------- *100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn gia hạn nợ quá hạn mà khách hàng còn nợ ngân hàng.Cùng với
chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ tiêu này thể hiện chất lượng tín dụng tốt hay xấu.Tỷ lệ này càng cao biểu hiện cho dấu hiệu
của một khoản tín dụng xấu và ngược lại.Tốt nhất, nên hạn chế tỷ lệ này ở mức dưới 1%.

Chỉ tiêu này được đo bởi công thức:
Lợi nhuận từ tín dụng
Tỷ lệ LN từ cho vay NQD =
Tổng dư nợ tín dụng
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường chất lượng tín dụng của ngân hàng.Chỉ tiêu này phản
ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Tỷ lệ này càng cao nghĩa là lợi nhuận thu được từ tín dụng đối với kinh tế ngoài
quốc doanh đóng góp vào thu nhập của ngân hàng càng lớn, thể hiện chất lượng tín dụng đối với thành phần này
càng cao.
+ Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng không thể định lượng.
Bên cạnh những chỉ tiêu đánh gía chất lượng có thể tính toán như trên, còn có những tiêu chí khác để đánh giá chất
lượng hoạt động tín dụng không thể đo lường và tính toán cụ thể:

5


-Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của ngan
hàng trong từng giai đoạn.
-Hệ thống tranh thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác nghiệp vụ một cách thuân lợi, hiệu quả.
-Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp,đây là yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất
trong mọi hoạt động của ngân hàng.
-Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm bảo quản lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng,vừa
thuận tiẹn với khách hàng,vừa đảm bảo tín dụng cho ngân hàng.
-Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối quan hệ với các khách hàng truyền thống.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
Nhóm nhân tố khách quan
a) Kinh tế
Về tổng thể, nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Khi đó, các quá trình
sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp NQD nói riêng sẽ phát triển lành mạnh.
Và như thế, quy mô và chất lượng tín dụng đều được nâng cao. Một khi môi trường kinh tế không ổn định, môi
trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho hoạt động của khu vực kinh tế NQD - khu vực không có sự hỗ

trợ đặc biệt của nhà nước thì quy mô và chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng mà trước hết là nợ quá hạn tăng sau
đó là quy mô tín dụng giảm dần.
b) Nhóm xã hội
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Sự tín nhiệm là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng nào có uy tín cao thì sẽ thu hút khách hàng lớn. Khách hàng nào làm ăn hiệu quả, được tín nhiệm trong
quan hệ tín dụng sẽ được vay vốn dễ dàng, được hưởng các ưu đãi của ngân hàng. Niềm tin lẫn nhau là cơ sở để
mở rộng quy mô tín dụng và đảm bảo cho chất lượng tín dụng.
c) Nhân tố pháp lý
Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật.
Đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi
trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận tiện và đạt hiệu quả cao là cơ sở pháp lý để
giải quyết tranh chấp. Vì vậy nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung
và hoạt động tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật
một cách nghiêm túc thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả 2 phía, chất lượng tín dụng được đảm bảo và
quy mô tín dụng có môi trường mở rộng.
Nhân tố chủ quan
a) Về phía khách hàng
Nếu các chủ thể kinh tế NQD làm ăn có hiệu quả, uy tín thì chắc chắn nhu cầu tín dụng của họ sẽ được ngân hàng
đáp ứng đầy đủ. Ngược lại nếu làm ăn thua lỗ, cạnh tranh không lành mạnh thì các ngân hàng không thể cho họ vay
được. Kết quả là quy mô tín dụng không được mở rộng và chất lượng tín dụng không có cơ sở đảm bảo. Do đó, để
tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng, các chủ thể kinh tế NQD cần nỗ lực hoạt động kinh doanh, tạo uy tín đối với
các NHTM.
b) Về phía các NHTM
*Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ
thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ
pháp luật, đường lối chính sách của nhà nước. Điều này có nghĩa là quy mô và chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào
chính sách tín dụng của ngân hàng có đúng đắn hay không.
* Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng bao gồm các quy định phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn

tín dụng. Chất lượng tín dụng có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng
bước. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng đảm bảo vốn tín dụng được luân chuyển bình
thường, đúng kế hoạch. Ngoài ra, việc linh hoạt trong quy trình tín dụng cũng sẽ gây cảm tình cho khách hàng và từ
đó quy mô tín dụng có cơ sở được mở rộng.
* Thông tin tín dụng:

6


Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh của khách hàng, rủi ro mà khách hàng
có thể gặp phải... Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác bao nhiêu thì khả năng phòng ngừa rủi ro của ngân
hàng càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao. Mặt khác, một ngân hàng với lượng thông tin phong phú
có thể đưa ra những tư vấn hữu ích cho khách hàng. Và đây chính là yếu tố mở rộng quy mô tín dụng.
* Hoạt động huy động vốn:
Ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc "Đi vay để cho vay", đóng vai trò là trung gian tài chính. Vì vậy, muốn
mở rộng cho vay thì trước hết phải huy động được nguồn. Nguồn vốn càng huy động được nhiều, đa dạng thì quy
mô cho vay càng lớn. Và chất lượng của nguồn huy động cũng gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
* Công tác tổ chức của ngân hàng:
Tổ chức của ngân hàng được sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các
phòng ban trong ngân hàng sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng quản lý sát
sao các khoản cho vay. Đây là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh.
* Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất:
Chất lượng nhân sự chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, marketing của người cán bộ ngân hàng. Cơ sở
vật chất là máy móc, phương tiện làm việc. Đây là hai yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự thu hút khách hàng của
ngân hàng. Đặc biệt đối với đối tượng khách hàng là khu vực kinh tế NQD, khả năng tiếp xúc khách hàng của cán
bộ công nhân viên là yếu tố quyết định đến mở rộng quy mô tín dụng. Ngoài ra, trình độ nghiệp vụ của cán bộ cũng
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của khoản cho vay.
2. liên hệ thực tế việt nam
Chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại đang tốt hơn.
Đây là thông tin được ông Lê Xuân Nghĩa - Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước)

đưa ra trong cuộc trao đổi với báo chí về hoạt động của ngành ngân hàng gần đây.
Ông Nghĩa cho biết hiện các ngân hàng thương mại đã cải thiện khá tốt về thanh khoản. Kể cả những ngân hàng
thương mại yếu, nhưng đến giờ đã cải thiện được vốn của mình, thậm chí có ngân hàng còn nói là đang thừa tiền.
Trước diễn biến này, tuần trước, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM)
sử dụng trái phiếu bắt buộc của ngân hàng (NH) Trung ương để cầm cố, chiết khấu và chuyển nhượng trên thị
trường ngắn hạn. Đây là điều rất quan trọng để củng cố thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Liên quan đến hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, ông Nghĩa cho biết ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao
nhất vào khoản 4,5%, và thấp nhất là 0,18% theo chuẩn kế toán của Việt Nam. Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao
thường rơi vào các ngân hàng thương mại quốc doanh và trong khối các ngân hàng này có đơn vị đã thực hiện gần
như giống như chuẩn mực quốc tế nên tỷ lệ tượng đối cao.
“Có thể nói như vậy thì để thấy chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại theo thống kê hiện hành là đang ở
tình trạng tốt hơn nhiều so với cách đây khoảng 5 - 7 năm. Tuy nhiên hiện chúng ta chưa có đánh giá với các khoản
vay bất động sản.
Trước vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước đã thanh tra, giám sát chặt chẽ chất lượng tín dụng của các ngân hàng
thương mại để có những con số chuẩn xác về chất lượng tài sản và để có những biện pháp chấn chỉnh hoặc củng cố
chất lượng tài sản tránh hiện tượng chúng ta có một cú sốc về nợ cuối niên khóa tài chính 2009” - Ông Nghĩa nói.
Cũng theo đại diện Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, các chuyên gia cho rằng năm 2008, khả năng sinh lời của
toàn bộ hệ thống toàn cầu sẽ suy giảm. Ngân hàng nào lãi nhất, tức là lãi ròng trên vốn tự có vào khoảng 6% và
nhiều ngân hàng thì âm, còn bình quân khoảng 3 - 4%.
Ở Việt Nam, xu hướng có khá hơn, các ngân hàng nước ngoài cổ phần ước tính lãi vào khoảng 6 - 7%, trong khi đó
khu vực ngân hàng quốc doanh vào khoảng 13 - 14%. Đây là điều rất mới vì những năm trước, ngân hàng quốc
doanh luôn có lợi nhuận thấp hơn các ngân hàng nước ngoài.
Đây là năm đầu tiên, tình hình đảo ngược. Các ngân hàng thương mại quốc doanh có thanh khoản tốt hơn do có uy
tín tốt hơn, thị trường mạnh hơn nên cũng mang lại cho họ lợi nhuận tốt hơn.
Về quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng, ông Nghĩa cho biết, Ngân hàng Trung ương đang chuẩn bị ban
hành Nghị định mới thay thế Nghị định 49 về quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Nghị định mới được soạn
thảo một cách rất công phu dựa trên các tiêu chí của WTO và các chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp.
Đây có thể nói là cuộc cách mạng thực sự trong quản trị ngân hàng. Điểm đáng chú ý là nghị định này cũng quy
định những chuẩn mực mới về việc cấp phép thành lập NHTM nội địa và nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm ngân
hàng 100% vốn của nước ngoài, văn phòng đại diện…


7


Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ đưa ra những tiêu chí mới rất cao, rất khắt khe. Ví dụ, quy định về vốn điều lệ là
3.000 tỷ đồng, quy định các tiêu chí về cổ đông sáng lập phải có vốn tự có là 500 tỷ đồng trở lên và phải hoạt
động 3 năm liên tục có lãi… Những quy định như vậy có thể nói là cực kỳ khắt khe đối với các doanh nghiệp của
Việt Nam.
Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng
Lãnh đạo ngành ngân hàng cũng yêu cầu kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng; trong đó, tiến hành phân tích,
đánh giá, phân loại các khoản cho vay kinh doanh bất động sản để có giải pháp phù hợp đối với từng đối tượng vay
vốn; tiếp tục tăng tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, các dự án trọng điểm quốc gia, các
nhu cầu vốn sản xuất có hiệu quả, chú trọng mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa mà các khoản vay
đó đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật và khả năng cân đối vốn của các tổ chức tín dụng
Cũng theo Chỉ thị này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng báo cáo kịp thời các khó
khăn, vướng mắc về hoạt động kinh doanh cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để xem xét giải quyết; thực hiện
việc cung cấp thông tin và báo cáo tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng theo đúng thời hạn và đảm bảo chính
xác theo quy định của NHNN Việt Nam.
HIỆU QUẢ CỦA TÍN DỤNG:
1.2.1. Khái niệm:
Hiệu quả tín dụng là một trong những biểu hiện của hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, nó phản ánh chất
lượng của các hoạt động tín dụng ngân hàng. Đó là khả năng cung ứng tín dụng phù hợp với yêu cầu phát triển của
các mục tiêu kinh tế xã hội và nhu cầu của khách hàng đảm bảo nguyên tắc hoà trả nợ vay đúng hạn, mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng thương mại từ nguồn tích luỹ do đầu tư tín dụng và do đạt được các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế. Trên cơ sở đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng.
Vì vậy, hiệu quả tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh khả năng thích nghi của tín dụng ngân
hàng với sự thay đổi của các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ của cán bộ quản lý ngân hàng …) khách
quan mức độ an toàn vốn tín dụng ,lợi nhuận của khách hàng, sự phát triển kinh tế xã hội …). Do đó hiệu quả tín
dụng là kết quả của mối quan hệ biện chứng giữa ngân hàng – khách hàng vay vốn-nền kinh tế xã hội, cho nên khi
đánh giá hiệu quả tín dụng cần phải xem xét cả ba phía ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.

1.2.2. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả tín dụng.
1.2.2.1:Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng về phía ngân hàng .
Để đánh giá hiệu quả tín dụng trong nội bộ ngân hàng thương mại , người ta sử dụng “Hệ số chênh lệch lãi
ròng” (NIM=Net Interest Margin) là tỷ số giữa thu nhập lãi ròng với số tài sản có hoặc tài sản sinh lợi.

Hệ số chênh lệch lãi ròng (%)

=

Thu nhập lãi ròng
Tài sản sinh lời

x 100

Công thức trên đã chỉ rõ các tiêu thức chủ yếu liên quan trực tiếp đến khả năng sinh lời của hoạt động tín
dụng là thu nhập lãi ròng và tài sản sinh lời. Trong đó nhân tố thu nhập lãi ròng của tài sản sinh lời giữ vai trò trọng
yếu.
Thêm vào đó, để đánh giá đầy đủ hiệu quả tín dụng trong năm tài chính, người ta còn tính đến hệ số:
Giá trị tín dụng tổn thất thực tế
x 100
Tài sản sinh lời
Tóm lại, khả năng sinh lợi của các khoản cho vay và đầu tư phụ thuộc vào chi phí của các khoản cho vay,
đầu tư, tổn thất tín dụng và lãi suất ngân hàng áp dụng.
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ở năm tài chính nói trên người ta còn sử dụng đến một số chỉ
tiêu khác khi xem xét mặt hoạt động này trong một quá trình nhiều năm đến thời điểm nghiên cứu, cụ thể là:
Phân tích tình hình nợ quá hạn để biết thêm chất lượng tín dụng, khả năng rủi ro, hiệu quả kinh doanh của
các tổ chức tín dụng, từ đó có biện pháp khắc phục trong tương lai.
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)

Tỷ lệ nợ khó đòi (%)


=

Nợ quá hạn
Tổng dư nợ

x 100

=

Nợ khó đòi
Tổng dư nợ

x 100

8


Tỷ lệ nợ tổn thất (%)

Nợ được xếp loại tổn thất
Tổng dư nợ

=

Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro (%)

Quỹ dự phòng rủi ro
Tổng dư nợ


=

Quỹ dự phòng rủi ro
= Nợ được xếp loại tổn thất
Nợ được xếp loại tổn thất = Nợ xoá từ chủ trương của Chính phủ

Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro với nợ
được xếp loại tổn thất (%)

x 100

x 100

x 100

Trên đây là những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng về phía ngân hàng. Hiệu quả do hoạt động tín
dụng mang lại phải bù đắp chi phí cho vay, rủi ro trong tín dụng, có lợi nhuận không chỉ đảm bảo đời sống cho cán
bộ công nhân viên, không ngừng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, làm việc phục vụ khách hàng
theo hướng ngày càng hiện đại, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước mà còn có tích luỹ để tăng vốn tự có.
1.2.2.2: Các chỉ tiêu đánh giá tín dụng về mặt xã hội.
Về khía cạnh kinh tế xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, hiệu quả tín dụng ngân hàng thường
được đánh giá thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như: kết quả thực hiện tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá cố
định, giá hiện hành phân theo ngành kinh tế …; kết quả đạt được về diện tích, năng suất, sản lượng nông–lâm-ngư–
diêm nghiệp đối với từng loại cây trồng, vật nuôi, loại thuỷ, hải sản đánh bắt …; giá trị tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp và xây dựng tại nông thôn… Những chỉ tiêu này được tính hằng năm hoặc trong một gia đoạn nhất định tuỳ
theo mục đích nghiên cứu. Mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa nhất định: từ việc phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế
đến mức độ phát triển của các ngành nông–lâm–ngư–diêm nghiệp, công nghiệp và xây dựng cùng khả năng đáp
ứng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và tạo việc làm ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Thêm vào đó cần phải xem xét mức độ tập trung, bố trí vốn tín dụng ngân hàng cho các chương trình phát
triển kinh tế có hiệu quả, theo đường lối chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, góp phần

tích cực khai thác mọi nguồn lực, tăng cường giải quyết công ăn việc làm, giảm thời gian nông nhàn, ngăn chặn và
đẩy lùi tệ nạn xã hội ở nông thôn.
1.2.2.3: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng đối với khách hàng.
Để đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với khách hàng, người ta thường sử dụng những chỉ tiêu phản
ánh về lợi nhuận, hiệu quả vốn, sử dụng lao động…của khách hàng cụ thể là :
+ Về các chỉ tiêu lợi nhuận :
Hệ số lợi nhuận (%)

Tỷ suất lợi nhuận (%)

Tỷ suất doanh lợi (%)
Vốn sản xuất

=

Lợi nhuận thu được
Doanh thu

x 100

=

Lợi nhuận thu được
Tổng chi phí sản xuất

x 100

Lợi nhuận thu được
Vốn sản xuất
=

= vốn cố định + vốn lưu động

x 100

+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn :
Hiệu quả sử dụng vốn cố định

=

Tổng thu nhập
Vốn cố định

Tổng thu nhập
Vốn lưu động
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao đông:

Hiệu quả sử dụng vốn lưu đồng

=

Năng suất lao động

=

Giá trị thực tế tổng giá trị hàng hoá

9


Số lao động bình quân

Tổng thu nhập
Số lao động bình quân
Vì vậy về phía khách hàng, hiệu quả sử dụng thể hiện ở sự thành đạt qua quá trình sử dụng vốn vay để tổ
chức thực hiên các phương án, dự án sản xuất, kinh doanh đã thoả thuận với ngân hàng khi đến quan hệ vay vốn .
Hiệu quả sử dụng lao động

=

1.2.3: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng.
1.2.3.1 Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, nhất là đường lối phát triển kinh tế
đúng đắn sẽ giải phóng lực lượng sản xuất, sử dụng tốt hơn các nguồn lực của đất nước, tranh thủ được nguồn vốn
khoa học, kỹ thuật… tất cả điều đó đã tạo thuận lợi nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng ngân hàng.
1.2.3.2: Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Một trong 2 nguyên tắc vay vốn là sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng,
điều này khẳng định việc sử dụng vốn vay đúng mục đích có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hoạt động tín
dụng. Rõ ràng hạn chế những rủi ro trong sản xuất. Kinh doanh đồng nghĩa với việc hạn chế rủi ro trong tín dụng,
góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
1.2.3.3 Hiệu quả tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào thông tin về khách hàng vay vốn và về khoản vay.
+ Quyết định cho vay phải dựa trên thông tin về khách hàng vay vốn.Thẩm định uy tín khách hàng vay vốn
là yêu cầu trước tiên và quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng.
+ Quyết định cho vay phải dựa trên những thông tin về khoản vay. Bên cạnh những thông tin thu thập từ
Ngân Hàng Nhà Nước. Thì các Ngân hàng thương mại phải xem xét bảng cân đối tài khoản nhưng không chỉ dừng
lại ở các con số mà còn đưa ra nhiều nhận xét. Đánh giá đối chiếu những giữ liệu liên quan tác động lẫn nhau trong
quá khứ, hiện tại, tương lai của khách hàng
1.2.3.4.Tài sản đảm bảo tiền vay phải có tính khả thi cao.
Việc đặt ra vấn thế chấp tài sản đối với khoản vay một phần để hạn chế có hiệu quả hiện tượng khách hàng
vay ngân hàng lại mang những tài sản này thanh toán cho những tổ chức tín dụng khác. Chính vì vậy đòi hỏi tài sản
đảm bảo tiền vay không chỉ có giá trị mà bản thân nó dễ trở thành hàng hoá trên thị trường với giá trị mới thu về
sau khi phát mãi phải lớn hơn giá trị khoản vay.

1.2.3.5.Ngân hàng phải được độc lập trong quyết định cho vay và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định này
Tuyệt đại bộ phận nguồn vốn cho vay đều xuất phát từ nguồn vố huy động của các thành phần kinh tế và
tầng lớp dân cư, do vậy ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, đúng hạn chính xác lãi và vốn cho khách
hàng gữi tiền. Sự độc lập trong các quyết định cho vay của ngân hàng trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho những khoản vay đó phát huy tác dụng tích cực. Mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội thiết
thực và khi ấy thực tiễn và đạo lý ngân hàng mới chịu trách nhiệm hoàn toàn về các quyết định của mình
1.2.3.6 Mở rộng quy mô tín dụng gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng.
Ngân hàng thưong mại hoạt động kinh doanh theo phương châm “Đi vay để cho vay”. Do đó chúng không
thể tồn tại và phát triển nếu định hướng kinh doanh, cho vay của nó theo hình thức mạo hiểm, rủi ro.
Các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả tín dụng ngày càng được bổ sung để theo kịp những biến đổi của nền kinh
tế, đặc biệt là quá trình phát triển của công tác tín dụng. Mặc dù chúng chưa được hoàn hảo, song nếu không được
tôn trọng thực hiện nghiêm túc sẽ là một tai hoạ cho hiệu qủa tín dụng và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại.
Câu 3. Anh/chị hãy đánh giá và bình luận về vấn đề tăng trưởng tín dụng của NHTM VN trước và trong thời
kỳ suy giảm kinh tế hiện nay?
1. Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên về quy mô của tín dụng.
Các chỉ tiêu hay dùng để phản ánh tăng trưởng tín dụng là doanh số cho vay và số dư nợ cho vay
- Doanh số cho vay: là tổng số tiền Ngân hàng cho khách hàng vay trong một thời kỳ
- Dư nợ cho vay: là số tiền khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời điểm
Trong những năm vừa qua cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương cũng không ngừng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế điều đó được thể hiện rất rõ ở tốc
độ tăng trưởng tín dụng.

10


Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến hết tháng 12/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu
tư vào nền kinh tế của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam tăng gần 37,8% so với cuối năm 2006, vượt xa so với chỉ
tiêu tăng trưởng tín dụng đề ra cả năm là 18 - 22% và thực tế năm 2005 chỉ tăng 19,2% và năm 2006 tăng 21,4%.
Dư nợ cho vay theo các ngành kinh tế lên tới hơn 1 triệu tỷ đồng. Tăng trưởng tín dụng các ngân hàng thương mại

cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tăng từ 38% trở lên; các ngân hàng thương mại
nhà nước có tốc độ tăng dưới 30%. Tăng trưởng tín dụng của các NHTM tập trung chủ yếu vào cho vay tiêu dùng,
bất động sản và chứng khoán.
Với Tốc độ như vậy có thể nói rằng tăng trưởng tín dụng của các NHTM Việt Nam là quá nóng và hệ quả
của nó là cung tiền trong lưu thông tiếp tục tăng, đẩy lạm phát lên cao. Tăng trưởng tín dụng lại tập trung chủ yếu
vào những lĩnh vực ẩn chứa rủi ro cao có thể ảnh hưởng xấu tới chất lượng tín dụng làm tăng tỉ lệ nợ xấu.
Nhiều ngân hàng thương mại có tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức rất cao, mở rộng cho vay đối với các dự
án lớn thuộc các ngành năng lượng, vật liệu xây dựng, bất động sản, vượt quá khả năng thẩm định và quản trị rủi
ro; tăng số lượng chi nhánh kéo theo việc mở rộng tín dụng, nhưng ở một số nơi có biểu hiện "nới lỏng" điều kiện
cho vay để cạnh tranh thu hút khách hàng… Thời điểm này, những con số tăng trưởng trên đều đẹp nhưng khi được
cố tình vượt quá ngưỡng an toàn có thể sẽ gây hậu quả lâu dài. Cũng theo thống kê của NHNN, nợ xấu năm 2007
chỉ chiếm 2% tổng dư nợ cho vay, giảm so với cùng kỳ năm trước là 2,65%, nhưng khi những thị trường nhạy cảm
nói trên đột ngột đảo chiều, nhiều khoản vay đáo hạn thì không chắc con số 2% còn đảm bảo.
Trước tình hình tăng trưởng tín dụng nóng như vậy NHNN Cần có giải pháp để kiểm soát tốc độ tăng
trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng; hỗ trợ, mở rộng tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn; điều hành các
công cụ chính sách tiền tệ linh hoạt để kịp thời rút về lượng vốn khả dụng dư thừa, chủ động kiềm chế tốc độ tăng
trưởng tín dụng cho phù hợp.
Bước sang năm 2008 trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cộng
với chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát làm cho tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2008 chậm lại.
Trước và sau Tết Nguyên đán đã xảy ra tình trạng các NH khan hiếm VND để cho vay. Lãi suất huy động,
lãi suất cho vay và đặc biệt là lãi suất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng (TTLNH) tăng cao chưa từng thấy. Một
trong những nguyên nhân là việc nhiều NHTM đã sử dụng vốn quá nhiều cho hoạt động tín dụng mà không chú ý
đúng mức đến quản trị rủi ro thanh khoản.
Một chuyên gia tư vấn NH cho rằng: "Năm 2007 là năm các NH huy động vốn dễ dàng, có nhiều kênh để
cho vay và đầu tư kiếm lời, nên một số NH đã tranh thủ huy động và cho vay thật nhiều, trong đó có việc đổ vốn
vào lĩnh vực BĐS, cho vay KDCK, mở rộng cho vay tiêu dùng... để kiếm lời nhanh mà không chú ý đúng mức đến
cơ cấu danh mục đầu tư và cân đối nguồn-sử dụng vốn một cách bền vững. Vì vậy, hiện nay nếu NH đang lâm vào
tình trạng thiếu nguồn VND thì đó là cái giá phải trả cho sự phiên lưu của chính mình".
Những NH đang căng thẳng về vốn và phải vay với lãi suất cao trên TTLNH phần lớn là các NH đã tăng
trưởng tín dụng VND cao quá mức trong năm 2007. Quý II, III năm 2007, toàn hệ thống NH có tình trạng tạm thời

thừa vốn khả dụng VND. Lúc đó, trên TTLNH, cung lớn hơn cầu rất nhiều. Vì vậy, một số NH đã chủ quan cho
rằng khi nào cần vốn thì có thể vay dễ dàng trên TTLNH nên đã đẩy mạnh cho vay với tỉ lệ sử dụng vốn/vốn huy
động rất cao, thậm chí có một số NHTMCP cho vay vượt trên 100% vốn huy động VND (trừ phần DTBB).
Một vấn đề đáng chú ý nữa là nhiều NH đã sử dụng tỉ lệ vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn
khá lớn. Từ tháng 8.2007, nhiều NH đã đua nhau đưa ra các chương trình cho vay tiêu dùng, cho vay lĩnh vực BĐS
với kỳ hạn ít nhất từ 1 năm đến dài nhất là 20 năm.
Trong điều kiện bình thường thì việc dùng một tỉ lệ nhất định vốn huy động ngắn hạn cho vay trung và dài
hạn cũng là chuyện bình thường. Tuy nhiên với VN, khi NHNN sử dụng các công cụ CSTT thắt chặt, nhu cầu vốn
của nền kinh tế tăng, nguồn vốn tiền đồng TTLNH trở nên khan hiếm... thì các NH đã tăng trưởng tín dụng quá
nóng hoặc có tỉ lệ cho vay trung và dài hạn/tổng dư nợ cao lâm vào tình trạng căng thẳng tiền đồng. Dẫn đến sự
thiếu hụt thanh khoản ngắn hạn tạm thời do đó đã đẩy lãi suất đồng VN tăng nhanh, tăng cao có lúc lên đến 24 26%/năm. Tình trạng lãi suất huy động tăng, thiếu tiền mặt VND để giải ngân đã khiến cho lãi suất cho vay cũng
tăng khá mạnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và hệ quả là
nền kinh tế không đạt mục tiêu tăng trưởng
Cuối năm 2008 đầu năm 2009 khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi sau thời kỳ suy thoái cộng với chính sách
kích cầu của Chính phủ hoạt động tín dụng của các NHTM cũng khởi sắc hơn năm 2008. Nếu như cả năm trước,
tốc độ tăng trưởng tín dụng của hầu hết NH giảm thì 6 tháng đầu năm 2009 nhiều NH cho biết, tỉ lệ dư nợ tăng lên
đáng kể. Đơn cử như Eximbank, kết thúc 5 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt 40%. Trong khi đó, cả
năm trước tốc độ tăng trưởng tín dụng của Eximbank chỉ đạt 12,5%.

11


Trước sức nóng của tín dụng trong những tháng đầu năm, nhất là kể từ khi CK tăng mạnh trở lại từ tháng 4,
nhu cầu vốn của khách hàng cá nhân tăng mạnh. Đây là cơ hội để các NH đẩy mạnh vốn cho vay và không loại trừ
khả năng vốn hỗ trợ lãi suất cũng như cho vay tiêu dùng đã "chảy" vào CK.
Tín dụng tăng trong những tháng đầu năm phù hợp với chủ trương kích cầu của Chính phủ, đáp ứng nhu
cầu vốn cho nền kinh tế. Qua đó, ngăn chặn được đà suy giảm và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Dư nợ tín dụng đối với
nền kinh tế tăng 17%. Không còn bị khống chế dưới ngưỡng tăng trưởng 30% cùng với chủ trương kích cầu mạnh
của Chính phủ thông qua các gói vốn hỗ trợ lãi suất và cơ hội đón nhu cầu vốn vay của DN sau khủng hoảng... là lý
do và mục tiêu để các NH đẩy mạnh việc mở rộng tín dụng.

Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng của nhiều NH cao hơn trên 50% và thậm chí là 90% trong năm nay được
nhiều chuyên gia trong ngành tài chính cho là quá "nóng". Nếu các NH cứ đeo đuổi mục tiêu và chạy theo cuộc đua
mở rộng cho vay, nhưng thiếu sự kiểm soát sẽ khó tránh được nguy cơ lạm phát tái bùng phát như hồi đầu năm
2008.
Cùng với việc đẩy mạnh vốn hỗ trợ DN thông qua chủ trương hỗ trợ LS, kích cầu, các NH đang đẩy mạnh
cho vay tiêu dùng, với điều kiện tín dụng được dần nới lỏng và điều này rất nguy hiểm. Tiền đổ vào CK ngày một
gia tăng cũng khiến không ít người cho rằng, vốn ngân hàng đang chảy mạnh vào CK. Trong đó, không chỉ với tín
dụng cầm cố mà thông qua cho vay tiêu dùng và không loại trừ vốn hỗ trợ LS cũng được cho là có chảy vào CK và
BĐS. Theo nhận định của các chuyên gia tài chính, tín dụng tái tăng trưởng sẽ khó tránh được nguy cơ lạm phát
bùng phát. Khả năng lạm phát sẽ được kiểm soát dưới 10%, nhưng cũng có rủi ro lạm phát sẽ tái bùng phát trong 6
tháng cuối năm.
Nguy cơ nợ xấu khi tăng trưởng tín dụng một cách ồ ạt cũng là điều khó tránh. Đặc biệt là khi các ngân hàng tiếp
tục đeo đuổi mục đích tăng trưởng, nhưng lại quên đi các biện pháp kiểm soát rủi ro. Điều này đã từng xảy ra với
các NH trong 2 năm qua khi ồ ạt đẩy vốn vào BĐS và CK khiến tỉ lệ nợ xấu của năm 2007 có dấu hiệu gia tăng
mạnh. Theo đánh giá của NH Thế giới (WB) dù chưa tới mức nghiêm trọng, nhưng đang xuất hiện một số dấu hiệu
cho thấy tỉ lệ nợ xấu gia tăng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
4. Một số Ngân hàng cho vay theo SIBOR + …. Hãy giải thích cơ sở của chính sách lãi suất đó.
Trả lời:
- Khái niệm lãi suất: Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của quyền được sử
dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng
số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả
để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
- Các phương pháp định giá lãi suất cho vay: (rất dài trong sách Peter rose trang 695 đến 709), có các phương pháp
sau:
1. Phương pháp định giá tổng hợp chi phí
Lãi suất = Chi phí cận biên huy động vốn cho vay (+) Chi phí hoạt động (+) Phần bù rủi ro (+) Mức lợi nhuận cận
biên dự tính.
Mỗi thành phần trên có thể được tính theo tỷ lệ % bình quân năm so với quy mô của khoản vay
2. Phương pháp định giá theo lãi suất cơ sở
Lãi suất cho vay = Lãi suất cơ sở (gồm lợi nhuận cận biên, chi phí quản lý và chi phí hoạt động) (+) Phần bù rủi ro

tín dụng (+) Phần bù rủi ro kỳ hạn
= Lãi suất cơ sở (+) Chi phí tăng thêm
3. Phương pháp định giá dưới cơ sở:
Lãi suất cho vay = chi phí vay vốn trên thị trường tiền tệ (+) Phần bủ rủi ro và lợi nhuận
4. Phương pahps lãi suất trần:
Lãi suất trần là giới hạn trên của lãi suất xác định trong hợp đồng cho vay, không tính tới biến động trong tương lai
của lãi suất trên thị trường.
5. Phương pháp định giá chi phí lợi ích:
Phương pháp này xác định khả năng ngân hàng có thể bù đắp được toàn bộ chi phí và rủi ro liên quan hay không.
Các bước định giá gòm:
1. Dự tính tổng thu từ lãi khi áp dụng các lãi suất khác nhau và tổng thu từ những khoản phí khác

12


2. Dự tính tổng quỹ cho vay mà ngân hàng phải thực hiện ( sau khi trừ những khoản tiền gử tại ngân hàng và những
khoản dự trữ bắt buộc theo quy định)
3. Dự tính lợi nhuận trước thuế từ khoản vay: thu nhập dự tính/tổng quỹ cho vay mà KH thực tế sử dụng.
Ngân hàng thực hiện cho vay theo Sibor + … vì lý do như sau:
Lãi suất SIBOR là lãi suất do Hiệp hội ngân hàng Xing-ga-po ấn định vào lúc 12:00 giờ (Giờ Xing-ga-po)
dựa trên cơ sở tham khảo các mức lãi suất cho vay liên ngân hàng của một số ngân hàng thương mại được lựa chọn
từng thời kỳ.
Lãi suất SIBOR áp dụng cho các khoản vay bằng USD tại Việt Nam là lãi suất do Hiệp hội các ngân hàng
Xing-ga-po công bố sau 12 giờ trong các ngày từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần, trừ những ngày nghỉ của Xing-gapo, được các Hãng cung cấp dịch vụ thông tin quốc tế đưa tin hàng ngày như trên mạng.
Cơ sở để áp dụng lãi suất sibor:
-

Thứ nhất:

+


Từ tháng 06/2001, theo xu hướng hội nhập, lãi suất ngoại tệ ở nước ta được tự do hoá có nghĩa là Ngân hàng
Nhà nước không quy định trực tiếp lãi suất USD như trước đây mà chỉ quy định lãi suất tiền gửi USD của các
NHTM và Kho bạc Nhà nước tại NHNN. Ngân hàng Nhà nước can thiệp gián tiếp thông qua tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN. Do đó lãi suất của các NHTM trong nước theo sát diễn biến
lãi suất thị trường quốc tế. Lãi suất Sibor và lãi suất Libor là lãi suất trên thị truờng liên ngân hàng Singapore
và lãi suất thị trường liên ngân hàng London phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế.

+

Thị trường tiền tệ Việt Nam đã gần như liên thông với thị trường quốc tế theo xu hướng hội nhập, khi lãi suất
tiền gửi USD trên thị trường thế giới tăng, lãi suất tiền gửi USD ở Việt Nam cũng tăng theo. Do đó, lãi suất huy
động tiết kiệm USD và lãi suất Sibor và Libor cũng gần sát nhau nên sự chênh lệch về lãi suất cho vay theo lãi
suất huy động của các ngân hàng và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không đáng kể.

-

Thứ hai: Hiện nay, các Ngân hàng thương mại huy động USD không chỉ để cho vay mà còn thực hiện đầu tư
trên thị trường tiền gửi quốc tế để tìm kiếm lợi nhuận theo lãi suất thị trường liên ngân hàng Sibor hoặc Libor.
Điều này phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và xu hướng chung của hoạt động ngân hàng trên
thế giới. Thông thường các ngân hàng thu được lợi nhuận là khỏang 0,2 – 0,6%/năm sau khi trừ đi tỷ lệ dự trữ
bắt buộc và chi phí huy động vốn thì các NHTM trong nước huy động vốn. Việc các Ngân hàng thương mại áp
dụng lãi suất cho vay USD theo Sibor hoặc Libor sẽ dễ dàng so sánh được chi phí chi phí cơ hội giữa đầu tư
trên thị trường tiền gửi liên ngân hàng và cho vay đối với các tổ chức kinh tế.

5. Một số NHTM cho vay đối với dự án với mức cho vay tối đa là 85% tổng nhu cầu vốn đầu tư của dự án.
Giải thích cơ sở của chính sách trên.
Trả lời:
-


Dự án đầu tư: Là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa
bàn cụ thể trong khoảng thời gian xác định (Theo Luật Đầu tư năm 2005)

-

Dự án đầu tư được xem xét trên các mặt
- hình thức
- quản lý
- kế hoạch hoá
- nội dung

-

về nội dung, dự án đầu tư bao gồm bốn thành phần chính:
- mục tiêu
- các kết quả
- các hoạt động
- các nguồn lực

-

Đặc trưng của dự án đầu tư:

Có mục đích, mục tiêu rõ ràng
Có chu kỳ phát triển riêng, thời gian tồn tại hữu hạn
Sự tham gia của nhiều bên

13



Sản phẩm dự án mang tính chất cá biệt
Môi trường hoạt động
Có độ bất định và rủi ro
-

Tổng mức đầu tư của dự án: Là toàn bộ chi phí dự tính để đầu tư xây dựng công trình được ghi trong quyết
định đầu tư. Tổng mức đầu tư bao gồm: chi phí xây dựng,chi phí thiết bị, chi phí bồi thường giải phóng mặt
bằng, tái định cư; chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư xây dựng; chi phí khác và chi phí dự phòng

-

Cho vay dự án là một hình thức tài trợ cho việc xây dựng những tài sản cố định được dự tính sẽ mang lại
thu nhập trong tương lai.

-

Đặc điểm của cho vay dự án: Quy mô vốn thường lớn, thời gian thực hiện dự án rất dài, trong quá trình xây
dựng thường chịu ảnh hưởng của các yếu tố về thời tiết, ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô. Do
vậy hoạt động cho vay dự án thường có mức độ rủi ro lớn hơn cho vay ngắn hạn. …

-

Hiện nay, một số ngân hàng thường cho vay với mức tối đa là 85% nhu cầu vốn đầu tư của dự án dựa trên
một số căn cứ như sau:

Thứ nhất: Cho vay đầu tư dự án tiềm ẩn rủi ro lớn do vậy, việc tham gia vốn tự có của Khách hàng vào phương
án là cần thiết để nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của Khách hàng đối với dự án và đối với việc trả nợ ngân
hàng.
Thứ 2: Trong quá trình vay vốn xay dựng dự án, vốn chủ sở hữu cũng có vai trò như một tấm đệm để giảm
thiểu rủi ro cho ngân hàng.

6. Luật các tổ chức tín dụng của VN xếp bảo lãnh của ngân hàng vào hoạt động tín dụng; một số quan
điểm khác cho rằng bảo lãnh ngân hàng là hoạt động phi tín dụng.
Anh/chị hãy bình luận về các quan điểm trên.
Trả lời:
- Theo Luật các TCTD năm 2010: Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
- Cũng theo luật này, Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận
bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng
theo thỏa thuận.
Như vậy, theo quan điểm của Việt Nam, bảo lãnh ngân hàng được xếp vào hoạt động tín dụng. Đây là một quan
điểm đúng đắn bởi vì:
-

Tại thời điểm phát hành bảo lãnh thì Ngân hàng đã cam kết với bên nhận bảo lãnh v/v sẽ thực hiện thay
nghĩa vụ tài chính cho Khách hàng của mình trong trường hợp KH vi phạm thỏa thuận.  như một cam
kết của ngân hàng v/v cho KH vay vốn thực hiện nghĩa vụ

-

Thời điểm phát sinh nghĩa vụ phải thực hiện thì ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng thực hiện nghĩa vụ tuy
nhiên Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.

Đối với quan điểm bảo lãnh là một hoạt động phi tín dụng: quan điểm này chưa đánh giá được đầy đủ mức độ
rủi ro của bảo lãnh. Những người theo quan điểm này mới chỉ coi bảo lãnh của ngân hàng như một lời hứa của
ngân hàng và đứng trên quan điểm hoạt động tín dụng là hoạt động cho vay (tức là ngân hàng phải cấp vốn trực
tiếp cho khách hàng mới được xem xét là hoạt động tín dụng). Quan điểm này chưa đúng và chưa đánh giá
được đầy đủ rủi ro ngân hàng gặp phải trong quá trình kinh doanh.
Câu 7. Tại Việt nam, quy định của NHNN yêu cầu hoạt động cho thuê tài chính phải được tổ chức độc

lập dưới hỡnh thức hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Anh/chị hóy bỡnh luận về quy định này.
(câu này Hương mạn phép sửa vì giống câu 14 em làm nhé)
Cho thuê tài chính là gì?
Theo quy định tại Điều 20 Khoản 11 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, Điều 1 NĐ 16/2001/NĐ-CP được sửa đổi bổ
sung tại Điều 1 khoản 1 Nghị định 65/2005/NĐ-CP: cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông
qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản trên cơ sở hợp đồng giữa bên cho
thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác
theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Nói một cách ngắn gọn, cho thuê tài chính

14


là việc cấp một khoản tín dụng trung hạn hoặc dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản
khác.
Tại điều 2, Nghị định số 95/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày
2/5/2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
1. Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam . Công ty cho
thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau:
a) Công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
b) Công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
c) Công ty cho thuê tài chính cổ phần
2. Việc chuyển đổi sở hữu, thay đổi hình thức (loại hình) công ty cho thuê tài chính thực hiện theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ”.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số công ty CTTC hoạt động dưới các hình thức công ty CTTC liên
doanh và công ty CTTC 100% vốn nước ngoài. Công ty CTTC liên doanh là công ty cho thuê tài chính được thành
lập tại Việt Nam, bằng góp vốn của Việt Nam và bên nước ngoài trên cơ sở hơp đồng liên doanh. Công ty CTTC
liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên. Công ty CTTC 100% vốn
nước ngoài đựoc thành lập tại Việt Nam với 100% vốn điếu lệ thuộc sở hữu của một hoặc một số tổ chức tín dụng
nước ngoài. Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.

Những đặc trưng của cho thuê tài chính ?
- Cho thuê tài chính là một dạng cho thuê tài sản, nhưng khác về căn bản so với các loại cho thuê tài sản
khác là có sự chuyển dịch về cơ bản các rủi ro và các lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê.
- Xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên
cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản (tài sản này có thể là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, động sản khác,
không kể đất đai nhà cửa...) giữa bên cho thuê là công ty cho thuê tài chính (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) với
khách hàng thuê (khách hàng có nhu cầu thuê thường là các doanh nghiệp, các bên đối tác trong liên kết kinh tế).
- Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng.
- Công ty cho thuê tài chính giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê, bên thuê có nghĩa vụ nộp tiền thuê (tiền
trích khấu hao tài sản cho thuê) cho công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc
tiếp tục cho thuê tài sản đó theo các thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
- Loại hình cho thuê tài chính có lợi thế là người thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy
móc, thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản như trong các giao dịch vay vốn khác; bên đi thuê tài
chính không phải chịu những rủi ro do sự mất giá của tài sản, hao mòn tự nhiên...
Theo điêu 11 nghị định số 49/2000/NĐ-CPVề tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại
“Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công tycho thuê tài chính.
Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuêtài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động củacông ty cho thuê tài chính”
Bình luận:
Đối với ngân hàng: Tránh rủi ro tín dụng, tìm khách hàng là các doanh nghiệp để cho vay (các NHTMCP
rất quan tâm điều này), nâng cao chất lượng tín dụng, giúp các doanh nghiệp thiếu điều kiện vay vốn (do không có
tài sản thế chấp mặc dầu có dự án đầu tư, phương án kinh doanh hiệu quả) tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng để
tăng sức sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý điều hành ngân
hàng. Trong tình hình đó thì cho thuê tài chính (CTTC) là giải pháp bổ sung hữu hiệu cho ngân hàng để giải quyết
những vướng mắc trên khi cấp tín dụng.
Hạn chế:
Khoản 1 Điều 1 NĐ 95/2008/NĐ-CP sửa đổi bổ sung NĐ 16/2001/NĐ-CP: “Công ty CTTC là một tổ chức tín dụng
phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam”. Như vậy, các tổ chức tín dụng là ngân hàng không được tiến hành hoạt
động CTTC. Đó thực sự là một điều không công bằng với các ngân hàng bởi các TCTD phi ngân hàng được phép
thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng và còn không thống nhất với khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật các

TCTD và một số văn bản khác.Ví dụ như:
Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật các TCTD: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được tiến
hành toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan” (Khoản 3, 7, 8, 11 Điều 20 Luật các TCTD);

15


Điều 4 NĐ 49/2000/NĐ-CP: ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, CTTC, và các hình thức khác theo quy định
của NHNN (Khoản 2 Điều 1 NĐ 49/200/NĐ-CP; Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng (cấp tín dụng là…));
Điều 11 NĐ 49/2000/NĐ-CP: “ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành
lập công ty cho thuê tài chính…”
Như vậy có mâu thuẫn: không cho ngân hàng hoạt động trực tiếp CTTC và cho phép thành lập các công ty trực
thuộc lại hoạt động CTTC. Có sự không thống nhất với các luật và văn bản khác.
-

Cho phép ngân hàng hoạt động cho thuê tài chính nhưng NĐ 16/2001/NĐ-CP lại không cho¨không phù hợp.

-

Cho phép ngân hàng hoàn toàn được quyền tiến hành CTTC (cấp tín dụng).

Thực tế các ngân hàng “lách” quy định NĐ 16/2001/NĐ-CP bằng cách lập các công ty CTTC trực thuộc để
tiến hành hoạt động kinh doanh này và ở Việt Nam trên 80% các công ty CTTC trực thuộc ngân hàng.
“Thật khó lí giải thuyết phục vì sao ngân hàng không được tiến hành hoạt động CTTC trong khi các nhà
làm luật và các nhà khoa học pháp lí đều đồng ý CTTC là hình thức cấp tín dụng có độ an toàn cao. Do đó cần xem
xét gỡ bỏ rào cản này để nâng cao năng lực cấp tín dụng của ngân hàng, tăng cường khả năng sử dụng vốn hiệu quả
nhằm đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, đồng thời tạo công bằng pháp lí cho các ngân hàng trong hoạt động
kinh doanh ”.
Thông tư số 08/2001/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 6.9.2001 quy định: “Vốn pháp định của

công ty cho thuê tài chính cổ phần, công ty cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng là 50 tỷ đồng; vốn pháp
định của công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5 triệu USD”.
Đối với các NHTMQD thì quy định về vốn này không có gì để bàn cãi, nhưng đối với các NHTMCP thì rõ ràng sẽ
gặp rất nhiều khó khăn về vốn thành lập khi muốn tiếp cận và thực hiện kinh doanh hình thức hoạt động cho thuê
tài chính hiệu quả này. Cần nhận thức rằng đây là ngành kinh doanh có nhiều triển vọng, kênh dẫn vốn hiệu quả
cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ thiếu điều kiện vay vốn ngân hàng (Nhà nước đang ủng hộ mạnh cho các
doanh nghiệp loại này, thời gian qua doanh nghiệp loại này được thành lập rất nhiều theo Luật doanh nghiệp),
mang lại lợi ích thiết thực đối với nền kinh tế nói chung.
CTTC là phương thức tài trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn tại ngân hàng, đây là hoạt
động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc , thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản
khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Trong thời hạn cho thuê tài chính thì tài sản cho
thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên hình thức cấp tín dụng này đạt sự an toàn cao. Ngược lại, doanh
nghiệp có nhiều thuận lợi khi thuê tài chính: bên CTTC xét thấy doanh nghiệp có dự án đầu tư hiệu quả, tình tình
tài chính tốt thì doanh nghiệp chỉ cần đặt cọc hay ký cược thì sẽ được xét duyệt thuê tài chính mà không cần tài sản
thế chấp hay cầm cố, với sự thuận như vậy nên thời gian qua hoạt động cho thuê tài chính đã tiếp cận rất nhiều với
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ thông qua tài trợ vốn.
Câu 8. Tại sao cỏc NHTM bị kiểm soát chặt chẽ trong hoạt động? Xu hướng quản lý cỏc NHTM trong
và sau khủng hoảng kinh tế? Bài học kinh nghiệm cho Việt nam?
Tại sao hầu hết các ngân hàng lại bị kiểm soát chặt chẽ. Có nhiều lý do cho sự quản lý chặt chẽ này của
chính phủ, một số trong đó đã có từ hàng trăm năm nay.
Thứ nhất, ngân hàng là nơi tích trữ tiết kiệm hàng đầu của công chúng – đặc biệt là tiết kiệm của cá nhân
và hộ gia đình. Trong khi hầu hết tiết kiệm của công chúng nằm dưới dạng tiền gửi kỳ hạn tương đối ngắn với tính
thanh khoản cao, ngân hàng cũng nắm giữ một lượng lớn tiết kiệm dài hạn trong tài khoản "hưu trí" (được biết đến
ở Mỹ như những tài khoản hưu trí cá nhân Individual Retirement Accounts – IRAs). Việc thất thoát các khoản vốn
này trong trường hợp ngân hàng phá sản sẽ trở thành thảm họa cho rất nhiều cá nhận và gia đình. Nhưng hầu hết
người gửi tiền tiết kiệm lại thiếu kiến thức chuyên môn về tài chính và thiếu thông tin cần thiết để đánh giá chính
xác mức độ rủi ro của ngân hàng. Vì vậy các cơ quan quản lý phải có trách nhiệm tập hợp và đánh giá những thông
tin cần thiết để xác định tình hình tài chính thực sự của ngân hàng nhằm bảo vệ người gửi tiền. Máy ghi hình và
đội ngũ bảo vệ tuần tra tại các hành lang của ngân hàng được thiết lập nhằm giảm bớt rủi ro tổn thất do "trộm cắp."
Các cuộc kiểm tra và kiểm toán ngân hàng định kỳ được thực hiện nhằm hạn chế tổn thất do tham ô, lừ đảo hoặc

quản lý không hiệu quả. Với những ngân hàng phải đương đầu với sự suy giảm bất thường tạm thời trong dự trữ
thanh khoản, các cơ quan chính phủ luôn đồng ý cho vay để bảo vệ tiền tiết kiệm của dân chúng.
Thứ hai, các ngân hàng được quản lý chặt chẽ bởi khả năng “tạo tiền” từ những khỏan tiền gửi thông qua
hoạt động cho vay và đầu tư (mở rộng tín dụng). Sự thay đổi trong khối lượng tiền tệ do ngân hàng tạo ra liên quan
chặt chẽ tới tình hình kinh tế, đặc biệt là mức tăng trưởng của việc làm, tình trạng lạm phát. Tuy nhiên, việc ngân
hàng tạo ra tiền, ảnh hưởng đến sức sống của nền kinh tế, không phải là một nguyên nhân duy nhất cho sự kiểm

16


soát này. Chỉ cần ngân hàng Trung ương trong vai trò người lập chính sách có thể kiểm soát mức tăng trưởng trong
lượng tiền cung ứng của quốc gia thì lượng tiền mà ngân hàng tạo ra không phải là mối quan tâm lớn cho các cơ
quan quản lý cho công chúng.
Thứ ba, các ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ bởi chúng cung cấp cho cá nhân và doanh nghiệp những
khoản cho vay, tài trợ tiêu dung hoặc tài trợ đầu tư. Các nhà quản lý cho rằng, xã hội thu được lợi ích to lớn nếu
như hệ thống ngân hàng cung cấp một lượng tín dụng thích hợp. Hơn thế nữa, khi có sự phân biệt đối xử trong việc
cấp tín dung, các cá nhân bị phân biết đối xử sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn nếu họ cải thiệ mức sống và
nâng cao lợi ích cá nhân. Điều này đặc biệt đúng nếu yêu cầu tín dụng bị từ chối chỉ bởi các lý do về tuổi tác, giới
tính, chủng tộc, đẳng cấp hoặc những nguyên nhân không hợp lý khác. Tuy nhiên, chính phủ có thể dễ dàng loại bỏ
tình trang phân biệt đối xử trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính, bằng cách thúc đẩy cạnh tranh giữa các ngân
hàng và các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác, ví dụ như thực hiện nghiêm ngặt Luật chống độc quyền (thay vì
chỉ những quy định).
Cuối cùng, các ngân hàng vốn vẫn có mối quan hệ lịch sử lâu đời với chính quyền liên bang, tiểu bang và
địa phương. Ngay từ những năm đầu trong lịch sử ngành công nghiệp này, chính phủ đã dựa vào nguồn tín dụng
ngân hàng và thu thuế từ các ngân hàng để cung cấp tài chính cho quân đội và để đáp ứng các nhu cầu chỉ tiêu
khách thay vì tăng thuế đánh trưc tiếp vào dân. Gần đây chính phủ đã dựa vào ngân hàng trong việc điều hành các
chính sách kinh tế, thu thuế và chi tiêu ngân sách. Tuy nhiên, lý do này đã bị chỉ trich sbởi vì ngay cả khi không có
sự kiểm soát, các ngân hàng vẫn sẽ có thể cung cấp các dịch vụ tài chính cho chính phủ nếu họ thấy có lợi.
Xu hướng quản lý các NHTM trong và sau khủng hoảng kinh tế
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008 bắt nguồn từ hoạt động “cho vay dưới tiêu chuẩn” tại Mỹ

làm cho hệ thống ngân hàng Mỹ rung chuyển, đã nhanh chóng lan rộng sang các nước khác trên toàn thế giới. Đỉnh
điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu rơi vào tháng 9/2008 và đã được Ngài Greenspan – nguyên chủ tịch
của Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ đánh giá là “cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong một thế kỷ qua”. Theo ước tính ban
đầu, tổn thất của các ngân hàng chưa được đánh giá chính xác nhưng lợi nhuận của các ngân hàng Mỹ giảm từ 35,2
tỷ đô la xuống còn 5,8 tỷ đô la trong quý IV/2007, giảm 83% so với cùng kỳ năm trước. Tổn thất tính đến tháng
8/2008 về tín dụng và liên quan đến cho vay dưới tiêu chuẩn bởi các tổ chức tài chính toàn cầu là khoảng 500 tỷ đô
la. Số ngân hàng đổ vỡ mà
Trong xử lý khủng hoảng, cần xây dựng chiến lược xử lý cụ thể và rõ ràng và quan trọng hơn là phải công
khai các nguyên tắc cũng như tiến trình thực hiện các giải pháp xử lý. Thiếu sự công khai sẽ gây khó khăn và trì
hoãn quá trình triển khai và thực hiện chiến lược. Hơn nữa, nếu không công khai những giải pháp xử lý, tổn thất có
thể sẽ chuyển từ cổ đông sang người đóng thuế và ngăn cản quá trình tái cơ cấu vốn của các ngân hàng. Tại Nhật
Bản, công khai những khoản nợ xấu trong thập kỷ trước được làm từng bước với số ước tính công bố thường cao
hơn thực tế. Điều này đã làm suy giảm độ tin cậy của số liệu được công khai. Hơn nữa tỷ lệ vốn thực tế của ngân
hàng thường ở dưới mức công bố, dẫn tới khó khăn trong việc sáp nhập và mua lại, và vì vậy quá trình tái cơ cấu bị
trì hoãn.
Sau khủng hoảng, những vấn đề được nhiều nhà quản trị, các nhà lập pháp quan tâm nhất là vấn đề về quản
lý rủi ro, hiệu quả hoạt động và nâng cao hiểu biết về hoạt động ngân hàng. Đây cũng xuất phát từ bối cảnh thực tế
là một trong những nguyên nhân gây ra đổ vỡ ngân hàng là khâu quản lý rủi ro. Trong 12 tháng tới, khác với những
năm trước kia các ngân hàng tập trung vào phát triển thị trường, triển khai các sản phẩm mới, sử dụng hiệu quả
công nghệ, xu hướng năm nay tập trung vào một số vấn đề liên quan tới quản lý chi phí, quản lý rủi ro.

Nguồn: Financial Insights Asia/Pacific Executive Survey,
2009: Recovery in the Horizon, Journal of Banking and Finance,

17


Vol.XXIV No 1, 2009
Quản lý rủi ro vượt qua hiệu quả hoạt động để trở thành yêu cầu cấp thiết nhất trong năm 2009 đối với các
ngân hàng. Do khủng hoảng toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến đến các nước châu Á, nên các tổ chức tài chính

đã tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng việc kiểm soát các khoản cho vay kém hiệu quả và tuân thủ các quy định mới
của các cơ quan quản lý về các vấn đề liên quan đến rủi ro. Các ngân hàng chủ động khởi xướng và triển khai các
biện pháp quản lý rủi ro theo những định hướng của mình, chứ không chỉ theo thường lệ là quản lý rủi ro theo kiểu
tuân thủ các quy định.
Bên cạnh đó, phương pháp quản lý tài sản nợ có được triển khai để đánh giá chính xác hơn tài sản do các tổ
chức tín dụng nắm giữ nhằm ngăn chặn lặp lại thất bại trong việc chứng khoán hóa các khoản nợ dưới chuẩn như
các nước phương Tây đã gặp. Ngân hàng Trung ương của các nước như Ấn Độ, Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc và
Nhật Bản cũng đã đưa ra những hướng dẫn để các ngân hàng tuân theo các nguyên tắc quan trọng nhằm đẩy mạnh
việc quản lý tài sản nợ có một cách chặt chẽ hơn.
Nguồn tài lực giành cho việc hạn chế rủi ro hoạt động cũng là một phần cốt lõi của những yêu cầu cấp thiết
được đặt ra đối với những ngân hàng đang tìm cách giảm thiểu những vấn đề về gian lận nội bộ, gian lận từ internet
và dò rỉ thông tin. Nguồn tài lực giành cho quản lý danh mục đầu tư và kế hoạch phục hồi cũng được đặt ra nhằm
giải quyết những khoản nợ xấu được cho là đang gia tăng do tác động từ khủng hoảng.
Hiệu quả hoạt động vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu đối với các tổ chức tín dụng trong khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương trong năm 2009 như những năm trước đây. Yêu cầu này liên quan đến một số vấn đề như quản lý
chi phí hoạt động, giảm bớt các thủ tục và rút ngắn thời gian xử lý giao dịch.
Việc củng cố tích hợp các giải pháp công nghệ theo một nền tảng chung là yếu tố quan trọng đem lại hiệu quả trong
hoạt động. Tuy nhiên, việc thực hiện theo đúng lộ trình trong phạm vi toàn tổ chức là một nhiệm vụ rất khó khăn và
phức tạp, đòi hỏi đầu tư lớn về cả công nghệ lẫn đội ngũ nhân viên trong một tổ chức tín dụng. Những dự án này
đang được triển khai ở nhiều ngân hàng trong khu vực và đã dần dần đem lại lợi ích, nhất là với những tổ chức tín
dụng đa quốc gia.
Quản lý hiệu quả liên quan tới duy trì và quản lý các quan hệ khách hàng cũng như đánh giá mức độ thỏa
mãn và độ trung thành của khách hàng. Yêu cầu về hiệu quả hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến sự thấu hiểu khách
hàng của tổ chức tín dụng.
Các ngân hàng không chỉ muốn giữ khách trong giai đoạn kinh tế khó khăn này mà còn muốn mở rộng
cung cấp sản phẩm và dịch vụ đối với khách hàng hiện tại. Các chiến dịch quảng bá có định hướng bằng cách đổi
mới cách thức giao tiếp với khách hàng vẫn được các ngân hàng coi trọng , với mục tiêu cung cấp các sản phẩm
phù hợp với từng nhóm khách hàng cụ thể, thậm chí với từng khách hàng. Giữ khách hàng là một tiêu chí quan
trọng, các ngân hàng cần xác định và tập trung vào đối tượng khách hàng trung thành và mang lại lợi nhuận cao
nhất nhằm đảm bảo rằng những “khách hàng đặc biệt” này luôn được chăm sóc chu đáo.

Bên cạnh việc xây dựng và duy trì quan hệ với khách hành, các tổ chức tín dụng tại châu Á cũng đang tìm kiếm
nhằm triển khai các giải pháp sáng tạo như “mobile banking” nhằm hướng vào những đối tượng sử dụng và và các
chức năng cụ thể. Việc mở rộng các chi nhánh và lắp đặt thêm máy ATM vẫn tiếp diễn, nhưng các ngân hàng cũng
tìm cách nắm bắt để đáp ứng những nhu cầu cao thông qua các kênh mới.
Trong 12 tháng tới, các ngân hàng tập trung vào ba dự án trọng điểm liên quan đến hiệu quả hoạt động, quản lý rủi
ro, nâng cấp cơ sở hạ tầng đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. Đây cũng xuất phát từ thực tế là nguyên nhân
gây ra khủng hoảng ngân hàng là do hiệu quả hoạt động và quản lý rủi ro kém.
Sơ đồ 2: Những dự án cần triển khai trong vòng 12 tháng.

18


Nguồn: Financial Insights Asia/Pacific Executive Survey,
2009: Recovery in the Horizon, Journal of Banking and Finance,
Vol.XXIV No 1, 2009
Các dự án nâng cao hiệu quả hoạt động bao gồm cơ cấu lại các quy trình nghiệp vụ, thay đổi các bước cụ
thể trong quy trình (ví dụ như xác minh khoản vay) luôn được đòi hỏi phải “khẩn trương” do yêu cầu cắt giảm
những thủ tục rờm rà, không cần thiết. Thậm chí có một số phòng ban trong tổ chức tín dụng cũng được cắt giảm,
tính hiệu quả sẽ tăng lên thông qua việc thay thế các thủ tục không cần thiết bằng các quy trình hiệu quả hơn. Các
dự án quản lý rủi ro cùng với việc nâng cấp hạ tầng công nghệ đang được tiến hành rộng khắp.
Như vậy, chúng ta có thể thấy quản lý rủi ro là một trong những xu hướng mà các quốc gia châu Á đặt lên hàng đầu
trong việc quản lý hệ thống ngân hàng với nhiều biện pháp khác nhau. Về phía nhà nước, các quốc gia đang nỗ lực
rà soát, củng cố và đổi mới hoạt động của ngân hàng trung ương, cơ quan giám sát và tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Trong thực tế xử lý khủng hoảng, nhiều quốc gia châu Á sử dụng tốt công cụ BHTG để vượt qua khủng hoảng.
Xu hướng thiết kế chính sách BHTG
Xu hướng các ngân hàng châu Á là đảm bảo an toàn trong hoạt động, chính vì vậy xu hướng thiết kế chính
sách BHTG ở các nước hướng tới tạo sự an toàn cho hệ thống tài chính, ngân hàng. Theo đó, các quốc gia châu Á
đã có sự điều chỉnh chính sách bảo hiểm tiền gửi tạo hàng lang pháp lý để xây dựng niềm tin công chúng đối với hệ
thống ngân hàng. Hàng loạt các quốc gia đã nâng hạn mức chi trả thậm chí có quốc gia đảm bảo 100% cho các
khoản tiền gửi. Không chỉ ở châu Á mà hàng loạt các nước châu Âu cũng thực hiện điều chỉnh chính sách BHTG

nhằm đối phó với những rủi ro tài chính, bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo an sinh xã hội.
Xu hướng mới còn được đưa ra khi có quốc gia xác định hệ thống bảo hiểm tiền gửi không chỉ có vai trò
trong việc bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng mà còn góp phần bình
ổn hệ thống tài chính ngân hàng. Ví dụ như Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc, với những chức năng chính như quản lý
Quỹ, giám sát rủi ro, xử lý các tổ chức tín dụng bị đổ vỡ, thu hồi nợ, điều tra, tổ chức này đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc xử lý khủng hoảng tài chính, mang lại lợi ích cho quốc gia thông qua việc giảm thiểu chi phí cho
ngân sách nhà nước trong việc xử lý đổ vỡ, khôi phục và duy trì sự ổn định đối với hệ thống ngân hàng. Chiến lược
và xu hướng lâu dài là nâng cao vị thế của Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc như một tổ chức BHTG hợp nhất điển
hình.
Phạm vi bảo hiểm của Bảo hiểm tiền gửi hàn Quốc đa dạng bao gồm tiền gửi, tiền thu từ các nhà đầu tư
mua bán chứng khoán, phí bảo hiểm được các chủ hợp đồng bảo hiểm riêng lẻ chi trả. Xác định mục tiêu rõ ràng là
bình ổn thị trường tài chính, Bảo hiểm tiền gửi hàn Quốc có mục tiêu cụ thể là hệ thống bảo hiểm tiền gửi cần có
sáng kiến vượt qua thách thức do sự bất ổn định, dễ bị tổn thương và yếu kém của hệ thống tài chính gây ra.
Xu hướng hiện nay là nhiều quốc gia có kế hoạch xây dựng hệ thống BHTG hợp nhất bằng việc đưa ngành
bảo hiểm vào diện được bảo vệ, mở rộng chức năng xử lý đổ vỡ bao gồm cả đổ vỡ của các tổ chức tài chính phi
ngân hàng có tính rủi ro hệ thống.
Như vậy, việc nghiên cứu xu hướng các ngân hàng, chính sách BHTG châu Á có ý nghĩa tham khảo quan
trọng đặc biệt trong bối cảnh nước ta đang củng cố, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp lý, chính sách về hoạt
động ngân hàng và chính sách bảo hiểm tiền gửi. Quá trình này đang được các quốc gia triển khai tích cực sau khi
rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm vừa qua.
Bài học kinh nghiệm cho Việt nam?
Xây dựng mạng lưới an toàn tài chính quốc gia
Do những hậu quả nặng nề của khủng hoảng ngân hàng đối với nền kinh tế, các quốc gia đã xây dựng
những cơ chế nhằm ngăn ngừa và kiểm soát khủng hoảng ngân hàng. Vì vậy, xây dựng một mạng lưới an toàn tài
chính có thể được cân nhắc và lựa chọn như một giải pháp tổng thể. Mạng lưới này thường bao gồm Bộ Tài chính,
Ngân hàng Trung ương, Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia và tổ chức BHTG. Đồng thời mạng lưới này phải đưa
ra được các phương án cụ thể để xử lý những khía cạnh riêng có thể gây ra trước hoặc tồn tại trong cuộc khủng
hoảng.
Xây dựng quy chế quản lý ngân hàng hiệu quả
Những diễn biến của hoạt động ngân hàng năm 2008 tại Việt Nam cho thấy, Việt Nam cần xây dựng những

quy định và quy chế quản lý ngân hàng cần thiết để đảm bảo việc thiết lập một hệ thống tài chính lành mạnh. Kinh
nghiệm xây dựng quy chế quản lý ngân hàng của các nước trên thế giới đã được tổng kết, cho thấy các quy định
này cần bao gồm:

19


- Quy định về tiêu chuẩn gia nhập ngành;
- Quy định về quy mô vốn cần đảm bảo;
- Quy định về đa dạng hóa tài sản;
- Quy định các khoản vay với đối tượng là cán bộ nội bộ và các bên liên quan;
- Quy định về những hành vi được cho phép hay bị cấm;
- Quy định về phân loại tài sản và dự phòng;
- Phạm vi, tần suất và nội dung chương trình kiểm toán;
- Quy định về các quyền lực thi hành các quyết định;
- Quy định về các biện pháp giải quyết những ngân hàng có vấn đề.
Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG
Không khó để nhận thấy tại sao cơ chế BHTG lại được những nhà hoạch định chính sách của nhiều quốc
gia trên thế giới ưa chuộng. Trong ngắn hạn, do không có khoản chi phí ngân sách tức thời nào được định trước, họ
đã đề ra một biện pháp hầu như không tốn phí để giảm rủi ro đột biến rút tiền gửi và hoảng loạn ngân hàng. Bên
cạnh việc ổn định lĩnh vực tài chính, một cơ chế bảo hiểm có thể thúc đẩy các giá trị mang tính chính sách khác
như bảo vệ người gửi ít tiền hoặc cải thiện cơ hội cho các ngân hàng nhỏ cạnh tranh với các tổ chức lớn hơn đối với
các khoản tiền gửi bằng cách giảm nhẹ mối quan tâm về những bất lợi của các ngân hàng nhỏ.
Kinh nghiệm xử lý khủng hoảng ngân hàng cho thấy, việc xử lý ngân hàng đổ vỡ trong giai đoạn khủng
hoảng thường được giao cho tổ chức BHTG sẽ mang lại hiệu quả, đặc biệt trong việc củng cố niềm tin của người
gửi tiền. Trong cuộc khủng hoảng vừa qua tại Mỹ, FDIC được trao quyền rộng rãi trong cả hoạt động quản lý và
giải cứu khủng hoảng đã góp phần không nhỏ vào việc ngăn chặn và giảm thiểu hậu quả của khủng hoảng. Vì vậy,
Việt Nam có thể cân nhắc việc lựa chọn mô hình hoạt động của tổ chức BHTG cũng như quy định về thẩm quyền
của tổ chức này trong việc góp phần bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Trước mắt, năng lực tài chính của
BHTGVN cũng cần được nâng cao để đủ khả năng thực hiện các hoạt động hỗ trợ và chi trả khi có nhiều ngân

hàng gặp khó. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể nghiên cứu, xem xét và có định hướng cho phép tổ chức BHTG có
quyền sử dụng cơ chế chính thức xử lý sớm ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ, có quyền tiếp nhận và thanh lý tài sản và
giải quyết những nghĩa vụ nợ của ngân hàng bị đổ vỡ. Đồng thời quy định rõ vai trò và nhiệm vụ của tổ chức
BHTG khi xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
Thực hiện minh bạch và công khai thông tin
Kinh nghiệm cho thấy, công khai và minh bạch thông tin là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả của
chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sau khủng hoảng, góp phần xử lý khủng hoảng ngân hàng một cách tích
cực. Vì vậy cần xây dựng cơ chế công khai và minh bạch thông tin về hoạt động ngân hàng, trong đó bao gồm
thông tin của từng ngân hàng.
Công khai thông tin cơ bản về hoạt động ngân hàng, thu nhập và bản cân đối tài sản cần được mở rộng
từng bước và theo một tiến trình hòa hợp. Những thông tin này cho phép chủ nợ ngân hàng và người đầu tư có
được bức tranh tổng thể về lợi nhuận ngân hàng, vốn, tài sản suy yếu, dự phòng đối với từng loại khoản vay một
cách kịp thời. Kinh nghiệm của Newzealand về công khai thông tin ngân hàng cho thấy, công khai thông tin hỗ trợ
thanh tra viên ngân hàng trong giám sát tuân thủ, yêu cầu sửa chữa kịp thời sai phạm hoặc báo cáo sai lệch và khởi
đầu thủ tục pháp lý chống lại các ngân hàng về việc cung cấp thông tin sai lệch. Để đảm bảo chất lượng thông tin,
việc chuẩn bị báo cáo tài chính cần phù hợp với Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế và theo mẫu báo cáo thống nhất. Nhờ
vậy, hiệu quả của công khai thông tin cũng được cải thiện vì đã tạo điều kiện cho công chúng có thể so sánh hoạt
động của các ngân hàng với nhau (trong nước và với các nước khác).
Ngoài ra, Việt Nam có thể từng bước công khai kết quả xếp loại tín dụng các tổ chức ngân hàng trên các
phương tiện truyền thông. Trong khi vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về giá trị các chỉ số đánh giá xếp loại tín
dụng, Việt Nam cần khuyến khích các các ngân hàng thực hiện đánh giá và xếp loại hoạt động bởi các tổ chức quốc
tế chuyên nghiệp và có uy tín.
Quản lý ngân hàng thương mại Nhà nước: Cẩn tắc vô ưu
Sau vụ hoãn nợ của Dubai World cuối năm 2009, vấn đề tài chính ở bất kỳ tập đoàn hay DN lớn nào
cũng sẽ là sự kiện rất lớn, vì vấn đề sẽ ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Tại VN, sự kiện về quản lý tài chính ở một tập đoàn DNNN lớn gần đây đang nhắc nhở cả xã hội cần quan
tâm đến nơi hiện đang tập trung hàng ngàn tỷ đồng của nhà nước và xã hội - đó là các ngân hàng thương mại nhà
nước (NHTMNN).

20



Mong cho không bất kỳ sự kiện xấu gì ở nơi này, nhưng “cẩn tắc vô ưu” chắc chắn không phải là thừa
trong nguyên tắc quản lý thận trọng.
Tài sản lớn, rủi ro lớn
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, 4 NHTMNN (tính cả các NHTM mới chỉ cổ phần hóa phần rất nhỏ),
tổng tài sản ước tới 1.300 tỷ đồng, chiếm 49% tài sản của cả hệ thống NHTM và chiếm tới 75% GDP của VN. Vốn
tự có của các NHTMNN đạt khoản 110 ngàn tỷ đồng, chiếm khoảng 39% vốn tự có của cả hệ thống. Như vậy về
phương diện tài sản, nơi đây tập trung rất lớn tài sản của nhà nước và của nhân dân.
Hoạt động tiền tệ ở khu vực NHTMNN này (như huy động, cho vay, đầu tư...) kéo theo sự chu chuyển
hàng ngàn tỷ đồng... Sự tập trung và vận động rất năng động của tài sản như vậy, theo kinh nghiệm và thực tế cho
thấy là rất dễ thất thoát theo nhiều cách thức khác nhau và có khi không lường tới.
Bình thường, chỉ sau khi có thanh tra, kiểm tra, các cơ quan này có thông báo thì người ta mới có thể biết
được sự thất thoát ở nơi này, hay nơi khác, giá trị ít hay nhiều và có liên quan đến cá nhân này, tập thể kia... Và dĩ
nhiên, khi đó thì mọi việc đã rồi và việc nói lại không có ích.
Theo nguyên tắc tài chính ngân hàng, việc phòng tránh thường được khuyến khích đưa ra trước. Theo
nguyên tắc này và nếu so sánh hoạt động chi tiêu tài chính ở các NHTMNN hiện nay, ở VN với một số TCty lớn
vừa có vấn đề về tài chính thì ta lại thấy đáng cần phải cảnh báo nhằm ngăn chặn nguy cơ thất thoát tài sản của
nhân dân, nhà nước hoặc những hệ lụy khác:
Rủi ro chuyển đổi, cổ phần hóa NHTMNN: Sự kiện vừa qua, không biết ai là người quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại VCB (Ngân hàng Ngoại thương VN) rõ ràng là một minh chứng về lỗ hổng đáng chú ý. Vấn đề
tăng vốn VCB mà chỉ bán cổ phần cho nhà đầu tư tư nhân - làm giảm tỷ lệ nắm giữ của nhà nước tại VCB, là bài
học về mài mòn tài sản nhà nước.
Vấn đề NHTMNN khi bước vào cổ phần hóa nhưng chưa có cơ chế quản lý tài chính phù hợp và các
NHTMNN đã tăng lương ồ ạt lên mức rất cao, bất chấp tình hình nền kinh tế VN khó khăn và cả thế giới đã và
đang lên tiếng về các CEO lương cao cũng có thể được coi là rủi ro khi chuyển đổi NHTMNN.
Rủi ro đầu tư góp vốn tràn lan: Có rất nhiều NHTMNN đầu tư vào hàng ngàn trụ sở, chi nhánh. Thực tế
cho thấy, nếu TCty khác đầu tư vào những con tàu “TITANIC” rất lớn để rồi con tàu đó không có nơi cập bến thì có
NHTMNN lại đầu tư vào rất nhiều trụ sở chính. Trụ sở chính hiện tại và trụ sở chính tương lai - đó là các cao ốc
cao nhất nhì trong nước.

Người ta cũng không hiểu tại sao NHTM huy động vốn đề phục vụ sản xuất thì thấy hầu như phục vụ xây
trụ sở tràn lan từ nam tới bắc? Có NHTMNN đang xây trụ sở chính diện tích hàng ngàn ha, lại mua thêm hàng ngàn
ha đất nữa để xây trụ sở chính cho năm 2020 ? Thực tế cho thấy, nếu NHTM phát triển theo kiểu mô hình “bánh
vẽ” (xây ra những trụ sở rất lớn để huy động được thật nhiều vốn), thì mức độ nguy hiểm còn hơn ở khu vực DN
sản xuất.
Nếu có TCty tham gia hàng trăm dự án đất đai, góp vốn vào nhiều Cty khác... thì đây NHTMNN cũng
không hề kém bằng việc góp vốn vào NHTM này, liên doanh khác; đầu tư mua hàng ngàn ha đất mà cũng đã từng
có nguy cơ mất hàng ngàn tỷ đồng...
Rủi ro quản trị. Mô hình TCty, hay NHTMNN có hội đồng quản trị là đảm bảo sự quản trị thận trọng.
HĐQT là cơ quan thẩm quyền chung. Việc đưa ra các quyết định theo mô hình này là quyết định của tập thể, Chủ
tịch HĐQT là người thay mặt HĐQT ký các giấy tờ (văn bản thể hiện ý trí của HĐQT).
Việc tiếm quyền của Chủ tịch HĐQT ở NHTMNN dưới cách thức này hay cách thức khác (hoặc bất kỳ lý
do gì dẫn đến tình trạng không đảm bảo tính nguyên tắc tập thể trong hoạt động của HĐQT) sẽ là nguy cơ dẫn đến
thất thoát hoặc không an toàn hoặc mất an ninh tài chính ở NHTMNN - nơi tập trung nhiều tài sản của xã hội.
Trên thực tế, khảo sát cho thấy, có NHTMNN chủ tịch HĐQT dường như làm hết mọi việc, thậm chí làm
thay cả Tổng Giám đốc. Trên góc độ quản lý tài sản, việc tập quyền như vậy không phải là tốt mà lại chứa đựng
nguy cơ rủi ro về tài sản. Một số chuyên gia quản lý cho rằng, hoạt động ngân hàng cần phải đảm bảo đúng trình
tự, quy trình - những gì trái với quy trình hay không đảm bảo quy trình đều có thể dẫn đến rủi ro hoạt động.
Gia đình giữ tay hòm chìa khóa DN nhà nước
Người VN hàm ý rằng, nếu những người có liên quan cùng tham gia quản lý DN nhà nước thì sẽ rất rủi ro.
Luật VN cũng đưa ra các điều khoản hạn chế này, nhưng trong thực tế DN VN người ta vẫn lách theo cách này hay
cách khác.
Theo phản ánh cho thấy, ở TCty kia, ông chủ tịch HĐQT tìm cách đưa con trai trẻ măng vào chức danh
quản lý cao cấp (phó tổng giám đốc). Theo ý kiến của nhiều chuyên gia quản lý, bất luận có hay không có sự thông

21


đồng nào giữa hai bố con thì về hình thức, “hai bố con cùng giữ tay hòm chìa khóa Cty” thì đều chứa đựng nguy cơ
mất an toàn tài sản cho nhà nước.

Khảo sát ở NHTMNN cũng thấy có hiện tượng rất tương đồng, bố làm chủ tịch HĐQT, bổ nhiệm con rể
làm tổng giám đốc Cty con, quản lý hàng ngàn tỷ đồng. Điều đáng quan tâm là giữa hay định chế này có quan hệ
tài chính rất lớn với nhau hàng ngày, với doanh số hàng trăm tỷ đồng.
Qua quá trình kiểm toán vừa qua, ý kiến của kiểm toán cho rằng, có khá nhiều giao dịch giữa ngân hàng và
Cty con không mang tính thương mại thực sự. Điều này, được một số chuyên gia kiểm toán giải thích, “theo các
giao dịch phi thương mại đó (non-armslenght transactions) thì rõ ràng, tài sản nhà nước đang không được quản lý
chặt chẽ và minh bạch”.
Câu 9. Trình bày về ngân hàng bán lẻ/bán buôn. Nhiều NHTM hiện theo đuổi chiến lược phát triển
dịch vụ ngân hàng bán lẻ ở Việt nam hiện nay. Anh/chị hãy bình luận quan điểm trên.
Trong những năm gần đây, dưới áp lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ ngân hàng và sự phát triển nhanh
chóng của công nghệ thông tin, các NHTM Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng những
tiến bộ của khoa học công nghệ vào khai thác thị trường bán lẻ. Nhiều ngân hàng đã đầu tư rất mạnh cho công nghệ
để tạo lập cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, chủ động
đối mặt với những thách thức của tiến trình hội nhập.
Các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và linh hoạt hơn như tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm
dự thưởng, tiết kiệm rút lãi và gốc linh hoạt, tiết kiệm kết hợp bảo hiểm. Nguồn vốn huy động của các ngân hàng từ
dân cư đã tăng mạnh và chiếm 35-40% vốn huy động. Lượng kiều hối chuyển qua các ngân hàng ngày càng tăng
(năm 2007 đạt khoảng 6,5 tỷ USD), góp phần tạo nguồn ngoại tệ đáng kể cho các ngân hàng và tăng thu nhập từ
phí thanh toán.
Các NHTM Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về năng lực tài chính, công nghệ, quản trị điều hành,
cơ cấu tổ chức và mạng lưới kênh phân phối, hệ thống sản phẩm dịch vụ. Nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng bán lẻ
đã được triển khai thực hiện như dịch vụ tài khoản, séc, thẻ, quản lý tài sản, tín dụng, cầm cố, tín dụng tiêu dùng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các NHTM Việt Nam còn nhiều bất cập,
các ngân hàng chưa xây dựng được phương án phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ một cách đồng bộ và hiệu quả.
Các sản phẩm dịch vụ NHBL chưa phong phú, chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các dịch vụ ngân
hàng hiện đại được triển khai chậm, dịch vụ thanh toán thẻ còn hạn chế về phạm vi sử dụng và chưa phát triển được
sâu rộng trong đại bộ phận công chúng, dịch vụ internet banking mới dừng lại chủ yếu ở mức truy vấn thông tin,
chưa cho phép thực hiện thanh toán, các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như séc cá nhân gần như không
được sử dụng, tiện ích thanh toán thẻ còn hạn chế. Các dịch vụ ngân hàng phục vụ cho tầng lớp khách hàng có thu
nhập cao chưa được triển khai rộng rãi như bảo quản tài sản, tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư.

Kênh cung ứng dịch vụ truyền thống chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ khách hàng cá nhân, các kênh
phân phối dịch vụ hiện đại mới chỉ được cung ứng tại một số ngân hàng, các phương thức giao dịch từ xa dựa trên
nền tảng công nghệ thông tin và điện tử chưa phổ biến. Số lượng máy giao dịch tự dộng (ATM) đến nay mới có
khoản 4300 máy, mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ còn ít, chủ yếu tập trung ở các thành phố và đô thị lớn, việc
kết nối hệ thống các máy ATM vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, đo đó đã làm hạn chế khả năng tiếp cận dịch
vụ ngân hàng.
Nhiều ngân hàng chưa có chiến lược tiếp thị rõ ràng trong hoạt động ngân hàng bán lẻ, hoạt động tiếp thị
còn yếu và thiếu chuyên nghiệp, tỉ lệ khách hàng cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng còn ít. Chính sách
khách hàng kém hiệu quả, chất lượng phục vụ chưa cao, các NHTM Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản về
dịch vụ ngân hàng của các nhóm đối tượng khác nhau, thủ tục giao dịch chưa thuận tiện, một số qui định và quy
trình nghiệp vụ còn nặng về bảo đảm an toàn cho ngân hàng, chưa thuận lợi cho khách hàng.
Bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ
ngân hàng bán lẻ. Trình độ công nghệ và ứng dụng công nghệ của các ngân hàng còn nhiều bất cập, nền tảng công
nghệ thấp, không có khả năng phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Trình độ thiết kế tổng thể còn yếu, hệ
thống ứng dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, các ngân hàng vẫn chưa có một bộ phận chuyên trách nghiên cứu chiến lược
phát triển công nghệ thông tin. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin chưa cao, các sản phẩm mới chưa nhiều, vấn
đề bảo mật thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, nguy cơ rủi ro còn tiềm ẩn với cả khách hàng và ngân hàng.
Trên tầm vĩ mô, mặc dù môi trường pháp lý đã được cải thiện đáng kể, nhưng các văn bản pháp quy về
hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các quy trình thao tác giao dịch thủ công, mang nặng tính
giấy tờ và phức tạp trong quá trình xử lý, nhiều quy chế đã trở nên bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp
vụ.

22


Trước áp lực cạnh tranh và nhiều ngân hàng nước ngoài đang có ý định thâm nhập vào thị trường Việt Nam
dưới hình thức ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các NHTM Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc phát triển
dịch vụ ngân hàng, trong đó có dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Điều này đòi hỏi từng ngân hàng phải có phương án phát
triển bài bản, tập trung vào những điểm chính sau đây:
1. Xác định xu hướng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ

Việt Nam với dân số khoảng 85 triệu người và mức thu nhập ngày càng tăng là thị trường đầy tiềm năng
của các NHTM, thị trường này sẽ phát triển mạnh trong tương lai do tốc độ tăng thu nhập và sự tăng trưởng của các
loại hình doanh nghiệp. Các NHTM đang có xu hướng chuyển sang bán lẻ, tăng cường tiếp cận với khách hàng là
cá nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi chuyển sang bán lẻ, các ngân hàng sẽ có thị trường lớn hơn, tiềm năng phát
triển tăng lên và có khả năng phân tán rủi ro trong kinh doanh.
Các khách hàng sẽ có xu hướng tiếp cận với nhiều ngân hàng và chọn sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có
mức giá rẻ, đòi hỏi các ngân hàng phải cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cho khách hàng, giảm thiểu chi
phí và đổi mới công nghệ nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh.
Cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt, nhất là tại các đô thị loại 1 và loại 2, nơi tập trung khách
hàng có tiềm năng tài chính lớn và mật độ ngân hàng tăng mạnh. Trong số các ngân hàng nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam, HSBC và Citibank là hai ngân hàng nổi tiếng toàn cầu về kinh doanh ngân hàng bán lẻ, trong đó
HSBC đã có chiến lược cụ thể để phát triển kinh doanh ngân hàng bán lẻ.
Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ gắn liền với tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ ngân hàng trên cơ
sở đổi mới toàn diện và đồng bộ hệ thống ngân hàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và mở cửa thị
trường tài chính trong nước.
Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ phải được thực hiện từng bước vững chắc nhưng cũng cần có bước đột
phá để tạo đà phát triển nhanh trên cơ sở giữ vững được thị phần đã có, phát triển và mở rộng thị trường mới để
phát triển thị trường trong tương lai.
Dịch vụ ngân hàng bán lẻ phải được phát triển theo hướng kết hợp hài hòa giữa lợi ích của khách hàng với
lợi ích của ngân hàng và mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Đầu tư để phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ yêu cầu
vốn lớn trong khi môi trường kinh tế xã hội chưa phát triển, nhu cầu sử dụng dịch vụ chưa cao, đòi hỏi các ngân
hàng phải hướng tới lợi ích lâu dài, kết hợp hài hòa giữa lợi ích của ngân hàng và của toàn bộ nền kinh tế. Trong
giai đoạn đầu tiên, cần phải chấp nhận chi phí đầu tư để mang đến cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ tiên
tiến với mức phí đảm bảo bù đắp được một phần vốn đầu tư nhưng đủ để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị
trường.
Hoàn thiện và phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ phải được tiến hành đồng bộ với các dịch vụ ngân hàng
khác, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống và chủ động mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng
mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực của TCTD nhằm tạo nhiều
tiện ích cho người sử dụng dịch vụ. Cần phối hợp các bộ phận chức năng khác như bộ phận phục vụ doanh nghiệp
để phát huy hiệu quả của dịch vụ ngân hàng, thu hút thêm khách hàng, tăng lợi nhuận cho ngân hàng và tạo mối

liên kết chặt chẽ giữa khách hàng và ngân hàng.
Kinh doanh bán lẻ buộc các ngân hàng phải tuân theo những quy định chặt chẽ về các quy định và tỉ lệ an
toàn trong điều kiện bị ràng buộc bởi những hạn chế về nguồn lực. Các ngân hàng phải có định hướng rõ ràng về
hoạt động kinh doanh ngân hàng bán lẻ, có đầy đủ nguồn lực cần thiết để phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
2. Xác định mục tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu
quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống, cải tiến thủ tục giao dịch, trong đó coi trọng dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tiếp
cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính – ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ cao nhằm
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế và tối đa hóa giá trị gia tăng cho các NHTM, khách hàng và xã hội.
Xây dựng hệ thống dịch vụ ngân hàng bán lẻ có chất lượng, an toàn và đạt hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở
tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ theo các cam kết song phương và
đa phương, ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến và phát triển hợp lý mạng lưới phân phối để cung ứng đầy đủ,
kịp thời, thuận tiện các sản phẩm dịch vụ và tiện ích ngân hàng bán lẻ cho mọi đối tượng khách hàng, trong đó chú
trọng đáp ứng dịch vụ ngân hàng bán lẻ cho sự phát triển của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá
nhân.
Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các NHTM Việt Nam theo nguyên tắc thị
trường, hạn chế bao cấp và độc quyền cung cấp dịch vụ ngân hàng để từng bước phát triển thị trường dịch vụ ngân
hàng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, an toàn và hiệu quả.

23


Đến năm 2010, phấn đấu phát triển được hệ thống dịch vụ ngân hàng bán lẻ ngang tầm với các nước trong
khu vực về chủng loại, chất lượng và năng lực cạnh tranh, từng bước nâng cao uy tín và thương hiệu của hệ thống
ngân hàng Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế.
3. Đề ra định hướng và giải pháp chiến lược
Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ được xác định là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển
của các NHTM Việt Nam, bắt đầu từ sự nắm bắt các cơ hội có được từ các thị trường mới, từ việc áp dụng công
nghệ và sử dụng hệ thống tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới, phương thức phân phối hiệu quả, tăng cường mối
quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng.

Các NHTM cần tăng qui mô vốn để đảm bảo nền tảng cho phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, đa dạng hóa
sản phẩm dịch vụ theo hướng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Ngoài việc cung cấp các sản phẩm thông
qua mạng lưới các chi nhánh hiện hành, các ngân hàng cần thiết lập các hệ thống phân phối trên cơ sở sử dụng
công nghệ thông tin hiện đại. Những giải pháp đề cập dưới đây chỉ tập trung vào một số khía cạnh chủ yếu như
hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng hạ tầng kỹ thuật, đa dạng kênh phân phối hiệu quả, cải tiến hoạt động tiếp
thị, phát triển sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
a) Hoàn thiện quy định về qui trình nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng
Các quy định điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện nay do nhiều cấp ban hành, bao gồm
các nghị định của Chính phủ, quyết định, thông tư hướng dẫn của NHNN và các quy định, quy trình nghiệp vụ của
các NHTM. Nhìn chung, cơ sở pháp luật về dịch vụ ngân hàng bán lẻ còn thiếu nhiều quy định cần thiết, nhiều quy
định thiếu cụ thể và không thích hợp. Điều này đòi hỏi phải sớm điều chỉnh, tiến tới hình thành môi trường pháp lý
đầy đủ, đồng bộ và thống nhất giữa các loại hình dịch vụ.
b) Củng cố hạ tầng kỹ thuật và công nghệ cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Tăng cường ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng
Việt Nam và tuân thủ các nguyên tắc quốc tế, phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến và từng bước triển khai rộng
mô hình giao dịch một cửa.
Tiến hành quy hoạch và phân bố các TCTD và chi nhánh phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và
đảm bảo cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ có hiệu quả, chú trọng hỗ trợ các đối tượng chính sách và những đối
tượng có khả năng tạo ra tăng trưởng và năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.
Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các nghiệp vụ ngân hàng, đảm bảo hòa nhập với các ngân hàng quốc tế
trong mọi lĩnh vực. Tăng cường kỹ thuật xử lý tự động các quy trình tiếp nhận yêu cầu khách hàng, thẩm định
thông tin, xử lý nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm thiểu các giải pháp quản lý hành chính, đảm bảo tính
an toàn và bảo mật trong kinh doanh.
Các NHTM cần chú trọng phát triển mạng lưới các chi nhánh cấp I và cấp II, mở thêm các phòng giao dịch
vệ tinh với mô hình gọn nhẹ nhằm tăng nhanh nguồn vốn, đáp ứng nhanh chóng và hiệu quả nhu cầu sử dụng dịch
vụ ngân hàng của người dân. Tăng cường liên kết giữa các NHTM để mở rộng khả năng sử dụng thẻ và phát huy
tính năng tác dụng của thẻ ATM, tiết kiệm chi phí và tạo thuận lợi cho khách hàng.
Bên cạnh việc duy trì và mở rộng các kênh phân phối truyền thống, các NHTM Việt Nam cần nghiên cứu
và đưa vào ứng dụng các kênh phân phối hiện đại, đáp ứng nhu cầu giao dịch mọi lúc mọi nơi. Các NHTM cần
sớm đưa ra các dịch vụ để khách hàng có thể sử dụng như đặt lệnh, thực hiện thanh toán, truy vấn thông tin trên cơ

sở các cam kết giữa ngân hàng và khách hàng. Việc sử dụng kênh phân phối này có nhiều lợi thế như nhanh chóng,
an toàn, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng.
Các NHTM cần mở rộng kênh phân phối qua các đại lý như đại lý chi trả kiều hối, đại lý phát hành thẻ
ATM, tối đa hóa tiện ích của từng kênh trong hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
c) Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ
Đa dạng hóa sản phẩm được xác định là thế mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân,
cần tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội so với các sản phẩm trên thị
trường nhằm tạo ra sự khác biệt trong cạnh tranh. Khả năng cung cấp được nhiều sản phẩm, nhất là sản phẩm mới
thông qua sự đa dạng về sản phẩm và kênh phân phối sẽ giúp ngân hàng tranh thủ cơ hội phát triển dịch vụ ngân
hàng bán lẻ tại một thị trường mới như Việt Nam. Các NHTM cần hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu
cầu của đông đảo khách hàng.
Đa dạng hóa và nâng cấp chất lượng sản phẩm dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, đa kênh phân phối,
mở rộng mạng lưới để tiếp cận, giao dịch, giới thiệu sản phẩm, dễ đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Triển khai rộng rãi các dịch vụ thanh toán điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử, tự động. Đẩy mạnh
đầu tư và nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi các công cụ thanh toán mới theo tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm tiền điện tử,

24


thẻ thanh toán nội địa, thẻ thanh toán quốc tế, thẻ đa năng, thẻ thông minh và séc. Tập trung đẩy mạnh các dịch vụ
tài khoản, trước hết là các tài khoản cá nhân với các thủ tục thuận lợi, an toàn và các tiện ích kèm theo, góp phần
phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
d) Tăng cường hoạt động tiếp thị và thực hiện tốt chính sách khách hàng
Tăng cường chuyển tải thông tin tới đông đảo quần chúng nhằm giúp khách hàng có được các thông tin cập
nhật, hiểu biết cơ bản về dịch vụ ngân hàng bán lẻ, lợi ích của sản phẩm và cách thức sử dụng. Các ngân hàng cần
phân khúc thị trường để xác định cơ cấu thị trường hợp lý và khách hàng mục tiêu, phân nhóm những khách hàng
theo tiêu chí phù hợp, từ đó giới thiệu sản phẩm và dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng cần thường xuyên cung cấp thông tin về tình hình tài chính, năng lực và kết quả
kinh doanh, giúp khách hàng có cách nhìn tổng thể về ngân hàng và tăng lòng tin vào ngân hàng.
Các ngân hàng cần sớm hoàn thiện và triển khai mô hình tổ chức kinh doanh theo định hướng khách hàng,

chủ động tìm đến khách hàng, xác định được nhu cầu của từng nhóm khách hàng, từ đó đưa ra các sản phẩm và
dịch vụ phù hợp. Nâng cao chất lượng dịch vụ, đơn giản hóa thủ tục trên cơ sở tận dụng tiện ích của công nghệ
thông tin hiện đại.
Đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển công nghệ ngân hàng để các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiếp cận
nhanh hơn với khách hàng cũng như mang lại nhiều tiện ích hơn cho khách hàng, phù hợp với trình độ phát triển
của hệ thống ngân hàng và tuân thủ các nguyên tắc quốc tế, phát triển giao dịch trực tuyến và giao dịch từ xa với
khách hàng, xử lý một cửa tại trung tâm.
Việc phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ cần được nghiên cứu và phân tích cụ thể đến từng đối tượng khách
hàng, sử dụng hệ thống chấm điểm khách hàng và hỗ trợ của CNTT về cung cấp thông tin khách hàng để phân loại
và xếp hạng các khách hàng tổ chức là các doanh nghiệp nhỏ, các tổ chức nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước
và ngoài nước.
e) Xây dựng nguồn nhân lực cho hoạt động ngân hàng bán lẻ
Thực hiện chuyên môn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ngân
hàng bán lẻ, cả về trình độ nghiệp vụ, tác phong giao dịch và nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ ngân hàng
bán lẻ.
Chú trọng công tác kiện toàn tổ chức trong toàn hệ thống, thực hiện bổ nhiệm và điều động nội bộ, tuyển
dụng cán bộ mới để đáp ứng nhu cầu về nhân sự trong toàn hệ thống, phù hợp với mô hình ngân hàng bán lẻ. Gắn
kết quả đào tạo với việc bố trí sử dụng cán bộ theo đúng người, đúng việc, thực hiện luân chuyển cán bộ để sắp xếp
công việc phù hợp nhất với năng lực chuyên môn, phát huy tinh thần sáng tạo của cán bộ nhân viên ngân hàng.
f) Chủ động tham gia thị trường tài chính khu vực và thế giới
Thực hiện các cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng theo lộ trình thích hợp để khai thác những lợi thế và khắc
phục khó khăn thách thức để phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong nước, đưa các NHTM trong nước phát triển
hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, mở rộng hợp tác quốc tế về phát triển.
Dưới áp lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ ngân hàng và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông
tin, 2010 được đánh giá là năm “bùng nổ” về dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tăng cường tiếp cận với nhóm khách hàng
cá nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Dân số Việt Nam theo ước tính sẽ tăng lên 88 triệu người vào năm nay, với mức thu nhập của người dân
ngày càng cao, là thị trường tiềm tăng của các ngân hàng thương mại, khi mục tiêu thanh toán không dùng tiền mặt
được chú trọng.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đẩy mạnh hiện đại hoá, ứng dụng

những tiến bộ của khoa học công nghệ vào khai thác thị trường bán lẻ, tăng cường tiếp cận với khách hàng là cá
nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi chuyển sang bán lẻ, các ngân hàng sẽ có thị trường lớn hơn, tiềm năng phát
triển tăng lên và có khả năng phân tán rủi ro trong kinh doanh.
Theo đánh giá từ giới chuyên gia tài chính, cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt, nhất là tại các
đô thị loại 1 và loại 2, nơi tập trung khách hàng có tiềm năng tài chính lớn và mật độ ngân hàng tăng mạnh.
Trong số các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, HSBC và Citibank là hai ngân hàng nổi
tiếng toàn cầu về kinh doanh ngân hàng bán lẻ, với các chiến lược cụ thể để phát triển kinh doanh ngân hàng bán lẻ.
Trong bối cảnh đó, khối NHTM Việt Nam không thể ngồi yên hưởng lợi thế sân nhà như trước kia, nhiều
ngân hàng xác định phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển của
mình; bắt đầu từ sự nắm bắt các cơ hội có được từ các thị trường mới, từ việc áp dụng công nghệ và sử dụng hệ

25


×