Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 36 trang )

Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỷ XXI đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho toàn cầu, một thế giới đầy sôi động
của quá trình toàn cầu hoá. Điều đó đã thúc đẩy các nước tích cực gia nhập vào các tổ chức
quốc tế như: WTO (tổ chức thương thế giới), OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế),
APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương)… một loạt các hợp tác, đối tác
được ký kết giữa các quốc gia tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế-xã hội, giao lưu buôn
bán giữa các nước trong thời kỳ mở cửa. Đây là yếu tố hình thành vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), một nguồn vốn có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình CNH-HĐH của các
nước đang phát triển, giải quyết một phần công ăn việc làm cho người lao động.
Trong tình hình khủng hoảng kinh tế (2008-2009) như hiện nay, xu hướng phát triển FDI
của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang này càng hạn chế và phức tạp. Tuy nhiên
với sự nỗ lực của chính phủ các nước nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoàng này thì trong
những năm tới đầu tư nước ngoài hứa hẹn sẽ được đẩy mạnh và phát triển. Bài tiểu luận của
chúng em với đề tài: “Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới” sẽ tập trung và
giải thích rõ hơn về vấn đề này.

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

1


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

CHƢƠNG I : TỔNG QUAN VỀ FDI
I. Khái niệm về đầu tƣ nƣớc ngoài (Foreign Direct Investment)
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan
hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích
lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp
là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó Hội


nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI.
Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty
liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận:
vốn cở phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước
này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà
đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực
thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc
bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy
định của luật này”
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh nghiệp đầu
tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà
đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu
chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không
phải tất cả các QG nào đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những
trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ
vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ
là người đầu tư gián tiếp.
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

2


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài

như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nươc
khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và
quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi
ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc,
thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị …), tài
sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính
(cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…).
Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc
điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp
nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư.
II. Các hình thức FDI phổ biến và đặc trƣng cơ bản của chúng
1. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng
rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó công cụ để
thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động
hợp tác
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh donah có tính chất quốc tế, hình
thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thốgn tài chính, luật pháp
và bản sác văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn, quản lí lao động và
cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh
rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt đọng nghiên cứu cơ
bản và nghiên cứu triển khai.
2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư cách pháp
nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại.
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có


3


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư
nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước
sở tại, đó là các đk về chính trị, kt luạt háp văn hoá mức độ cạnh tranh…
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là 1 thự thể pháp lý độc lập
hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần.
3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân hia kết quả
kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giứa đại diện có thẩm quyền của các
bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc thực hiện phân chia kết quả kinh
doanh cho mỗi bên.
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong qúa trình kinh doanh các
bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng
hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp doanh không phân phối lợi
nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo
thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở
tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp
nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. quyền lợ và nghĩa vụ của các bên
hơp doanh đowjc ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
4. Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình hay
một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhan để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn được dành
riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được
đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công

trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành
doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT
còn có BTO, BT. Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ
quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

4


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

mở rộng, nâgn cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất định để
thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình
cho nước chủ nhà. Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng
chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối
với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại
cho nước chủ nhà và được chinh phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó
hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận
thoả đáng về công trình đã xây dựng và chuyển giao. Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng
xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ
nước chủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ
ra và một tỉ lệ lợi nhuận hợp lí. Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đòng BOT,
BTO, BT mặc dù hợp đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đòng là các cơ quan quản lí nhà
nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp FDI khác, chủ yếu áp dụng
cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; được hưởng các ưu đãi đầu tư cao hơn sơ với các hình
thức đầu tư khác và điểm đặc biệt là khi hết hạn hoạt đọng, phải chuyển giao không bồi hoàn
công trình cơ sở hạn tầng đã được xây dựng và khai thác cho nước sở tại.
5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company)
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lí được thừa nhận rộng rãi ở

hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Holding company là một công ty sở
hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lí và điều hành công
ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị.
6. Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn)là doanh nghiệp trong đó vốn điều
lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh
nghiệp cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp
ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền phát hành

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

5


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác
7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở chỗ chi
nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi cty con thường là một pháp nhân
độc lập. Trách nhiệm của cty con thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong
khi trách nhiẹm của chi nhánh theo quy định của 1 ố nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi
tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước
ngoài.
8. Hình thức công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các
thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có
trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản

của mình về nghĩa vụ của cty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
cty trong phạm vi số vốn đã góp vào cty. Cty hợp danh không được phát hành bất kì loại
chứng khoán nào. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề
quản lsy công ty, còn thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định
tại điều lệ cty nhưng không được tham gia quản lý cty và hoạt động kinh doanh nhân danh
cty.
Khác với doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hình thức đầu
tư này mang đặc trưng của cty đối nhân tiền về thân nhân trách nhiệm vô hạn, cơ cấu tổ chức
gọn nhẹ. Hình thức đầu tư này trước hết rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ, nhưng vì có
những ưu điểm rõ rêt nên cũng được các doanh nghiệp lớn quan tâm.
9. Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A)
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các lĩnh vực
công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển.
Mục đích chủ yếu :

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

6


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Khai thác lợi thế của thị trươg mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay đầu tư mới theo
kênh truyền thống không mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt động M&A tạo cho các công ty
cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị trường nước ngoài.
Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các ty của mình với nhau hình thnàh
một công ty khổng lồ hoạt độg trong nhiều lĩnh vự hay các công ty khác nhau cùng hoạt động
trông một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng khả năng cạnh tranh toàn cầu của tập đoàn
Các công ty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ thống phân
phối của họ trên thị trường thế giới

Thông qua đường M&A các công ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên cứu và phát
triển sản xuất, phân phối và lưu thông.
M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ cấu ngành
công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
công nghiệp ở mọi quốc gia.
III. Các nhân tố thúc đẩy đầu tƣ nƣớc ngoài FDI
1. Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Có sự khác nhau về năng suất cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản
xuất có được do dùng thêm một đơn vị của yếu tố sản xuất) của vốn giữa các nước. Một nước
thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng
suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang
nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất của các nước thừa vốn thường
cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là tất cả những hoạt động
nào có năng suất cận biên cao mới được các Doanh nghiệp đầu tư sản xuất mà cũng có những
hoạt động quan trọng, là sống còn của Doanh nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dù hoạt động
đó cho năng suất cận biên thấp.
2. Chu kì sản phẩm
Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kì sống của các sản
phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín
muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban
đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

7


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản địa
tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này

bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài(giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi
nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu
lại xuất hiện(giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó
dẫn đến sự hình thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn
hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà
cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp
dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý
do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản
xuất thấp hơn.
3. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman A. A.
(1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù
(chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước
ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công
ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát
huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và
công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị
trường tiêu thụ tiềm năng... ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc này.
4. Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song
phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư
thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó,
Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy
tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn
đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

8



Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

5. Khai thác chuyên gia và công nghệ
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn.
Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp
vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở
các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của
Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển
khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo
mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM
được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của
IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCLThompson Electroincs, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành
khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
6. Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước
có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của
Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục
đích tương tự.
IV. Lợi ích của việc thu hút vồn đầu tƣ nƣớc ngoài FDI
1. Bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh
tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ,
nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
2. Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần
nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì
không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một

nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích
lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

9


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực tiếp thu của đất nước.
3. Tham gia mạng lưới và sản xuất toàn cầu
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công
ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó
cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ
có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
4. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản
xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương.
Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề
nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút
FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước
thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương
cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
5. Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương
riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh

năm 2006.

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

10


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

CHƢƠNG II: PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH VÀ XU
HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA FDI TRÊN THẾ GIỚI
I. Tình hình phát triển của FDI từ đầu thế kỉ XX đến giữa những năm 90 của thế kỉ XX
Từ đầu thế kỉ XX đến giữa những năm 90 của thế kỉ XX, cùng tình hình phát triển của
nền kinh tế thế giới, FDI cũng có những thay đổi lớn đáng kể về nước chủ đầu tư, các nước
nhận đầu tư và các lĩnh vực hoạt động được thể hiện qua các giai đoạn sau:
1. Từ 1875 – 1914:
Trong giai đoạn này, Anh là nước có nền kinh tế phát triển mạnh nhất thế giới, chính vì
vậy chủ đầu tư chủ yếu trong giai đoạn này cũng là Anh. Nước nhận đầu tư là các nước thuộc
địa, trong đó có Mỹ và các thuộc địa của Anh. Nông nghiệp, mỏ, đường sắt, công nghiệp chế
biến là những lĩnh vực đầu tư được chú trọng nhằm tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng cho quá
trình khai thác nguyên, nhiên vật liệu tại các nước thuộc địa về phục vụ cho chính quốc.
Nguồn vồn đầu tư chưa nhiều.
2. Từ 1919 – 1939:
Trong giai đoạn này, chủ đầu tư chủ yếu là các nước tư bản mạnh, trong đó vai trò của
Mỹ ngày càng tăng, của Anh và các nước châu Âu khác giảm trừ Italia, tuy nhiên Anh vấn
chiếm ưu thế và vẫn đứng trên Mỹ. Nước được đầu tư chủ yếu là các nước đang phát triển (
Châu Mỹ La Tinh giữ vị trí hàng đầu, Châu Á cũng trở thành khu vực có sức hấp dẫn) trên
các lĩnh vực : mỏ và dầu lửa, đường sắt, dịch vụ công cộng, công nghiệp chế tạo. Nguồn vốn
đâu tư đã có những bước tăng trưởng. Những lĩnh vực trên vẫn nhằm đáp ứng cho quá trình
khai thác nguyên, vật liệu, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển ngày càng mạnh

của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là các nước ngày càng khẳng định vai trò của mình như Mỹ và
Italia.
3. Từ 1945 đến giữa những năm 1960:
Mỹ đã trở thành nước đứng đầu trong số những chủ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tiếp
theo sau là Anh và một số nước tư bản khác. Tuy nhiên, các nước được nhận đầu tư trong
giai đoạn này chủ yếu là các nước phát triển ( trong đó có Châu Âu và Canada ) tập trung vào
lĩnh vực mỏ và dầu lửa, đặc biệt là công nghiệp chế tạo và đẩy mạnh vào thương mại. Các
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

11


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

nước phát triển tập trung vào những lĩnh vực này không những để cung cấp nguyên, vật liệu
mà còn để chiếm lĩnh những thị trường được bảo hộ.
4. Từ giữa những năm 1960 đến cuối những năm 1970:
Mỹ vẫn duy trì là nước chủ đầu tư lớn nhất thế giới. Trong top đầu lúc này xuất hiện
thêm Đức, Nhật Bản, hai nước này đã có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ sau hậu quả của
chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt là Nhật Bản với giai đoạn phát triển thần kì vào
những năm 50 và 60 đã làm cho Nhật Bản cũng trở thành một trong những nước có chủ đầu
tư lớn nhất trên thế giới. Ngoài ra, trong giai đoạn này đã bắt đầu có luồng vốn đáng kể xuất
phát từ các nước đang phát triển. Tổng nguồn vốn đi đầu tư khá lớn. Trong giai đoạn này, các
nước bắt đầu chuyển hướng sang sản xuất và kinh doanh các mặt hàng thâm dụng về vốn và
kĩ thuật nên việc đầu tư vào các nước có trình độ về kĩ thuật và lao động là xu hướng chính.
Chính vì vậy các nước nhận đầu tư trong giai đoạn này là các nước phát triển, trong đó Châu
Âu gần như chiếm vị trí độc quyền. Các lĩnh vực đầu tư nổi bật là dầu lửa, công nghiệp chế
tạo, thương mại. Động cơ của việc đầu tư là nhằm chiếm lĩnh và phát triển thị trường.
5. Thập kỷ 1980:
Trong giai đoạn này, vị trí nước đầu tư của Mỹ đã giảm tương đối vì Nhật Bản ngày càng

khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế thế giới, trong giai đoạn này có sự xuất hiện
của Pháp với vai trò của những chủ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài khá lớn. Việc đầu tư lúc
này được tập trung chủ yếu vào ba trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới là Hoa Kỳ, EU và
Nhật Bản. Đó là những trung tâm rất lớn về công nghiệp, tài chính, dịch vụ. Sự phát triển của
khoa học – kĩ thuật cùng với những công nghệ mới ra đời, việc sản xuất và kinh doanh giờ
đây không còn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên mà đòi hỏi tập trung hơn về vốn,
công nghệ và trình độ. Những ngành đỏi hỏi công nghệ cao đem lại lợi nhuận vô cùng lớn,
tính cạnh tranh ngày càng cao giữa các nước. Chính vì thế, nguồn vốn đầu tư trong giai đoạn
này cũng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực: công nghiệp chế tạo, thương mại và dịch vụ. Các
nước đầu tư trực tiếp nhiều vào các lĩnh vực này nhằm chiếm lĩnh, phát triển và bảo vệ thị
trường của mình, giảm chi phí sản xuất.
6. Thập kỷ 1990:

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

12


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Trong giai đoạn này, nước đầu tư chủ yếu vẫn là Mỹ, theo sau là các nước Nhật Bản,
Anh, Đức và vẫn tập trung vào các ngành đòi hỏi công nghệ cao như công nghiệp chế tạo,
các ngành thương mại và dịch vụ với mức độ cạnh tranh ngày càng lớn. Các nước phát triển
đi đầu tư lẫn nhau là chủ yếu ( ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới), ngoài ra còn đầu tư vào
một số nền kinh tế đang lên và có tiềm năng ở Châu Á như Singapore, Hong Kong, Hàn
Quốc,…nhằm chiếm lĩnh thị trường ngày càng sâu rộng hơn nữa và tăng khả năng cạnh tranh
của mỗi nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư tăng mạnh hơn với giá trị ngày càng lớn.
II. Tình hình vận động của FDI từ năm 2000 đến trƣớc cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới năm 2008:
Trong giai đoạn này, cùng với quá trình toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ, dòng

vốn FDI ngày càng tăng và tăng lên nhiều so với các giai đoạn trước, tăng lên ở hầu hết các
khu vực, các nền kinh tế. Các nước phát triển, đặc biệt là các nước vốn là chủ đầu tư FDI lớn
từ trước như Anh, Mỹ, Nhật Bản, Đức… vẫn là những nước thu hút được được lượng vốn
FDI lớn nhất thế giới. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển cũng ngày trở nên hấp dẫn hơn
với các chủ đầu tư, đặc biệt là các nước thuộc khu vực Châu Á như Trung Quốc đại lục, Ấn
Độ, Hong Kong, Đài Loan,…Giai đoạn này cũng là giai đoạn có sự tăng lên kỉ lục của tổng
đầu tư FDI vào năm 2007, đạt 1538 tỷ USD, vượt qua con số kỉ lục cũ năm 2000. Sự gia tăng
ngày càng mạnh của FDI đóng một vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế thế giới: giúp các nước phát triển mở rộng thị trường và bành trướng sức ảnh hưởng
của mình nhằm chi phối hơn nữa nền kinh tế thế giới; đối với các nước đang phát triển, FDI
đóng vai trò khá lớn trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm khoảng 10% tổng số vốn
đầu tư cho tài sản cố định ở các nước này; sự chuyển giao công nghệ đã giúp các nước tăng
trưởng kinh tế mạnh, Châu Á ngày càng trở thành điểm đầu tư hấp dẫn với, nhất là Trung
Quốc và Ấn Độ. Đồng thời, các nước đang phát triển cũng trở thành những nhà đầu tư với
lượng vốn ngày càng tăng.
Các lĩnh vực đầu tư nổi bật phụ thuộc vào tình hình thực tế của từng khu vực, từng châu
lục trên thế giới:
Các nước đang phát triển ở Châu Phi: tập trung chủ yếu là các lĩnh vực khai thác
nguồn nhiên liệu như dầu mỏ, gas…
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

13


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Các nước đang phát triển ở Nam, Đông và Đông Nam Á, Châu Đại dương: FDI tập
trung vào lĩnh vực dịch vụ và công nghệ cao, FDI ra tăng lên trong các lĩnh vực khai thác
nguồn lực tự nhiên.
Các nước đang phát triển ở Đông Á: FDI tăng lên trong các ngành liên quan đến

năng lượng
Các nước đang phát triển ở Mỹ La Tinh và Caribean: tăng trong các lĩnh vực sử dụng
nguồn lực tự nhiên và chế tạo
Các nước Trung – Đông Âu và Liên bang các quốc gia độc lập: FDI tăng nhiều vào
lĩnh vực chế tạo và lĩnh vực sử dụng nguồn lực tự nhiên.
Các nước phát triển: FDI tăng lên vào tất cả các lĩnh vực từ các ngành công nghiệp sử
dụng công nghệ cao đến thương mại, dịch vụ trong tài chính – ngân hàng nhằm chiếm lĩnh
thị trường, nhất là các thị trường tiêu thụ các sản phẩm đắt tiền, yêu cầu chất lượng cao.
Những đặc điểm trên được thể hiện qua các số liệu cụ thể qua từng năm của giai đoạn.
Nhìn về mặt tổng thể, tổng lưu lượng vốn FDI ròng trong cả giai đoạn này tăng lên đáng kể
so với 10 năm trước. Tuy nhiên, sau khi đạt mức rất cao vào năm 2000, khoảng trên 1200 tỷ
USD thì vào các năm 2001 -2004 , tổng dòng chảy FDI ròng đã giảm hẳn, sau đó vào 2005,
lại có mức tăng trởi lại, vượt cả năm 2000 và đạt đến đỉnh điểm vào năm 2007. Mặc dù, tổng
lưu lượng FDI ròng có sự giảm sút trong các năm 2001 – 2005 nhưng tỷ trọng FDI đầu tư
vào các nước đang phát triển không hề giảm xuống mà còn có xu hướng tăng lên, đến năm
2007, dòng chảy FDI vào châu Á đạt khoảng 27% trong tổng lưu lượng FDI ròng trên toàn
thế giới.

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

14


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

15



Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

1. Tình hình FDI năm 2000:
Theo báo cáo đầu tư FDI của UNCTAD, tổng đầu tư trực tiếp FDI vào năm 2000
tăng 18% so với năm trước, đạt mức kỷ lục 1300 tỷ USD, dòng chảy FDI này đã tăng liên
tục từ năm 1991, thời kì tăng trưởng dài nhất trong vòng 30 năm. Trong ba nhóm các nền
kinh tế (các nước phát triển, các nước đang phát triển , Trung và Đông Âu), các nước phát
triển có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong tổng dòng vốn FDI (21% so với năm trước), vượt
quá 1000 tỷ USD (hình 1). Tuy nhiên, tỷ lệ phân bổ FDI giảm xuống đối với các nước đang
phát triển (hình 2) thấp nhất trong vòng một thập kỉ từ 1991 – 2000.

Hình 1: Dòng chảy FDI đi vào ( theo nhóm các nền kinh tế) giai đoạn 1990 - 2000
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

16


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Hình 2: Tỷ lệ phân bổ FDI vào các nền kinh tế khác nhau giai đoạn 1990 - 2000

2. Các năm 2001 – 2003:
Tổng đầu tư FDI trong giai đoạn này giảm hẳn, giảm liên tiếp trong các năm 2001,
2002, 2003 xuống dưới mức chỉ còn bằng khoảng ½ tổng vốn đầu tư FDI năm 2000, cụ thể
như sau:
- Năm 2001, tổng vốn đầu tư FDI giảm xuống ở hầu hết các khu vực, tổng số vốn FDI đầu
tư vào các nước phát triển đã giảm dần một nửa xuống còn khoảng 500 tỷ USD, các nước
đang phát triển khác cũng giảm xuống từ 240 tỷ USD xuống còn 225 tỷ USD ngoại trừ châu
Phi. Dòng vốn FDI ra từ các nước phát triển cũng giảm xuống. Tại các nước Mỹ - Latinh,
trong khi luồng vốn FDI đổ vào Argentina và Brazil giảm xuống thì Mexico lại thu hút

nhiều vốn đầu tư vào, vượt qua cả Brazil trở thành nước được nhận đầu tư lớn nhất trong
khu vực. Tại Châu Á, Ấn Độ là nước có sự gia tăng thu hút đầu tư nhưng vẫn không bù lại
sự sụt giảm tại Trung Quốc và Hong Kong, tuy nhiên sự ra nhập của Trung Quốc vào WTO
sẽ đem lại những ảnh hưởng mới trong những năm tiếp theo.Tại châu Phi, tổng số vốn FDI
thu hút vào khu vực tăng từ 9 tỷ USD năm 2000 lên 11 tỷ USD năm 2001, với sự gia tăng
của các nhà đầu tư vào Morocco và Nam Phi cho dù có sự sụt giảm đầu tư vào Ai Cập.
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

17


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

Trong khi đó, các nước ở khu vực Trung và Đông Âu vẫn giữ được dòng vốn đi vào ổn định
vào khoảng 27 tỷ USD, dòng vốn đi vào Ba Lan lại giảm trong khi đó dòng vốn đi vào Nga,
Hungari, Séc tăng nhẹ.
- Vào các năm 2002, 2003, đầu tư trực tiếp FDI vào các nước phát triển tiếp tục giảm,
xuống còn 460 tỷ USD vào năm 2002 – thấp chưa từng có kể từ năm 1998. Chỉ riêng Anh
và Mỹ đã chiếm khoảng 54% sự sụt giảm về thu hút vốn đầu tư FDI trong năm 2002. Với
vai trò là các nước được nhận đầu tư từ FDI, Mỹ đã tụt hạng từ vị trí thứ nhất xuống vị trí
thứ tư. Các giao dịch xuyên quốc gia về sáp nhập và mua lại doanh nghiệp (M&A) cũng tiếp
tục giảm từ 7.894 giao dịch M&A, trị giá 1.144 tỷ USD vào năm 2000 xuống còn 4.493 giao
dịch, trị giá 370 tỷ USD vào năm 2002. Mặc dù vậy, với việc đẩy nhanh hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, Trung Quốc vẫn khẳng định sức hút đặc biệt về FDI với tổng giá trị vốn giải
ngân tăng liên tục trong 4 năm vừa qua, từ 40,3 tỷ USD năm 1999 lên 52,7 tỷ USD năm
2002. Còn tại Việt Nam, cùng khoảng thời gian này, FDI giải ngân giảm từ 1,7 tỷ USD
xuống 1,2 tỷ USD. Năm 2003 là năm thứ ba liên tiếp tổng FDI giảm, dòng vốn FDI vào các
nước phát triển đạt mức 367 tỷ USD, thấp hơn 25 % so với năm 2002. Tại Mỹ, dòng vốn
FDI vào Mỹ giảm 53%, thấp nhất trong vòng 12 năm qua. Tại Trung và Đông Âu, FDI cũng
giảm từ 31 tỷ USD xuống còn 21 tỷ USD. Trong năm 2003, chỉ có các nước đang phát triển

ở châu Á và châu Phi là có sự tăng trưởng trong việc thu hút đầu tư FDI, tăng 9% đạt mức
172 tỷ USD.
Tổng dòng chảy FDI vào các nƣớc ( nƣớc nhận)

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

18


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới
Tổng FDI đi ra ( nƣớc đi đầu tƣ)

Nguyên nhân của sự sụt giảm liên tiếp trong ba năm này là:
Do hậu quả của cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 vào nước Mỹ - nền kinh tế hàng đầu
thế giới nên kinh tế thế giới đã bị tác động mạnh, trong đó có FDI. Các kế hoạch đầu tư vào
Mỹ - một nước là chủ đầu tư đồng thời là người đi đầu tư rất lớn trong tổng số vốn đầu tư
FDI đã bị đình trệ, giảm sút, các nhà đầu tư lo ngại khi đầu tư vào Mỹ vì môi trường đầu tư
vào Mỹ không còn an toàn. Từ đó dẫn đến sự giảm mạnh trong lợi nhuận của các nước đi
đầu tư, kéo theo sự suy giảm trong GDP; giá cổ phiếu trên các thị trường chứng lớn tại Mỹ
liên tiếp xuống hạng từ đó dẫn đến tốc độ đổi mới cơ cấu doanh nghiệp cũng như quá trình
tư nhân hoá đang diễn ra chậm chạp tại nhiều nước, sự sụt giảm lớn về giá trị của các giao
dịch xuyên quốc gia về sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
Tác động của cuộc khủng bố 11/9 đến kế hoạch đầu tƣ

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

19


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới


3. Từ năm 2004 đến cuối 2007:
- Năm 2004 – 2007: sau ba năm liên tiếp sụt giảm, FDI trong các năm này đã có những
bước tăng trưởng mạnh. Khởi đầu với sự gia tăng của dòng vồn FDI vào ở mức tăng 2 % so
với năm 2003, dòng chảy FDI vào các nước đang phát triển tăng lên 40 % đạt mức 233 tỷ
USD, chiếm 36% tổng số vốn đầu tư vào của FDI, là mức cao nhất kể từ năm 1997. Tiếp
đến năm 2005, tổng FDI đạt mức 916 tỷ USD, tăng 27 % so với năm 2004. Tuy nhiên con
số này vẫn còn thấp hơn nhiều so với năm 2000. FDI đầu tư vào các nước phát triển đã tăng
37% so với cùng kì năm trước, Anh là nước nhận đầu tư lớn nhất trong năm này tăng 108 tỷ
USD, đạt tổng số 165 tỷ USD. Ở châu Á, các nước nhận được đầu tư nhiều là Trung Quốc
và Ấn Độ, ngoài ra còn có Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc. Nguyên nhân chính xuất phát từ
sự phục hồi kinh tế của các đầu tàu Mỹ, Nhật Bản, cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của Ấn
Độ, Trung Quốc. Ngoài ra là xu hướng gia tăng các giao dịch xuyên quốc gia mua lại và sáp
nhập các công ty lớn (merger & acquisition - Q&A).
- Sau bốn năm tăng trưởng, cuối cùng vào năm 2007, tổng đầu tư FDI toàn cầu tăng
30% so với năm trước đạt mức kỷ lục 1833 tỷ USD, vượt qua cả mức kỉ lục cũ được thiết
lập vào năm 2000 bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ vào nửa cuối năm 2007.
Theo UNCTAD, lợi nhuận công ty tăng và luồng tiền mặt khá dồi dào đã giúp tăng giá trị
các vụ sáp nhập và mua bán xuyên biên giới, hiện chiếm một bộ phận lớn trong luồng vốn
FDI. Mỹ dẫn đầu về thu hút FDI, trong năm 2007, Mỹ vẫn là địa chỉ thu hút FDI nhiều nhất
với 193 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2006, tuy tốc độ tăng này chậm hơn so với nhiều
nước khác. Trung Quốc là nước nhận được nhiều FDI nhất trong số các nước đang phát triển
với 67,3 tỷ USD, tuy giảm 3,1% so với năm 2006.
Nguồn FDI vẫn tăng ở cả ba nhóm kinh tế gồm các nền kinh tế phát triển, các nền kinh tế
đang phát triển và các nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như Đông Nam Âu và Cộng đồng
các quốc gia độc lập (SNG). Nguồn FDI đổ vào nhóm thứ nhất tăng trong bốn năm liên tiếp,
lên tới gần một nghìn tỷ USD. Khoảng 224 tỷ USD của nguồn FDI đổ vào nhóm thứ hai
được dành cho các khu vực như Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và châu Đại Dương. FDI đổ
vào nhóm thứ ba tăng 41% lên mức kỷ lục 98 tỷ USD. Ủy ban kinh tế Mỹ Latinh và Caribe
của Liên hiệp quốc (CEPAL) đánh giá, mặc dù phải đối mặt với những biến động của thị

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

20


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

trường tài chính quốc tế và cuộc khủng hoảng trên thị trường vay thế chấp ở Mỹ song các
nước khu vực Mỹ Latinh đã hạn chế những tác động từ bên ngoài và tạo bước đột phá trong
phát triển kinh tế với mức tăng trưởng bình quân 5,6%; thu hút FDI 95 tỷ USD, cao nhất
trong tám năm trở lại đây.
Khu vực Đông Nam Á trở nên hấp dẫn hơn đối với việc tìm kiếm hiệu quả đầu tư FDI,
những quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam đang có kế hoạch cải thiện
đáng kể hạ tầng cơ sở của mình.
Dòng vốn FDI theo nhóm các nền kinh tế từ 2005-2007( tỷ USD)

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

21


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

III.

FDI với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay:
1. Sơ qua về cuộc khủng hoảng kinh tế từ 2008 – 2009:
Cuối năm 2007, tình hình tài chính tại Mỹ đã có dấu hiệu của sự khủng hoảng, kéo theo

việc các trung tâm tài chính khác trên thế giới cũng bất ổn theo. Đến năm 2008, khủng hoảng

tài chính chính thức bùng nổ tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của
nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Nguyên nhân sâu xa
của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng
bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ
cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi
điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản
mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ
USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Theo
ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay
với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã
liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay
phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà.
2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính hiện nay tới đầu tư FDI của thế
giới:
Theo các báo cáo đầu tư FDI của UNCTAD, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính đã khiến
dòng vốn FDI đi vào các nước trên toàn cầu giảm 14% từ 1979 tỷ USD ( FDI inflow) vào
năm 2007 xuống còn 1697 tỷ USD vào năm 2008. Tình trạng này vẫn tiếp tục diễn ra vào
năm 2009, theo khảo sát với 96 quốc gia vào quý I năm 2009, dòng vốn FDI đổ vào giảm
xuống dưới 44% so với cùng kì năm 2008. Sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế này lên
FDI có sự khác biệt giữa ba nhóm nền kinh tế : tại các nước phát triển, nơi bắt đầu và chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng thì dòng vốn FDI đi vào giảm mạnh, trong khi
tăng tại các nước đang phát triển và các nước thuộc Trung và Đông Âu. Tuy nhiên sự khác
biệt này cũng nhanh chóng bị dừng lại vào cuối năm 2008 đầu năm 2009.
Dữ liệu cho năm 2008 và 2009 chỉ ra rằng đối với nhiều nước phát triển, dòng vốn FDI đã
giảm, chủ yếu là do kết quả của cuộc khủng hoảng thanh khoản trong thị trường tiền tệ và nợ
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

22



Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

nần, ước tính sơ bộ cho thấy một sự suy giảm của khoảng 33% so với dòng chảy trong năm
2007 cho nhóm này. FDI đầu tư vào Phần Lan, Đức, Hungary, Ý, và Anh Quốc đều giảm đi
(bảng 1), ngay cả khi so sánh với năm 2006. Sự sụt giảm thu nhập của các nước phát triển,
các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) và sự suy giảm một trong các khoản vay hợp vốn ngân
hàng đã hạn chế tài chính cho đầu tư. Sự sụt giảm trong giao dịch mua lại thừa hưởng cũng
làm trì trệ việc sáp nhập xuyên biên giới và mua lại (M & As). Mua bán qua biên giới M & A
doanh số bán hàng ở các nước đang phát triển đã giảm cường độ tương tự (33%) vì ước tính
dòng vốn FDI trong năm 2008 giảm (bảng 1).
Trong nền kinh tế đang phát triển, mặc dù cũng chịu những tác động tồi tệ nhất của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng tốc độ tăng trưởng thu hút FDI để phát triển quốc gia
vẫn tăng nhẹ trong năm 2008, khoảng 4%. Dòng chảy sang Tây Á giảm đáng kể (hơn 20%),
sau các mức đăng ký kỷ lục năm ngoái, do có sự sụt giảm trong nhu cầu sử dụng dầu, chi phí
tăng cao. Ngược lại, dòng chảy FDI vào châu Mỹ La tinh và vùng Caribê được dự kiến sẽ
cho thấy khả năng phục hồi đáng kể, đã tăng 13% trong năm 2008, một phần là do kết quả
của sự gia tăng trong dòng chảy FDI tới Nam Mỹ, tuy nhiên vẫn chữa đựng những rủi ro suy
giảm cao. FDI chảy vào các nền kinh tế chuyển đổi của Đông Nam Châu Âu và Cộng đồng
các quốc gia độc lập (CIS) được ước tính đã duy trì xu hướng đi lên của họ bất chấp khủng
hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, và xung đột khu vực. Trong số các nước đang
phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi, lớn nhất (Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ, và Trung
Quốc) đã trải qua một sự gia tăng FDI trong năm 2008. Tương tự như vậy, giao dịch qua biên
giới M & A trong nước đang phát triển cũng tăng 16%, với phần lớn là tăng vốn đăng ký của
châu Phi và châu Á (bảng 1). Trong ngắn hạn, các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng
tài chính và kinh tế FDI vẫn chiếm ưu thế và tiếp tục làm giảm hơn nữa tổng vốn FDI trong
năm 2009 ở mọi nền kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhân tố tích cực đã và đang xảy ra cho thấy
một sự hồi sinh của dòng vốn đầu tư quốc tế. Những yếu tố này bao gồm các cơ hội đầu tư
dựa trên tài sản giá rẻ và tái cơ cấu ngành công nghiệp, số lượng tương đối lớn các nguồn lực
tài chính sẵn có ở các nước đang phát triển và tiền mặt sẵn có ở nước xuất khẩu dầu mỏ, sự
mở rộng nhanh chóng của các hoạt động như ngành công nghiệp năng lượng mới và các khả

năng phục hồi tương đối của các công ty quốc tế.
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

23


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới
Bảng 1: Dòng vốn FDI vào và số liệu về buôn bán xuyên biên giới theo vùng và nền kinh tể 2007 – 2008

IV. Tìm hiểu sơ qua về báo cáo đầu tƣ FDI 2010 của UNCTAD và dự đoán xu thế
phát triển của FDI trong các năm tới:
1. Về báo cáo đầu tư trực tiếp ra nước ngoài FDI 2010:
* Xu hướng FDI và cái nhìn toàn cảnh về nó:
FDI toàn cầu đã có những dấu hiệu của sự phục hồi nhưng còn khiêm tốn vào nửa đầu
năm 2010, nhưng đây là tia hy vọng cho sự phục hồi lớn hơn nữa về FDI ít nhất là trong ngắn
hạn. UNCTAD dự kiến luồng vốn toàn FDI cầu đạt khoảng 1200 tỷ USD hết 2010, dự kiến
tăng đạt 1300 đến 1500 tỷ USD vào năm 2011, hướng tới 1600 - 2000 tỷ USD vào năm
2012. Tuy nhiên, những triển vọng này của FDI còn mang đầy rủi ro và bất trắc, bao gồm cả
HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

24


Tiểu luận: Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới

sự mong manh của sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng lớn đến
hoạt động mua bán và sáp nhập qua biên giới ( M & A)của các nước cũng như các tập đoàn
xuyên quốc gia, làm giảm đi 77% các hợp đồng M&A so với năm 2008. Hoạt động này vẫn
đạt ở mức thấp vào năm 2009, khoảng 250 tỷ USD, tuy nhiên đã tăng lên 36 % vào năm
tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm trước.Các nền kinh tế đang chuyển đổi phát triển và

thu hút được một nửa của luồng vốn FDI toàn cầu, và họ cũng đầu tư một phần vào FDI toàn
cầu. Họ đang dẫn đầu trong công cuộc phục hồi FDI. Hầu hết các khu vực đều được kì vọng
sẽ tăng trưởng dòng vốn FDI trong năm 2010: Châu Phi đang chứng kiến sự nổi lên của các
nguồn mới của FDI. Nâng cấp nền công nghiệp thông qua FDI ở châu Á đang lan rộng đến
nhiều quốc gia.
Chỉ số FDI toàn cầu hàng quý từ năm 2000 đến quý I năm 2010

HaDim.Vn - Chia Sẻ Những Gì Tôi Có

25


×