Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm lớp 2 mới nhất sang kien kinh nghiem lop 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.24 KB, 25 trang )

.PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Người giáo viên tiểu học, là người đặt nền móng ra thế hệ tương lai của đất
nước, tạo ra con người phát triển toàn diện phù hợp với xu thế của thời đại, tiếp
cận nắm bắt sự tiến bộ của nhân loại trên thế giới, hoà nhập với xu thế hội nhập.
Phù hợp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thế giới hiện đại.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản của việc dạy học ở Tiểu học, học sinh nắm
được hệ thống kiến thức cơ bản, trên cơ sở phát triển năng lực nhận thức, tư duy
độc lập của học sinh. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên đặt nền móng cho nền
giáo dục. Trong luật phổ cập giáo dục tiểu học có ghi: “Giáo dục Tiểu học là nền
tảng cho giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển đạo đức, trí tuệ,
thẩm mỹ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu phát triển toàn
diện nhân cách cho con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa...”.
Vì vậy bậc Tiểu học là bậc rất quan trọng trong việc đặt nền móng hình
thành nhân cách ở học sinh, là bước ngoặt trong đời sống của trẻ. Đó là cánh cửa
mở đầu cho quá trình lĩnh hội tri thức của các em, ở bậc Tiểu học các em được
học nhiều môn trong đó môn toán giữ vị trí quan trọng, giữ vai trò then chốt, có
tính chất mở đầu giúp các em lĩnh hội tri thức, là công cụ và phương tiện giúp
học tập và giao tiếp.
Thông qua dạy Toán rèn cho các em, tư duy suy luận, sáng tạo góp phần
phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, trong sự hình thành nhân cách
con người mới xã hội chủ nghĩa. Qua việc học Toán học sinh rèn được các môn
học khác như Tiếng việt, cung cấp kiến thức về Tự nhiên và xã hội...
Thấy được tầm quan trọng của môn Toán vì vậy ngay từ lớp 2, tôi đã đi sâu
vào nghiên cứu chương trình SGK Toán lớp 2. Từ đó tăng thực hành vận dụng,
tăng sự tự học của học sinh, sử dụng nội dung cơ bản hiện đại, thiết thực giúp
học sinh hình thành phương pháp tự học toán. Học sinh tự phát hiện, tự giải
quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, biết vận dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống.
Tuy nhiên trong thực tế dạy học Toán 2 trong một lớp có nhiều đối tượng
học sinh khác nhau thì khả năng lĩnh hội tri thức cũng khác nhau mà hệ thống


bài tập SGK chỉ mang tính phổ cập với học sinh “đại trà”. Do đó mà hệ thống
bài tập phù hợp với mọi đối tượng học sinh: Giỏi – khá – trung bình – yếu là
một điều mà tôi luôn trăn trở. Vì vậy tôi quyết định viết đề tài : “ Khai thác và
phát triển hệ thống những bài tập trong sách giáo khoa Toán 2 để bồi dưỡng
năng lực học toán cho học sinh lớp 2”.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1.MỤC ĐÍCH:
Để nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học nói chung cũng như môn Toán
ở lớp 2 nói riêng, người giáo viên luôn có sự đổi mới phương pháp trong quá
trình giảng dạy để phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh tự phát hiện
kiến thức và khắc sâu kiến thức, từ đó phát triển tư duy cho các em. Vì vậy phải
tìm hiểu hệ thống bài tập, nội dung các bài tập trong SGK, từ đó khai thác và
phát triển những bài tập trong SGK để rèn luyện tư duy phát huy tích cực cho
học sinh.
Giúp các em bổ sung nguồn bài tập trong SGK hoặc thay thế các bài tập
1/26


trong SGK Toán lớp 2 cho phù hợp với đặc điểm trình độ thực tế của học sinh
địa phương.
Hình thành và rèn cho giáo viên kĩ năng giải toán cũng như các bài tập
khác và nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm. Qua đó góp phần nâng cao chất
lượng dạy Toán lớp 2 nói riêng và chất lượng giáo dục Tiểu học nói chung.
2. NHIỆM VỤ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên người giáo viên phải có những
nhiệm vụ sau:
- Củng cố những kiến thức kĩ năng cơ bản, cụ thể đến phức tạp, khái quát
hơn. Coi trọng đúng mức thực hành giải toán và tính. Thực hiện tinh giản nội
dung tăng cường thực hành vận dụng các kiến thức số và phép tính.
Tích hợp các nội dung có nhiều ứng dụng trong đời sống hàng

ngày.
Rèn kĩ năng diễn đạt ứng dụng giải quyết tình huống có vấn đề.
Phát triển năng lực tư duy.
Xây dựng phương pháp học toán dựa vào hoạt động của học sinh, giúp học
sinh tự học toán có hiệu quả phát triển năng lực cho học sinh. Hỗ trợ cho nhau
cùng tạo ra phương pháp học tích cực cho các em để các em có kiến thức sâu, có
hệ thống, là cơ sở vững chắc cho các em học sinh các lớp tiếp sau.
Điều tra thực trạng trình độ của học sinh lớp 2. Từ đó ra hệ thống bài tập
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh địa phương ở mọi đối tượng: Hoàn
thành và chưa hoàn thành.. nhằm phát triển năng lực tư duy cho các em.
Qua sự đổi mới về phương pháp giáo viên cũng biết vận dụng trong giảng
dạy để đạt hiệu quả cao trong quá trình học Toán. Từ đó biết thiết kế hệ thống
bài tập phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh và phát triển tư duy trong
học Toán 2.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng: Học sinh lớp 2.
Phạm vi nghiên cứu: Khai thác và phát triển hệ thống bài tập trong sách
giáo khoa Toán 2 để bồi dưỡng năng lực cho học sinh lớp 2.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, quan sát.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu Sư phạm.
- Phương pháp thực hiện trắc nghiệm.
V.KẾ HOẠCH THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
1. Từ ngày 3/11 đến 25/12/2014
- Thâm nhập thực thực tế địa phương, nhà trường.
- Tìm hiểu hồ sơ học sinh để năm bắt học lực của học sinh trong lớp học.
- Tiếp xúc với đội ngũ cán bộ lớp và học sinh trong lớp tìm hiểu làm quen nề

nếp lớp.
- Đặt vấn đề với nhà trường, về vấn đề để nghiên cứu đề tài khoa học:
“ Khai thác và phát triển hệ thống những bài tập trong sách giáo khoa Toán 2 để
bồi dưỡng năng lực cho học sinh lớp 2”.
2/26


2. Từ ngày 26/12 đến 03/02/2015
- Đi vào thực nghiệm nhiều biện pháp khoa học để làm đề cương lần 2
3. Từ ngày 04/02 đến 20/04/2015
- Tiếp tục thực nghiệm, trắc nghiệm, tổng kết rút ra bài học và nêu lên ý kiến đề
xuất của mình để hoàn chỉnh đề tài.

B. NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.Vai trò của nội dung dạy học trong chương trình môn Toán:
Để đất nước ta hoà nhập với xu thế thời đại, cùng với cơ chế hội nhập,
quốc tế, tiến kịp với các nước hiện đại trên thế giới, đưa nước ta trở thành một
cường quốc trên thế giới. Vì vậy phải đào tạo một thế hệ trẻ phù hợp với sự đổi
mới làm chủ được vận mệnh của đất nước nên Đảng và Nhà nước ta có sự cải
cách về giáo dục để đáp ứng được với sự phát triển của đất nước trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do đó Bộ giáo dục và đào tạo đã đổi mới cải cách chương trình giáo dục
phù hợp với điều kiện thực tế hiện tại. Để đạt được hiệu quả cao trong quá trình
giảng dạy đòi hỏi người giáo viên luôn có sự đổi mới phương pháp giảng dạy
cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhất là đối với môn Toán một môn
quan trọng ở tiểu học, đối với lớp 2 một lớp đầu cấp các em còn bé, lượng tri
thức chưa nhiều. Môn Toán lớp 2 không chỉ giải những bài tập toán và phép tính
là xong mà học sinh phải hiểu được bản chất hay tính quan trọng của một phép
tính, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một bài toán thông qua nhiều cách giải. Từ

đó tìm ra con đường ngắn nhất, hay nhất cho một lời giải. Đây cũng là điều trăn
trở nhất cho bản thân tôi và đồng nghiệp. Vì vậy khai thác và phát triển các dạng
bài tập trong SGK toán Tiểu học nói chung, Toán 2 nói riêng là điều cần thiết,
cấp bách đối với giáo viên tiểu học để phù hợp với trình độ đối tượng học sinh
của từng địa phương.
2. Nội dung chương trình SGK Toán 2:
Chương trình Toán 2 là bộ phận của chương trình Toán tiểu học và là sự
tiếp tục của chương trình Toán lớp tiếp theo. Nội dung chương trình là sự phối
hợp của các mạch kiến thức với sự đồng tâm về nội dung giữa các lớp. Ngoài ra
sự đổi mới về cấu trúc nội dung tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức
mới giúp học sinh hoạt động linh hoạt tích cực, sáng tạo theo năng lực của mỗi
em.
Thời lượng tối thiểu để dạy học Toán 2 là 5 tiết mỗi tuần, thời gian một
tiết là 40 phút. Một năm học 175 tiết. Nội dung chính bao gồm các mạch kiến
thức sau:
2.1/ Số học:
a- Phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100:
- Giới thiệu tên gọi, thành phần và kết quả của phép cộng (số hạng, tổng)
và phép trừ (số bị trừ, số trừ, hiệu).
- Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 20.
- Phép cộng và phép trừ không nhớ và có nhớ một lần trong phạm vi 100.
- Tính nhẩm và tính viết.
- Tính giá trị của biểu thức có đến hai dấu phép cộng, trừ.
- Giải bài tập dạng:
Tìm x biết:
3/26


a + x = b; a – x = b; x – a = b; ( với a, b là số có đến hai chữ số ) bằng sử
dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết quả của phép tính.

b- Các số đến một 1000, phép cộng và phép trừ trong phạm vi 1000:
- Đọc, viết, so sánh các số có đến ba chữ số, giới thiệu hàng đơn vị, hàng
chục, hàng trăm.
- Phép cộng có đến 3 chữ số tổng không quá 1000 không nhớ, tính nhẩm,
tính viết.
- Phép trừ các số có đến 3 chữ số không nhớ.
- Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng và trừ.
c- Phép nhân và phép chia:
- Giới thiệu ban đầu về tổng số hạng bằng nhau, giới thiệu thừa số, tích.
- Giới thiệu ban đầu về phép chia, lập phép chia từ phép nhân có một thừa
số chưa biết khi biết tích và thừa số kia. Giới thiệu số bị chia, số chia và thương.
- Lập bảng nhân với 2,3,4,5 có tích trong khoảng 50.
- Lập bảng chia với 2,3,4,5 có số bị chia không quá 50.
- Nhân với 1 và chia cho 1.
- Nhân với 0; số bị chia là 0. Không thể chia cho 0.
- Nhân, chia nhẩm trong phạm vi bảng tính.
- Nhân số có đến 2 chữ số với số có một chữ số không nhớ, chia số có đến
2 chữ số cho số có 1 chữ số, các bước chia trong phạm vi bảng tính.
- Tính giá trị số của biểu thức số có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ hoặc
nhân, chia.
- Giải bài tập dạng:
Tìm x . Biết : a x x = b; x : a = b. (với a là một chữ số khác 0; b là số có 2
chữ số).
-Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị dạng ( n là số tự nhiên khác 0,
không vượt quá 5).
2.2/ Đại lượng và đo đại lượng:
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài Đề-xi-mét, mét và ki-lô-mét, mi-li-mét. Đọc
viết các số đo độ dài.
- Tập chuyển đổi đơn vị đo độ dài, thực hiện phép tính với số đo độ dài
(các trường hợp đơn giản), tập đo và ước lượng độ dài.

- Giới thiệu về lít, đọc, viết và làm tính với các số đo theo đơn vị lít. Tập
đong đo ước lượng theo lít.
- Giới thiệu đơn vị đo khối lượng ki-lô-gam. Đọc, viết và làm tính với các
số đo đơn vị ki-lô-gam. Tập cân và ước lượng ki-lô-gam.
- Giới thiệu đơn vị đo thời gian: giờ, tháng. Thực hành đọc lịch ( loại lịch
hàng ngày). đọc đúng tên đồng hồ ( khi kim phút chỉ vào số 12 ) và đọc giờ chỉ
vào số 3, số 6... thực hiện phép tính với số đo đơn vị giờ tháng.
- Giới thiệu tiền Việt Nam (trong phạm vi các số đã học). Tập đổi tiền
trong trường hợp đơn giản.
- Đọc, viết và làm tính với số đo đơn vị đồng.
2.3/ Yếu tố hình học:
- Giới thiệu về đường thẳng, ba điểm thẳng hàng.
- Giới thiệu về đường gấp khúc, độ dài đường gấp khúc.
- Giới thiệu hình tứ giác, hình chữ nhật, vẽ hình trên giấy ô vuông.
4/26


- Giới thiệu khái niệm ban đầu về chu vi một hình đơn giản, tính chu vi của
hình tam giác, hình tứ giác đơn giản.
2.4/ Giải toán:
Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ ( trong đó có bài toán về
nhiều hơn và ít hơn một số đơn vị) phép nhân và phép chia.
3. Chuẩn kiến thức kĩ năng dạy học đạt được trong môn toán:
- Sau khi học xong chương trình Toán 2 học sinh phải đạt được mục tiêu
của chương trình SGK đề ra theo chuẩn kiến thức. Ngoài ra các em còn hoàn
thành một số bài tập có tính chất cơ bản, khắc sâu kiến thức đã học một cách lô
gic. Biết vận dụng tính chất đã học vào giải các bài tập tương tự với nội dung đã
học.
- Biết giải một số bài tập phát triển tư duy với nhiều cách giải khác nhau,
với nhiều dạng toán khác nhau. Từ đó tìm được cách giải hay và ngắn gọn nhất

trong bài toán.
- Yêu cầu khi thiết kế bài tập này phải đúng phạm vi chuẩn kiến thức chương
trình Toán 2, xuất phát từ bài tập SGK để khai thác. Các kĩ năng được khắc sâu
và nâng cao hoặc được gợi mở dẫn dắt rõ ràng, các bài toán mang tính khả thi,
phù hợp với từng đối tượng học sinh, kích thích sự phát triển tư duy.
- Vì vậy chuẩn kiến thức đạt được phải hoàn thành chương trình toán lớp 2,
trên cơ sở đó các em chuẩn bị tốt là nền tảng vững chắc cho các em học lên các
lớp sau.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua việc điều tra và nghiên cứu tình hình thực tế ở địa phương. Tôi thấy
thực trạng dạy và học của giáo viên và học sinh ở địa phương như sau:
1/ Thực trạng dạy của giáo viên:
1.1- Ưu điểm:
Hiện nay trong nhà trường tiểu học ngoài các bài tập trong chương trình
SGK Toán 2, giáo viên đã chú ý đến ra thêm một số bài tập để bồi dưỡng học
sinh giỏi, phụ đạo thêm học sinh yếu kém nhưng một số bài tập chưa có hệ
thống, chưa phù hợp với nội dung trong SGK, chưa khắc sâu năng lực tư duy
cho học sinh. Một số bài tập có tính chất ép buộc, chưa phù hợp với trình độ, đối
tượng học sinh của từng địa phương.
1.2- Nhược điểm:
Thông thường các bài tập được lấy ra ở các sách tham khảo chưa chú ý đến
các bài tập bổ sung thay thế cùng dạng bài tập trong SGK. Các bài tập chưa có
hệ thống, lôgíc chưa chặt chẽ, chưa khắc sâu kiến thức. Một số giáo viên còn
chưa quan tâm đến mọi đối tượng học sinh chỉ quan tâm đến chất lượng đại trà,
chưa quan tâm phát hiện tài năng ngay trong lớp của mình để bồi dưỡng năng
lực cho các em.
2/ Thực trạng của học sinh:
Qua thực tế điều tra cho thấy đa số các học sinh đã làm được các bài tập
trong SGK nhưng chưa hiểu sâu sắc nội dung của bài, bản chất của bài toán dẫn
đến kết quả của bài chưa cao. Do các em còn nhỏ nên còn chểnh mảng trong quá

trình học tập, chưa tập trung chú ý nghe giảng nếu không có sự đổi mới phương
pháp cũng như thiết kế hệ thống các bài tập mới dẫn đến sự nhàm chán trong
học tập. Vì thế phải có hệ thống bài tập được thiết kế phù hợp với trình độ của
5/26


học sinh khi làm các bài tập nâng cao còn khó khăn trong việc nhận dạng toán
đã học.
Học sinh lúng túng khi gặp các bài tập về nhiều hơn nhưng lại sử dụng từ ít
hơn chẳng hạn:
Ví dụ: 1
Bài toán: Minh vẽ được 12 ngôi sao. Minh vẽ ít hơn Bình 6 ngôi sao. Hỏi
Bình vẽ được bao nhiêu ngôi sao?
Hoặc bài toán về “ít hơn” nhưng lại sử dụng từ “nhiều hơn”.
Ví dụ: 2
Bài toán: Em câu được 13 con cá. Em câu nhiều hơn anh 4 con cá. Hỏi anh
câu được bao nhiêu con cá?
Qua điều tra thực trạng kết quả khảo sát chất lượng học sinh như sau:

Lớp


BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Điểm 9 – 10 Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Sĩ số
SL
%
SL
%

SL
%
27
6
22,2
8
29,6
9
33,4

Điểm dưới 5
SL
%
4
14,8

Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên . Điều này làm tôi trăn trở và tôi
quyết định đi tìm hiểu nguyên nhân.
3. Nguyên nhân:
3.1- Khách quan:
- Như chúng ta đã biết chương trình SGK Toán 2 là chương trình của học
sinh cả nước có tính chất đại trà cho mọi đối tượng học sinh. Hệ thống bài tập
trong SGK có tính chất mở, nội dung về kiến thức trọng tâm, nên ngoài mức độ
chuẩn ra học sinh phát huy năng lực tư duy cho bản thân học sinh.
- Thực tế ở địa phương là vùng nông thôn đời sống gia đình các em còn
khó khăn phụ huynh còn chưa thực sự quan tâm tới các em về vật chất cũng như
tinh thần. Tất cả giao hết cho giáo viên và học sinh tự hoàn thành bài tập trong
SGK cũng như bài tập phát triển năng lực cho các em.
3.2- Chủ quan:
- Giáo viên còn nặng về chương trình SGK và SGV do Bộ giáo dục và đào

tạo phát hành, chưa thoát ly khỏi tầm nhìn xu thế của thời đại, chưa có sự đổi
mới phương pháp trong quá trình giảng dạy cũng như trình độ nhận thức của học
sinh.
- Học sinh đa số các em đã có ý thức học tập song bên cạnh còn một số em
chưa chủ động, sáng tạo trong học tập, mải chơi chỉ cần hoàn thành các bài tập
trong SGK là đủ. Chưa tích cực, chủ động, sáng tạo trong rèn luyện tư duy cũng
như năng lực vốn có của bản thân.
- Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu tôi đã điều tra thực trạng, thực tế
ở trường tôi trong quá trình nghiên cứu.

6/26


C. CÁC BIỆN PHÁP KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN CÁC BÀI TẬP
TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỂ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CHO HỌC
SINH LỚP 2
I. KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC
NGHIỆM.
Để hoà nhập với trình độ tiên tiến trên thế giới, nắm được thành tựu khoa
học của nhân loại, hoà nhập với cơ chế hội nhập quốc tế. Vì vậy đối với chương
trình SGK chưa phù hợp phát triển tư duy của các em. Do đó khai thác và phát
triển hệ thống bài tập trắc nghiệm là một vấn đề cấp bách, thiết thực cho môn
Toán nói riêng cũng như các môn học khác nói chung.
1. Hệ thống bài tập trắc nghiệm:
1.1- Các dạng bài tập: gồm 4 dạng bài tập sau:
- Dạng 1: Trắc nghiệm đúng-sai.
- Dạng 2: Trắc nghiệm lựa chọn nhiều phương án.
- Dạng 3: Trắc nghiệm ghép đôi (nối theo mẫu).
- Dạng 4: Trắc nghiệm điền khuyết.
1.2- Yêu cầu của hệ thống bài:

- Hệ thống bài tập đảm bảo nội dung chương trình.
- Đảm bảo tính thực tiễn.
- Đảm bảo tính lôgíc.
- Đảm bảo tính giáo dục, sư phạm.
- Đảm bảo tính đúng địa chỉ (đúng trình độ, đúng mạch kiến thức, đúng
phương pháp, giải đúng mạch kiến thức, đúng dạng toán).
2. Thiết kế dạng bài tập đúng-sai:
Đây là dạng bài tập gồm câu hỏi chỉ có 2 phương án trả lời để lựa chọn là:
Đúng hoặc Sai lệnh thường dùng là: “Đúng ghi Đ, sai ghi S” vào ô trống hoặc
dấu x thích hợp vào bảng ô trả lời đúng. Thông qua bài tập này học sinh nắm
được tính chất và nội dung cơ bản của bài học, học sinh điền sai ta thấy được lỗi
sai mắc phải, từ đó đề ra cách giải đúng, thấy được suy nghĩ sai thường gặp để
tìm cách khắc phục và sửa chữa.
Để củng cố cách tìm số bị trừ khi biết hiệu và số trừ; tìm số trừ khi biết
hiệu và số bị trừ nắm được mối quan hệ giữa chúng với nhau. Tôi đã phát triển
bài tập trong SGK thành những bài tập sau:
Ví dụ 1: Bài tập 3 trang 74 - SGK Toán 2.
Đúng ghi Đ; sai ghi S vào ô trống sau:
a/ 32 - x = 18
b/ 20 - x = 2
c/ x -17 = 25
x = 50
x = 18
x
= 42
x = 14
x = 22
x
= 18
Qua ví dụ trên học sinh điền Đ vào các bài tập qua đó thấy học sinh đã

hiểu được cách tìm số bị trừ và số trừ. Nếu những em nào điền sai ta thấy rằng
em đó còn nhầm cách tìm số chưa biết. Từ kết quả bài giải của học sinh các em
sẽ tìm cách giải khác cho phù hợp. Qua đó một lần nữa củng cố kiến thức tìm số
chưa biết cho học sinh.
- Số bị trừ = Hiệu + số trừ
- Số trừ = Số bị trừ - Hiệu
7/26


Thông qua bài tập trắc nghiệm học sinh nắm được kiến thức một cách có
hệ thống, lô gíc, lôi cuốn học sinh hơn trong học tập.
Ví dụ 2: Bài 3 trang 75 - SGK - Toán 2.
- Điền dấu x vào ô trống trước ý trả lời đúng:
42 - 12 -8 =
36 + 14 - 28 =
30
50
22
22
58 - 24 - 6 =
72 - 36 + 24 =
34
36
28
60
Qua bài tập trên các em sẽ điền đúng dấu x vào ô trống đúng và từ đó các
em hiểu được củng cố quy tắc thực hiện phép tính; khi thực hiện dãy tính có
phép cộng và phép trừ ta thực hiện từ trái sang phải.
Ví dụ 3: Bài 3 Trang 102 - SGK - Toán 2.
- Điền dấu x vào trước ô trống trả lời đúng sau:

Mỗi ngày Mai học 5 giờ, mỗi tuần lễ Mai học 5 ngày. Hỏi mỗi tuần lễ Mai
học bao nhiêu giờ ?.
10 giờ
25 giờ
25
- Nếu học sinh hiểu bài nắm được nội dung của bài tập thì điền đúng vào ô trống
thứ 2. Còn nếu điền vào ô trống thứ 3 nghĩa là học sinh chưa hiểu về giải toán có
lời văn là phải dùng danh số kèm theo, từ đó giáo viên nhấn mạnh là phải có
danh số đi cùng. Còn nếu học sinh đánh vào ô trống thứ 1 thì học sinh đã nhận
sai dạng toán. Từ đó có hướng giải đúng cho mỗi bài toán ở dạng đó.
- Đối với các bài tập trắc nghiệm các em vẫn thích học hơn vì chỉ cần hiểu
được nguyên tắc, nguyên lí cơ bản của phép tính là học sinh điền một cách
nhanh và chính xác kết quả của một bài toán. Vì vậy đây cũng là quá trình đổi
mới trong quá trình giảng dạy, giáo viên là người hướng dẫn, học sinh là nhân
vật trung tâm trong quá trình giảng dạy.
2.1. Thiết kế dạng bài tập lựa chọn nhiều phương án:
Đây là dạng bài tập đưa ra nhiều phương án để lựa chọn. Mỗi câu hỏi
thông thường có 4 lựa chọn. Trong đó chỉ có 1 phương án đúng, các phương án
còn lại là phương án gây nhiễu. ( Các phương án này thường dựa trên những sai
lầm của học sinh để xây dựng bài ). Yêu cầu câu hỏi phải chính xác không được
gần đúng hoặc suy ra gần đúng.
Ví dụ 1: Bài 4 Trang 38 - SGK toán 2.
Khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
Hång cân nặng 28 kg. Hoa cân nặng hơn Hång 3 kg. Hỏi Hoa cân nặng
bao nhiêu ki-lô-gam?
A: 31 kg
C: 25 kg
B: 31
D: 25 kg
Để hoàn thành các bài tập trên học sinh phải xác định được tập toán thuộc

dạng nào và trình bày được bài giải có danh số kèm theo. Bài toán thuộc dạng “
nhiều hơn” và phép tính: ( 28 + 3 = 31 kg ).
8/26


Từ đó củng cố cách giải của bài toán trên khoanh vào chữ cái A.Còn lại cách
khác là xác định nhầm dạng bài toán thì nhất thiết giáo viên tìm ra hướng giải
đúng. Qua đó củng cố cho học sinh cách giải bài toán một cách thành thạo.
Trong giải toán nên thiết kế hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan củng
cố sâu sắc hệ thống kiến thức, các em làm toán nhanh, có cách giải độc đáo phù
hợp với học sinh.
Ví dụ 2: Trang 115 SGK Toán 2.
Khoanh vào chữ cái trước câu trảt lời đúng:
Có 27 l dầu chia đều vào 3 can. Hỏi mỗi can rót được mấy lít ?.
A. 25 l
C. 9 l
B. 30 l
D. 9
Học sinh phải hiểu được tính chất cơ bản của phép tính bài toán là có 27 l
dầu chia đều trong 3 can. Vì vậy ta phải làm phép tính chia. (27 : 3 = 9 l). Vì
vậy khi làm bài toán bắt buộc học sinh làm đúng phép tính và viết đúng đơn vị
đo. Qua đó củng cố học sinh giải toán tốt hơn thông qua hàng loạt bài tập trắc
nghiệm. Từ đó thấy được những lỗi sai học sinh hay mắc phải để tìm cách khắc
phục và giải quyết những hạn chế trong giải toán ở học sinh. Từ đó tôi áp dụng
cho bài tập dạng điền vào ô trống sau:
Ví dụ 3: Bài 3 Trang 40- SGK Toán 2.
Khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
- Có bao nhiêu hình tứ giác ?
A. Có 4 hình tứ giác.
B. Có 5 hình tứ giác

C. Có 6 hình tứ giác.
D. Có 9 hình tứ giác.
Bài toán trên yêu cầu học sinh quan sát hình vẽ và tự phát hiện ra một số
tứ giác, để làm được điều đó đòi hỏi HS phải quan sát một cách thông minh. Vì
vậy sẽ rất khó với đối tượng học sinh trung bình, để tất cả các đối tượng học
sinh cả lớp đều làm được bài toán, tôi hướng dẫn cách khai thác theo mức độ từ
dễ đến khó. Chẳng hạn:
- Hãy đếm xem có bao nhiêu hình tứ giác nhỏ ?. ( 4 hình ).
Hãy đếm xem có bao nhiêu hình tứ giác lớn mà mỗi hình gồm hai
hình tứ giác nhỏ ? ( 4 hình ).
Hãy đếm xem có bao nhiêu hình tứ giác mà mỗi hình gồm 4 hình tứ giác
nhỏ ? ( 1 hình ).
Có tất cả bao nhiêu hình tứ giác ? ( 9 hình ).
Với cách khai thác trên HS bước đầu củng cố kiến thức sau đó được nâng
lên ở mức độ cao hơn.
Ví dụ: Bài 3 Trang 40 – SGK – Toán 2.
Khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng ô cuối cùng.
58

+ 12

+ 30

+ 15

- 20

a,
35


9/26


b,
A: 70
A: 50
B: 88
B: 15
C: 100
C: 30
Thông qua bài tập này học sinh biết điền vào ô trống. Muốn điền vào ô
trống cuối cùng ta phải điền vào ô trống thứ hai sau đó tìm kết quả của ô trống
thứ ba hay cũng là thứ tự thực hiện phép tính một cách khác đi. Nếu các em
khoanh sai thì học sinh đó không hiểu thứ tự thực hiện phép tính, từ đó khắc
phục lỗi sai cho học sinh.
2.2. Dạng bài tập trắc nghiệm ghép đôi:
Loại bài tập ghép đôi rất thông dụng nối dòng ( mỗi ô ) ở cột bên trái với
một dòng ( một ô ) ở cột bên phải được ý hoàn chỉnh hoặc nối mỗi dòng ở cột
bên trái với mỗi dòng ở cột bên phải để được kết quả đúng. Thông thường mỗi
dãy có nhiều phương án để tăng sự cân nhắc và lựa chọn của học sinh. Có thể
dùng hình vẽ để tăng sự thích thú của học sinh cũng như thay đổi câu hỏi để lôi
cuốn học sinh trong quá trình học của học sinh. Trong quá trình giảng dạy luôn
có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy, giáo viên là người tổ chức các hoạt
động, học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, các em tự chiếm lĩnh
kiến thức thì nắm chắc kiến thức sâu hơn, rèn tư duy cho các em nhhiều hơn.
Ví dụ 1: Bài tập 2 Trang 169 – SGK – Toán 2.
a/ Viết các số sau:
842, 965, 477, 618, 593, 401. Theo mẫu: 842 = 800 + 40 + 2.
b/ Viết theo mẫu:
300 + 60 + 9 = 369.

800 + 90 + 5 =
200 + 20 + 2 =
700 + 60 + 8 =
700 + 60 + 9 =
600 + 50
=
800 + 8
=
Qua đề tài trên tôi thiết kế dưới dạng trắc nghiệm ghép đôi như sau:
* Nối số với mỗi tổng tương ứng như sau:
300 + 60 + 9
769
800 + 90 + 5
650
200 + 20 + 2
768
700 + 60 + 8
808
700 + 60 + 9
222
600 + 50
895
800 + 8
369
Sau khi nối xong cho học sinh nhận xét, tại sao lại nối tổng :
300 + 60 + 9 với 369. Học sinh nhận biết được có 3 trăm, 5 chục, 9 đơn vị thì
viết được số 369. Cũng tương tự các phần còn lại học sinh làm nhanh và thành
thạo các phần hơn.
Để củng cố hệ thống dạng bài tập này tôi phát triển thành các bài tập sau:
Ví dụ 2: Bài tập 1 Trang 155 – SGK – Toán 2.

10/26


Viết theo mẫu:
389
3 trăm 8 chục 9 đơn vị
389 = 300 + 80 + 9
237
164
352
658
Từ các bài tập trên tôi thiết kế thành các bài tập sau để củng cố, khắc sâu
cho các em về cấu tạo số một cách có hệ thống và lôgic:
Nối với tổng tương ứng sau:
6 trăm 5 chục 8 đơn vị
389
200 + 30 + 7
3 trăm 5 chục 2 đơn vị
237
100 + 60 + 4
1 trăm 6 chục 4 đơn vị
352
600 + 50 + 8
2 trăm 3 chục 7 đơn vị
164
300 + 80 + 9
3 trăm 8 chục 9 đơn vị
658
300 + 50 + 2
Như vậy thông qua bài tập trắc nghiệm ghép đôi, học sinh thực hành

nhanh các bài tập trên một cách chính xác có hệ thống và nắm được cấu tạo
một cách tổng quát.
= + + c
Cũng thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm ghép đôi, tôi củng cố cho
HS kiến thức cơ bản của các tiết trước về lý thuyết một cách lôgic, có hệ thống
qua học tập vui chơi cho các em nối nhanh để tìm kết quả:
Em hãy nối vào cột tương ứng để được kết quả đúng:
Số bị trừ

Tổng - số hạng

Số hạng

Số bị trừ - hiệu

Số trừ

Hiệu + số trừ

- Nếu học sinh nối đúng là học sinh đã biết tìm số chưa biết.
- Nếu học sinh nối sai là học sinh chưa hiểu cách tìm số chưa biết, từ đó
giáo viên củng cố cách tìm số chưa biết.
Sau đó học sinh áp dụng vào làm các bài tập sau:
Ví dụ 3: Bài 3 Trang 84 - SGK - Toán 2.
a/ x + 16 = 20
b/ x - 18 = 14
c/ 35 - x = 15
Tôi phát triển thành các bài tập trắc nghiệm ghép đôi sau:
- Nối mỗi phép tính với kết quả đúng sau:
x + 16 = 20

x = 32
x - 18 = 14
x = 20
35 - x = 15
x = 4
- Vì vậy học sinh nắm chắc được lý thuyết, học sinh sẽ nối ngay được kết
quả đúng cho mỗi phép tính.
- Nếu nối sai thì học sinh sẽ chưa nắm được lý thuyết, do đó giáo viên khắc
sâu kiến thức một lần nữa về số chưa biết.
Qua bài tập trên ta nhận thấy:
11/26


- Nếu học sinh nối đúng là học sinh tìm được số bị trừ và số trừ.
- Nếu học sinh nối sai thì các em đã xác định kiến thức chưa chính xác, vì
vậy giáo viên nêu lại cách tìm.
Để nhận biết hình khi dạy bài: “ Hình chữ nhật - Hình tứ giác”, tôi khai
thác phát triển kiến thức mới bằng cách cho các em nhận biết hình qua bài tập
trắc nghiệm ghép đôi sau:
Nối hình với đặc điểm đúng sau:
Hình tam giác

.

Hình tứ giác.
Hình vuông.
Hình chữ
nhật.
Qua bài tập này học sinh củng cố khái niệm về tam giác, tứ giác, hình
vuông, hình chữ nhật. Đây cũng là nội dung chính về kiến thức hình học của

môn Toán lớp 2.
Vì vậy loại Toán trắc nghiệm ghép đôi này học sinh dễ dàng so sánh kiến
thức cũ với kiến thức mới, tổng hợp kiến thức một cách có hệ thống về lý thuyết
cũng như thực hành.
Do đó trắc nghiệm ghép đôi rất cần thiết cho việc dạy và học Toán ở lớp 2.
2.3. Dạng trắc nghiệm điền khuyết:
Đây là dạng bài tập đưa ra một mệnh đề chưa hoàn thiện và yêu cầu học
sinh hoàn thành tiếp mệnh đề đó bằng các từ, cụm từ hoặc con số ( cho trước
hoặc không cho trước ). Trắc nghiệm điền khuyết thường dùng câu lệnh: “ Điền
vào chỗ trống”, hoặc “ Viết tiếp vào chỗ chấm”. Yêu cầu lời chỉ dẫn phải rõ
ràng, chỗ trống phải là cụm từ quan trọng. Thông qua trắc nghiệm điền khuyết
rèn luyện trí nhớ, sự hiểu biết cho học sinh.
Ví dụ 1: Bài 2, Trang 88 SGK - Toán 2.
Tính:
28 + 19
73 - 35
53 + 47
90 - 42
- Qua bài tập trên tôi phát triển thành các bài tập điền khuyết sau:
Điền vào chỗ chấm số thích hợp:
28 + 19 = ...
73 - 35 = ...
... + 28 = 57
73 - ... = 38
19 + ... = 57
73 - ... = 35
57 - ... = 19
38 + ... = 73
57 - ... = 28
... + 35 = 73

Tương tự 2 phép tính sau học sinh có thể tự tạo ra các phép tính mới và thực
hiện phép tính đó. Qua các bài tập này học sinh hiểu được phép trừ là phép tính
ngược của phép cộng và ngược lại, một lần nữa các em hiểu tính chất giao hoán
của phép cộng: “Khi đổi chỗ các số hạng thì tổng không thay đổi”.
12/26


Thông qua bài tập này học sinh còng cố các tính chất cơ bản của phép cộng
và phép trừ, các em phát hiện kiến thức một cách nhanh chóng, chính xác không
áp đặt. Vì chỉ cần qua kết quả đúng học sinh rút ra nhận xét: “ Khi đổi chỗ các
số hạng thì tổng không thay đổi”. Dạng bài tập này còn được áp dụng rộng rãi
cho một số bài tập với phép nhân và phép chia.
Ví dụ 2: Bài 1 trang 115 - SGK - Toán 2.
Tính nhẩm: 6 : 3 =
12 : 3 =
9 : 3 =
27 : 3 =
15 : 3 =
24 : 3 =
30 : 3 =
18 : 3 =
Từ các phép tính trên tôi phát triển thành các bài tập trắc nghiệm điền
khuyết sau:
Điền số thích hợp vào dấu chấm:
6 : 3 = ...
12 : 3 = ...
... : 3 = 2
... : 4 = 3
... x 2 = 6
3 x ... = 12

3 x ... = 6
... x 4 = 12
Sau khi học sinh điền xong 2 ví dụ, học sinh nắm được tính chất giao hoán
của phép nhân: “ Khi đổi chỗ các thừa số cho nhau thì tích không thay đổi”,
song chưa phát biểu thành quy tắc và củng cố cho các em biết phép chia là phép
tính ngược của phép nhân và ngược lại. Thông qua ví dụ trên học sinh có thể
thành lập các phép tính còn lại và hoàn thành các bài tập đó. Qua bài tập củng cố
cho học sinh cách tìm số chưa biết”. Vì vậy thông qua bài tập trắc nghiệm điền
khuyết cho học sinh nắm được kiến thức một cách có hệ thống.
II.KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG BÀI TẬP TỰ LUẬN
Qua các dạng toán, các bài tập trong chương trình SGK Toán 2, tôi xin
đưa ra một số sáng kiến kinh nghiệm của mình về: “ Khai thác và phát
triển hệ thống bài tập tự luận”.
Như chúng ta đã biết hệ thống bài tập trong SGK Toán ở Tiểu học nói
chung và SGK Toán 2 nói riêng mang tính phổ cập đối với học sinh đại trà với
mọi đối tượng học sinh. Các bài tập có nội dung cơ bản mang tính chất mở, dẫn
dắt học sinh tới kiến thức trọng tâm. Vì vậy trong quá trình giảng dạy người giáo
viên phải luôn có sự đổi mới phương pháp, một trong sự đổi mới đó là thiết kế
hệ thống bài tập rèn tư duy cho học sinh trong SGK Toán 2 thì kết quả học tập
của học sinh mới được nâng cao, sự nhận thức của các em mới được khắc sâu
thành hệ thống. Từ đó phát triển năng lực tư duy thu hút, lôi cuốn các em yêu
thích học môn toán hơn.
1. Các cách khai thác đề toán:
- Từ các bài tập đã giải ra các bài tập mới.
- Đặt đề toán ngược với đề đã giải.
- Tìm nhiều cách cho một đề toán.
- Từ các bài tập đã cho phát hiện ra tính chất quan trọng của phép tính.
2. Tiêu chuẩn đối với các dạng bài tập:
- Đảm bảo tính khoa học.
- Đảm bảo tính thực tiễn.

- Đảm bảo tính lôgic.
13/26


- Đảm bảo tính giáo dục sư phạm.
- Đảm bảo tính đúng địa chỉ.
3. Từ các bài tập đã cho ra các bài tập mới:
Để củng cố và khắc sâu nội dung bài học, học sinh nắm kiến thức chắc có
hệ thống, lôgic, bài này là tiền đề cơ sở vững chắc cho bài sau. Sau khi học sinh
thực hiện xong yêu cầu của bài toán, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết kế một
bài toán mới tương tự bài toán vừa giải cùng loại, nắm chắc bản chất bài toán
trong mỗi loại toán, mối quan hệ giữa các bài toán với nhau. Từ đó hiểu sâu sắc
về mỗi bài toán.
Ví dụ 1: Bài 1 Trang 24 SGK - Toán 2.
Lam có 5 bông hoa, Linh nhiều hơn Lam 2 bông hoa. Hỏi Linh có mấy
bông hoa?
Bài toán trên là một trong những bài toán về nhiều hơn, vì thế xuất hiện từ
“ nhiều hơn” cho nên học sinh làm phép cộng để tìm đáp số, để học sinh “ động
não” không đi theo thói quen làm bài toán mà phải hiểu sâu hơn nội dung của
bài toán từ đó có thể phát triển thành bài toán sau:
“ Lam có 5 bông hoa, Lam ít hơn Linh 2 bông hoa. Hỏi Linh có bao nhiêu
bông hoa?
Bài toán này không tồn tại từ “ nhiều hơn” nhưng vẫn phải thực hiện phép
cộng để giải. Học sinh phải tư duy sâu sắc hơn với bài toán này, từ đó tìm tòi
cách giải, cho nên các em phải hiểu sâu hơn nghĩa của từ ít hơn trong bài toán
này.
Như vậy qua ví dụ trên giáo viên phải hướng dẫn học sinh so sánh và rút ra
nhận xét. Trong ví dụ 1 bài toán đầu ta dùng từ “nhiều hơn” còn ở bài toán sau ta
dùng từ “ ít hơn” nhưng lời giải đều như nhau. Từ đó nhắc nhở học sinh tránh
quan niệm cứ “ nhiều hơn” là làm phép cộng và “ít hơn” là làm phép trừ.

Cũng qua nhận xét tôi rút ra được ra bài toán có nội dung tương tự để học
sinh củng cố sâu hơn về dạng toán nhiều hơn đã học.
Ví dụ 2: Bài 4 Trang 37 - SGK - Toán 2.
Giải bài toán theo tóm tắt sau:
56 cây
Đội 1:
5cây
Đội 2:
? cây
Trên đây là tóm tắt của bài toán yêu cầu học sinh tự giải bài toán theo tóm
tắt. Để học sinh giải nhanh và hiểu sâu sắc bài toán, yêu cầu học sinh tự đặt đề
toán theo 2 cách đã học.
Bài toán 1:
Đội 1 trồng được 56 cây. Đội 2 trồng nhiều hơn đội 1 là 5 cây. Hỏi đội 2
trồng được bao nhiêu cây ?
Bài toán 2:
Đội 1 trồng được 56 cây. Đội 1 trồng ít hơn đội 2 là 5 cây. Hỏi đội 2 trồng
được bao nhiêu cây ?
Cùng một tóm tắt mà học sinh đã tự đặt được hai đề toán với một phép tính
và một đáp số ( 56 + 5 = 61 cây ). Từ đó học sinh hiểu sâu sắc hơn về dạng toán
14/26


“ nhiều hơn” và giải bài toán một cách thành thạo, chính xác hơn.
Ví dụ 3: Bài 1 trang 30 SGK Toán 2.
Vườn nhà Loan có 17 cây cam. Vườn nhà Nam ít hơn vườn nhà Loan 7
cây. Hỏi vườn nhà Nam có mấy cây ?
Về loại toán “ít hơn” trong SGK chỉ yêu cầu tóm tắt và giải bài toán trên.
Đây là yêu cầu của mục tiêu tiết học, xong tôi thiết nghĩ đây là bài toán dạng “ít
hơn” dạng đơn giản nên khi gặp bài toán dạng này học sinh có thói quen làm

phép tính ( 17 – 7 = 10 cây ). Để tìm được số cam vườn nhà Nam nhiều học sinh
không cần suy nghĩ cứ thấy “ ít hơn” là làm phép tính trừ. Đây cũng là điều mà
đa số học sinh hay mắc phải, vì vậy khi dạy dạng toán này giáo viên có thể thiết
kế ra bài toán khác sử dụng từ “ nhiều hơn” mà nội dung bài toán vẫn đảm bảo
như trên.
“ Vườn nhà Loan có 17 cây cam. Vườn nhà Loan có nhiều hơn vườn nhà
Nam 7 cây. Hỏi vườn nhà Nam có mấy cây cam ?”.
Với bài toán này giúp học sinh thấy rằng không phải bất kỳ bài toán nào có
từ “ nhiều hơn” là làm phép tính cộng và “ít hơn” giải bằng phép trừ. Muốn giải
đúng, chính xác bài toán thì phải đọc kĩ đề bài để biết được “ cái đã cho” và “
cái phải tìm”. Để học sinh chú ý vào bản chất của đề toán. Nhờ đó các em hiểu
sâu sắc bài toán, đầu óc sáng suốt hơn, tinh tế hơn, tư duy các em linh hoạt hơn.
Thông qua 3 ví dụ trên các em củng cố khắc sâu về loại toán “ít hơn” học
sinh có thể tự đặt đề toán theo tóm tắt.
Ví dụ 4: Bài 3 Trang 43 Toán 2.
Giải bài toán theo tóm tắt:
18 l
Thùng 1:
2l
Thùng 2:
?l
Để khắc sâu kiến thức học sinh phải hiểu sâu sắc dạng toán. Nhìn vào tóm
tắt ta nhận thấy rằng:
“ Thùng 1 nhiều hơn thùng 2” hoặc ngược lại “ Thùng 2 ít hơn thùng 1”.
Từ đó có thể tự đặt đề toán ta sẽ được hai đề toán sau:
Bài toán 1:
“ Thùng thứ nhất có 18 l dầu, thùng thứ hai có ít hơn thùng thứ nhất 2 l
dầu. Hỏi thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu ?”.
Bài toán 2:
“ Thùng thứ nhất có 18 l dầu, thùng thứ nhất có nhiều hơn thùng thứ hai

2 l dầu. Hỏi thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu ?”.
Từ một tóm tắt các em sẽ đặt được hai đề toán khác nhau nhưng có chung
một cách giải là phép tính ( 16 – 2 = 14 l ). Vì vậy các em hiểu sâu hơn, tư duy
lôgic hơn trong loại toán này.
Qua 4 ví dụ trên tôi thiết kế ra hàng loạt hệ thống các bài tập có nội dung
tương tự trên.
Bài toán 1:
Năm nay anh 16 tuổi. Anh nhiều hơn em 3 tuổi. Hỏi năm nay em bao nhiêu
tuổi ?.
15/26


Bài toán 2:
Hoa gấp được 17 bông hoa. Hoa gấp ít hơn Hùng 5 bông. Hỏi Hùng gấp
được bao nhiêu bông hoa ?.
Bài toán 3:
Quân câu được 16 con cá. Quân câu được nhiều hơn Hùng 5 con. Hỏi
Hùng câu được mấy con cá ?.
Qua hàng loạt ví dụ trên học sinh hiểu sâu sắc bài toán “ nhiều hơn” và “ít
hơn”. Từ đó các em phát hiện nhanh cách giải một cách chính xác, sau xác định
được đề toán. Qua đó các em phát triển năng lực tư duy.
Ví dụ 5: Bài 4 trang 46 SGK – Toán 2.
Vừa cam vừa quýt có 65 quả, trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu
quả quýt ?.
Đối với bài toán trên học sinh tự đặt đề toán, tự tóm tắt và giải bài toán
gồm câu trả lời, phép tính và đáp số . Sau khi làm xong yêu cầu của đề bài, giáo
viên hướng dẫn học sinh thiết kế thành các bài toán có nội dung tương tự sau:
Bài toán 1:
Vừa cam vừa quýt có 45 quả, trong đó có 20 quả quýt. Hỏi có bao nhiêu
quả cam ?.

Bài toán 2: Có 25 quả cam và 20 quả quýt. Hỏi vừa cam vừa quýt có bao
nhiêu quả?
Bài toán 3:
Có 25 quả cam, số quýt ít hơn cam 5 quả. Hỏi có bao nhiêu quả quýt ?.
Bài toán 4:
Có 20 quả quýt, trong đó số cam nhiều hơn quýt 5 quả. Hỏi có bao nhiêu
quả cam ?.
Như vậy từ một bài toán trong SGK ta có thể thiết kế thành nhiều bài toán
khác. Những bài toán này đều nằm trong phạm vi chương trình toán 2.
Bài toán 1: Tìm số hạng trong một tổng.
Bài toán 2: Dạng toán tìm tổng hai số.
Bài toán 3: Dạng toán nhiều hơn.
Bài toán 4: Dạng toán về ít hơn.
4./ Tìm nhiều cách giải cho một đề toán:
Sau khi đã giải xong bài toán giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác bằng
cách cho học sinh có cách giải khác không ? Nếu giải bằng cách khác thì yêu
cầu học sinh giải để học sinh so sánh các cách giải với nhau, từ đó tìm ra cách
giải hay nhất. Song ở lớp 2 mới chỉ học toán đơn nên việc giải toán theo nhiều
cách còn ít, chỉ có một số trường hợp chẳng hạn như bài tập về tìm chu vi, tính
độ dài đường gấp khúc ( trường hợp số đo các cạnh bằng nhau ); nối các điểm để
được đường gấp khúc.
Ví dụ 1: Bài 1 trang 103 SGK – Toán 2. Nối các điểm để được đường gấp khúc
gồm: a/ Hai đoạn thẳng.
b/ Ba đoạn thẳng.
B
A
B
.
.
.

.

.

.
16/26

.


A
C
C
D
Bài toán này giúp học sinh biết nối các điểm cho trước để được đường gấp
khúc. Tôi cho vài em nêu miệng cách nối sau đó các em tự làm vào vở.
Ngoài cách nối này các em còn cách nối nào khác nữa không ? Từ đó
các em suy nghĩ tìm ra cách nối khác.
Tóm lại việc đi sâu vào tìm cách giải khác nhau cho nội dung bài toán có
vai trò to lớn trong việc rèn kĩ năng, củng cố kiến thức phát huy trí thông minh,
óc sáng tạo cho học sinh. Những cách giải khác nhau cho một bài toán góp phần
vào việc hình thành và củng cố cho học sinh tính chất của phép tính số học, về
quan hệ của phép tính số học. Trong khi cố gắng tìm ra cách giải khác nhau, học
sinh sẽ có dịp suy nghĩ đến những khía cạnh khác nhau của bài toán. Do đó hiểu
sâu về mối quan hệ giữa cái đã cho với cái phải tìm trong đề toán. Không những
thế các em còn tìm ra con đường ngắn nhất đi đến lời giải, không vội bằng lòng
với kết quả đầu tiên. Quá trình tìm nhiều lời giải khác nhau là quá trình rèn
luyện trí thông minh, óc sáng tạo, khả năng suy nghĩ một cách linh hoạt của học
sinh.
Ví dụ 2: Bài 4 trang 31 SGK – Toán 2.

a/ Tính độ dài đường gấp khúc ABCDE ?.
b/ Tính chu vi hình tứ giác ?.
B 3cm
3cm

3cm D

B
3cm

3cm
A
3cm

3cm
A

C
3cm

A
C
E
D
Bài toán này giúp học sinh củng cố về cách nhận biết, cách tính độ dài
đường gấp khúc, nhận biết và tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác. Đối với bài
toán trên tôi sẽ hướng dẫn học sinh khai thác bằng cách tìm nhiều cách giải khác
nhau, sau khi học sinh tự giải bài toán bằng cách thông thường như:
a/ Độ dài đường gấp khúc ABCDE là:
3 + 3 + 3 + 3 = 12 ( cm ).

b/ Chu vi hình tứ giác ABCD là:
3 + 3 + 3 + 3 = 12 ( cm )
Tôi sẽ hướng dẫn học sinh làm theo các cách như sau:
a/ Độ dài đường gấp khúc ABCDE là:
3 x 4 = 12 ( cm ).
b/ Chu vi hình tứ giác ABCD là:
3 x 4 = 12 ( cm ).
Như vậy trong cách thứ nhất ta lấy lần lượt độ dài của từng đoạn thẳng
cộng lại với nhau thì được độ dài đường gấp khúc, làm tương tự ta được chu vi
hình tứ giác.
Trong cách giải thứ hai ta nhận thấy các đoạn thẳng của đường gấp khúc
đều bằng nhau các cạnh của hình tứ giác cũng đều bằng nhau. Do đó ta chỉ cần
lấy độ dài của một đoạn thẳng nhân với số đoạn thẳng hoặc số cạnh. Sở dĩ cả hai
cách trên đều có cùng đáp số là do mối quan hệ giữa một tổng các số hạng bằng
nhau với nhau.
17/26


3 + 3 + 3 + 3 = 12.
3 x 4 = 12.
5./ Từ các bài tập đã cho gợi ý để học sinh phát hiện ra tính chất quan
trọng của phép toán hoặc cung cấp kiến thức cho học sinh.
Ví dụ 1: Bài 2 Trang 46 – SGK – Toán 2.
Tính:
9+1=
8+2=
3+7=
10 – 9 =
10 – 8 =
10 – 3 =

10 – 1 =
10 – 2 =
10 – 7 =
Với bài tập này sách giáo viên chỉ yêu cầu tính và tự điền kết quả của phép
tính. Với bài tập trên là quá dễ với học sinh khá giỏi, do đó khi làm xong bài tập
này tôi tự đặt câu hỏi khai thác bài toán như sau:
Em có nhận xét gì về mối quan hệ giữa phép tính trong mỗi cột ?
Học sinh sẽ nhận xét được từ phép cộng: 9 + 1 = 10 sẽ có hai phép trừ:
10 – 9 = 1 và 10 – 1 = 9
Hoặc từ phép cộng: 8 + 2 = 10 suy ra: 10 – 8 = 2
Và 10 – 2 = 8.
Tương tự từ phép cộng 3 + 7 = 10 suy ra: 10 – 3 = 7
Và 10 – 7 = 3.
Từ cách khai thác bài toán như vậy dần dần học sinh sẽ nhận thấy: “ Lấy
tổng trừ đi số hạng này thì được số hạng kia”. Cách khai thác như vậy là tiền đề
để học sinh làm bài tập dạng: Tìm một số chưa biết trong một tổng.
Ví dụ 2: Bài 1 Trang 48 – Toán 2.
9+2=
8+3=
7+4=
6+5=
2+9=
3+8=
4+7=
5+6=
11 – 9 =
11 – 8 =
11 – 7 =
11 – 6 =
11 – 2 =

11 – 3 =
11 – 4 =
11 – 5 =
Với bài tập này học sinh phải biết tính nhẩm để tìm ra kết quả. Giáo viên
chỉ yêu cầu học sinh nhẩm và ghi kết quả vào phép tính. Làm như vậy tuy đúng
với mục tiêu đề bài nhưng lại không phát triển được khả năng tư duy cho các
em. Do đó tôi cho học sinh khai thác bài tập này để các em tự phát hiện một số
tính chất quan trọng của phép cộng ( chưa gọi tên tính chất ) và phát hiện mối
quan hệ giữa phép tính cộng và phép tính trừ, giữa thành phần trong phép tính.
Tôi sẽ đặt câu hỏi cho học sinh nêu:
Em có nhận xét gì về kết quả của hai phép tính:
9 + 2 và 2 + 9
Học sinh nêu nhận xét từ hai phép cộng: 9 + 2 = 11 và 2 + 9 = 11 để thấy
9 + 2 cũng bằng 2 + 9 ( vì đều bằng 11 ). Vì vậy khi biết 9 + 2 = 11 thì cũng tìm
ngay được kết quả 2 + 9 cũng bằng 11. Lặp đi lặp lại nhiều lần với dạng bài tập
tương tự ở tiết này và ở các tiết học khác, dần dần học sinh nhận ra được: “ Nếu
đổi chỗ các số hạng trong phép cộng thì tổng không thay đổi”. Thực chất đây là
tính chất giao hoán của phép cộng, xong chưa phát biểu thành lời và gọi tên tính
chất này.
Mặt khác giáo viên có thể cho học sinh nhận xét mối quan hệ từ phép cộng
và phép trừ trong cột tính. Chẳng hạn:
9 + 2 = 11
18/26


2 + 9 = 11
11 – 9 = 2
11 – 2 = 9
Cũng như cách khai thác ở bài tập trước ( Bài tập 2 Trang 46 – SGK Toán 2 ).
Học sinh dễ dàng nhận thấy: “ Lấy tổng trừ đi số hạng này thì được số hạng

kia”. Do đó khi biết 9 + 2 = 11 thì phải nêu ngay được kết quả của phép trừ:
11 – 9 và 11 – 2 ( 11 – 2 = 9; 11 – 9 = 2 ).
Ví dụ 3: Bài 1.b – trang 100 – SGK – Toán 2.
b/ Tính nhẩm:
2x3=
2x4=
4x3=
3x2=
4x2=
3x4=
Với bài tập trong SGK giáo viên chỉ yêu cầu học sinh tự làm rồi chữa bài.
Bài tập trên vừa sức với tất cả các đối tượng học sinh. Song để phát triển khả
năng tư duy của các em tôi đặt câu hỏi khai thác bài toán trên như sau:
Em có nhận xét như thế nào về kết quả của phép nhân ở từng cột tính ?
Học sinh nêu nhận xét:
2 x 3 = 6 và 3 x 2 = 6
Kết quả của hai phép tính trên đều bằng nhau.
Tương tự trên học sinh sẽ nhận thấy:
2 x 4 = 8 và 4 x 2 = 8.
4 x 3 = 12 và 3 x 4 = 12.
Qua thao tác so sánh kết quả như vậy dần dần học sinh sẽ nhận thấy rằng: “
Khi đổi chỗ các thừa số trong tích thì tích không thay đổi”. Bằng cách khai thác
như vậy học sinh tự phát hiện ra tính chất quan trọng của phép tính đó là tính
chất giao hoán, song không yêu cầu nêu tên của phép tính đó.
Ví dụ 4: Bài 1.b Trang 108 – SGK – Toán 2.
Tính:
a/
3x4=
b/ 4 x 5 =
12 : 3 =

20 : 4 =
12 : 4 =
20 : 5 =
Bài tập trên chỉ yêu cầu học sinh tính kết quả của phép tính. Đây là củng cố
khái niệm của phép chia. Vì thế với bài toán trên sau khi học sinh tìm kết quả
của từng phép tính và gọi đúng tên từng thành phần trong phép tính. Tôi sẽ khai
thác học sinh bài tập để giúp học sinh thấy được mối quan hệ giữa phép nhân và
phép chia. Hay nói cách khác học sinh sẽ nhận ra rằng: “ Phép chia chính là tính
ngược của phép nhân”; ta lấy tích chia cho thừa số này được thừa số kia. Có thể
đặt câu hỏi cho học sinh như sau:
Em nhận xét gì về phép tính trong từng cột ?.
Học sinh nhận xét được:
Từ phép nhân:
3 x 4 = 12
Ta có hai phép tính: 12 : 3 = 4 và 12 : 4 = 3.
Việc tự nhận xét phát hiện cái mới trong khuôn khổ kiến thức vừa học trên
sẽ là tiền đề là cơ sở để giúp các em học những nội dung mới. Từ việc các em
biết được: “ Lấy tích chia cho thừa số này ta được thừa số kia”. Thì khi học bài:
“ Tìm thừa số chưa biết” của phép nhân sau đó các em dễ dàng chiếm lĩnh được
tri thức mới.
19/26


Qua cách khai thác trên ta thấy không việc gì phải bắt học sinh làm thêm
nhiều bài tập ở ngoài, chỉ cần khai thác các bài tập ngay trong sách học của các
em. Với cách khai thác hợp lí sẽ giúp các em hiểu được nhiều khía cạnh của nội
dung đó. Không những thế các em biết được mối quan hệ ràng buộc giữa kiến
thức cũ với kiến thức mới, giúp cho sự phát triển năng lực tư duy của học sinh
trong học toán.
6. Đặt bài toán ngược với bài toán đã giải:

Sau khi học sinh đã giải xong một bài toán, giáo viên hướng dẫn học sinh
khai thác, phát triển bài toán bằng cách đặt đề toán ngược với theo nguyên tắc
sau: “ Thay đáp số vào một trong những điều đã cho và đặt câu hỏi vào điều đã
cho ấy”. Đây là kiểu bài toán được sử dụng phổ biến trong khi thiết kế bài tập
vừa nhằm củng cố, khắc sâu vừa nâng cao kiến thức cho học sinh.
Ví dụ 1: Bài 2 Trang 118 – SGK Toán 2.
“ Có 36 học sinh xếp thành 4 hàng đều nhau. Hỏi mỗi hàng có mấy học
sinh ?”.
Mục đích của bài toán này giúp các em rèn luyện kỹ năng học thuộc bảng
chia 4 và vận dụng giải toán. Do đó với bài tập trên sau khi học sinh đã thực
hiện yêu cầu cơ bản của bài tập, tôi đã phát triển bài toán trên thành bài toán
ngược như sau để củng cố mối quan hệ giữa phép nhân và phép chia.
“ Số học sinh lớp 2A được xếp thành 4 hàng, mỗi hàng có 9 học sinh. Hỏi
lớp 2A có bao nhiêu học sinh ?”.
Ví dụ 2: Bài 4 Trang123 – SGK Toán 2.
“ Có 30 quả táo xếp vào các đĩa, mỗi đĩa có 6 quả. Hỏi xếp vào được mấy
đĩa ?”.
Bài tập này có thể phát triển thành các bài tập sau:
Bài toán 1: Có 30 quả táo xếp đều vào 5 đĩa. Hỏi mỗi đĩa có mấy quả táo?.
Bài toán 2: có 5 đĩa táo mỗi đĩa có 6 quả. Hỏi tất cả có bao nhiêu quả táo ?
Trên đây là một số phương pháp khai thác và phát triển bài toán đơn giản
mà mỗi giáo viên Tiểu học có thể áp dụng cho học sinh của mình. Đối với mỗi
bài toán có thể áp dụng, phối hợp các phương pháp để khai thác phù hợp với
trình độ của từng học sinh để đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy.
III. MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM:
Để nâng cao hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn Toán, người giáo viên
phải có sự đổi mới trong quá trình giảng dạy. Đó là sự phối hợp học đi đôi với
hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn. Xuất phát từ mục đích của đề tài nhằm
phát triển tư duy và năng lực nhận thức cho các em trong dạy Toán 2. Từ các bài
tập đã cho trong sách giáo khoa, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh cách khai thác

và phát triển các bài tập đã cho thành các bài tập khác nhằm phát triển tư duy
cho học sinh. Tôi đã tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề
tài, sự hiệu quả của các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Chẳng hạn:
- Giáo viên đổi mới phương pháp dạy học: “ Lấy học sinh làm nhân vật
trung tâm” giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tự tìm tòi và phát
hiện kiến thức, thấy được sự lôgíc giữa kiến thức cũ và mới để phát huy được
năng lực tư duy trong các em.
- Thông qua sự đổi mới này tạo điều kiện nâng cao năng lực chuyên môn
20/26


cho giáo viên cũng như trình độ nhận thức.

21/26


IV/ NỘI DUNG THỰC NGHIỆM:

22/26


Để áp dụng đề tài trên tôi trình bày 1 giáo án:
- Một tiết thực hành: Tiết 49: Luyện tập.
1. Hình thức và phương pháp tổ chức dạy học thực nghiệm:
* Trong hai giờ dạy thực nghiệm, tôi đã sử dụng các hình thức, phương
pháp tổ chức sau đây
- Phương pháp vấn đáp - gợi mở.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá.
* Các hình thức tổ chức dạy học đã được thực hiện:

- Dạy học theo lớp.
- Dạy học theo nhóm.
- Dạy học cá nhân.
- Dạy học bằng phiếu học tập.
- Dạy học bằng cách tổ chức trò chơi học tập

GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
GIÁO ÁN
- Bài dạy: Tiết 28: Luyện tập
A. Mục tiêu:
- Thuộc bảng 7 cộng với một số.
- Biết thực hiện phép cộng có nhớ trong phạm vi 100, dạng 47 + 5;
47 + 25.
- Biết giải bài toán theo tóm tắt với một phép cộng.
- Bài tập cần làm ( Bài 1; Bài 2(cột 1, 3, 4); Bài 3; Bài 4 dòng 2 ).
B. Đồ dùng dạy - học:
- SGK,SGV.
- Phiếu học tập.
C. Các hoạt động dạy - học chủ yếu:

23/26


HĐ của GV
* Kiểm tra bài cũ:
- GV gọi 2 học sinh lên bảng làm bài tập.
47
47
57
67

+
+
+
+
25
28
17
15

HĐ của HS
+2 học sinh lên bảng làm.

+ HS nhận xét.
- Gọi học sinh nhận xét; GV nhận xét và đánh
giá.
HĐ1: Học thuộc và nêu nhanh công thức bảng
cộng có nhớ ( 7 cộng với một số ).
HĐ2: Hướng dẫn học sinh làm bài tập:
Bài 1: Tính nhẩm:
- GV gọi học sinh đọc yêu cầu đề bài.
- Cho HS nối tiếp nhau nêu miệng kết quả từng
phép tính.
- HS tự nhận xét lẫn nhau.
- GV nhận xét.
Bài 2: (Cột 1, 3, 4) đặt tính rồi tính:
a/ 37 + 15
b/ 24 + 17
c/ 67 + 9
- Tôi khai thác và phát triển thành bài tập sau:
* Đúng ghi đúng, sai ghi sai:

a/ 37
b/ 24
c/ 67
+
+
+
15
17
9
42
41
76
- GV yêu cầu HS đọc đề bài.
- Phát phiếu học tập cho học sinh.
- Thu một số bài để nhận xét đánh giá.
- GV nhận xét kết quả của bài.
- Nếu HS điền đúng là các em đã hiểu bài.
- Nếu HS điền sai là các em chưa biết cách đặt
tinh hoặc cộng quên không nhớ.
- Từ đó cho HS nêu cách đặt tính và thực hiện
tính.
Bài 3: Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Thúng cam có: 28 quả
Thúng quýt có: 37 quả
Cả hai thúng có: ... quả ?
- Tôi hướng dẫn HS phát triển thành bài toán
sau:

+ HS đọc bảng cộng.
+ 7+3=

7+4=
7+5=
7+6=
7+7=
7+8=
7+9=
7 + 10 =
5+7=
6+7=
8+7=
9+7=
+ Một HS đọc đề bài.
+ Hs chú ý theo dõi.

+ HS làm vào phiếu học
tập.

+ Một vài HS nêu cách
đặt tính.
+ HS khai thác và phát
triển thành bài toán:
“ Thúng cam có 28 quả,
thúng quýt có 37 quả. hỏi
cả hai thúng có bao nhiêu
quả ?”.
+ HS thực hành làm.

- GV phát phiếu học tập cho HS làm.
- GV thu bài và nhận xét.
Bài 4: (Dòng 2).

>

24/26

+ Dưới lớp làm vào bảng
con. 17 + 9 > 17 + 7


+ 2 HS nhận xét

=

- Gọi 2 HS lên bảng làm. Dưới lớp làm bảng
con.
- Yêu cầu cả Nội
lớp giơ
bảng; GV nhận xét.
dung
- Gọi
HSmở
nhận
A.
Phần
đầuxét bài bạn làm trên bảng.
* Củng
cố, dặn
dò:
I.
Lí do chọn
đề tài

- Yêu
1 vài
HS nêuvụlạinghiên
bảng 7cứu
cộng với một
II.
Mụccầu
đích
và nhiệm
số.Mục đích
1.
- GV
nhậnvụxét chung tiết học, khen ngợi những
2.
Nhiệm
HS Đối
tích tượng
cực xây
III.
vàdựng
phạmbài.
vi nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
V. Kế hoạch thời gian nghiên cứu
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
1. Vai trò của nội dung dạy học trong chương trình môn
Toán
2. Nội dung chương trình SGK Toán 2
3. Chuẩn kiến thức kĩ năng dạy học đạt được trong môn

Toán
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng dạy của giáo viên
2. Thực trạng của học sinh
3. Nguyên nhân
C. Các biện pháp khai thác và phát triển các bài tập trong
sách giáo khoa để bồi dưỡng năng lực cho học sinh lớp 2.
I. Khai thác và phát triển hệ thống bài tập trắc nghiệm
1.Hệ thống bài tập trắc nghiệm
2. Thiết kế dạng bài tập đúng - sai
II. Khai thác và phát triển hệ thống bài tập tự luận
III. Mục đích thực nghiệm
IV. Nội dung thực nghiệm
V. Kết quả thực nghiệm
VI. Bài học kinh nghiệm
D. Kết luận và đề xuất

25/26

Trang
2
2
3
3
3
3
3
3
4
4

4
4
6
6
6
6
7
8
8
8
8
14
21
22
24
25
26


×