Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao Băng tại Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.6 MB, 126 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, một trong những nước thành viên
của WTO thì việc cạnh tranh của các công ty càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh
về vốn, công nghệ, giá thành, nhân tài...Vậy làm thế nào để các công ty quảng
cáo trong nước có được chỗ đứng vững chắc và xây dựng được lợi thế cạnh
tranh cho riêng mình. Làm thế nào để công ty nổi bật lên so với các công ty
khác? Văn hóa ứng xử trong hoạt động kinh doanh chính là một trong những bí
quyết tạo nên sự khác biệt của các công ty quảng cáo trong nước. Do đó trong
cuộc sống, trong ứng xử hàng ngày con người luôn phải ứng phó với bao nhiêu
tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc thật phức tạp. Xã hội càng văn minh thì
nhu cầu trong ứng xử của con người ngày càng cao. Ứng xử một cách thông
minh, khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật sẽ tạo
nên uy tín, danh tiếng và sức sống cho công ty, phát huy tối đa năng lực của các
cá nhân và hướng họ tới mục tiêu chiến lược của công ty, giúp chúng ta vương
tới thành công nhờ vào nguồn nội lực của chính mình. Những sản phẩm dịch vụ
mà các công ty đưa ra thị trường phải có sức cạnh tranh cao hơn trước, không
chỉ ở thị trường trong nước mà còn cạnh tranh cả thị trường ngoài nước.
Nhìn chung, không chỉ đơn thuần là hàng hóa dịch vụ đem lại giá trị kinh
tế, mà ẩn chứa trong đó trước hết là những giá trị văn hóa ứng xử của công ty.
Văn hóa ứng xử của một số thành viên trong công ty quảng cáo Cao Sao
Băng hiện đang là vấn đề còn nhiều bất cập. Văn hóa ứng xử ngày càng có nhiều
thay đổi, xã hội ngày càng phát triển thì các công ty phải xây dựng văn hóa ứng
xử sao cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
Đến nay, chúng ta vẫn chưa có một nền văn hóa kinh doanh đúng nghĩa hay
nói cách khác các công ty quảng cáo chưa phát huy được thế mạnh của văn hóa
ứng xử trong hoạt động kinh doanh. Hiện nay trong thời kỳ hội nhập quốc tế,

1



Việt Nam đang thực thi cơ chế thị trường đòi hỏi công ty phải có văn hóa ứng
xử văn minh.
“Thành phố Hồ Chí Minh là địa bàn phát triển kinh tế sôi động nhất cả
nước. Chính thành phố này đã làm nổi rõ lên những mặt mạnh của hoạt động
kinh doanh hiện đại ở Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần
được tiếp tục xử lý để thị trường nói chung và các doanh nghiệp nói riêng có thể
hoạt động hiệu quả hơn, với sức sống bền vững hơn. Chính ở địa bàn này đang
nổi lên nhu cầu về sự nhận thức đúng đắn và xây dựng một nền văn hóa
kinh doanh đích thực và mang đậm màu sắc Việt Nam”[18, tr.5.6].
Một số công ty còn nhiều bất cập về văn hóa ứng xử như: xung đột nội bộ,
thái độ tiếp khách chưa được lịch sự, không làm hài lòng khách hàng, quan hệ
với các đối tác chưa tốt làm ảnh hưởng đến thương hiệu công ty.
Văn hóa ứng xử văn minh làm hài lòng khách hàng giúp công ty tăng
doanh thu, nâng cao tính cạnh tranh, sẽ thúc đẩy tinh thần làm việc, phát huy
tính dân chủ, phát triển khả năng cá nhân của mọi thành viên. Cả công ty sẽ gắn
kết với nhau trên tinh thần hợp tác, phát triển, cùng đóng góp cho mục tiêu
chung. Sự gắn kết đó tạo nên sức mạnh đưa doanh nghiệp tiến lên phía trước.
Khẳng định thương hiệu công ty qua việc xây dựng văn hóa ứng xử, giúp
công ty thu hút được nhiều nhân lực, tăng thêm thu nhập và phát triển ngày càng
bền vững.
Vì vậy tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Văn hóa ứng xử của công ty quảng
cáo Cao Sao Băng tại Thành phố Hồ Chí Minh" làm luận văn Thạc sĩ với
mong muốn làm rõ phần nào vai trò của văn hóa ứng xử trong hoạt động của
công ty quảng cáo Cao Sao Băng. Thông qua việc tìm hiểu, đánh giá khách quan
về thực trạng văn hóa ứng xử trong hoạt động của công ty quảng cáo Cao sao
Băng, đồng thời tôi muốn đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa yếu tố
văn hóa ứng xử trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay đối với sự phát triển
của công ty.
2



2. Lịch sử nghiên cứu
Trong sự phát triển của xã hội ngày nay, văn hóa ứng xử kinh doanh không
chỉ là yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững cho các chủ thể kinh doanh mà còn
góp phần quan trọng vào việc tạo dựng thương hiệu, uy tín, làm tăng lợi thế
cạnh tranh cho nền kinh tế của cả một đất nước. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường hiện nay, văn hóa ứng xử kinh doanh ở Việt Nam nói chung
và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cùng với những bước đầu định hình và đạt
được những thành tựu nhất định, biểu hiện những triết lý kinh doanh, chiến
lược, cách thức kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, gắn lợi ích kinh tế với
các giá trị chân, thiện, mỹ là những giá trị mang tính nhân bản cao quý của con
người. Tìm hiểu về văn hóa ứng xử trong kinh doanh chưa có một công trình
nào tổng hợp đầy đủ. Sau đây có một số công trình nghiên cứu liên quan đến
việc nghiên cứu về văn hóa ứng xử đã có sách và các bài luận văn Thạc sĩ tốt
nghiệp đã viết như sau:
• Một số công trình nghiên cứu về văn hóa ứng xử trong doanh nghiệp
- Sách Văn hóa kinh doanh những góc nhìn của nhiều tác giả với Trần Hữu
Quang - Nguyễn Công Thắng (2007) làm chủ biên, NXB Trẻ thời báo kinh tế
Sài Gòn - Đây là quyển sách viết về kinh doanh không chỉ nhằm kiếm lợi nhuận,
càng không phải chỉ nhằm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá. Có thể nói, cái làm cho
hoạt động kinh doanh mang ý nghĩa xã hội tích cực, thậm chí được xem là nhân
tố quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển mạnh mẽ và bền vững
chính là nhân tố văn hóa - văn hóa kinh doanh
- Sách Văn hóa kinh doanh ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Ngọc Anh
(2013), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật Hà Nội. Đây là quyển sách
nêu rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa kinh doanh, và đã nhận diện văn hóa
kinh doanh Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử (từ thời phong kiến cho tới ngày
nay), đồng thời cũng nói đến văn hóa ứng xử trong kinh doanh qua các giai đoạn
lịch sử và đưa ra một số giải pháp khắc phục dựa trên những kinh nghiệm quốc

3


tế đặc biệt là Nhật Bản, một đất nước có nền văn hóa kinh doanh nổi tiếng Thế
giới
- Sách Doanh nhân văn hóa và Văn hóa kinh doanh của Nguyễn Quang
Vinh - Trần Hữu Quang (2010), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh. Đây là quyển sách nói về kinh doanh và văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
xưa trong đó nói về người phụ nữ và các phiên chợ, đồng thời có liên quan đến
văn hóa ứng xử kinh doanh của người xưa qua cung cách ứng xử lựa chọn trong
quan hệ với khách hàng và bạn hàng, nên người ta có câu ” chợ có lề, quê có
thói”
- Sách Từ bến nghé tới Sài Gòn của Trần Nhật Vy (2015), Nhà xuất bản
Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là quyển sách mà tác giả đã
góp nhặt các bài báo ghi lại sự hình thành phát triển của Sài Gòn từ Bến Nghé
tới Sài Gòn, các chợ, các đường phố… của Sài Gòn xưa thời Pháp thuộc cho tới
sự thay đổi các con đường phố, chợ ngày nay, tác giả cho biết sự giao thương
văn hóa kinh doanh của các chợ nhỏ làng quê xưa được hình thành các chợ lớn
ngày nay ở các quận Thành phố Hồ Chí Minh
- Sách "Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thanh Tuấn
(2008) - cho rằng khái niệm lối sống hay văn hóa lối sống tương đương với văn
hóa ứng xử. Lối sống là cách ứng xử của con người với môi trường sống gồm
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
- Sách "Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam" của Phan Huy Xu - Võ Văn
Thành (2016) - Phân biệt mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch, nhận diện sự
khác nhau giữa văn hóa du lịch và du lịch văn hóa, thiết lập các thành tố của văn
hóa du lịch đồng thời xây dựng cơ sở cho việc ứng xử văn hóa trong phát triển
du lịch.
- Sách "Văn hóa ứng xử trong gia đình" của Phạm Khắc Chương (2006) nêu lên được cung cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, sự giao tiếp


4


ứng xử trong gia đình giữa cha mẹ, con cái, anh em, nội, ngoại… những hành vi
ứng xử đó sẽ hình thành nên tính cách và nhân cách của một con người.
- Sách "Nghệ thuật ứng xử của người Việt" của Phạm Minh Thảo (2003) Tác giả đã nêu ra các đặc điểm riêng của ứng xử Việt Nam. Phân tích cách ứng
xử của người Việt như ứng xử cá nhân, gia đình, cộng đồng, ngoại giao, ứng xử
truyền thống và hiện đại.
• Một số tác phẩm về cơ sở văn hóa
- Sách "Cơ sở văn hóa Việt Nam" của Trần Ngọc Thêm (1999)
- Sách "Bản sắc văn hóa Việt nam" của Phan Ngọc (2015)
Ở đây tác giả chỉ nêu lên được các khái niệm về đạo đức và giáo dục con
người, chưa có tác giả nào đề cập hoặc đi sâu vào vấn đề văn hóa ứng xử trong
hoạt động kinh doanh của công ty.
• Luận văn tốt nghiệp
- Lê Thị Trúc Anh (2012) - "Văn hóa giao tiếp trong công sở hành chánh
(trường hợp TP HCM 1986 đến nay"
- Nguyễn Thị Minh Thúy (2003) - "Văn hóa ứng xử trong hoạt động kinh
doanh khách sạn trên địa bàn Hà Nội"
Vì vậy, liên quan đến văn hóa ứng xử đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của
các nhà khoa học và doanh nghiệp.
Văn hóa ứng xử trong các công ty, doanh nghiệp, xét về bản chất, mỗi công
ty là một tổ chức độc lập nên có phương pháp quản lý và điều hành riêng. Nó
giống như một thế giới thu nhỏ với cơ cấu, chuẩn mực, quy tắc hoạt động, có
những giá trị và văn hóa nhất định. Tuy nhiên vấn đề này cho đến nay chưa có
nhà khoa học nào nghiên cứu sâu vào đề tài Văn hóa ứng xử trong lĩnh vực
quảng cáo, chưa có phương pháp cụ thể để xây dựng môi trường văn hóa trong
kinh doanh. Nhưng các công trình, tài liệu khoa học của các tác giả trên đều có
5



giá trị khoa học, cung cấp cơ sở lý luận cũng như vận dụng vào việc nghiên cứu
luận văn của tác giả.
Tôi chọn đề tài này với mong muốn góp phần vào cơ sở lý luận về xây
dựng một môi trường văn hóa ứng xử trong hoạt động kinh doanh của công ty
quảng cáo tại thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó đề xuất nâng cao hiệu quả xây
dựng môi trường văn hóa của các công ty trong lĩnh vực quảng cáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những biểu hiện và nguyên nhân tác động đến văn hóa ứng xử
của công ty quảng cáo Cao Sao Băng tại thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu về vấn đề văn hóa ứng xử nhằm xác định được những tri thức
về ứng xử trong xã hội nói chung và trong hoạt động tại các công ty quảng cáo
nói riêng để nâng cao chất lượng phục vụ và uy tín cho công ty trong thời kỳ hội
nhập quốc tế.
Quan trọng hơn, đề tài này sẽ định hướng cho cán bộ - nhân viên của các
công ty quảng cáo nhận thức rõ được trách nhiệm công việc của mình, để có thái
độ phục vụ khách hàng tốt nhất và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
3.2. Nhiệm vụ
Tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến:
▪ Văn hóa
▪ Ứng xử
▪ Văn hóa - ứng xử
Khảo sát thực tế qua điều tra xã hội học để biết được những biểu hiện về
văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao Băng tại Thành phố Hồ Chí
Minh.

6



Từ đó đưa ra những đánh giá về mặt tích cực và mặt hạn chế về văn hóa
ứng xử của công ty quảng cáo Cao sao Băng. Đồng thời đưa ra định hướng và
giải pháp nhằm nâng cao văn hóa ứng xử của các thành viên trong công ty
quảng cáo Cao Sao Băng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là:
▪ Những biểu hiện về văn hóa
▪ Những biểu hiện về văn hóa ứng xử: hành vi ứng xử, ngôn ngữ ứng
xử, cử chỉ ứng xử và thái độ ứng xử.
Chủ thể nghiên cứu: Ban lãnh đạo, nhân viên và khách hàng của công ty
quảng cáo Cao Sao Băng.
Khách thể nghiên cứu: Các yếu tố cấu thành nền văn hóa ứng xử của công
ty quảng cáo Cao Sao Băng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Không gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những biểu hiện văn hóa ứng xử của các thành viên của
công ty quảng cáo tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua khảo sát tại Công ty
TNHH TM & DV Quảng Cáo Cao Sao Băng.
4.2.2. Thời gian nghiên cứu
Thời gian được xác định trong nghiên cứu này là trong thời kỳ hội nhập
kinh tế thế giới. Trong khoảng thời gian này, chúng tôi muốn tìm hiểu những
biến đổi về văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao Băng tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
Đề tài nghiên cứu trong giai đoạn: Từ năm 2010 - 2017 những biến đổi về
văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao Băng, làm hạn chế sự phát triển
7


của công ty. Từ đó đưa ra định hướng và giải pháp xây dựng môi trường văn hóa

ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao Băng, nhằm thu hút khách hàng và tăng
thêm thu nhập.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập được từ nhiều nguồn tài liệu khác (từ sách, báo, Internet…) để
làm căn cứ, phân tích.
5.2 . Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
5.2.1. Phương pháp điều tra bảng hỏi.
Chúng tôi sử dụng bảng điều tra với 10 câu hỏi cho khách hàng về văn hóa
ứng xử và số phiếu được hỏi là 100 phiếu, nhân viên được hỏi là 20 phiếu với 15
câu hỏi.
Loại bảng hỏi trực tiếp

Số phiếu phát ra

Dành cho khách hàng

100

Nhân viên

20

Tổng số dự kiến

120

Số liệu thu thập được xử lý bằng kỹ thuật: biểu đồ, bảng thống kê trên phần
mềm như:
✓ Microsoft Office Excel

✓ Google drive
5.2.2. Phương pháp quan sát
Bên cạnh đó chúng tôi còn dùng phương pháp quan sát tại các địa điểm
công ty, giao dịch khách hàng, và nơi triển lảm hội chợ,…dưới hình thức ghi
8


chép, thu thập và xử lý thông tin bằng hình ảnh qua các thiết bị kỹ thuật công
nghệ (máy ảnh, máy quay phim,…) qua các hành vi ứng xử giữa các nhân viên,
khách hàng và Ban lảnh đạo công ty Cao Sao Băng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn nghiên cứu bổ sung và góp phần sáng tỏ cơ sở lý luận về công tác
xây dựng môi trường văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao Băng tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
6.2. Ý nghĩa thục tiễn
Trên cơ sở nguồn dữ liệu có được và kết quả nghiện cứu, luận văn đề xuất
những giải pháp xây dựng môi trường văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo
Cao Sao Băng tại Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng nếp sống văn
minh ở đô thị và xây dựng con người mới phù hợp với thời kỳ hội nhập kinh tế
thế giới.
7. Những đóng góp mới của Luận văn
Nắm bắt thực tiễn lý thuyết về văn hoá ứng xử và cấp độ của văn hoá ứng
xử trong hoạt động kinh doanh của công ty Cao Sao Băng.
Phân tích và đánh giá thực trạng văn hoá ứng xử trong hoạt động kinh
doanh của công ty Cao Sao Băng trên cơ sở lý luận đã trình bày.
Nhận biết các yếu tố như: không gian của công ty, sở thích của khách hàng,
hoạt động văn hoá ứng xử… ảnh hưởng lớn đến văn hoá ứng xử trong hoạt động
kinh doanh của công ty Cao Sao Băng; Đa dạng các loại dịch vụ sản phẩm để
phục vụ khách hàng, đẩy mạnh xây dựng và phát triển thương hiệu, đội ngũ

quản lý, nhân viên sẽ phát triển mạnh văn hoá ứng xử trong hoạt động kinh
doanh của công ty Cao Sao Băng.
Đề xuất các giải pháp để phát triển văn hoá ứng xử trong hoạt động kinh
doanh của công ty Cao Sao Băng nói riêng, và cho lĩnh vực quảng cáo nói chung
9


trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
Góp thêm nguồn tài liệu nghiên cứu văn hóa ứng xử trong kinh doanh và
phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn hóa ứng xử giao
thương ở các trường đại học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của luận văn được chia ra làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Trình bày những khái niệm cơ bản hỗ trợ nghiên cứu cho luận văn như: văn
hóa, văn hóa ứng xử, vai trò của văn hóa ứng xử trong lĩnh vực quảng cáo,
những yếu tố tác động đến môi trường văn hóa ứng xử trong doanh nghiệp...
Chương 2: Thực trạng văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao
Băng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phân tích, đánh giá thực trạng và rút ra những kinh nghiệm trong việc xây
dựng môi trường văn hóa ứng xử.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường hiệu quả xây dựng
môi trường văn hóa ứng xử của công ty quảng cáo Cao Sao Băng tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
Định hướng công tác xây dựng văn hóa ứng xử để đáp ứng nhu cầu phát triển
của công ty Cao Sao Băng hiện tại và sau này, từ đó đề xuất các nhóm giải pháp về kỹ
thuật, về chế tài, về định hướng giá trị đạo đức trong hoạt động kinh doanh. Qua đó, đề
xuất một số kiến nghị đối với Bộ Văn hóa thông tin để tạo điều kiện thực hiện tốt hơn
công tác xây dựng môi trường văn hóa ứng xử trong hoạt động quảng cáo.


10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Trong cuộc sống hàng ngày con người luôn phải ứng phó với biết bao tình
huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc thật phức tạp, khó xử. Xã hội càng văn minh
thì nhu cầu trong ứng xử của con người càng cao. Ứng xử một cách thông minh,
khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật, ngày nay còn
được coi như bí quyết thành công trong cuộc sống, đặc biệt là trong công việc
kinh doanh.
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi cần làm rõ một số khái niệm sau:


Về văn hóa

Chưa bao giờ khái niệm văn hoá được đề cập nhiều trong học thuật
cũng như trong thực tế đời sống như hiện nay. Bởi vì nói tới văn hoá là nói
tới ý thức, cái gốc tạo nên “tính người” cùng những gì thuộc về bản chất
nhất làm cho con người trở thành chủ thể năng động, sáng tạo trong cuộc
sống, trong lao động sản xuất.
Định nghĩa văn hoá đầu tiên được chấp nhận rộng rãi là định nghĩa do nhà
nhân chủng học E.B Tylor đưa ra: “Văn hoá là một tổng thể phức hợp bao gồm
các kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và toàn bộ
những kỹ năng, thói quen mà con người đạt được với tư cách là thành viên của
một xã hội” [Dương Thị Liễu 10, tr.10].
Theo Tylor ta có thể hiểu: Văn hoá, là toàn bộ phức hợp những ứng xử,
giá trị và những thành tựu con người như một thành viên xã hội lịch sử trong

các mối quan hệ với thế giới tự nhiên, quần thể cộng đồng và bản ngã tâm linh,
nói một cách ngắn gọn hơn: Văn hoá, sự phản ứng và cách ứng xử chung của
cộng đồng trước thiên nhiên và xã hội.

11




Về văn hóa doanh nghiệp

Văn hóa doanh nghiệp có thể hiểu là cách thức hành động, làm việc hằng
ngày của các thành viên trong công ty. Đó là những quy tắc xử sự có thể đã
được quy định bằng văn bản hoặc tự ngầm hiểu với nhau và thực hiện trong
thời gian dài. Đó là những nếp sinh hoạt, các hành vi ứng xử, các phương thức
sản xuất, kỹ năng và kiến thức kỹ thuật, quan điểm về kỷ luật, các thông lệ và
thói quen quản lý, các mục tiêu của những người liên quan, cách trả lương,
quan điểm về các công việc khác nhau, niềm tin vào tính dân chủ trong các
buổi thảo luận và những quy ước, những điều cấm kỵ.
Theo Ông Georges de Saite Marie, một chuyên gia người Pháp về doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đã đưa ra định nghĩa như sau: “Văn hóa doanh nghiệp là
tổng hợp các giá trị, biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kỵ, các
quan điểm triết học, đạo đức tạo nên nền móng sâu xa của doanh nghiệp” [Dẫn
theo Dương Thị Liễu 10, tr.233].
Theo tổ chức lao động quốc tế (International Labour Organization ILO):
“Văn hoá doanh nghiệp là sự trộn lẫn đặc biệt của các giá trị, các tiêu chuẩn,
thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi và toàn bộ chúng là
duy nhất với tổ chức đã biết” [Dẫn theo Dương Thị Liễu 10, tr. 233].
Tác động của văn hóa doanh nghiệp có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Nếu
phát triển tốt thì văn hóa doanh nghiệp sẽ là một tài sản vô hình của doanh

nghiệp, tạo động lực cho nhân viên, hướng nhân viên đi đúng quỹ đạo theo mục
tiêu đã đề ra, bên cạnh đó nó sẽ khơi nguồn sáng tạo không ngừng cho nhân viên
cũng như nhằm giúp phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác, ngược
lại nếu không phát triển đúng thì văn hóa doanh nghiệp sẽ kìm hãm sự phát triển
của doanh nghiệp, thậm chí làm cho doanh nghiệp không thể tiếp tục tồn tại.


Văn hóa kinh doanh

Văn hóa tham gia vào mọi quá trình hoạt động của con người, thể hiện
ngày càng rõ nét và tạo thành các lĩnh vực văn hoá đặc thù như: văn hoá chính
12


trị, văn hoá pháp luật, văn hoá giao thông, văn hoá gia đình…và văn hoá kinh
doanh. Văn hoá kinh doanh có thể xem là chìa khóa mở ra sự thành công và phát
triển nền kinh tế mỗi nước nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Cuộc sống
cũng như công việc kinh doanh không ngừng vận động, chắc chắn sẽ còn nhiều
chuẩn mực khác để đánh giá văn hoá kinh doanh nữa mà từ góc độ bản thân,
mỗi cá thể sẽ bổ sung thêm khi đặt mình vào trường hợp một doanh nhân đang
hoạt động kinh doanh một cách có văn hoá.
Trong kinh doanh, văn hoá tham gia hầu hết các hoạt động của doanh
nghiệp, từ tổ chức đến các hoạt động chức năng của doanh nghiệp, cách bố trí
nhân sự đến hình thành quan hệ ứng xử giữa các thành viên và các phương thức
quản lý kinh doanh để tạo hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.
Nhìn từ góc độ nghệ thuật kinh doanh, từ vấn đề tạo vốn, tìm địa điểm kinh
doanh, lĩnh vực kinh doanh, cách thức xây dựng chiến lược kinh doanh, tiếp thị
sản phẩm, dịch vụ hậu mãi….đã thể hiện với những giá trị tốt đẹp của nhân tính,
của tri thức, của trí tuệ, của mỗi hoạt động qua quá trình hoạt động và như vậy
kinh doanh chính là biểu hiện tốt đẹp văn hoá của con người.

Với góc độ tiếp cận văn hoá trong kinh doanh như trên, hiểu theo nghĩa
rộng: “Văn hoá kinh doanh là toàn bộ các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần
do chủ thể kinh doanh sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động kinh
doanh, trong sự tương tác giữa chủ thể kinh doanh với môi trường kinh doanh”
và theo nghĩa hẹp: “văn hoá kinh doanh là một hệ thống các giá trị, các chuẩn
mực, các quan niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình
kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội, tự nhiên ở một
cộng đồng hay một khu vực” [ Dương Thị Liễu 10, tr.43].
Do đó, bản chất của văn hoá kinh doanh là làm cho cái lợi gắn bó chặt chẽ
với cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm về văn hoá kinh
doanh như sau: Văn hoá kinh doanh là toàn bộ các giá trị văn hóa được chủ thể
kinh doanh chọn lọc tạo nên bản sắc và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh,
13


phải ép buộc. Nếu một người nào đó làm khác sẽ bị cộngđồng lên án hoặc xa
lánh xét về mặt pháp lý những việc làm đó không trái pháp luật.


Giao lưu tiếp biến văn hóa

Giao lưu tiếp biến văn hóa (acculturation) được hiểu là hiện tượng xảy ra
khi những nhóm người có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự
biến đổi văn hóa của các bên. Trong giao lưu có thể xảy ra hiện tượng những
yếu tố của nền văn hóa này xâm nhập vào nền văn hóa kia trên cơ sở những yếu
tố nội sinh mà điều chỉnh, cải biên cho phù hợp, tạo nên sự giao thoa văn
hóa.[23]
Giao lưu tiếp biến văn hóa không chỉ là một phương pháp định vị văn hóa,
mà còn là một phương pháp được văn hóa sử dụng khá thường xuyên khi tiến
hành phân xuất kết cấu của một nền văn hóa cụ thể với phương pháp này, cụ thể

với nội dung của một nền văn hóa cụ thể được phân thành: yếu tố nội sinh và
yếu tố ngoại sinh.[23]
Tuy nhiên, việc phân biệt như vậy chỉ mang tính tương đối. Cùng với thời
gian, yếu tố ngoại sinh có thể chuyển biến thành yếu tố nội sinh, hoặc bị biến
đổi một cách căn bản để trở nên phù hợp với nền văn hóa đã tiếp nhận nó. Việc
hấp thu Nho giáo, ….của một số nước Đông Nam Á là một ví dụ về sự chuyển
hóa trên.[23]
1.1.2. Khái niệm về ứng xử
Khi chúng ta hiểu và biết cách làm cho người khác thoả mãn nhu cầu ứng
xử, nói về những cái mà họ thích thì đó là bí quyết đầu tiên của phép ứng xử.
Vậy ứng xử là gì ?
Ứng xử được dịch từ tiếng Anh (Behaviour) với hai từ ghép lại là ứng
xử và hành vi, tiếng Việt có thể hiểu ứng xử theo cách sau đây: Cụm từ ứng
xử nếu tách riêng từng từ ta sẽ được từ “ứng” chỉ những phản ứng cho cả
người và động vật khi có bất kỳ một kích thích nào vào cơ thể sống. Con
14


người về bản chất tự nhiên là động vật bậc cao trong bậc thang tiến hoá của
vật chất, do cái nền, cái gốc phải xuất phát từ tự nhiên để bảo tồn giống loài.
Trong chương “tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn
thành người” Ph.Ăngghen đã viết: “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con
người…, con người sống dựa vào tự nhiên.” [10]
Nhưng con người còn có bản chất xã hội: “Cá nhân là thực thể xã hội”
phản ứng của con người chịu sự chi phối của các quan hệ xã hội.Trong bản
thảo kinh tế triết học năm 1844, C. Mac đã viết: “Bất cứ quan hệ nào của con
người đối với bản thân mình đều chỉ được thực hiện, thể hiện trong quan hệ
của con người đối với người khác”. Trong trường hợp này nói về bản chất xã
hội của hành vi thì người ta dùng từ “xử”, như “đối nhân xử thế”, “phép cư
xử”…[10]

Như vậy khái niệm ứng xử bao hàm cả bản chất tự nhiên và bản chất xã
hội của con người. Vì vậy con người phải được giáo dục ngay từ nhỏ bởi cái
gốc của con người là bản chất tự nhiên.
Trong quá trình nghiên cứu, đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm về ứng
xử, đầu tiên phải nhắc đến khái niệm “gắn bó” mà các nhà tâm lý học Mỹ đưa
ra năm 1970 để mô tả phương thức ứng xử mẹ con. Họ đã mô tả một ứng xử
đặc biệt của ngừời mẹ ngay sau khi sinh con. Người mẹ với những cử chỉ nhẹ
nhàng âu yếm: hôn, nựng, vỗ về… và những rung cảm hồn nhiên vô tư đựợc
hình thành từ đứa trẻ. Tiếp cận với khái niệm ứng xử không thể không đề cập
đến nhà sư phạm người Nga Usinxki, Ông khẳng định: “Sự khéo léo ứng xử về
sư phạm mà nếu không có nó thì các nhà giáo dục dù học giỏi đến mức nào
cũng không bao giờ trở thành nhà giáo dục thực hành tốt, về bản chất không
phải là cái gì khác ngoài sự ứng xử”.[ 24]
Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể xác định những đặc trưng
của ứng xử:
Ứng xử được thể hiện bởi các cá nhân cụ thể, mỗi cá nhân có đặc điểm
15


phát triển thể chất khác nhau nên ứng xử khác nhau.
Ứng xử bao giờ cũng được thực hiện trong các mối quan hệ xã hội nhất
định và chịu sự chi phối của các quan hệ xã hội đó. ứng xử còn được điều tiết
bởi vị trí xã hội mà cá nhân đó đảm nhiệm. Đặc biệt ứng xử được xác định ở
một chuẩn mực chung đó là “ngôn ngữ” chung, nếu không tìm được ngôn
ngữ chung thường dẫn đến sự không hiểu nhau “trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược”.
Trong ứng xử người ta thường chú ý đến nội dung công việc, đến mục
đích trao đổi, bàn bạc…từ đó có những biểu hiện về hành vi, cử chỉ nhất định.
Ứng xử thường mang tính chất tình huống, còn giao tiếp là một quá
trình, do đó khái niệm giao tiếp rộng hơn khái niệm ứng xử.

Trong ứng xử, ngoài ứng xử bằng ngôn ngữ, lời nói ra chúng ta có thể
ứng xử bằng cử chỉ phi ngôn ngữ, như hành vi, cử chỉ, ứng xử bằng xúc
cảm, tình cảm, ứng xử bằng văn hoá... Qua hành vi ứng xử của con người có
thể cho ta biết trình độ văn hoá cũng như phẩm chất đạo đức của người đó.
Ứng xử là một đề tài muôn thuở của phép đối nhân xử thế của đời người
trong mọi thời đại, mọi quốc gia, trong mọi nền văn hoá của dân tộc. Dân tộc
Việt Nam đã trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Phép ứng xử nổi
bật nhất với tự nhiên để làm nên một nền văn minh lúa nước rực rỡ. Trải qua
bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nay nhìn lại chúng ta không khỏi khâm phục
và tự hào bởi những vị lãnh tụ, những danh nhân văn hoá như Nguyễn Trãi,
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp…bằng lối ứng xử tài tình
đã mang lại vinh quang cho dân tộc và làm rạng ngời nền văn hoá nước nhà.
Để ứng xử trở thành nghệ thuật trong cuộc sống, để vừa lòng mọi người,
điều đó rất khó, không phải cá nhân muốn là được, mà nó còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên trong, bên ngoài của chủ thể trong
quá trình ứng xử. Trong thực tế vận dụng ứng xử thì muôn màu, muôn vẻ rất
đa dạng, nên ta có thể hiểu: Ứng xử là nhũng phản ứng hành vi của con người
16


nảy sinh trong quá trình giao tiếp, do những rung cảm cá nhân kích thích
nhằm truyền đạt, lĩnh hội những tri thức, kinh nghiệm và vốn sống của cá
nhân, xã hội trong những tình huống nhất định.
Tìm hiểu về khái niệm ứng xử như trên nhằm mục đích để đi sâu vào
tìm hiểu về văn hoá ứng xử.
1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử
Văn hoá ứng xử tuy chưa được nghiên cứu riêng nhưng là bộ phận không
thể thiếu được của văn hoá loài người là sự biểu hiện phát triển của văn hoá,
liên quan chặt chẽ với trình độ giải phóng con người, giải phóng năng lực, sáng
tạo, đưa con người đến đỉnh cao của văn hoá phát triển.

Với ý nghĩa trên, văn hoá ứng xử có những đặc trưng khác ứng xử thông
thường như sau:
- Văn hoá ứng xử cao hơn ứng xử bình thường ở cung bậc sự tôn trọng lẫn
nhau giữa những người tham gia giao tiếp, đặc biệt chú trọng nhân cách ứng xử.
- Văn hoá ứng xử vượt xa ứng xử thông thường ở năng lực, trình độ lựa
chọn thông minh xử lý nhạy cảm trong mọi tình huống.
- Văn hoá ứng xử làm tăng thêm sự hiểu biết về nhau giữa các đối tượng
tham gia, vì thế sự cảm thông, nối kết được tình cảm được tăng cường, thời
gian và kết quả sẽ được đẩy nhanh hơn một bước.
- Ứng xử khi đã trở thành văn hoá ứng xử là khi đó con người chủ
thể của ứng xử đã thực sự trở thành chủ thể có văn hoá
- Văn hoá ứng xử làm cho con người chủ động hơn, kìm chế được
những kích thích không cần thiết.
Văn hoá ứng xử được hợp thành trong mọi lĩnh vực hoạt động của con
người là một hệ thống chỉnh thể phức hợp bao hàm trong nó tính nhạy cảm
và năng lực trí tuệ của con người được con người sử dụng thông qua những
tập quán, truyền thống, đạo đức, luật pháp…
17


Văn hoá ứng xử làm nên giá trị ở nhiều lĩnh vực của cuộc sống, nó làm
thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của con người. Nó giúp cho con người
điều tiết được chính bản thân mình cho phù hợp với đối tượng. Văn hoá ứng xử
còn thể hiện cái tâm trong mỗi con người, cái tâm đó đưa con người đến gần
nhau hơn, đối xử với nhau bao dung, độ lượng và tôn trọng nhau hơn.
Văn hoá ứng xử giúp con người tự chủ trong mọi tình huống giao tiếp và
lôi kéo đối tượng biểu hiện những hành vi ứng xử có văn hoá, do vậy trong
một cộng đồng nhất định văn hoá ứng xử giúp hình thành các nhóm ứng xử
làm nên các nhóm giá trị ứng xử, giá trị văn hoá của cộng đồng và xã hội.
Tóm lại từ những tư liệu và phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra nhận

định: Văn hoá ứng xử nói chung là một thành tố đặc trưng của văn hoá được
tạo nên bởi các quan hệ xã hội như: Truyền thống, đạo đức, luật pháp, tôn
giáo, phong tục, quy tắc, tâm lý cộng đồng…dẫn đến tình cảm, lý trí, ý thức
hệ và hành vi của chủ thể nhằm vươn tới mục đích: Chân - thiện - mỹ trong
mọi hoàn cảnh nhất định.
Như vậy, với các khái niệm: văn hoá, ứng xử và văn hoá ứng xử mà
tác giả luận văn tập trung khai thác nhằm tiếp cận đến khái niệm văn hoá
ứng xử trong hoạt động kinh doanh của công ty quảng cáo Cao Sao Băng
như sau: Văn hoá ứng xử trong hoạt động của công ty quảng cáo Cao Sao
Băng là mối quan hệ giữa người và người trong toàn bộ các hoạt động đối
nội, đối ngoại của quá trình sản xuất kinh doanh một cách có văn hoá nhằm
không ngừng tăng lên tính hiệu quả của công ty trong mọi hoàn cảnh nhất
định.
Hay nói cách khác: Văn hoá ứng xử trong hoạt động kinh doanh của
công ty là toàn bộ những hoạt động ứng xử của công ty đó một cách có văn
hoá nhằm đạt đến hiệu quả cao nhất của công ty.
Chính từ cơ sở lý luận trên, văn hoá ứng xử sẽ được làm sáng tỏ trong
lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty quảng cáo Cao sao Băng.
18


1.1.4. Văn hóa kinh doanh ở Việt Nam hiện nay
Đất nước chúng ta đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử nhưng phần lớn thời
gian lại phải đấu tranh gìn giữ nền độc lập. Chúng ta có thể tự hào về truyền
thống yêu nước của nhân dân, truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha,
truyền thống hiếu học trọng dụng nhân tài … Nhưng đối với vấn đề kinh doanh
thì trước đây chưa được chú trọng, chưa đúc kết được những truyền thống quý
báu để thế hệ sau có thể tiếp thu vận dụng. Đã có thời điểm chúng ta “Bế quan
tỏa cảng” không giao lưu, buôn bán với bên ngoài. Trong “Thương học phương
châm”, Cụ Lương Văn Can đã chỉ ra 10 điểm yếu của buôn bán ở nước ta đó là:

Không có thương phẩm, không có thương hiệu, không có chữ tín, không có kiên
tâm, không có nghị lực, không biết trọng nghề, không có thương học, kém
đường giao thiệp, không biết tiết kiệm, khinh hàng nội hóa”.[26]
Từ sau đổi mới 1986, kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mang lại
những thành tựu to lớn, đưa đất nước Việt Nam ngày càng đi lên. Đã có được
các doanh nghiệp phát triển vững vàng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc
tế, xây dựng được văn hóa kinh doanh cho mình. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có
không ít doanh nghiệp chưa ý thức được vai trò của văn hóa doanh nghiệp, văn
hóa kinh doanh. Trong Hội nhập và văn hóa kinh doanh, Dương Thị Liễu,
Nguyễn Vân Hà chỉ ra những bất cập của văn hóa kinh doanh Việt Nam trong
tiến trình hội nhập như sau:
- Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện.
- Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy hạn chế,
- Thiếu tính liên kết cộng đồng,
- Nặng về “Quan hệ”, “Chạy chọt”, dựa dẫm
- Nhẹ chữ Tín
Theo Nguyễn Thị Ngọc Anh (2013) thì một số vấn đề đặt ra cho Văn hóa
kinh doanh Việt Nam hiện nay là:
19


- Sự thiếu tinh thần hợp tác, tương trợ trong cộng đồng doanh nhân Việt
Nam
- Sự thiếu vắng của triết lý kinh doanh và chiến lược kinh doanh dài hạn
tròn các doanh nghiệp Việt Nam
- Vấn đề chữ “Tín”
- Vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường
tự nhiên.
Vì vậy trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng hiện nay, với sự
giao thoa văn hóa nói chung, văn hóa kinh doanh nói riêng một cách mạnh mẽ,

thì vấn đề là càng phải được chú trọng đầu tư.
1.2 Cơ sở Thực tiễn
1.2.1 Các phương thức văn hóa ứng xử trong hoat động kinh doanh
của công ty quảng cáo Cao Sao Băng


Ứng xử trực tiếp

Ứng xử trực tiếp là điển hình của quá trình ứng xử giữa hai hay nhiều
người cùng có mặt trong thời gian tiếp xúc. Đây là loại hình ứng xử mang lại
hiệu quả cao nhất vì trong tình huống mặt đối mặt cả hai phía đều được tiếp
nhận thông tin một cách trực tiếp dưới mọi dạng ngôn ngữ giao tiếp. Nhờ có
thông điệp phi ngôn ngữ đi kèm mọi sự hiểu lầm thông tin thiếu chính xác sẽ
được điều chỉnh nhanh chóng trong quá trình giao tiếp. Ứng xử trực tiếp là một
công cụ lợi hại để cho nhiều công ty thực hiện các cuộc đối thoại đi đến những
thoả thuận hợp đồng làm ăn lâu dài. Ứng xử trực tiếp là phương tiện để công ty
tiến hành hội đàm sòng phẳng giữa các đối tác làm ăn, giữa chủ hàng và khách
hàng, giữa các vấn đề bên trong quá trình hợp tác. Ứng xử trực tiếp là chất kết
dính cho các cuộc phỏng vấn giữa các phóng viên và chủ công ty lựa chọn ra
những điều mà người tiêu dùng quan tâm đến công ty và công ty quan tâm đến
nhu cầu của xã hội.
20


Ứng xử trực tiếp là chìa khoá mở ra sự gần gũi và gắn kết giữa các thành
viên trong công ty giúp cho mọi người luôn đoàn kết tin tưởng lẫn nhau, làm
nảy sinh những ứng xử thích nghi giúp cho hoạt động của công ty ngày càng
phát triển toàn diện.
Trong các hình thức ứng xử trực tiếp của công ty Cao Sao Băng thì tiếp
khách và điện thoại được xem là quan trọng nhất.



Tiếp Khách

Tiếp khách cũng là một loại hình ứng xử thường xuyên của công ty quảng
cáo Cao Sao Băng. Hàng năm công ty phải bỏ ra nhiều thời gian và tiền bạc
khá nhiều vào công việc tiếp khách. Từ đó thấy được sự thành công của công
ty trong tiếp khách không phải là bỏ ra nhiều thời gian hoặc tiền bạc mà ở đây
sự ứng xử có văn hoá hay không có văn hóa của công ty đối với khách hàng.
Công ty quảng cáo Cao Sao Băng có rất nhiều loại khách, chính vì thế
công ty cần phải có nhiều cách ứng xử cho phù hợp với từng đối tượng khách
hàng. Các đối tác trong và ngoài nước, khách hàng, báo chí, khách tham quan
hội chợ… Dù đối tượng nào đi chăng nữa thì công ty cũng phải bày tỏ một sự
quan tâm chăm sóc tới họ một các nhiệt tình và vui vẽ.
Tiếp khách là loại ứng xử đòi hỏi công ty quảng cáo Cao Sao Băng phải
dày công đầu tư. Ngoài Ban lãnh đạo công ty còn có các thành viên trong
công ty, những người thuộc bộ phận tiếp tân. Ngoài sự bài trí xếp đặt các đồ
vật trong phòng tiếp khách cho thuận tiện, đẹp mắt, nhân viên đón tiếp khách
phải niềm nở, lịch sự, trang phục nhã nhặn và giọng nói thuyết phục làm cho
khách có ấn tượng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tiếp khách ngoài phần xã giao,
giới thiệu làm quen và tất cả các nghi thức ban đầu xong phải đi vào mục đích
của công việc. Sau khi hoàn tất công việc của hai bên. Nếu khách hàng ngồi
quá lâu thì tìm cách nhắc khéo một cách thật tế nhị (vì công ty còn rất nhiều
việc phải làm).
Không bao giờ để khách hàng tự ý ra về dù bận mấy cũng phải bắt tay
21


chào tạm biệt khách hàng một cách thân mật rồi tiễn khách (nếu không bận)
hoặc nhờ thư ký, người giúp việc tiễn khách ra về. Ứng xử trong tiếp khách

của công ty quảng cáo Cao Sao Băng là tạo ra sự thân thiện hiểu biết lẫn nhau
giữa khách hàng với công ty, tạo ra điều kiện để khách hàng tiếp cận với công
ty và công ty có cơ hội để gần gũi với khách hàng của mình hơn. Ứng xử trong
tiếp khách của công ty phải tôn trọng tất cả những gì thuộc về văn hoá, truyền
thống, tập tục của các đối tượng khách, những sở thích, thích nghi, tâm lý
vùng, miền, khu vực, quốc gia…
Tiếp khách thường không chỉ trong phòng làm việc, hội họp trong hội
trường… người ta đã chứng minh sự thành công trong tiếp khách để đạt được
mục đích của một số công ty phần nhiều ở các bữa tiệc chiêu đãi. Trong bữa
tiệc người ta có nhiều thời gian để bày tỏ với nhau một cách tự nhiên mà ở
bàn hội nghị trang trọng không thể có được. Cùng với không khí sôi động có
âm nhạc và men rượu người ta có thể gần gũi với nhau hơn, bộc lộ với nhau
một cách chân thực hơn trong việc hợp tác làm ăn. Đó là tất cả những gì
thuộc về lợi thế mà văn hoá ứng xử trong tiếp khách của công ty quảng cáo
Cao Sao Băng cần nắm lấy để phát huy.


Điện thoại

Điện thoại là một hình thức trao đổi ứng xử trực tiếp thuận tiện nhất của
công ty quảng cáo Cao Sao Băng. Điện thoại đã có từ lâu ở các nước phát
triển trong những năm đầu thế kỷ XX. Ngày nay điện thoại rất phổ biến thậm
chí một người có thể sử dụng nhiều điện thoại. Nói về sự tiện lợi của điện
thoại là nói đến sự văn minh của loài người đã sáng chế ra loại công cụ này.
Ở nước ta sau năm 1975 điện thoại còn mới mẻ với nhiều người. Chỉ đến
khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước điện thoại mới thực sự là phương tiện
thông tin hữu ích của mọi người, mọi nhà, mọi cơ quan.
Đối với công ty quảng cáo Cao Sao Băng điện thoại không những đóng
vai trò chuyển tải, thu nhận thông điệp trên, dưới, ngang, dọc, trong và ngoài
22



nước mà thực sự điện thoại đã góp phần vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty.
Điện thoại là công cụ đắc lực giúp cho công ty rất nhiều như:
▪ Tiết kiệm thời gian
▪ Tiết kiệm sự đi lại của các phương tiện
▪ Nắm bắt được thông tin nhanh nhạy, tức là nắm bắt được thời cơ, tao ra
những cơ hội mới phục vụ sản xuất kinh doanh kịp thời. Công ty càng
nắm bắt được nhiều thông tin càng có nhiều dữ liệu để xử lý, càng đề cao
được vị trí của mình trong sự cạnh tranh hiện nay.
Điện thoại quan trọng và cần thiết cho công ty, nhưng trong trao đổi ứng xử
qua điện thoại như thế nào cho có văn hoá là cả một vấn đề đặt ra và quan tâm
cho công ty quảng cáo Cao Sao Băng. Đứng trước sự cạnh tranh ngày càng cao
của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường trao đổi ứng xử qua điện
thoại góp sức đáng kể cho một số công ty thêm tự tin vào sức mạnh của mình để
bước vào cuộc đua. Ứng xử trong điện thoại là phơi bày một cách rõ nét nhân
cách của người đối thoại chính hình ảnh của công ty hiện lên trong tâm trí người
nghe thân thiện, gợi cảm hay không, có gây được sự quan tâm chú ý của người
khách hàng hay không, tất cả là do ở thái độ và giọng điệu của người nói chuyện
trong điện thoại.
Ứng xử trong điện thoại không phải chỉ để nói, hỏi, trả lời một cách bình
thường mà là cả một nghệ thuật cầm ống nói cũng giống như người nghệ sĩ đang
đàn. Sự nhiệt tình, hiếu khách, không giả tạo của một số công ty được thể hiện
rất rõ qua giọng nói. Giọng nói chính là chìa khoá để sử dụng điện thoại có hiệu
quả. Điện thoại giúp cho một số công ty giải quyết phần lớn các công việc. Song
không có văn hoá ứng xử qua điện thoại thì điện thoại cũng chỉ là một loại cạm
bẫy cho nhiều công ty khi sử dụng nó.
Người không có văn hoá ứng xử qua điện thoại là người không có giọng nói
23



chuẩn mực, nói nhát gừng, không bình thường hoặc hét to trong máy để người
khác đợi lâu không nhấc máy mặc dù đang rảnh, cúp máy một cách thiếu văn
hoá khi người gọi còn có yêu cầu thông tin và chưa chào tạm biệt. Thiếu văn hoá
ứng xử qua điện thoại là một thiệt thòi lớn cho một số công ty bởi khách hàng
không phải bao giờ cũng là khách hàng quen. Người khách lần đầu tiên quan hệ
với công ty thông qua điện thoại nếu không được hài lòng trong ứng xử thì sẽ
hình thành ngay trong đầu một ấn tượng không đẹp về công ty. Ngược lại có văn
hoá ứng xử trong điện thoại là giúp cho công ty có thêm một lợi thế để thu hút
khách hàng về phía mình một cách thiện cảm. Nhiều người chưa quen biết nhau,
chưa từng gặp mặt nhau nhưng qua giọng nói, về ứng xử qua điện thoại người ta
đã có cảm tình và muốn đặt quan hệ hợp tác với nhau trong sản xuất kinh doanh.
Điện thoại là một loại hình ứng xử trực tiếp của công ty quảng cáo Cao Sao
Băng. Để đạt được kết quả cao trong hoạt động kinh doanh của công ty thì yếu
tố quan trọng là trình độ nhân cách và ý thức của Ban lãnh đạo công ty cũng
như các thành viên của công ty khi sử dụng nó.
Văn hoá ứng xử điện thoại làm cho công ty tạo dựng được nhiều mối quan
hệ dễ chịu hơn. Những thông tin từ công ty ra ngoài và từ ngoài vào công ty
được cỏi mở, gò bó, ức chế và cái chính là công ty đã tạo được thiện cảm của
mọi người thông qua văn hoá ứng xử trong điện thoại.
Ngoài các hình thức ứng xử trực tiếp, hoạt động của công ty còn sử dụng
nhiều tới hình thức ứng xử gián tiếp.


Ứng xử gián tiếp

Ứng xử gián tiếp trong các hoạt động của công ty là quá trình mà đối tượng
vắng mặt trong thời gian tiếp xúc, thường quá trình này được thực hiện qua các
thiết bị, công cụ kỹ thuật trung gian như: Công văn, thư từ, báo chí, truyền

thanh, truyền hình, fax, internet…
Trong hoạt động kinh doanh của công ty quảng cáo Cao Sao Băng thì thư
từ giao dịch và internet là hai hình thức ứng xử gián tiếp được quan tâm nhất.
24




Thư từ giao dịch

Thư từ giao dịch cũng là một trong những loại hình ứng xử thường xuyên
của công ty. Hàng ngày các bộ phận giúp việc hoặc trực tiếp của công ty phải
viết thư tín soạn thảo các thư từ để gửi đến khách hàng và đối tác. Mọi thư từ
phải được phác thảo tóm tắt các đề mục. Trước khi viết phải biết rõ mình cần đạt
đến mục đích gì. Lời lẽ trong thư tín càng ngắn gọn súc tích bao nhiêu câu văn
càng có lợi bấy nhiêu, câu văn đơn giản rõ nội dung, rõ yêu cầu mình muốn làm.
Thư từ giao dịch là công cụ ứng xử của công ty dưới dạng viết mang tính
chất nội bộ trong các tổ chức. Mục đích chính khi dùng thư từ giao dịch là công
ty thông tin hỗ trợ cho việc đưa các quyết định sản xuất kinh doanh, mặc dù thư
từ giao dịch được mô tả là đúng đắn, song chúng cũng phải nhấn mạnh được tính
khách quan và đạt được mục đích mà công ty đặt ra. Thư từ giao dịch tự nó chưa
nói hết được ý nghĩa tầm quan trọng trong các hoạt động của công ty, nhưng xét
về từng nội dung, từng thời điểm, từng tính chất công việc, từng đối tượng có
các phương pháp khác nhau thì có thể mang lại cho công ty những lợi ích khác
nhau.
Thư từ giao dịch có vai trò rất lớn trong hoạt động thông tin của công ty
nhưng với hoạt động kinh doanh thì thư bán hàng có tầm quan trọng hơn cả.
Thư bán hàng: Là một trong những điển hình ứng xử gián tiếp của công ty
nghệ thuật trình bày thư bán hàng rất hữu ích cho mọi người với Ban lãnh đạo
công ty đây chính là vũ khí lợi hại để thắng các đối thủ cạnh tranh. Các nguyên

tắc được áp dụng trong việc bán một sản phẩm rất giống một nguyên tắc được áp
dụng bán một ý tưởng. Để thực hiện công ty cần vạch ra các mục tiêu và để
thành công, công ty cần có sự phối hợp trong bất cứ công việc và nghề nghiệp
nào. Phần thưởng lớn luôn thuộc về những ai có thể thuyết phục người khác
chấp nhận các ý kiến của mình, hoặc đồng ý mua các sản phẩm của mình. Thư
bán hàng góp phần đem lại trong việc thuyết phục đó. Trước khi viết về một lá
thư bán hàng Ban lãnh đạo công ty cần biết:
25


×